Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
23. Kinh Tệ-túc
(Pàyàsi sutta)
1.
Như vầy tôi nghe.
Một thời
tôn giả Kumàra Kassapa (Cưu-ma-la Ca-diếp) đang
du hành trong nước Kosala (Câu-tát-la) cùng với
Đại chúng Tỷ kheo khoảng năm trăm vị, đi đến một
đô thị của Kosala tên là Setavyà (Tư-ba-ê). Rồi
tôn giả Kumàra Kassapa trú về phía Bắc thành này, trong rừng Simsapà (Thi-xá-bà). Lúc bấy giờ, vua Pàyàsi (Tệ-túc) cư trú tại Setavyà, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, lúa gạo phì nhiêu, một vương địa do vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nước Kosala cấp, một ân tứ của vua, một tịnh ấp.
2. Lúc bấy giờ, vua Pàyàsi khởi lên ác,
tà kiến như sau: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo". Các Bà -la-môn và
Gia chủ ở Setavyà được nghe: "Sa môn Kumàra Kassapa,
đệ tử Sa môn Gotama đang
du hành trong nước Kosala cùng với
Đại chúng Tỷ kheo khoảng năm trăm vị, đã đến Setavyà, trú về phía Bắc thành này, trong rừng Simsapà.
Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về
tôn giả Kumàra Kassapa được khởi lên: "Tôn giả là bậc
học rộng, tài cao,
diệu trí,
đa văn,
lời nói thấu tâm,
thiện xảo biện tài, bậc
trưởng lão và bậc
A la hán như vậy." Rồi các vị Bà -la-môn và
Gia chủ ở Setavyà, từng đoàn, từng chúng, từng nhóm, đi về hướng Bắc, đến tại rừng Simsapà.
3. Lúc bầy giờ, vua Pàyàsi
đi lên lầu thượng để nghỉ trưa. Vua Pàyàsi thấy các Bà -la-môn và
Gia chủ ở Setavyà đi ra khỏi thành Setavyà, từng đoàn, từng chúng, từng nhóm đi về hướng Bắc, đến tại rừng Simsapà. Thấy vậy vua cho gọi quan hộ thành và hỏi:
- Này Khanh, vì sao các Bà-la-môn và
Gia chủ ở Setavyà đi ra khỏi thành Setavyà, từng đoàn, từng chúng, từng nhóm, đi về hướng Bắc, đến tại rừng Simsapà như vậy?
- Có
Sa môn Kumàra Kassapa,
đệ tử Sa môn Gotama đang
du hành trong nước Kosala cùng với
Đại chúng Tỷ kheo khoảng năm trăm vị, đã đến Setavyà, trú về phía Bắc thành này, trong rừng Simsapà.
Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về
tôn giả Kumàra Kassapa được khởi lên: "Tôn giả là bậc
học rộng, tài cao,
diệu trí,
đa văn,
lời nói thấu tâm,
thiện xảo, biện tài" và các vị ấy đi đến
yết kiến tôn giả Kumàra Kassapa.
- Này Khanh, hãy đi đến các Bà-la-môn và
Gia chủ ấy và nói với họ như sau: "Vua Pàyàsi nói các
Hiền giả hãy đợi. Vua Pàyàsi cũng sẽ đến
yết kiến Sa môn Kumàra Kassapa".
Sa môn Kumàra Kassapa có thể
cảm hóa các Bà -la-môn và
Gia chủ ở Setavyà
ngu muội và kém khả năng theo
quan điểm: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có quả báo". Này Khanh,
sự thật không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo.
- Xin vâng, thưa Tôn chủ!
Vị quan hộ thành
vâng lời vua Pàyàsi, đi đến các Bà -la-môn và
Gia chủ ở Setavyà và nói:
-
Chư Hiền giả hãy chờ đợi, vua Pàyàsi sẽ đến
yết kiến Sa môn Kumàra Kassapa.
4. Rồi Vua Pàyàsi được các Bà -la-môn và
Gia chủ ở Setavyà
hộ tống cùng đi đến rừng Simsapà chỗ trú của
tôn giả Kumàra Kassapa. Sau khi đến, vua bèn nói lời
thân ái, chào đón,
chúc tụng rồi ngồi xuống một bên. Các Bà -la-môn và
Gia chủ ở Setavyà, có người
đảnh lễ tôn giả Kumàra Kassapa rồi ngồi xuống một bên. Có người nói lời
thân ái, chào đón
chúc tụng tôn giả Kumàra Kassapa rồi ngồi xuống một bên. Có người
chấp tay vái chào
tôn giả Kumàra Kassapa rồi ngồi xuống một bên. Có người xưng tên họ rồi ngồi xuống một bên. Có người yên lặng ngồi xuống một bên.
5. Sau khi ngồi xuống một bên, vua Pàyàsi thưa với
tôn giả Kumàra Kassapa:
-
Tôn giả Kassapa, tôi có chủ thuyết và
tri kiến như sau: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, tôi không thấy, không nghe
quan điểm như vậy,
tri kiến như vậy. Sao Tôn chủ lại nói: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo"? Thưa Tôn chủ, tôi sẽ hỏi Tôn chủ một vài câu hỏi. Tôn chủ hãy
tùy theo đó mà
trả lời. Tôn chủ nghĩ thế nào?
Mặt trời và
mặt trăng này, chúng thuộc
thế giới này hay
thế giới khác? Chúng thuộc như Thiên hay loài Người?
-
Tôn giả Kassapa,
mặt trời và
mặt trăng thuộc
thế giới khác, không phải
thế giới này, chúng thuộc
chư Thiên, không thuộc
loài Người.
- Này Tôn chủ,
sự kiện là như vậy,
cần phải chấp nhận rằng: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có quả báo".
6. - Dầu
Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ,
sự kiện gì để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có các loài
hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo"?.
-
Tôn giả Kassapa, vâng, có
sự kiện để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, như thế nào?
-
Tôn giả Kassapa, tôi có những người bạn
tri kỷ,
thân tộc cùng một huyết thống. Những người này
sát sanh, lấy của không cho,
tà dâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời
độc ác, nói lời
phù phiếm,
tham dục,
sân hận và
tà kiến. Những người này, sau một
thời gian bị trọng bịnh, bị
đau khổ, bị chứng tật. Khi tôi biết những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói: "Một số
Sa môn, Bà -la-môn có những
quan điểm như sau, có những
tri kiến như sau: "Những ai
sát sanh, lấy của không cho,
tà dâm, nói láo, nói lời hai lưỡi, nói lời
độc ác, nói lời
phù phiếm,
tham dục,
sân hận và
tà kiến, những người này sau khi thân hoại
mạng chung bị sanh vào
khổ giới,
ác thú, đọa xứ, địa ngục". Nay các
Hiền giả sát sanh, lấy của không cho,
tà dâm nói láo, nói hai lưỡi, nói lời
độc ác, nói lời
phù phiếm,
tham dục,
sân hận và
tà kiến. Nếu
lời nói những vị
Sa môn Bà -la-môn ấy
chính xác, thời các
Hiền giả sau khi thân hoại
mạng chung sẽ sanh vào
khổ giới,
ác thú, đọa xứ,
địa ngục... Nếu các
Hiền giả sau khi thân hoại
mạng chung phải sanh vào
khổ giới,
ác thú, đọa xứ,
địa ngục, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có quả báo". Các
hiền giả là các
thiện hữu thành tâm của ta, những gì
Hiền giả thấy, thời sẽ là như vậy, như chính ta được thấy." Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: "Lành thay!" Nhưng không có ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi
sứ giả đến. Này
Tôn giả Kassapa,
sự kiện là như vậy nên tôi có
tri kiến: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo".
7. - Này Tôn chủ, nay tôi sẽ hỏi Tôn chủ,
nếu có thể chấp nhận, Tôn chủ hãy
trả lời. Tôn chủ nghĩ thế nào? Ở đời, có những người bắt được một người
ăn trộm phạm lỗi và đem đến cho Ngài: "Thưa Tôn chủ, đây là người
ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn." Tôn chủ
trả lời những người ấy: "Hãy trói người này thật chặt, dùng dây thật chắc trói hai tay ra đằng sau, cạo trọc đầu anh ta, cho đánh trống lớn tiếng và dẫn anh ta đi
từ đường này hẻm nọ, xong đưa ra khỏi cổng thành hướng Nam mà chặt đầu tại
pháp trường hướng Nam." Những người ấy
vâng lời, trói người
ăn trộm thật chặt, dùng dây thật chắc trói hai tay ra đằng sau, cao trọc đầu anh ta, cho đánh trống lớn tiếng và dẫn anh ta đi
từ đường này hẻm nọ, xong đưa anh
ta ra khỏi cổng thành hướng Nam và tại
pháp trường hướng Nam, bắt anh ta ngồi xuống. Nay người
ăn trộm ấy có thể xin người đem chém mình: "Thưa quý vị, quý vị
cho phép tôi được đi thăm thân bằng
quyến thuộc ở tại làng này, hay xã này." Hay những người ấy chặt ngay đầu người
ăn trộm cầu xin như vậy?
