Hoa Vô Ưu

Thử Bàn Về A

Thử Bàn Về A-la-hán?


Trần Tuấn Mẫn

chu tieu 6


A-la-hán là vị đã chứng đạt quả vị thứ tư trong bốn Thánh quả: Kinh Sa-môn quả của Trường bộ kinh có nêu: Dự lưu ( Tu-đà-hoàn, Sotapanna), Nhất lai (Tư-đà-hoàn, Sukadagani), Bất lai (An-na-hàm, Anadani) và A-la-hán (Arahant).

A-la-hán (Arhat - Arahant), còn được gọi là La-hán, A-lô-hán, A-la-ha… Hán dịch là Ứng Vô học, Ứng chân, Sát tặc, Bất sanh, Vô sanh, Vô học, Chân nhân, Bất lai. Theo Đại Trí Độ Luận, Đại Thừa Nghĩa Chương. Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập, A-la-hán gồm ba nghĩa:

1/ Sát tặc (diệt trừ mọi nghi hoặc, phiền não vốn được xem như những tên giặc phá quấy);

2/ Bất sanh (chứng nhập Niết-bàn, không còn thọ sanh trong ba cõi);

3/ Ứng cúng (xứng đáng được tôn kính, cúng dường - phân từ “arh” có nghĩa là xứng đáng).

Tuy A-la-hán là quả vị chung cho Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa, nhưng trong Phật giáo Nguyên thuỷ, đây là quả vị cao nhất trong bốn Thánh quả. Các kinh Nikaya thường diễn giải một vị chứng đắc A-la-hán bằng câu: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm xong, sau đời này, không còn đời sống nào nữa”. (Ví dụ: các trường hợp của Tôn giả Citta Hatthisariputta trong kinh Patthapada trong kinh Trường Bộ; Tôn giả Mangandiga, Tôn giả Seniya trong kinh Hạnh Con Chó của Trung Bộ; Tôn giảKassapa trong phẩm Đồ ăn của Tương Ưng Bộ,…).

Tăng Chi Bộ VI, 56, nói về vị A-la-hán như sau: “Và đối với một đệ tử đã được giải thoát như thế, tâm đã an tịnh, không cần gì thêm vào những gì đã được làm, vị ấy không còn phải làm gì nữa. Giống như một tảng đá của một khối thạch, không bị lay chuyển vì gió, không sắc, không hương, không vị, không xúc, không sở dục, không vô sở dục nào có thể làm cho vị ấy dao động. Tâm vị ấy vững chãi, sự giải thoát đã được đạt”.

Đức Phật và vị A-la-hán:

Trong 10 danh hiệu của Đức Phật, danh hiệu thứ hai là Ứng cúng, tức là A-la-hán. So với các đặc tính của vị A-la-hán vừa nêu thì rất giống nhau: chứng ngộ, giải thoát.

Tuy vậy, trong khi Nguyên thủy cho rằng vị A-la-hán đã viên mãn mọi sự thì Đại thừa lại cho rằng A-la-hán không phải là quả vị cao nhất, vị A-la-hán có thể bị thối chuyển, còn nhiều điều chưa biết như phải nhờ một vị thầy mới biết mình đã đắc A-la-hán, còn xuất tinh trong mộng mị…

Vị A-la-hán là vị đã làm xong những gì cần làm, đã trả xong “nợ đời”, không bị thối thất, không còn sanh tử; nhưng vị ấy còn cần thời gian để những gì đã được chứng đắc thăng hoa đến mức tối thượng mới có thể ngang bằng quả vị Phật. Vị A-la-hán phải nỗ lực tu tậpthêm nữa, đến khi sự chứng đắc thăng hoa đến mức tối thượng mới có thể ngang bằng quả vị Phật.

Vị A-la-hán vẫn còn phải tu tập để có thể chứng đắc trọn vẹn:

Trong khi Phật giáo Nguyên thủy cho rằng vị A-la-hán đã viên mãn mọi sự thì Phật giáo Đại thừa lại cho rằng A-la-hán không phải là quả vị cao nhất, các ngài chỉ là hạng Thanh văn(nghe Pháp mà đạt Thánh quả), không bằng chư vị Bồ-tát là những vị đã đạt giác ngộ từ vô lượng kiếp trước. Chúng ta sẽ bàn tiếp dưới đây.

Kinh điển Nguyên thuỷ ghi rõ các đệ tử A-la-hán của Đức Phật mỗi vị thù thắng một lĩnh vực (về trí tuệ, về thần thông, về thuyết pháp, về biện tài…), điều này có nghĩa rằng quả vị A-la- hán chưa phải là tuyệt đối, viên mãn.