-
Tôn giả Kassapa, người
ăn trộm ấy không được những người đem chém mình
cho phép: "Thưa quý vị, quý vị
cho phép tôi được đi thăm thân bằng
quyến thuộc ở tại làng này, hay xã này." Những người ấy chặt ngay đầu người
ăn trộm cầu xin như vậy.
- Này
Tôn giả, người
ăn trộm thuộc
loài Người, không được phép người xử trảm mình cũng là
loài Người: "Thưa quý vị
cho phép tôi được đi thăm thân bằng
quyến thuộc ở làng này, hay ở xã này", thời làm sao những người thân bằng
quyến thuộc của Ngài, đã
sát sanh, lấy của không cho, tà đâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời
độc ác, nói lời
phù phiếm,
tham dục,
sân hận và
tà kiến, sau khi thân hoại
mạng chung bị sanh vào
khổ giới,
ác thú, đọa xứ,
địa ngục lại được những người coi giữ
địa ngục cho phép: "Thưa quý vị coi giữ
địa ngục, quý vị hãy
cho phép tôi về tâu với vua Pàyàsi: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có
quả báo."
8. - Dầu
Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, có
sự kiện gì để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo"?
-
Tôn giả Kassapa, vâng, có
sự kiện để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, như thế nào?
-
Tôn giả Kassapa, tôi có những thân bằng
quyến thuộc gìn giữ không
sát sanh, không lấy của không cho, không
tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời
độc ác, không nói lời
phù phiếm, không
tham dục, không
sân hận và không
tà kiến. Những người này, sau một
thời gian bị trọng bịnh, bị
đau khổ, bị chứng tật. Khi tôi biết những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói: "Một số
Sa môn, Bà -la-môn có những
quan điểm, những
tri kiến như sau: "Những ai
gìn giữ không
sát sanh, không lấy của không cho, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời
độc ác, không nói lời
phù phiếm, không
tham dục, không
sân hận và không
tà kiến, những người ấy khi thân hoại
mạng chung, sẽ sanh vào
thiện thú, Thiên giới".
Chư Hiền giả
gìn giữ không
sát sanh, không lấy của không cho, không
tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời
độc ác, không nói lời
phù phiếm, không
tham dục, không
sân hận và không
tà kiến. Nếu
lời nói của những
Sa môn, Bà -la-môn ấy
chính xác, thời các
Hiền giả sau khi thân hoại
mạng chung được sanh vào thiện tphú,
Thiên giới. Nếu các
hiền giả , sau khi thân hoại
mạng chung được sanh vào
thiện thú,
Thiên giới, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có quả báo". Các
Hiền giả là
thiện hữu thành tâm của ta, những gì
Hiền giả thấy thời sẽ là như vậy, như chính ta được thấy". Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: "Lành thay! Nhưng không có ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi các
sứ giả đến.
Tôn giả Kassapa,
sự kiện là như vậy, nên tôi có
tri kiến: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo".
9. - Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Tôn chủ một ví dụ. Ở đời, một số người có trí nhờ ví dụ mà hiểu được nghĩa
lời nói. Này Tôn chủ,
ví như có người té đầu rơi vào hầm phân. Ngài nói với các người khác: "Hãy kéo người này ra khỏi hầm phân!" Những người ấy
vâng theo và nói: "Lành thay!" và kéo người kia ra khỏi hầm phân ấy. Ngài nói với những người ấy: "Hãy lấy que tre gạt phân ra khỏi thân của người kia!" Những người này
vâng theo và nói: "Lành thay!" và lấy que tre gạt phân ra khỏi thân người kia. Rồi ngài bảo các người ấy: "Hãy cho thoa bóp ba lần thân người kia với phấn hoa màu vàng." Và những người ấy cho thoa bóp ba lần thân người kia với phấn thoa bóp màu vàng. Rồi Ngài bảo các người ấy: "Hãy lấy dầu thoa và tắm cho người kia ba lần và dùng bột mịn cunna thoa cho nó!" Và những người ấy lấy dầu thoa và tắm cho người kia ba lần và dùng bột mịn cunna thoa cho nó. Rồi Ngài bảo các người ấy: "Hãy sửa soạn râu tóc cho người kia!" Và những người ấy sửa soạn râu tóc cho kia. Rồi Ngài bảo các người ấy: "Hãy lấy
vòng hoa quý, dầu thơm quý và vải quý trang điểm cho người kia!" Và những người ấy trang điểm
vòng hoa quý, dầu thơm quý và vải quý cho người kia. Rồi Ngài bảo các người ấy : "Hãy đưa người kia đến tòa lâu đài và cho hưởng năm món dục lạc!" Và những người ấy đưa người kia đến tòa lâu đài và cho hưởng năm món
dục lạc. Tôn chủ nghĩ thế nào? Người kia khéo tắm như vậy, khéo thoa dầu, khéo sửa soạn râu tóc, khéo trang điểm với
vòng hoa và vải trắng, được đưa đến lâu đài và cho hưởng năm món
dục lạc như vậy, thử hỏi người kia có chịu đâm đầu vào hầm phân ấy nữa không?
- Thưa không,
Tôn giả Kassapa!
- Vì sao không?
-
Tôn giả Kassapa, hầm phân là
bất tịnh và được xem là
bất tịnh,
xú uế và được xem là
xú uế, ghê tởm và được xem là ghê tởm, yếm ố và được xem là yếm ố.
- Này Tôn chủ,
mùi hôi của
loài Người khiến
chư Thiên ghê tởm xa đến một trăm
do tuần. Làm sao những người thân bằng
quyến thuộc của Ngài,
gìn giữ không
sát sanh, không lấy của không cho, không
tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời
độc ác, không nói lời
phù phiếm, không
tham dục, không
sân hận và không
tà kiến, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên
thiện thú,
Thiên giới, những người ấy có thể về tin lại cho Tôn chủ: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có quả báo". Này Tôn chủ,
sự kiện là như vậy nên: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có quả báo".
10. - Dầu
Tôn giả Kasspa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo".
- Này Tôn chủ, có
sự kiện gì để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo"?
-
Tôn giả Kassapa, vâng, có
sự kiện để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, như thế nào?
-
Tôn giả Kassapa, tôi có những người thân bằng
quyến thuộc gìn giữ không
sát sanh, không lấy của không cho, không
tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời
độc ác, không nói lời
phù phiếm, không
tham dục, không
sân hận và không
tà kiến. Những người này sau một
thời gian bị trọng bệnh, bị
đau khổ, bị chứng tật. Khi tôi biết những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói: "Một số
Sa môn, Bà -la-môn có những
quan điểm như sau, có những
tri kiến như sau: "Những ai
gìn giữ không
sát sanh, không lấy của không cho, không
tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời
độc ác, không nói lời
phù phiếm, không
tham dục, không
sân hận và không
tà kiến. Những người ấy khi thân hoại
mạng chung sẽ sanh vào
thiện thú, Thiên giới".
Chư Hiền giả
gìn giữ không
sát sanh, không lấy của không cho, không
tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời
độc ác, không nói lời
phù phiếm, không
tham dục, không
sân hận và
tà kiến. Nếu
lời nói của những vị
Sa môn, Bà -la-môn này
chính xác thời các
Hiền giả, sau khi thân hoại
mạng chung được sanh vào
thiện thú,
Thiên giới, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có quả báo". Các
Hiền giả là
thiện hữu thành tâm của ta, những gì
Hiền giả thấy sẽ là như vậy, như chính ta được thấy." Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: "Lành thay!" Nhưng không ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi các
sứ giả đến. Này
Tôn giả Kassapa
sự kiện là như vậy, nên tôi có
tri kiến: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
11. - Này Tôn chủ, tôi sẽ hỏi Ngài. Nếu Ngài xem có thể được Ngài hãy
trả lời. Này Tôn chủ, tuổi
loài người một trăm năm bằng một ngày một đêm
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên. Ba mươi đêm như vậy là một tháng, mười hai tháng như vậy là một năm, một ngàn năm ở
Thiên giới như vậy là tuổi thọ của
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên. Những thân bằng
quyến thuộc của Tôn chủ như vậy
gìn giữ không
sát sanh, không lấy của không cho, không
tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời
độc ác, không nói lời
phù phiếm, không
tham dục, không
sân hận và không
tà kiến. Các vị này sau khi thân hoại
mạng chung sẽ sanh lên
thiện thú,
Thiên giới và làm
thiện hữu với
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên. Nếu những vị này
suy nghĩ: "Chúng ta hãy
thọ hưởng một món
dục lạc hai hay ba ngày đêm ở
Thiên giới, rồi sau sẽ đến Tôn chủ Pàyàsi và tin
cho biết: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có
quả báo." Và những vị ấy có đến Ngài và tin
cho biết: "Có
đời sau, có loại
hóa sanh,
hành vi thiện ác có quả báo" không?
- Thưa không,
Tôn giả Kassapa!
Tôn giả Kassapa, vì
chúng tôi sẽ chết
đã lâu rồi. Nhưng ai cho
Tôn giả Kassapa biết: "Có
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên, Hay
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên tuổi thọ là như vậy".
Chúng tôi không tin người ấy, khi người ấy nói: "Có
chư Thiên ở Tam thập tam thiên! Hay
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên, tuổi thọ là như vậy!"
- Này Tôn chủ, như có người sanh ra đã mù, không thấy được các sắc đen hay trắng, không thấy được các sắc xanh, hay sắc vàng, các sắc đỏ, hay các sắc nâu, không thấy được các sắc
tế nhị hay thô cứng, không thấy được các sao hay
mặt trăng. Người ấy nói: "Không có các sắc đen hay trắng, không có người thấy các sắc đen hay trắng; không có sắc xanh, không có người thấy sắc xanh; không có sắc vàng, không có người thấy các sắc vàng; không có sắc đỏ, không có người thấy các sắc đỏ; không có sắc nâu, không có người thấy các sắc nâu, không các sắc
tế nhị, thô cứng, không có người thấy các sắc
tế nhị, thô cứng; không có các sao, không có người thấy các sao; không có
mặt trăng,
mặt trời, không có người thấy
mặt trăng mặt trời. Tôi không biết vật này, tôi không thấy vật này, nên vật này không có. Này Tôn chủ, nói như vậy có phải nói một cách
hợp lý không?
- Thưa không,
Tôn giả Kassapa. Có các sắc đen hay trắng, có người thấy các sắc đen hay trắng; có các sắc xanh, có người thấy các sắc xanh; có các sắc vàng, có người thấy các sắc vàng; có các sắc đỏ, có người thấy các sắc đỏ; có các sắc nâu, có người thấy các sắc nâu; có các vật
tế nhị hay thô cứng, có người thấy các vật
tế nhị hay thô cứng; có các vì sao, có người thấy các vì sao; có
mặt trăng,
mặt trời, có người thấy
mặt trăng,
mặt trời. "Tôi không biết vật này, tôi không thấy vật này, do vậy vật này không có."
Tôn giả Kassapa, ai nói như vậy là nói không hợp lý!
- Cũng vậy này Tôn chủ, Ngài nói cũng giống người sinh ra đã mù khi Ngài nói với tôi: "Ai bảo
Tôn giả Kassapa biết rằng: "Có
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên," hay "Chư thiên ở
Tam thập Tam thiên tuổi thọ là như vậy!"
Chúng tôi không tin
Tôn giả Kassapa, khi
Tôn giả nói: "Có
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên," hay "Chư thiên ở
Tam thập tam thiên tuổi thọ là như vậy".
Này Tôn chủ,
đời sau không như Ngài nghĩ có thể thấy bằng con
mắt thịt. Này Tôn chủ, có những
Sa môn, Bà -la-môn, sống những chỗ hẻo lánh trong rừng, ít có tiếng ồn, ít có
tiếng động. Tại những chỗ ấy, các vị này sống không
phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần, làm cho
thiên nhãn trong sạch. Rồi với
thiên nhãn thanh tịnh thắng xa
loài Người, các vị này thấy đời này,
đời sau, và thấy
các loại hóa sanh. Này Tôn chủ,
đời sau phải được thấy như vậy. Không phải như Ngài nghĩ với con
mắt thịt. Này Tôn chủ,
sự kiện là như vậy, nên tôi có
tri kiến: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có
quả báo."
12. - Dầu
Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, có
sự kiện gì để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo"?
-
Tôn giả Kassapa, vâng, có
sự kiện để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, như thế nào?
-
Tôn giả Kassapa, ở đây tôi thấy có những
Sa môn, Bà -la-môn
giữ giới,
thiện tánh,
ham sống, ngại chết, ham sướng, ngại khổ.
Tôn giả Kassapa, rồi tôi nghĩ: "Nếu những
Sa môn, Bà -la-môn này
giữ giới, có
thiện tánh, được biết: "Sau khi
chúng ta chết rồi, đời
chúng ta sẽ được
tốt đẹp hơn." Rồi những
Sa môn, Bà -la-môn
giữ giới, có
thiện tánh ấy, hoặc uống thuốc độc, hoặc lấy kiếm đâm, hoặc tự giết mình bằng cách treo cổ, hay tự lao mình xuống hố sâu. Vì những
Sa môn, Bà -la-môn
giữ giới có
thiện tánh ấy không được biết: "Sau khi
chúng ta chết rồi, đời
chúng ta sẽ được
tốt đẹp hơn." Do vậy các
Sa môn, Bà -la-môn
giữ giới, có
thiện tánh ấy
ham sống, ngại chết, ham sướng, ngại khổ.
Tôn giả Kassapa,
sự kiện là như vậy, nên tôi
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
13. - Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Tôn chủ một ví dụ. Ở đời, một số người có trí nhờ ví dụ mà hiểu được nghĩa
lời nói. Này Tôn chủ,
ngày xưa có một người Bà -la-môn có hai người vợ. Từ một người vợ, ông ta có đứa con trai, mười hai tuổi; còn người vợ kia có mang thai, sắp đến kỳ sinh nở. Rồi người Bà -la-môn ấy
mệnh chung. Đứa con trai ấy nói với tiểu
phu nhân kia: "Này Tiểu mẫu, phàm có
tài sản gì, hoặc lúa, hoặc bạc, hoặc vàng, tất cả đều là của tôi. Tiểu mẫu nay không có gì hết. Tiểu mẫu hãy giao cho tôi
gia tài của cha tôi." Khi nghe nói vậy, Bà -la-môn nữ kia nói với đứa con trai ấy: "Tiểu tử hãy chờ ta sanh con. Nếu ta sanh con trai, thì một phần
gia tài thuộc về nó. Nếu sanh con gái, thời nó sẽ hầu hạ con."
Lần thứ hai, đứa con trai ấy nói với Tiểu
phu nhân kia: "Này Tiểu mẫu, phàm có
tài sản gì, hoặc lúa, hoặc bạc, hoặc vàng, tất cả đều là của tôi. Tiểu mẫu nay không có gì hết. Tiểu mẫu hãy giao cho tôi
gia tài của cha tôi." Lần thứ hai, Bà -la-môn nữ kia nói với đứa trai ấy: "Tiểu tử hãy chờ ta sanh con. Nếu ta sanh con trai thì một phần
gia tài thuộc về nó. Nếu ta sanh con gái, thời nó sẽ hầu hạ con."
Lần thứ ba, đứa con trai ấy nói với Tiểu
phu nhân kia: "Này Tiểu mẫu, phàm có
tài sản gì, hoặc lúa, hoặc bạc, hoặc vàng, tất cả đều là của tôi. Tiểu mẫu không có gì hết. Tiểu mẫu hãy giao cho tôi
gia tài của cha tôi". Ròi người
Ba la môn nữ ấy lấy một con dao, vào trong nội phòng và rạch bụng ra. "Ta muốn biết đó là con trai hay con gái." Như vậy người đàn bà ấy hại
đời sống của mình, hại luôn cái thai và hại luôn
tài sản của mình vì đã đi tìm của thừa tự một cách ngu suẩn và
si mê, nên gặp phải nguy hiểm và
tai nạn. Cũng vậy, vì ngu suẩn và
si mê, Ngài gặp phải ngu suẩn và
tai nạn khi Ngài đi tìm
đời sau một cách
vô trí, cũng giống Bà -la-môn nữ kia, vì ngu suẩn và
si mê, đã đi tìm thừa tự một cách
vô trí. Này Tôn chủ, các vị
Sa môn, Bà -la-môn
giữ giới, có thiên
tánh không bắt buộc cái gì chưa chín phải chín. Vì có trí, các vị ấy chờ
chín muồi đến. Này Tôn chủ, các vị
Sa môn, Bà -la-môn
giữ giới có
thiện tánh cần thiết đến mạng sống. Này Tôn chủ, nếu các
Sa môn, Bà -la-môn
giữ giới, có
thiện tánh sống lâu ở trên đời này bao nhiêu, các vị ấy làm được nhiều
công đức bấy nhiêu, vì
hạnh phúc cho
chúng sanh, vì
an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
hạnh phúc, vì
an lạc cho
chư Thiên và
loài Người. Này Tôn chủ,
sự kiện là như vậy nên: "Có
đời sau, có các loài
hóa sanh,
hành vi thiện ác có
quả báo."
14. - Dầu
Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có các loài
hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, có
sự kiện gì để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo"?
-
Tôn giả Kassapa, vâng, có
sự kiện để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, như thế nào?