Kinh Tự Hoan Hỷ (Sampasadaniya) của Trường Bộ ghi lại lời của Tôn giả Xá-lợi-phất ( còn được gọi Chánh pháp Tướng quân) như sau: “Bạch Thế Tôn, con không có trí tuệ để biết được tâm tư của chư Phật, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác trong hiện tạivị lai, nhưng con biết được truyền thống của Chánh pháp”.

Một số kinh điển Đại thừa cũng cho rằng A-la-hán không phải là quả vị tối hậu. Chẳng hạn, kinh Duy-Ma-Cật Sở Thuyết (Vimalakirti Nirdesa Sutra) kể rằng các Đại đệ tử A-la-hán của Đức Phật không dám đến thăm cư sĩ Duy-ma-cật vì sợ mình không đủ trí tuệ để đối đáp. Tạp A-tỳ-đàm luận và Câu-xá luận cũng cho thấy A-la-hán chưa phải là quả vị viên mãn khi chia A-la-hán ra làm sáu, bảy hoặc chín cấp tùy theo căn cơhoàn cảnh tu tập.

Lời dạy của Đức Phật trong kinh Bạc-câu-la (Bakkula Sutta), số 124, Trung Bộ Kinh, rất rõ về vị trí và mối quan hệ giữa các vị A-la-hán với Đức Phật: “Này các Tỳ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác, làm khởi lên con đường mà trước kia chưa có ai mang lại, tuyên thuyết con đường mà trước kia chưa ai tuyên thuyết, là bậc Trí đạo, bậc Ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn nay, các đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu đạo. Này các Tỳ-kheo, đây là sự sai biệt, sự đặc thù, sự khác biệt giữa Như Lai, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác và vị Tỳ-kheo A-la- hán được giải thoát nhờ trí tuệ”.

Ta có thể hình dung vị A-la-hán như một người vừa trả xong mọi món nợ. Về phương diệnkhông có nợ thì người này ngang bằng với một nhà đại phú; nhưng về mặt tiền của thì người này không thể ngang bằng với nhà đại phú được. Ở đây, Đức Phật được ví như nhà đại phú kia vậy. Vị A-la-hán phải nỗ lực tu tập thêm nữa, đến khi sự chứng đắc thăng hoa đến mức tối thượng mới có thể ngang bằng quả vị Phật.

Quan điểm về A-la-hán và Bồ-tát:

Từ khi Thượng tọa bộĐại chúng bộ được hình thành vào khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, tiến dần đến sự hình thành Phật giáo Nguyên Thủy (lấy các kinh Nikaya Pali ngữ làm gốc) và Phật giáo Đại thừa (lấy các kinh Phạn ngữ làm gốc) vào khoảng gần 200 năm kế tiếp. Thật không thể kể hết về số lượng lớn lao của các kinh Đại thừa. Chúng ta chỉ nói sơ lược về một số quan niệm về A-la-hán trong các kinh Đại thừa như Bát-nhã, Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa… và rất nhiều bộ luận thuộc rất nhiều bộ phái của Đại thừa là những kinh, luận đề cao vị thế Bồ-tát và thường coi nhẹ vị thế A-la-hán. Cũng cần nhớ rằng. ý kiến trong các kinh vừa nêu có chỗ khác nhau, nhưng nói chung, các kinh này xem A-la-hán là Tiểu thừa (chiếc xe nhỏ), chỉ cứu được tự mình hay rất ít người, trong khi Đại thừa (chiếc xe lớn) cứu được vô số chúng sinh. A-la-hán thuộc hàng Thanh văn, chỉ nghe giảng mà đạt ngộ chứ không phải dày công tu tập hoặc đã chứng ngộ (nên nhớ: Trong kinh Bạc-câu-la đã nêu trên, Đức Phật dạy rằng các A-la-hán được giải thoát nhờ trí tuệ), hoặc đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước, có lòng từ bi vô cùng rộng lón, muốn cứu độ hết thảy chúng sinh như các vị Bồ-tát…

Một số Phật tử có vẻ như tự hào khi tự nhận mình tu theo hạnh Bồ-tát, điều ấy là tốt. Nhưng chúng ta cũng cần nhận thấy rằng chúng ta chưa ai đạt đến hàng Thánh giả như chư vị Bồ-tát hay A-la-hán hoặc đủ trí tuệ để phán xét thì mọi nhận định về chư vị Thánh giả ấy chỉ là mù mờ, mong manh, nhất thời như giọt sương đầu ngọn cỏ mà thôi.

---------------------------------------------------