- Này
Tôn giả Kassapa, ở đây có những người bắt được một người
ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi và nói: "Tôn chủ, đây là người
ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn. "Tôi nói với họ: "Các
Hiền giả, hãy bỏ sống người này trong một cái chum,
bịt miệng chum lại, dùng da ướt bao lại, dùng đất sét ướt quện lại trét trên miệng chum, nhắc chum ấy trên cái lò và nổi lửa đốt. Các người ấy đáp: "Xin vâng!", rồi họ bỏ sống người ấy trong cái chum,
bịt miệng chum lại, dùng da ướt bao lại, dùng đất sét ướt quện lại trét trên miệng chum lại, nhắc chum ấy trên cái lò và nổi lửa đốt. Khi
chúng tôi biết người ấy đã chết, liền nhắc chum ấy xuống, cởi các dây buộc, mở miệng chum ra
vội vàng nhìn kỹ: "Chúng ta mong được thấy
linh hồn (người chết) đi ra". Nhưng
chúng tôi không thấy
linh hồn người chết đi ra.
Tôn giả Kassap,
sự kiện là như vậy nên tôi tin rằng. "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo".
15. - Này Tôn chủ, tôi sẽ hỏi Ngài, nếu Ngài xem có thể được, Ngài hãy
trả lời. Này Tôn chủ, khi Ngài nghỉ trưa, Ngài có
chấp nhận Ngài có thấy những cảnh mộng
hoan lạc ở vườn, ở rừng, ở đồng bằng, ở ao hồ không?
-
Tôn giả Kassapa, tôi
xác nhận khi đi nghĩ trưa, tôi có thấy những cảnh mộng
hoan lạc ở vườn, ở rừng, ở đồng bằng, ở ao hồ.
- Trong khi ấy, có phải Ngài được một số người hầu hạ một bên, những người gù lưng, thấp lùn, thiếu phụ và con gái?
- Vâng,
Tôn giả Kassapa, trong khi ấy, tôi được một số người hầu hạ một bên, những người gù lưng, thấp lùn, thiếu phụ và con gái.
- Và họ thấy
linh hồn của Ngài đi ra hay
đi vào không?
-
Tôn giả Kassapa, thưa không.
- Này Tôn chủ, họ không thấy
linh hồn của Tôn chủ đi ra hay
đi vào, thời làm sao Ngài có thể thấy
linh hồn một người chết
đi vào hay đi ra được? Này Tôn chủ,
sự kiện là như vậy nên tôi
chấp nhận: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có
quả báo."
16. - Dầu
Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, có
sự kiện gì để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo"?
-
Tôn giả Kassapa, vâng, có
sự kiện để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, như thế nào?
-
Tôn giả Kassapa, ở đời, có những người bắt được một người
ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi: "Thưa Tôn chủ, đây là người
ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn." Tôi nói với họ: "Các khanh hãy đem cân sống anh ta đi, rồi lấy dây cung thắt cổ cho anh ta chết, xong đem cân lại." Những người này
vâng lời tôi và đáp: "Xin vâng!", rồi họ đem cân sống người
ăn trộm ấy, lấy dây cung thắt cổ anh ta
cho đến chết xong cân lại. Khi anh ta sống thì anh ta nhẹ, mềm mại,
nhu nhuyến. Khi anh ta chết, thì anh ta nặng hơn, cứng hơn và không
nhu nhuyến.
Tôn giả Kassapa,
sự kiện là như vậy, nên tôi
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
17. - Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ. Nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được
ý nghĩa lời nói. Này Tôn chủ,
ví như người cân một hòn sắt được đốt nóng trọn ngày, cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực, và một thời khác cũng đem cân hòn sắt ấy nhưng nay đã nguội lạnh. Khi nào thì hòn sắt ấy nhẹ hơn, mềm mại hơn, hay
nhu nhuyến hơn? Khi hòn sắt ấy đang cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực hay khi đã nguội lạnh?
-
Tôn giả Kassapa, khi hòn sắt ấy cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực, khi ấy hòn sắt nhẹ hơn, mềm mại hơn và
nhu nhuyến hơn. Khi hòn sắt ấy không cháy đỏ, không hừng lửa, nguội lạnh rồi, khi đó hòn sắt nặng hơn, cứng hơn và không
nhu nhuyến.
- Này Tôn chủ, khi thân này có tuổi thọ, có sức nặng, có thức thì nó nhẹ hơn, mềm mại hơn và
nhu nhuyến hơn. Khi các thân này không có tuổi thọ, không có sức nóng và không có thức thời nó nặng hơn, cứng hơn và không
nhu nhuyến. Này Tôn chủ,
sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhập: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có
quả báo."
18. - Dầu
Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, có
sự kiện gì để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo"?
-
Tôn giả Kassapa, vâng, có
sự kiện để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, như thế nào?
-
Tôn giả Kassapa, có những người bắt được một người
ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi: "Thưa Tôn chủ, đây là người
ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn." Tôi nói với họ như sau: "Các khanh, hãy giết người này bằng cách lột da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và xương tủy của anh ta". Những người này
vâng lời tôi và đáp: "Xin vâng, Tôn chủ!" rồi họ bèn giết người ấy bằng cách lột da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và xương tủy. Khi người áy chết một phần nửa, tôi bảo họ: "Hãy lật ngược người này nằm ngữa, và xem
linh hồn của anh ta có đi ra không?" Họ lật ngược người này
nằm ngửa, và
chúng tôi không thấy
linh hồn người ấy đi ra. Tôi lại bảo họ: "Hãy lật người này nằm cong lại... nằm phía một bên... nằm phía bên kia... đặt người đó đứng thẳng... đặt người ấy đứng lộn đầu xuống... đánh người ấy với tay... đánh người ấy với cục đất... đánh người ấy với gậy... đánh người ấy với gươm... đánh anh ta phía bên này... đánh anh ta phía bên kia... đánh anh ta cùng khắp tất cả và xem
linh hồn của anh ta có đi ra không? "Họ đánh anh ta phía bên này, đánh anh ta phía bên kia, đánh anh ta cùng khắp tất cả và
chúng tôi không thấy
linh hồn người ấy đi ra. Anh ta có mắt và
sắc pháp các mặt, nhưng căn không
cảm thọ được. Anh ta có tai và các tiếng có mặt, nhưng căn không
cảm thọ được. Anh ta có mũi và các hương mặt, nhưng căn không
cảm thọ được. Anh ta có lưỡi và các vị có mặt, nhưng căn không
cảm thọ được. Anh ta có thân và các xúc có mặt, nhưng căn không
cảm thọ được.
Tôn giả Kassapa,
sự kiện là như vậy, nên tôi
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo".
19. - Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ. Nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được
ý nghĩa của
lời nói. Này Tôn chủ, thuở xưa có một người thổi tù và,
cầm tù và bằng vỏ ốc và đi đến
biên giới. Người ấy đi đến một làng kia, sau khi đến xong, đứng giữa làng, thổi ống tù và ba lần, đặt ống tù và xuống đất và ngồi xuống một bên. Này Tôn chủ, những người dân ở
biên giới ấy
suy nghĩ: "Tiếng ấy là tiếng của ai mà lại khả ái như vậy,
đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy,
hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy." Họ
tụ họp lại và hỏi người thổi tù và: "Này bạn, tiếng ấy là tiếng của ai mà lại khả ái như vậy,
đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy,
hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy?" "- Này các bạn, đây là cái tù và, và tiếng của tù và ấy khả ái như vậy,
đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy,
hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy." Họ bèn đặt chiếc tù và
nằm ngửa và nói: "Hãy nói đi, bạn tù và! Hãy nói đi, bạn tù và!" Nhưng chiếc tù và ấy không nói tiếng gì hết. Họ đặt chiếc tù và ấy nằm cong lại, nằm phía bên này, nằm phía bên kia... đặt đứng thẳng... đặt ngược đầu xuống... lấy tay đánh... lấy cục đấy đánh... lấy gậy đánh... lấy gươm đánh... đánh phía bên này... đánh phía bên kia... đánh cùng khắp tất cả và nói: "Này bạn tù và, hãy nói đi! Này bạn tù và, hãy nói đi!" Nhưng chiếc tù và ấy không nói gì cả. Này Tôn chủ, rồi người thổi tù và
suy nghĩ như sau: "Thật là
ngu si, những người dân ở
biên giới này! Sao lại đi tìm tiếng tù và một cách
vô ý thức như vậy!" Trong khi họ đang
tìm kiếm như vậy, người thổi tù và cầm chiếc tù và lên, thổi lên ba lần rồi cầm chiếc tù và ra đi. Này Tôn chủ, những người ở
biên giới suy nghĩ như sau: "Này các bạn, chiếc tù và này, khi nào có người phụ trợ, có sự
nỗ lực phụ trợ và có gió thổi phụ trợ, thì chiếc tù và phát ra tiếng. Khi nào chiếc tù và này không có người phụ trợ, không có sự
nỗ lực phụ trợ và không có gió thổi phụ trợ thì chiếc tù và này không phát ra tiếng." Cũng vậy, này Tôn chủ! Khi nào thân này có tuổi thọ phụ trợ, có hơi nóng phụ trợ và có thức phụ trợ, thời thân ấy đi tới,
đi lui, đứng lên, ngồi xuống, nằm xuống, thời mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân
cảm xúc, ý biết pháp. Nhưng khi thân này không có tuổi thọ phụ trợ, không có hợi nóng phụ trợ, và không có thức phụ trợ, thời thân ấy không đi tới, không
đi lui, không đứng lại, không ngồi xuống, không nằm xuống, thời mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng, mũi không ngửi hương, lưỡi không nếm vị, thân không
cảm xúc, ý không biết pháp. Này Tôn chủ,
sự kiện là như vậy, nên tôi
chấp nhận: "Có
đời sau, có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác có
quả báo."
20. - Dầu
Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, có
sự kiện gì để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo"?
-
Tôn giả Kassapa, vâng, có
sự kiện để
chứng minh rằng: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
- Này Tôn chủ, như thế nào?
-
Tôn giả Kassapa, nay có những người bắt được một tên
ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi: "Thưa Tôn chủ, đây là người
ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn." Tôi nói với họ như sau: "Các khanh hãy lột da anh ta, để
chúng ta có thể thấy
linh hồn của anh ta." Chúng lột da của người ấy, nhưng
chúng tôi không thấy
linh hồn của anh ta. Rồi tôi bảo họ: "Các khanh hãy lột da trong của người ấy... cắt thịt... cắt gân... cắt xương... đẻo
cho đến xương tủy để
chúng ta có thể thấy
linh hồn của anh ta." Họ đẽo
cho đến xương tủy của người ấy, nhưng
chúng tôi không thấy
linh hồn của anh ta. Này
Tôn giả Kassapa,
sự kiện là như vậy nên tôi
chấp nhận: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
21. - Này Tôn chủ, tôi sẽ cho một ví dụ. Ở đời một số người có
trí thức, nhờ ví dụ hiểu được
ý nghĩa câu nói. Này Tôn chủ, thuở xưa có người bện tóc thờ lửa, sống trong một ngôi nhà lá, tại một khu rừng. Này Tôn chủ, một số dân chúng di cư đến đấy. Vị
lãnh đạo của chúng, sau một đêm ở
xung quanh cái cốc của người bện tóc thờ lửa bèn bỏ đi. Này Tôn chủ, người bện tóc thờ lửa
suy nghĩ: "Nếu ta đến chỗ ở của người
lãnh đạo, ta có thể kiếm được một vài đồ vật hữu dụng ở đó." Rồi người bện tóc thở lửa, dậy sớm đến chỗ ở của người
lãnh đạo, và thấy một đứa hài nhi bị quăng
nằm ngửa ở đó. Thấy vậy vị ấy nghĩ: "Thật không phải chút nào nếu ta để một hài nhi phải chết trong khi ta đang
tìm kiếm. Ta hãy đem hài nhi này về cốc của ta, nuôi nó,
săn sóc nó, cấp dưỡng nó". Rồi người bện tóc thờ lửa ấy đem đứa hài nhi ấy về cốc nuôi nó,
săn sóc nó, cấp dưỡng nó. Khi đứa trẻ đến tuổi mười hay mười hai, người bện tóc thờ lửa có công
việc phải đi xuống đồng bằng. Người bện tóc thờ lửa bảo đứa trẻ ấy: Này con, ta muốn
đi xuống đồng bằng, hãy chăm sóc ngọn lửa, đừng để nó tắt. Nếu lửa có tắt, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quay để nhóm lửa, hãy nhen lửa lại và chăm sóc ngọn lửa". Người bện tóc thở lửa ấy, sau khi căn dặn đứa trẻ, bèn
đi xuống đồng bằng. Đứa trẻ mãi
ham vui đùa khiến lửa tắt. Đứa trẻ
suy nghĩ: "Cha ta có bảo ta: "Hãy chăm sóc ngọn lửa, đừng để nó tắt. Nếu con để tắt lửa, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quay để nhóm lửa lại." Vậy ta hãy nhen lửa lên và chăm sóc ngọn lửa." Rồi đứa trẻ ấy lấy búa chẻ đồ quây lửa với
ý nghĩ: "Ta sẽ
tìm thấy lửa." Nhưng lửa không có. Nó đem chẻ đồ quây lửa làm hai, làm ba, làm bốn,làm năm, làm mười, làm trăm, chẻ nhỏ vụn ra, lấy chày mà giã, và sau khi đã giã nhỏ, lại đem ra sàng trước gió lớn với
ý nghĩ: "Ta sẽ
tìm thấy lửa." Nhưng lửa không có. Người bện tóc sau khi làm xong công việc ở đồng bằng, liền về cốc của mình và hỏi đứa bé: "Này con, sao con để tắt lửa thế này,?" - "Thưa cha, con mãi ham chơi nên để lửa tắt. Rồi con
suy nghĩ: "Cha đã bảo ta: "Hãy chăm sóc ngọn lửa, đừng để tắt nó. Nếu con để tắt lửa, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quây để nhen lửa. Hãy nhen lửa lại và chăm sóc ngọn lửa". Vậy ta hãy nhen lửa lên và chăm sóc ngọn lửa". Thưa cha, rồi con lấy búa nhỏ chẻ đồ quây lửa với
ý nghĩ: "Ta sẽ
tìm ra lửa." Nhưng con tìm không được lửa. Con đem chẻ đồ quây lửa, làm hai, làm ba, lám bốn, làm năm, làm mười, làm trăm, chẻ nhỏ vụn ra, lấy chày mà giã, và sau khi giã nhỏ, lại đem ra sàng trước gió lớn với
ý nghĩ: "Ta sẽ
tìm ra lửa," nhưng con không tìm được lửa". Rồi người bện tóc thờ lửa ấy
suy nghĩ: "Đứa trẻ này thật
ngu si và kém
thông minh. Sao lại đi tìm lửa một cách thiếu suy tư như thế này?" Trong khi đứa trẻ đứng nhìn, người ấy cầm đồ quây lửa, nhen lửa lên và nói với đứa trẻ: "Này con, nhen lửa phải làm như vậy đó, chớ không phải như con
ngu si và kém
thông minh, tìm lửa một cách thiếu suy tư." Cũng vậy này Tôn chủ, Ngài
ngu si, kém
thông minh, đi tìm
đời sau một cách kém suy tư. Này Tôn chủ, hãy
từ bỏ ác kiến ấy! Chớ có tự dấn thân vào sự
bất an và
đau khổ trường kỳ.
22. - Dầu
Tôn giả Kassapa có nói như vậy, Tôi cũng không thể
từ bỏ ác tà kiến này. Vua Pasenadi nước Kosala và vua các nước ngoài đã biết tôi như sau: "Tôn chủ Pàyàsi có
quan điểm, có
tri kiến như thế này: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
Tôn giả Kassapa, nếu tôi
từ bỏ ác tà kiến ấy người ta sẽ
phê bình tôi như sau: "Tôn chủ Pàyà thật là
ngu si, kém
thông minh,
chấp kiến một cách
sai lạc." Vì tức giận, nên tôi phải
chấp chặt tà kiến ấy. Vì lừa gạt nên tôi phải
chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải
chấp chặt tà kiến ấy.
23. - Vậy này Tôn chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ. Ở đời một số người có trí, nhờ ví dụ mà
hiểu ý nghĩa
lời nói. Này Tôn chủ, thuở xưa, một đoàn lữ hành lớn gồm một ngàn cỗ xe đi từ phương
Đông quốc độ qua phương Tây
quốc độ. Đi đến chỗ nào, đoàn lữ hành ấy cũng
tiêu thụ rất mau cỏ, củi, nước và cây lá xanh tươi. Đoàn lữ hành ấy có hai vị
lãnh đạo, một vị
lãnh đạo năm trăm cỗ xe, một vị
lãnh đạo năm trăm cỗ xe. Hai vị
lãnh đạo đoàn lữ hành
suy nghĩ như sau: "Đoàn lữ hành lớn này
gồm có một ngàn cỗ xe. Chỗ nào
chúng ta đi tới thì đoàn
tiêu thụ rất mau cỏ, củi, nước và cây lá xanh tươi. Vậy
chúng ta hãy chia đoàn lữ hành này thành hai, mỗi đoàn có năm trăm cỗ xe."
Rồi hai vị
lãnh đạo ấy chia đoàn lữ hành thành hai, một đoàn có năm trăm cỗ xe, một đoàn có năm trăm cỗ xe. Rồi một vị
lãnh đạo thâu lượm rất nhiều cỏ, củi, nước và cho đoàn lữ hành chuyển bánh. Sau khi đi hai, ba ngày, vị
lãnh đạo ấy thấy một người da đen, mắt đỏ,
mang theo ống tên, đeo
vòng hoa súng, áo quần ướt, tóc ướt, đánh một cỗ xe do lừa kéo, bánh xe dính đầy bùn và đi từ phía trước đi lại. Thấy vậy, người
lãnh đạo hỏi:
"- Bạn từ phương nào đến?
"- Từ nơi
quốc độ kia đến.
"- Bạn sẽ đi đâu?
"- Sẽ đi đến địa phương tên này.
"- Bạn có thấy, trong khu rừng
trước mặt, có mưa to
gần đây không?
"- Thưa bạn, trong khu rừng
trước mặt có mưa to, đường xá đầy sũng những nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy
quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc."
Khi ấy người
lãnh đạo nói với những người đánh xe:
"- Này các Bạn, người này nói như sau: Trong khu rừng
trước mặt có mưa to, đường sá đầy sũng nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy
quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc." Vậy các bạn hãy quăng cỏ, củi và nước cũ đi, để đoàn xe đi với những cỗ xe nhẹ hơn.
"- Thưa Bạn, vâng!"
Những người đánh xe
vâng theo lời vị
lãnh đạo đoàn lữ hành, quăng cỏ, củi và nước cũ đi và dẫn đoàn xe đi với những cỗ xe nhẹ hơn. Nhưng khi đi đến trạm nghỉ thứ nhất, họ không thấy cỏ, củi hay nước, trạm thứ hai cũng vậy... trạm thứ ba cũng vậy... trạm thứ tư cũng vậy... trạm thứ năm cũng vậy... trạm thứ sáu cũng vậy... trạm thứ bảy cũng vậy, họ không thấy cỏ, củi hay nước. Tất cả đều gặp sự
bất hạnh và
tai nạn. Tất cả người và vật trong lữ đoàn ấy, đều bị
Dạ xoa,
phi nhân ăn thịt, chỉ còn xương để lại.
Khi người
lãnh đạo đoàn thứ hai được biết: "Nay đoàn kia đi đã khá xa", bèn cho thâu lượm nhiểu cỏ, củi và nước và cho đoàn
khởi hành. Sau khi đi hai, ba ngày, vị
lãnh đạo ấy thấy một người da đen, mắt đỏ,
mang theo ống tên, đeo
vòng hoa súng, áo quần ướt, tóc ướt, đánh một cỗ xe do lừa kéo, bánh xa dính đầy bùn và đi từ phía trước đi lại. Thấy vậy người
lãnh đạo hỏi:
"- Bạn từ phương nào đến?
"- Từ nơi
quốc độ kia đến.
"- Bạn sẽ đi đâu?
"- Sẽ đi đến địa phương tên này.
"- Bạn có thấy trong khu rừng
trước mặt, có mưa to
gần đây không?
"- Thưa Bạn, trong khu rừng
trước mặt, có mưa to, đường sá đầy sũng những nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy
quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc.
Khi ấy người
lãnh đạo nói với những người đánh xe:
"- Này các Bạn, người này nói như sau: Trong khu rừng
trước mặt có mưa to, đường sá đầy sũng nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cổ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ làm cho đoàn xe mệt nhọc." Nhưng này các Bạn, người ấy không phải là bạn của
chúng ta, cũng không phải là
bà con ruột thịt, làm sao
chúng ta có thể tin người ấy được? Chớ
quăng bỏ các thứ cỏ, củi và nước đã
dự trữ từ trước. Hãy cho đoàn lữ hành
tiến tới với các hàng hóa đã được
mang theo,
chúng ta không
quăng bỏ đi các vật đang
dự trữ từ trước.
"- Thưa Bạn, vâng."
Những người đánh xe ấy,
vâng theo lời người
lãnh đạo, cho đoàn lữ hành
tiến tới với những hàng hóa đã
mang theo. Đến trạm nghĩ thứ nhất những người này không thấy cỏ, củi hay nước, đến trạm thứ hai cũng vậy... trạm thứ ba cũng vậy... trạm thứ tư cũng vậy.... trạm thứ năm cũng vậy... trạm thứ sáu cũng vậy.... trạm thứ bảy cũng vậy... chúng không thấy cỏ, củi hay nước, nhưng chúng thấy đoàn lữ hành trước bị lâm vào
tai nạn. Những người và
thú vật trong đoàn lữ hành kia, chúng thấy các bộ xương do con
Dạ xoa phi nhân ấy
ăn thịt.
Rồi người
lãnh đạo nói với các người đánh xe:
"- Này các Bạn, đoàn lữ hành ấy bị
lâm nạn vì bị người
lãnh đạo ngu si như vậy hướng dẫn. Vậy này các bạn, hãy bỏ đi những vật hạng ít
giá trị của đoàn lữ hành này, hãy
đem theo những vật hạng đắt giá của đoàn lữ hành kia!
"- Thưa Bạn, vâng!"
Những người đánh xe ấy
vâng theo người
lãnh đạo quăng bỏ đi những vật hạng ít
giá trị của đoàn lữ hành của mình, đem
đi theo những vật hạng đắt giá của đoàn lữ hành kia và đi qua bãi sa mạc ấy một cách
an toàn, vì được hướng dẫn bởi một vị
lãnh đạo sáng suốt. Cũng vậy này Tôn chủ, người
ngu si không có trí sẽ
gặp nạn vì đã đi
tìm kiếm đời sau một cách thiếu suy tư, giống như người
lãnh đạo đoàn lữ hành kia. Những ai tự nghĩ có thể tin bất cứ điều gì được nghe sẽ gặp
hoạn nạn như những người đánh xe kia. Này Tôn chủ, hãy
từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, bãy
từ bỏ ác tà kiến này. Chớ để chúng đưa Ngài vào
đau khổ bất hạnh lâu dài!"
24. - Dầu
Tôn giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể
từ bỏ ác tà kiến này. Vua Pasenadi nước Kosala là vua các nước ngoài đã biết tôi như sau: "Tôn chủ Pàyàsi có
quan điểm, có
tri kiến như thế này: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có
quả báo."
Tôn giả Kassapa, nếu tôi
từ bỏ ác kiến ấy người ta sẽ
phê bình tôi như sau: "Tôn chủ Pàyàsi thật là
ngu si, kém
thông minh,
chấp kiến một cách
sai lạc." Vì tức giận nên tôi phải
chấp chặt tà kiến sai lạc." Vì tức giận nên tôi phải
chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải
chấp chặt tà kiến ấy.
25. - Này Tôn chủ, vậy tôi sẽ kể một ví dụ. Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được
ý nghĩa lời nói. Thuở xưa có một người nuôi heo đi từ làng của mình đến một làng khác. Ở tại đấy, ông ta thấy một đống phân khô bị
quăng bỏ. Thấy vậy, nó tự nghĩ: "Đống phân khô khá nhiều bị
quăng bỏ đi có thể làm đồ ăn cho các con heo của ta. Vậy ta hãy mang đống phân khô này đi." Rồi ông ta trải
áo choàng của nó mang đống phân khô lại, cột thành một gói đặt trên đầu rồi đi. Đi giữa đường, một cơn mưa lớn
trái mùa xẩy ra. Ông mang bọc phân ấy đi, với phân thấm ướt tiết ra và chảy thành giọt, làm ông lem lấm phân
cho đến đầu móng tay.
Mọi người thấy ông liền nói: "Ông có thật sự điên, thật sự khùng chăng? Làm sao ông lại mang bọc phân ấy đi, với nước phân thấm ướt tiết ra và chảy thành giọt, làm người lem lấm phân
cho đến đầu móng tay." - Chính các Người mới thật sự điên, chính các Người mới thật sự khùng. Chính nhờ như thế này, các con heo của tôi mới có đồ ăn." Cũng vậy này Tôn chủ, Ngài nói chẳng khác gì ví dụ người mang phân này. Này Tôn chủ, hãy
từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy
từ bỏ ác kiến ấy. Chớ để chúng đưa Ngài vào
đau khổ,
bất hạnh lâu dài.
26. - Dầu
Tôn giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể
từ bỏ ác tà kiến này. Vua Pasenadi nước Kosala và vua các nước ngoài đã biết tôi như sau: "Tôn chủ Pàyàsi có
quan điểm, có
tri kiến như thế này: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo".
Tôn giả Kassapa, nếu tôi
từ bỏ ác tà kiến ấy người ta sẽ
phê bình tôi như sau: "Tôn chủ Pàyàsi thật là
ngu si, kém
thông minh,
chấp kiến một cách
sai lạc." Vì tức giận nên tôi phải
chấp chặt tà kíê ấy. Vì lừa gạt nên tôi phải
chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải
chấp chặt tà kiến ấy.
27. - Này Tôn chủ, vậy tôi sẽ kê một ví dụ. Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được
ý nghĩa lời nói. Thuở xưa, có hai người đánh bạc đổ con xúc xắc. Một con bạc mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại. Con bạc thứ hai thấy con bạc ấy mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại. Thấy vậy người này bàn với người kia: "Này Bạn, Bạn đã thắng
rõ ràng. Bạn hãy đưa cho tôi các con xúc xắc để đi làm
lễ tế." - " Thưa Bạn, vâng!", con bạc ấy liền đưa các con xúc xắc cho con bạc kia. Người này bèn lấy thuốc độc thoa vào các con xúc xắc và nói với người kia: "Này Bạn, hãy chơi đổ các con xúc xắc." - "Thưa Bạn, vâng!", con bạc ấy
vâng theo lời của con bạc kia. Lần thứ hai, hai con bạc ấy đổ con xúc xắc, lần thứ hai , con bạc này mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại. Con bạc thứ hai thấy con bạc kia, lần thứ hai, mỗi lần thua ngậm con xúc xắc thất bại. Thấy vậy, người ấy nói với con bạc kia:
Con người không được biết.
Con xúc xắc được ngậm,
Đã được bôi thoa nhiều,
Với thuốc độc đốt cháy.
Hãy ngậm đi, ngậm đi,
Con bạc
ác độc kia!
Ngậm xong nhà Ngươi phải
Đau đớn vô cùng tận.
Cũng vậy này Tôn chủ. Ngài nói chẳng khác gì ví dụ người đánh bạc. Này Tôn chủ, hãy
từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy
từ bỏ ác tà kiến ấy. Chớ để chúng đưa Ngài vào
đau khổ,
bất hạnh lâu dài.
28. - Dầu
Tôn giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể
từ bỏ ác tà kiến này. Vua Pasenadi nước Kosala và vua các nước ngoài đã biết tôi như sau: "Tôn chủ Pàyàsi có
quan điểm, có
tri kiến như thế này: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo!"
Tôn giả Kassapa, nếu tôi
từ bỏ ác tà kiến ấy, người ta sẽ
phê bình tôi như sau: "Tôn chủ Pàyàsi thật
ngu si, kém
thông minh,
chấp kiến một cách sai lạc". Vì tức giận nên tôi phải
chấp chặt tà kiến ấy. Vì lường gạt nên tôi phải
chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải
chấp chặt tà kiến ấy!
29. - Này Tôn chủ, vậy tôi sẽ kể một ví dụ. Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được
ý nghĩa lời nói. Thuở xưa, một
quốc gia dời đi chỗ khác. Một người nói với các bạn thuộc hạ của mình: "Này các Bạn,
chúng ta hãy đi đến
quốc gia kia, rất có thể
chúng ta tìm được tiền bạc
của cải." Thưa Bạn, vâng!", các thuộc hạ
vâng lời người bạn kia. Họ đi đến
quốc gia kia, và đến một đường làng. Họ thấy một đống gai,
quăng bỏ. Thấy vậy, một người bạn nói với các người kia: "Đây là một đống gai
quăng bỏ. Bạn hãy nhóm lại thành một bó. Tôi cũng nhóm lại thành một bó gai.
Chúng ta hãy đem bó gai ấy đi." - "Thưa Bạn, vâng!", người bạn này
vâng theo người bạn kia và cột bó gai lại.
Họ mang hai bó gai, và đi đến một làng khác. Họ thấy một đống dây gai
quăng bỏ. Thấy vậy một người bạn nói với người kia: "Đống dây gai
quăng bỏ này thật đúng với điều
chúng ta muốn làm với bó dây gai ấy. Vậy ban hãy nhóm lại thành một bó dây gai. Tôi cũng nhóm lại thành một bó dây gai.
Chúng ta hãy đem hai bó dây gai ấy đi." - "Này Bạn, tôi đem đống dây gai này từ xa lại, và đống day gai được
bó buộc kỹ lưỡng. Đối với tôi, như vậy là
vừa đủ, bạn hãy tự biết (mà làm)." Và người bạn trước quăng bó dây gai và lấy đống dây gai.
Rồi họ đến một
con đường khác. Ở đấy họ thấy nhiều vải gai được
quăng bỏ. Thấy vậy, một người bạn nói với người kia: "Nhiều vải gai được
quăng bỏ này thật đúng với điều
chúng ta muốn làm với cây gai hoặc với dây gai. Vậy Bạn hãy
quăng bỏ bao cây gai, và tôi sẽ
quăng bỏ bao dây gai. Hai
chúng ta sẽ mang bao vải gai này mà đi." - "Này Bạn, tôi đem đóng dây gai này từ xa lại và đống gai được buộc bó kỹ lưỡng. Đối với tôi, như vậy là
vừa đủ. Bạn hãy tự biết (mà làm)." Và người bạn trước
quăng bỏ dây gai và lấy bó gải gai.
Rồi họ đến một
con đường khác. Ở đây họ thấy nhiều sồ ma được
quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều dây sồ ma được
quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều vải sồ ma được
quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều cây bông được
quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều vải bông được
quăng bỏ... Sau khi thấy... nhiều sắt được
quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều đồng được
quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều thiếc được
quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều chì được
quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều bạc được
quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều vàng được
quăng bỏ. Thấy vậy một người bạn nói với người bạn kia: "Nhiều vàng được
quăng bỏ này thật đúng với điều
chúng ta muốn làm với cây gai hay với dây gai, hay với vải sồ ma, hay với cây bông, hay với vải bông, hay với sắt, hay với đồng, hay với thiếc, hay với chì, hay với bạc. Vậy bạn hãy
quăng bỏ bao cây gai, và tôi sẽ
quăng bỏ bao bạc. Hai
chúng ta sẽ mang bao vàng mà đi." - "Này ban, tôi đem bao cây gai này từ xa lại, và đống gai được
bó buộc ký lưỡng. Đối với tôi, như vậy là
vừa đủ. Bạn hãy tự biết (mà làm)." Và người bạn trước quăng bao bạc và lấy bao vàng.
Cả hai về đến làng của mình. Người bạn đem bao cây gai về,
cha mẹ người ấy không được
vui vẻ,
vợ con người ấy không được vui, bạn bè người ấy không được
vui vẻ, và do vậy anh ta không được
hạnh phúc,
hoan hỷ. Còn người bạn đem bao vàng về,
cha mẹ người ấy được
vui vẻ,
vợ con người ấy được
vui vẻ, bạn bè người ấy được
vui vẻ và do vậy người ấy được
hạnh phúc hoan hỷ.
Cũng vậy Tôn chủ, Ngài nói không khác gì ví dụ người mang bao cây gai. Này Tôn chủ, hãy
từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy
từ bỏ ác tà kiến ấy. Chớ để chúng đưa Ngài vào
đau khổ,
bất hạnh lâu dài.
30. - Với ví dụ đầu tiên của
Tôn giả Kassapa tôi đã
hoan hỷ,
thỏa mãn, nhưng tôi muốn nghe những câu hỏi đáp
thông minh ấy vì tôi xem
Tôn giả Kassapa như người đáng được
đối lập. Thật
kỳ diệu thay,
Tôn giả Kassapa! Thật
hy hữu thay,
Tôn giả Kassapa!
Tôn giả Kassapa, như một người giơ ra vật gì bị che kín, hay như người hướng dẫn cho kẻ bị
lạc đường, hay như người đem đèn vào trong bóng tối cho người có mắt được thấy sắc, cũng vậy
Chánh pháp được
Tôn giả Kassapa dùng nhiều
phương tiện trình bày.
Tôn giả Kassapa, nay con
quy y Thế Tôn Gotama, quy ý Pháp,
quy y chúng
Tỷ kheo Tăng,
Tôn giả Kassapa, hãy nhận con làm
đệ tử cư sĩ, từ nay
cho đến trọn đời xin nhận Ngài làm chỗ
y chỉ.
Tôn giả Kassapa, con muốn tổ chức một
đại lễ tế đàn.
Tôn giả Kassapa hãy giảng dạy cho con để con được hưởng
hạnh phúc an lạc lâu dài.
31. - Này Tôn chủ, tại
tế đàn có trâu bò
bị giết, hay
các loại sinh vật khác
bị giết, và những ai
tham dự tế đàn ấy là những vị có
tà kiến,
tà tư duy,
tà ngữ,
tà nghiệp,
tà mạng, tà
tinh tấn, tà niệm,
tà định, này Tôn chủ,
tế đàn ấy không đem lại
quả báo lớn,
lợi ích lớn,
danh tiếng lớn, không được
quảng bá rộng lớn. Này Tôn chủ, cũng như người làm ruộng
đi vào rừng
đem theo hột giống và cày. Và trên một khoảng đất không cày bừa, không có màu mỡ, giữa những gốc cây chưa được đào lên, người ấy gieo những hột giống xuống, những hột giống ấy bị hư sứt, bị thúi mục, bị gió và sức nóng
phá hại,
trái mùa, không có
điều kiện thuận tiện, và thần mưa không cho mưa đúng thời. Vậy các hột giống ấy có thể lớn lên,
trưởng thành lên và sum sê hoa lá lên hoặc người làm ruộng ấy gặt hái được nhiều kết quả không?
-
Tôn giả Kassapa, không thể được.
- Cũng vậy, này
Tôn giả, tại
tế đàn nào có trâu bò
bị giết hay
các loại dê
bị giết, hay gà và heo
bị giết, hay
các loại sinh vật khác
bị giết, và những ai
tham dự tế đàn ấy là những vị có
tà kiến,
tà tư duy,
tà ngữ,
tà nghiệp,
tà mạng, tà
tinh tấn, tà niệm,
tà định. Này Tôn chủ,
tế đàn ấy không đem lại
quả báo lớn,
lợi ích lớn,
danh tiếng lớn, không được
quảng bá rộng lớn. Này Tôn chủ, tại
tế đàn nào không có trâu bò
bị giết, không có
các loại dê
bị giết, không có gà heo
bị giết, không có
các loại sanh vật khác
bị giết, và những ai
tham dự tế đàn ấy là những vị có
Chánh kiến,
Chánh tư duy,
Chánh ngữ,
Chánh nghiệp,
Chánh mạng,
Chánh tinh tấn,
Chánh niệm,
Chánh định; này Tôn chủ,
tế đàn ấy đem lại
quả báo lớn,
lợi ích lớn,
danh tiếng lớn, được
quảng bá rộng lớn. Này Tôn chủ, cũng như một người làm ruộng
đi vào rừng
đem theo hột giống và cày. Và trên một khoảng đất có cày bừa, có màu mỡ, giữa những gốc cây đã được đào lên, người ấy gieo những hột giống xuống, những hột giống ấy không bị hư sứt, không bị thúi mục, không bị gió và sức nóng
phá hại, thuận mùa, có
điều kiện thuận lợi và thần mưa cho mưa đúng thời. Vậy các hột giống ấy có thể lớn lên,
trưởng thành lên, sum sê hoa lá, hoặc người làm ruộng ấy gặt hái được nhiều kết quả không?
-
Tôn giả Kassapa, thật được như vậy.
- Cũng vậy, này Tôn chủ, tại
tế đàn nào mà không có trâu bò
bị giết, không có
các loại dê
bị giết, không có gà heo
bị giết, không có
các loại sanh vật khác
bị giết, và những ai
tham dự tế đàn ấy là những vị có
Chánh kiến,
Chánh tư duy,
Chánh ngữ,
Chánh nghiệp,
Chánh mạng,
Chánh tinh tấn,
Chánh niệm,
Chánh định; này Tôn chủ,
tế đàn ấy đem lại
quả báo lớn,
lợi ích lớn,
danh tiếng lớn, được
quảng bá rộng lớn.
32. Rồi Tôn chủ Pàyàsi tổ chức
bố thí cho các vị
Sa môn, Bà -la-môn, cho những người nghèo, những người
vô gia cư, những người
ăn mày. Trong cuộc
bố thí này, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, vải thô với những viền bằng hình tròn. Trong cuộc
bố thí này, có vị thanh niên tên Uttàra bị bỏ qua. Sau khi cuộc
bố thí đã xong, vị nầy nói ngạo như sau: "Với cuộc
bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pàyàsi
trong đời này, nhưng không gặp
trong đời sau." Tôn chủ Pàyàssi nghe thanh niên Uttàra sau khi cuộc
bố thí đã xong, có nói ngạo: "Với cuộc
bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pàyàsi
trong đời này, nhưng không gặp
trong đời sau," liền cho mời thanh niên Uttàra và nói:
- Này
Thân hữu Uttàra, có thật chăng, sau khi cuộc
bố thí đã xong, Ngươi có nói ngạo: "Với cuộc
bố thí này, ta gặp được Tôn chủ Pàyàsi
trong đời này, nhưng không gặp
trong đời sau"?
- Thật có vậy, này Tôn chủ!
- Này
Thân hữu Uttàra, tại sao, sau cuộc
bố thí Ngươi lại nói ngạo như vậy: "Với cuộc
bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pàyàsi
trong đời này, nhừng không gặp
trong đời sau."? Này
Thân hữu Uttàra, có phải
chúng ta đi tìm
công đức đều trông mong kết quả của cuộc bố thí?
- Này Tôn chủ, trong cuộc
bố thí của Ngài, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, các món ăn này được Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là ăn; vải thô với những nền bằng hình tròn, các thứ vải này Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là mặc. Tôn chủ, Ngài là người thân và kính mến của
chúng tôi. Như thế nào,
chúng tôi có thể
phối hợp cái gì
thân yêu và kính mến với cái gì không thân yêu?
- Vậy này
Thân hữu Uttàra, hãy phân phát các món ăn giống như các món tôi ăn, hãy phân phát các vải mặc, giống như các thứ vải mà tôi mặc.
- Xin vâng, Tôn chủ!
Thanh niên Uttàra
vâng theo lời Tôn chủ Pàyàsi, đem phân phát những món ăn giống như các món tôn chủ Pàyàsi ăn, đem phân phát các thứ vải, giống như các thứ vải tôn chủ Pàyàsi mặc.
Tôn chủ Pàyàsi vì đã
bố thí không được cho hoàn vị, vì đã
bố thí không tự tay mình làm, vì đã
bố thí không có suy tư, vì đã
bố thí các đồ vật phế thải, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh
nhập chúng với
Bốn Đại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serisaka. Còn thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc
bố thí này, vì đã
bố thí một cách hoàn bị, vì đã
bố thí tự tay mình làm, vì đã
bố thí có suy tư, vì đã
bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên
thiện thú,
Thiên giới nhập chúng với
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên.
33. Lúc bấy giờ
tôn giả Gavampati (
Ngưu Chủ)
thường hay đi nghỉ trưa trong cung điện trống không của Serisaka. Nay
Thiên tử Pàyàssi đi đón
tôn giả Gavampati,
đảnh lễ ngài, và đứng một bên.
Tôn giả Gavampati nói với
Thiên tử Pàyàsi đang đứng một bên:
- Bạch
Tôn giả, con là tôn chủ Pàyàsi.
- Này
Hiền giả, có phải Ngươi có
tà kiến như sau: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiện ác không có quả báo"?
- Bạch
Tôn giả, con có
tà kiến như vậy: "Không có
đời sau, không có
các loại hóa sanh,
hành vi thiên ác không có quả báo", nhưng nhờ
tôn giả Kumàra Kassapa, con tự
thoát ly ra khỏi
ác tà kiến ấy.
- Này
Hiền giả, còn thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc
bố thí này, được
thác sanh ở đâu?
- Bạch
Tôn giả, thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc bố thì này, vì đã
bố thí một cách hoàn bị, vì đã
bố thí tự tay mình làm, vì đã
bố thí có suy tư, vì đã
bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên
thiện thú,
Thiên giới,
nhập chúng với
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên. Còn con, vì đã
bố thí không tự tay mình làm, vì đã
bố thí không có suy tư, vì đã
bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh
nhập chúng với
Bốn Đại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serasaka. Do vậy, bạch
Tôn giả Gavampati, hãy đi đến
thế giới loài Người và nói như sau: "Hãy
bố thí một cách hoàn bị, hãy
bố thí với tự tay mình làm, hãy
bố thí một cách có suy tư, hãy
bố thí với đồ không phế thải. Tôn chủ Pàyàsi, vì
bố thí không hoàn bị, vì
bố thí không tự tay mình làm, vì
bố thí không có suy tư, vì
bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh
nhập chúng với
Bốn Đại Thiên vương trong cung điện trống không của Serisaka. Còn thanh niên Uttàra, bị bỏ qua trong cuộc
bố thí này, vĩ đã
bố thí một cách hoàn bị, vì đã
bố thí tự tay mình làm, vì
bố thí một cách có suy tư, vì
bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên
thiện thú,
Thiên giới,
nhập chúng với
chư Thiên ở Tam thập tam thiên".
34. Rồi
Tôn giả Gavampati
đi vào trong
thế giới loài Người và nói như sau: "Hãy
bố thí một cách hoàn bị. Hãy
bố thí với tự tay mình làm. Hãy
bố thí một cách có suy tư. Hãy
bố thí các đồ không phế thải. Tôn chủ Pàyàsi, vì
bố thí không hoàn bị, vì
bố thí không tự tay mình làm, vì
bố thí không có suy tư, vì
bố thí đồ phế thải, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh
nhập chúng với
Bốn Đại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serisaka. Còn thanh niên Uttàra, bị bỏ qua trong một cuộc
bố thí này, vì đã
bố thí một cách có hoàn bị, vì đã
bố thí với tự tay mình làm, vì đã
bố thí một cách suy tư, vì đã
bố thí với các đồ không phế thải, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên
thiện thú,
Thiên giới,
nhập chúng với
chư Thiên ở Tam thập tam thiên".
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt