Hoa Vô Ưu

Giáo Lý Căn Bản Của Phật Giáo

Giáo Lý Căn Bản Của Phật Giáo
Tuệ Thiện

hinh phat 23


Giáo lý của nhà Phật được trình bày một cách tuần tự thứ lớp tạo thành một hệ thống hợp lý có tương quan chặt chẽ với nhau, thích hợp với căn cơ sở tánh của mỗi người, có thức ăn cho người ít học cũng như có ngũ vị cho bậc thông thái. Giáo lý ấy được ghi chép trong Ba Tạng :

- Tạng Kinh bao gồm các bài thuyết pháp của đức Phật và một số đại đệ tử,

- Tạng Luật ghi lại các điều không nên làm và các qui tắc trong đời sống xuất gia của các vị tu sĩni cô,

- Tạng Luận là phần quan trọng nhứt của giáo pháp, chứa đựng phần triết lý cao thâm về Tâm, trạng thái của Tâm, thành phần cấu hợp của mỗi loại Tâm, tiến trình diễn tiến của tư tưởng, về phương diện luân lý ; vật chất cũng được phân táchmô tả, mối tương quan giữa vật chấttâm thức đều được giải thích. Đây là một tác phẩm triết họctâm lý học xưa nhứt và sâu xa nhứt của nhân loại dựa trên sự chứng nghiệm tâm linh của chính đức Phật và các vị Thánh Tăng.

Giáo lý căn bản được giảng dạy lần đầu tiên qua bài pháp Chuyển Pháp Luân, nói về bốn chân lý của sự khổ (Tứ Diệu Đế), và trong chân lý thứ tư đưa ra những biện pháp để giải quyết sự khổ tức là Bát Chánh Đạo.

1. KHỔ ĐẾ

Khổ là một Định-đề của Đức Phật dành cho con người và cho cả chúng sanh rút ra từ những trải nghiệm của ngài xuyên qua bao nhiêu kiếp luân hồi ; do đó ngài đã tuyên bố: «nước mắt của chúng sanh trong vô lượng kiếp luân hồi nhiều hơn nước biển của đại dương ». Đau khổ dịch từ chữ Dukkha của tiếng Pali, nó có 2 thành phần : vật thể và tinh thần. Khổ về vật thể thì ta nói đau đớn, đau nhức như bị đâm chém, bầm dập, chấn thương ; còn khổ về tinh thần thì ta nói đau khổ, khổ sở, bất toại nguyện. Trong Kinh Chuyển Pháp Luânbài Pháp đầu tiên Phật giảng cho 5 vị Kiều-Trần-Như Đức Phật có nói đến những hoàn cảnh sinh ra đau khổ sau đây : ''Nầy các tỳ khưu, đây là chân lý cao thượng về sự khổ. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ,chết là khổ, sống chung với người mình không ưa thíchlà khổ, xa lìa người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm lại chấp thủ vào Ngũ Uẩn là khổ''

Y học hiện đại phân biệt 2 loại đau đớn vật thể :

-Đau do tổn-thương (douleur nociceptive): do sự kích thích các thụ thể chuyên biệt cho cảm giác đau nhức và gây ra các cảm giác đau nhói, rát phỏng, bầm dập. Ví dụ đau bắp thịt, gân khớp...

-Đau thần kinh (douleur neuropathique) do vết thương hay bịnh của hệ thần kinhgây ra những đau nhức tự phát như rát phỏng, điện giựt, kiến bò, tê cóng...Ví dụ bịnh tiểu đường, đau thần kinh tọa (sciatique), dời ăn (zona)...

Ngày nay sự đau khổ tinh thần là đối tượng của cả một ngành y học tâm thần bao gồm nhiều bịnh như : chứng lo-âu, rối loạn Lưỡng-cực (trouble bipolaite), Bịnh Trầm-cảm (Dépression), Chứng Phân-ly (tr.dissociatifs, khi người bịnh cảm thấy mình bị tách rời ra khỏi chính mình hay ra khỏi thế giới chung quanh), Chứng Ám-ảnh cưỡng-chế (tr.obsessionnel compulsif), Chứng rối loạn Nhân cách (tr.de la personnalité) rối loạn do bị Kích-ứng (stress) hay do Kích-ứng hậu-chấn-thương (stress post-traumatique, như những thương binh sống sót sau cuộc chiến) v.v. ..

Vào thời Đức Phật con người có lẽ còn hiền, sống gần thiên nhiên, cuộc đời giản dị nên ít bị những bịnh tinh thần. Do đó trong kinh Phật chúng ta chỉ thấy mô tả 5 loại đau khổ tinh thần : buồn rầu, than khóc, đau khổ, lo âu, tuyệt vọng (sầu, bi, khổ, ưu, não).

Một vị Phật khi còn tại tiền có thể thoát được sự đau khổ tinh thần nhưng vẫn không thoát khỏi sự đau đớn thể xác (trừ phi ngài dùng pháp thiền để nhập diệt-thọ-tưởng-định để thoát khỏi cái đau vật thể).

Muốn chứng nghiệm Khổ-Đế, chúng ta phải trải qua 4 loại Khổ sau đây :

1)- Khổ Thọ : đây là trạng thái khổ thân và khổ tâm, cái khổ mà mọi người bình thườngđều biết qua không cần phải hành đạo mới hiểu được. Như người ghiền ma túy đang lên cơn thiếu thuốc: họ run rẩy, đổ mồ hôi, nổi da gà, đau bụng, tiêu chảy, từng cơn đau nhức nổi lên tận xương tủy. Đầu óc quay cuồng không yên tâm, lúc nào cũng suy nghĩ mọi cách để kiếm tiền mua thuốc; đây là lúc họ dễ dàng phạm tội: trộm cắp, tống tiền, có thể giết người

2)- Hành Khổ: đây là cái khổ đi tìm cách để điều trị cái khổ trên. Người ghiền trên đây, sau khi có tiền bây giờ phải lặn lội đi tìm thuốc hút hoặc thuốc chích. Trong đêm tối lạnh lẽo phải đi vào những khu phố nguy hiểm : có thể bị lính bắt vì sử dụng ma túy hoặc có thể bị những tên ghiền khác cướp giựt tiền bạc. Còn hành giả, sau khi ngồi thiền chừng 15, 20 phút thì cơn đau nổi lên: ban đầu thì cảm thấy chân mỏi, kế đến là cảm giác tê tê, rồi tê cóng và sau cùng là đau nhức. Đầu óc bắt đầu lo lắng,vọng động, bồn chồn. Phải thay đổi tư thế, nhưng ít lâu sau cơn đau nhức lại đến, cứ như thế không bao giờ chấm dứt.

3)- Khổ tướng: là cái khổ do sự vô thường biến hoại của các pháp. Chính cái khổ cũng biến đổi: nó sanh lên, thay đổi trạng thái, thay đổi cường độ. Y học hiện đại có nói tới một loại Đau thần-kinh nhuyễn-đổi (douleur neuroplastique). Những thương tích của các dây thần kinh hay các mô thần kinh ban đầu sinh ra chứng đau thần kinh (douleur neuropathique), nhưng lâu dần có sự biến đổi trong cấu trúc của óc não và tủy sống làm gia tăng sự dau nhức ngày càng nhiều, ngay cả sau khi các vết thương ban đầu đã lành lặng. Cái đau này gọi là đau thần kinh nhuyễn-đổi, được thấy trong các bịnh sau đây :

-Đau cơ sợi toàn thân (fibromyalgie)

-Hội chứng đau vùng phức tạp (syndrome douloureux régional complex)

-Nhức căng đầu kinh niên (céphalée de tension chronique)

-Hội chứng ruột dễ cảm ứng (syndrome de l'intestin irritable)...

Khổ này được chứng nghiệm ở Tuệ thứ tư trong 16 Tuệ Minh Sát là Tuệ quán xét sự Sanh Diệt của Danh pháp và Sắc pháp.

4)- Khổ Đế (Dukkhasacca):sự thật về Khổ, một chân lý bất di bất dịch. Khổ dính liền với con người trong sự cấu thành của nó, khổ gắn liền với thân-tâm, với Ngũ Uẩn, càng thủ chấp ngũ uẩn càng khổ. Khi hành đạo, lúc đầu ta chỉ cảm nhận Khổ trong một thành phần nào đó của thân hoặc tâm, nhưng sau cùng chúng ta chứng nghiệm Khổ bao trùm cả cái khối thân-tâm này. Theo thiền sư Achann Naeb «Khổ Đế được chứng ngộ ở Tuệ thứ 11 ( Tuệ Xả Hành). Đây là Trí Tuệ rất mạnh, nó dẫn đến Tuệ thứ 12 (Tuệ Thuận Thứ) chứng ngộTứ Thánh Đế» (Xem Minh Sất Tu Tập, trang 112)

II- TẬP ĐẾ

Chân lý thứ nhì nói về nguyên nhân của tất cả khổ đau, đây chính là Tham Ái hay còn gọi là ham muốn, dục vọng, thèm khát, dính mắc… Sự khao khát này được phân tách như sau :

- Hữu ái: thế giới quan Phật giáo cho rằng chúng sanh có 3 cõi sinh tồn. Do đó Hữu Áilà sự ham muốn hiện hữusinh thành trong 3 cõi đó để được hưởng Dục-ái trong Cõi Dục-giới là những khoái cảm, lạc thú qua các giác quan: mắt ưa nhìn cái đẹp, tai nghe điều êm dịu, mũi ngửi mùi thơm tho, lưỡi nếm vị ngọt bùi, thân sờ chạm mịn màng, ý hưởng tư tưởngthú vị… Để tìm cách thỏa mãn sáu lạc thú này, con người phải miệt mài chạy theo tình yêu, tiền tài, danh vọngquyền thế. Cao hơn nữa là được hưởng Sắc-ái trong cõi Sắc-giới là những cảnh giớisắc pháp trở nên vi tế, không còn là đối tượng của ham muốn; rồi đến Vô-sắc-ái trong cõi Vô-sắc giới còn siêu thoát hơn khi tâm thức không còn phụ thuộc vào vật chất. Như vậy Hữu ái là sự dính mắc tương ứng với ý niệm trường cửu của sự sống, một Thường kiến. Do đó trong nhiều tôn giáotín ngưỡng, người ta hứa hẹn một thế giới hạnhphúc toàn hảo sau khi chết (thiên đàng). Sự khao khát mạnh đến nỗi con người sẵn sáng chết để vào thế giới ấy.

- Vô Hữu ái (hay Diệt ái) là sự dính mắc với Đoạn-kiến hư vô, hủy diệt cho rằng chúng sanh sau khi chết là cõi hư-vô không có hình sắc lẫn tư tưởng, sẽ không có tái sanh. Đây là quan điểm của thuyết Duy-vật, một quan điểmPhật giáo vẫn xem là Tà kiến.

- Ngoài ra Phi Hữu Ái lá sắc thái tâm của bậc A-la-hán hay Chư Phật đã vượt ra ngoài quan điểm Hữu và Vô.

Thật ra Tham ái không phải là nguyên nhân đầu tiên và duy nhất của khổ đau trong chuỗi dài sanh tử, tử sanh liên tục tiếp diễn. Nhưng đó là nguyên nhân trực tiếp, chính yếu. Những nguyên nhân khác chúng ta có thể tìm thấy trong chuỗi 12 nhân duyên (Thập nhị nhân duyên) tạo thành vòng luân hồi liên tục : Vô Minh →Hành →Thức tái sinh →Danh sắc →Lục căn →Xúc →Thọ →Ái → Thủ →Hữu →Sanh →Lão tử (Tham ái nằm ở vị trí thứ tám của vòng sinh tử).

III. DIỆT ĐẾ

Sau khi trình bày về sự đau khổnguyên nhân của nó, Đức Phật xác nhận có một lối thoát cho khổ đau. Đây là chân lý cao cả thứ ba về sự chấm dứt đau khổ : Diệt Đế hay Niết Bàn.

Niết bàn trước hết không phải là một cõi sống, một thế giới mà trong đó con người sống hạnh phúc tuyệt đỉnh, muốn gì có nấy, như lâu nay người ta vẫn lầm tưởng với cõi thiên đàng hay cõi tịnh độ. Niết Bàn đúng ra là đối tượng của một loại tâm siêu việt gọi là Tâm Đạo. Trong giây phút chứng nghiệm đối tượng Niết Bàn, Tâm Đạo có trọn đủ 8 chi của Bát Chánh Đạo. Trong một đời người, con người chỉ có thể chứng nghiệm loại tâm này nhiều lắm là bốn lần, đó là bốn lần đạt đạo dể vượt lên bốn từng thánh Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na HàmA La Hán. Mỗi lần chứng nghiệm như thế, một số phiền não được dập tắt, một số quan kiến sai lầm bị đánh tan ; cho đến lần cuối cùng thì vô minhái dục được dập tắtvĩnh viễn. Tâm không còn một chút bợn nhơ, một chút bóng tối.

Do đó, Niết Bàn được định nghĩa như sau bởi Đức Phật : « Hỡi các tỳ kheo, thế nào là cái tuyệt đối không bị giới hạn ? Đây là sự diệt tắt của ham muốn, sự diệt tắt của hận thù, sự diệt tắt của vọng tưởng. Này các tỳ kheo, đấy gọi là cái tuyệt đối ».

Tự điển Phật học của trường Đại Học Phật Giáo Thái Lan Rashavoramuni Mahachula định nghĩa như sau : « Niết Bàn là sự dập tắt mọi nguồn lửa tham ái, sân hậnvô minh ; Niết Bàntuyệt đối, vô điều kiện, là mục đích tối thượng của Phật Giáo, mục đích cùng tột ; Niết Bànsự giải thoát cuối cùng, vượt khỏi sự chi phối của ái dục và khổ đau ».

Đức Phật xác nhận sự hiện hữu của Niết Bàn như sau: «Hỡi các tỳ kheo, có cái không sinh, không tăng trưởng và không bị giới hạn. Nếu không có « cái không sinh, không tăng trưởng và không bị giới hạn » thì sẽ không có lối thoát cho « cái sinh, cái tăng trưởng và bị giới hạn ». Bởi vì có « cái không sinh, không tăng trưởng và không bị giới hạn » cho nên có lối thoát cho « cái sinh, cái tăng trưởng và bị giới hạn ». «Ở đây không có chỗ cho bốn đại : đất, nước, lửa, gió ; những khái niệm về dài rộng, thô tế, xấu tốt, danh và sắc đều hoàn toànbị phá hủy, không có đời này hay đời sau, không có đến hay đi, không có tử hay sinh, không có đối tượng giác quan».

Niết Bàn vượt khỏi mọi ý niệm về nhị nguyêntương đối. Niết bàn vượt ra ngoài lý luận, phán đoánngôn ngữ của loài người.

Tuy nhiên, trong hầu hết các tôn giáo khác, cái tuyệt đối, sự toàn thiện chỉ có thể đạtđược sau khi chết. Trong khi Niết Bàn có thể được thực hiện ngay trong cuộc sống này, không cần phải đợi đến lúc chết mới đạt được nó. Do đó có hai loại Niết Bàn:

Hữu Dư Niết Bàn hay Niết Bàn tại thế : Niết Bàn được thực hiện, nhưng vẫn còn sống tại thế. Trong trường hợp này, phiền não bị tận diệt nhưng xác thân ngũ uẩn vẫn còn.

Vô Dư Niết Bàn hay Niết Bàn siêu thế : Niết Bàn đã được thực hiệnphiền não bị tiêu diệt đồng thời với xác thân ngũ uẩn. Đây là sự viên tịch của Đức Phật và chư vị A La Hán : thân và tâm đều chấm dứt cùng một lúc. Điều này còn gọi là Nhập Niết Bàn hay Bát Niết Bàn (Parinibbana)

IV. ĐẠO ĐẾ

Sau khi xác nhận khổ đau có thể được chấm dứt, Đức Phật giảng dạy bằng cách nào con người có thể thực hiện được sự giải thoát này. Đạo đếchân lý cao cả thứ tư nói về con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ (dukkha), con đường này có 8 chi nên được gọi là Bát Chánh Đạo, nó giống như một viên thuốc trong đó có 8 chất trị liệu mà khi sử dụng, người ta chỉ uống vào có một viên thôi. Bát Chánh Đạo bao gồm: Giới, Định, Tuệ, đó là phương tiện duy nhất để làm chấm dứt khổ đau.

A. Chánh Kiến

Là cái nhìn đúng đắn, quan kiến chân xác, thấy « sự vật đúng như nó là như vậy », không xuyên qua bất cứ một lăng kính nào cả, kể cả thành kiến ngã chấp. Cũng giống như cái nhìn của nhà bác học Newton khi quan sát trái táo đang rơi và thấy được định luật «hấp dẫn của vũ trụ ».

Đối tượng của cái nhìn này là Danh và Sắc, và xuyên qua Danh, Sắc nhìn thấy ba thực tướng của vạn vậtVô Thường, Khổ và Vô Ngã.

B. Chánh Tư Duy

tư tưởng chân chánh. Một tư tưởng chân chánh bao gồm ba yếu tố :

- sự chối từ bản ngã : xa lìa ích kỷtham lam

- tâm từ thiện : xa lìa sự sân hận

- tâm bi mẫn : xa lìa sự bạo hành.

« Những tư tưởng mang tính chất dục vọng ích kỷ, sân hận hay bạo động đều là kết quả của sự thiếu trí tuệ trong mọi lãnh vực của đời sống cá nhân, xã hội hay chính trị (xem « Con đường thoát khổ »-W.Rahula).

C. Chánh Ngữ

lời nói chân chánh. Một lời nói chân chánh bao gồm 4 yếu tố :

- không nói dối, tức là nói lời chân thật,

- không nói lời thô lỗ, mắng nhiếc, có thể làm đau khổ người khác, mà nói lời dịu dàng, hòa nhã,

- không nói lời đâm thọc sau lưng, tức là không gây chia rẽ,

- không nói lời vô ích, vô căn cứ.

Chỉ cần uốn lưỡi 4 lần như trên trước khi nói, chúng ta thấy trong nhiều hoàn cảnh sự « im lặng là vàng »

D. ChánhNghiệp

Là hành động một cách chân chánh. Một hành động chân chánh bắt nguồn từ một tư tưởngchân chánh, từ sự hiểu biết các qui luật chi phối con người và môi sinh. Nó không làm thương tổn các sinh vật đang sốngvà đời sống con người. Ở đây nó bao gồm các hành động không nên làm (giới luật), có thể cản trở chúng ta trên con đường giải thoát và những hành động nên làm (bố thí, phục vụ) để tạo thiện nghiệp trợ giúp chúng ta trên con đường giải thoát.

E. Chánh Mạng

Là sinh sống một cách chân chánh. Bằng mọi giá không sinh sống bằng những nghề như buôn bán vũ khí, rượu, ma túy, độc dược, mãi dâm, trẻ con và nô lệ . Sự buôn bán vũ khí của các nước giàu có làm cho chiến tranh không bao giờ chấm dứt trên mặt địa cầu. Sau thế chiến thứ hai, sự ngăn cấm chế tạo vũ khí không làm cho hai nước Đức và Nhật không trở nên giàu có.

F. Chánh Tinh Tấn

sự cố gắng đúng mức. Nó bao gồm 4 yếu tố được gọi là Tứ Chánh Cần :

- cố gắng ngăn ngừa những điều xấu chưa phát sinh,

- cố gắng diệt trừ những điều xấu đã phát sinh,

- cố gắng thực hành những điều thiện chưa phát sinh,

- cố gắng duy trì và phát triển những điều thiện đã phát sinh.

Như vậy, tinh tấntích cực đoạn tuyệt điều ác và tích cực thực hiện điểu lành. Tinh tấn rất quan trọng cho sự giác ngộ vì trong 37 yếu tố trợ giúp cho sự giác ngộ, tinh tấn được lập đi lập lại 9 lần (9/37).

G. Chánh Niệm

Niệm ở đây không phải là sự tụng niệm, mà là sự ghi nhận, hay biết, ý thức một cách rõ ràngchính xác những đối tượng khi chúng lọt vào tâm thức xuyên qua sáu cửa ngõ : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, là sáu cánh cửa giúp cho chúng ta nhận thức được thế giới bên ngoài và bên trong con người. Nói một cách khác, chánh niệm tức là thiền. Đức Phật đã giảng dạy phương pháp thiền của ngài rất rõ ràng mạch lạc trong bài Tứ Niệm Xứ Kinh và rải tác trong khắp bộ Tam Tạngmay mắn thay chúng ta còn gìn giữ được nguyên vẹn đến ngày nay. Các tổ thiền tông cũng để lại những phương pháp của chư vị đó nhưng đa số đều thất truyền cho nên không chính xác, khó áp dụng. Tứ Niệm Xứ hay 4 đối tượng (xứ) của sự ghi nhận (niệm) là :

1. Niệm thân

Ghi nhận hay biết những gì xảy ra trong phần thân thể vật chất.

Đây có thể là hơi thở, tư thế của thân (đi, đứng, ngồi, nằm), cử động của thân, cấu tạo của thân (tóc, lông, móng, răng da, xương, thịt…), hoặc 4 yếu tố căn bản của vật chất (đât tượng trưng cho thể cứng, nước cho thể lỏng, gió cho thể hơi, lửa cho dạng năng lượng) hoặc những trạng thái khác nhau của các xác chết.(dưới thời Đức Phật tại Ấn Độ)

2. Niệm thọ

Ghi nhận hay biết những gì xảy ra cho cảm giác ở thân và cảm giác ở tâm.

Ở thân có 3 loại cảm giác : từ dễ chịu cho tới khoái lạc, từ khó chịu cho tới đau đớn, và cảm giác trung tính.

Ở tâm cũng có 3 loại cảm giác : từ dễ chịu cho tới hỉ phúc, từ khó chịu cho tới đau khổ cùng cực, và cảm giác an xả (không sướng không khổ). Mỗi cảm giác đều phải được ý thức rõ ràng trạng thái của nó, xuất hiện như thế nào, và tan biến ra sao ở trong ta.

3. Niệm tâm

Ý thức, hay biết về những trạng thái của tâm, ý định của tâmviệc làm của tâm.

Trong bài Tứ Niệm Xứ Kinh, Đức Phật chỉ đề cập 16 trạng thái tâm tiêu biểu, nhưng đủ để bao gồm tất cả các loại tâm, từ tâm thiện tới tâm bất thiện, từ tâm dục giới tới tâm vô sắc giới, từ tâm thô thiển tới tâm giải thoát. 16 trạng thái tâm đó là :

- tâm có tham hay không tham,

- tâm có sân hay không sân,

- tâm có si hay không si,

- tâm uể oải hôn trầm,

- tâm loạn động,

- tâm cao thượng (các loại tâm thuộc sắc giới hay vô sắc giới),

- tâm không cao thượng (các loại tâm thuộc dục giới),

- tâm hữu hạn (còn có thể phát triển hơn nữa),

- tâm vô thượng (không thể phát triển hơn nữa),

- tâm định hay không định,

- tâm giải thoát hay không giải thoát.

4. Niệm pháp

Ở đây chữ pháp không có nghĩa là giáo pháp, hay những lời dạy của Đức Phât, mà có ý nghĩa tổng quát là sự vật, hiện tượng vật lý hay tinh thần bao gồm cả những gì thuộc thế gian và vượt thế gian (siêu thế). Hay nói một cách khác, đây là tất cả những đối tượng của tâm, những gì mà tâm ý thức được.

Đức Phật phân loại những đối tượng này theo 5 phạm trù như sau :

a/-Năm trở ngại của thiền (ngũ triền cái = nivarana), làm cho tâm không sáng suốt định tĩnh :

- tham dục

- oán hận

- hôn trầm, dã dượi

- phóng dật, trạo hối

- hoài nghi.

B/- Năm sự bám víu vào bản ngã (ngũ uẩn thủ = upadanakkhanda), bản ngã thường bám víu vào 5 yếu tố cấu tạo nên nó :

- sắc : thân thể vật chất

- thọ : cảm giác

- tưởng : tri giác

- hành : hành động tạo nghiệp

- thức : ý thức, nhận biết

c/- Sáu giác quan và các đối tượng của chúng (lục nội ngoại xứ = salayatana) :

- mắt và hình thể

- tai và tiếng động

- mũi và mùi hương

- lưỡi và mùi vị

- thân và xúc chạm

- ý và tư tưởng.

d/- Bảy yếu tố trợ giúp cho sự giác ngộ (thất giác chi = bojjhanga) :

- niệm giác chi : như đã định nghĩa ở phần chánh niệm, đó là sự ghi nhận, hay biết, ý thức một cách chính xác những đối tượng quan sát. Ở đây người hành giả kiểm soát sự có mặt hay không có mặt của yếu tố niệm này và nhận thức rõ ràng : « tôi đang có giác chiniệm ở trong tâm » hoặc « tôi không có giác chi niệm ở trong tâm » tức là tôi dang để cho tâm phóng túng, vọng tưởng lung tung.

-trạch pháp giác chi : là yếu tố giúp cho tâm phân biệt, chọn lọc đối tượng quan sát một cách trực tiếp sáng tỏ mà không qua sự suy nghĩ. Giữa khung cảnh mờ ảo của sân khấu, tia sáng « spot » rọi thẳng vào diễn viên chánh làm cho nó sáng tỏnổi bật lên. Tia sáng« spot » này chính là trạch pháp. Khi nó có mặt, chánh niệm được thắp sáng, đề mục quan sát được thấy rõ, tâm có thể nhận thức được những đặc tính và thấu suốt được bản chấtcủa đối tượng.

- tinh tấn giác chi : là sự áp dụng và phát triển của chánh tinh tấn trong thiền. Đó là sự cố gắng liên tục hướng tâm một cách kiên trì vào đề mục thiền (đối tượng quan sát). Điều cực kỳ khó khăn đối với hành giả là trong lúc hành thiền phải đương đầu với một con tâm bất mãn, vọng động, không chịu ở yên trên đề mục mà chỉ muốn lang bạt mọi nơi. Lại nữa cái thân lúc nào cũng đòi hỏi sự dễ chịu, thoải mái. Mỗi khi cảm thấy một chút khó chịu, đau đớn do tư thế ngồi thiền, ta luôn luôn muốn thay đổi tư thế. Nếu tinh tấn có mặt, nó sẽ hổ trợ cho thân và tâm đủ sức mạnh để chịu đựng với đau nhức, khó chịu, lười biếng, mệt mỏi một cách kiên trìcan đảm.

- hỉ giác chi : là trạng thái vui thíchsung sướng làm cho tâm trở nên linh hoạt, đầy năng lực và thân cũng cảm thấy nhẹ nhàng và năng động. Trên thực tế, hỉ biểu hiện rõ ràngnhất qua những cảm giác nhẹ nhàng của cơ thể. Thân thể bạn có thể có cảm giác lành lạnh, rùng mình, nổi da gà ; bạn cũng có thể cảm thấy nhẹ nhàng như lơ lửng khỏi mặt đất ; hoặc bị đẩy tới đẩy lui, đu đưa như đang lướt trên sóng biển. Người mới bắt đầu hành thiền gặp những trạng thái này rất sợ hãi tưởng mình sắp sửa bị trúng gió đau nặng. Nhưng Phật dạy : « khi có giác chi hỉ hiện diện trong tâm, hành giả nhận thức rõ ràng : tôi đang có giác chi hỉ, vị ấy nhận biết rõ ràng trạng thái của tâm trước khi có giác chi hỉ, ngay khi hỉ khởi sanh như thế nào và bằng cách hành thiền như thế nào để làm khởi sanh hỉ ».

- an tịnh giác chi (passaddhi) : là trạng thái bình an, mát mẻ của thân tâm khiến cho nó không bị dao động, bất an hay hối hận, tiếc nuối. An tịnh giác chi thường theo sau hỉ giác chi. Khi cả hai hội nhập vào nhau thì cơ thể tràn ngập sự hỉ lạc, hành giả không còn muốn sự tĩnh lặng của tâm bị quấy phá, không còn muốn chạy theo những khoái cảm từ bên ngoài.

- định giác chi : là sự an trụ của tâm trên đối tượng quan sát, nghĩa là tâm bám chặt vào đối tượng và duy trì sự an tịnh tĩnh lặng nơi ấy. Có hai loại định tâm :

- thứ nhất là định tâm liên tục trên một đối tượng cố định duy nhất có thể ở bên ngoài hay bên trong cơ thể. Đây là loại định được rèn luyện trong thiền chỉ hay thiền vắng lặng(Samatha).

- thứ hai là “sát na định” là sự định tâm chớp nhoáng trên những đối tượng biến đổikhác nhau, khi chúng lọt vào ý thức trường. Đây là loại định được rèn luyện trong thiền quán hay thiền minh sát (vipassana).

Mục đích của thiền chỉ là đạt tới sự yên tịnh vắng lặng khiến cho những trở ngại của tâm bị tiêu diệt như : tham dục, sân hận, trạo cử, hôn trầmhoài nghi. Mục đích của thiền minh sát là phát triển trí tuệ trực giáchoàn tất các tuệ minh sát: trực giác phân biệt thân và tâm (hay danh và sắc), trực giác được sự liên hệ nhân quả của danh sắc, trực giác về vô thường, khổ não, vô ngã của các hiện tượng thân tâm… Đó là những tuệ giác căn bản của trí tuệ nội quán. Còn có những tuệ giác kế tiếp nữa mà thiền sinh phải chứng nghiệm trước khi đạt tới tuệ giác cuối cùngNiết Bàn là đối tượng. Lúc đó công việc tu tập được coi như đã hoàn thành. Vô minhái dục được tiêu trừ một cách chắc chắn. Việc gì phải làm đã được làm một cách mỹ mãn.

- xả giác chi : là thái độ hành xử một cách bình thản, vô tư, không thiên vị lệch lạc trướcmột đối tượng và không đòi hỏi nó phải theo sở thích của mình. Xả giác chi có khả năng hòa giải và giữ quân bình giữa những yếu tố như Tín và Huệ hay Tấn và Định. Khi bốn yếu tốnày được quân bình từng cặp một thì thiền giả sẽ đạt được trạng thái xả. Đó là sự quân bìnhcủa bốn yếu tố trong ngũ lực (tín, tấn, niệm, định, tuệ). Lúc đó yếu tố thứ năm là chánh niệmsẽ tự động làm việc một cách tự nhiên mà không cần một sự cố gắng nào. Chánh niệm đóng vai trò quan trọng trong sự điều hợp bốn yếu tố kia.

e/-. Phạm trù cuối cùng của niệm pháp là niệm về Tứ Diệu Đế :

Khi bốn sự thật này hiển lộ trong tâm hành giả, vị ấy phải hay biết rõ ràng, trọn vẹn “Đây là đau khổ”. Đây là nguyên nhân của đau khổ”. “Đây là sự chấm dứt đau khổ”. “Đây là con đường đưa đến chấm dứt đau khổ”.

- Trí tuệ khi chứng nghiệm được sự đau khổ phá vỡ cùng một lúc ảo tường sai lầm xem thân và tâm là trường cửu.

- Trí tuệ khi chứng nghiệm nguyên nhân của khổ đau sẽ thay đổi hoàn toàn quan kiến sai lầm cho rằng có một quyền lực tối cao đã tạo ra chúng ta, có quyền trừng phạt chúng ta, trong khi chúng ta chỉ là kết quả của một chuỗi những nguyên nhân.

- Trí tuệ khi chứng nghiệm Diệt đế sửa chữa cái nhìn sai lầm cho rằng có một cõi thiên đàng giả định nào đó, trong khi sự thật đó chỉ là sản phẩm của sự định tâm.

- Trí tuệ khi chứng nghiệm Đạo đế, ngăn chận sự dính mắc vào mọi cách thực hànhkhông chân chánh và chỉ rõ đúng con đường đưa đến sự chấm dứt đau khổ.

cuối cùng Đức Phật tuyên ngôn trong bài “Kinh Niệm Xứ” (satipatthana sutta) : “Chỉ có con đường duy nhất này (Tứ Niệm Xứ) là con đường để chúng sanh tự thanh lọc, để diệt trừđau khổ, để thành đạt trí tuệ và để chứng ngộ Niết Bàn”.

H. Chánh Định

Chánh Định là kết quả của công phu thực hành Chánh NiệmChánh Tinh Tấn. Như trên chúng ta đã thấy, có hai loại định khác nhau tùy theo phương cách thực hành Chánh Niệmkhác nhau. Đây là một vấn nạn của thiền gia mà chỉ có những thiền sư chứng đắc mới có đầy đủ kinh nghiệm để hướng dẫn hành giả vượt qua những cạm bẫy của sự dính mắc trong thiền chỉ vì loại thiền này cũng đưa hành giả tiến rất xa, có thể tiến đến cảnh thiền sắc giới(tứ thiền) và vô sắc giới (bát thiền), mà ở đó con người tưởng mình đã đạt được cứu cánh Niết Bàn. Kinh nghiệm của chính Đức Phật Thich Ca đã cho ta biết rõ điều này. Lúc còn là Bồ Tát chưa đắc đạo, ông Cồ Đàm (Gautama) đã theo học với hai vị thầy nổi tiếng thời bấy giờ, ngài Alarama Kalama và ngài Uddaka Ramaputta. Hai vị này đã đạt được những tầng thiền cao nhất mà trong đó trạng thái tâm tương ứng với các loại tâm ở vô sắc giới. Vào thời bấy giờ không ai đắc được thiền nào cao hơn nữa, và đức Bồ Tát đã đạt tới cùng một mức độ với hai vị thầy này. Hai vị đểu rất vui mừng, vị đầu tiên yêu cầu ngài ở lại để hợp sức dẫn dắt nhóm đệ tử đang tu. Vị thứ hai muốn nhường vai trò giáo chủ, trao trọn trách nhiệm dạy dỗ các môn đệ cho ngài. Nhưng nhờ kinh nghiệm tu tập nhiều đời nhiều kiếp, Bồ Tát nhận thấy đây chưa phải là mức độ giải thoát cuối cùng. Tức là những vị thầy này còn bị chi phốibởi định luật vô thường, vẫn còn phải luân lưu trong tam giới (dục giới, sắc giớivô sắc giới). Cho nên ngài lại ra đi và cảm thấy không ai có đủ khả năng dẫn dắt ngài thành đạt mục tiêu giải thoát, ngài không tìm sự giúp đở từ bên ngoài nữa, mà tự mình tìm chân lý từ bên trong. Cuối cùng ngài phát hiện ra phương pháp thiền minh sát (vipassana), lấy Tứ Niệm Xứlàm đề mục quán chiếu. Cho nên chỉ có thể gọi là Chánh Định khi sự định tâm an trụ trên 4 đề mục của thiền Tứ Niệm Xứ là thân, thọ, tâm, pháp và trong mục đích tiêu diệt phiền nãohướng tới sự giải thoát.

Kết luận

Trên đây tóm lược một phần những giáo lý căn bản của Phật Giáo, những giáo lý mà người Phật tử chân chánh nào cũng phải thấu hiểu rõ ràng và tất cả mọi môn phái đều công nhận. Phật Giáo có thể được đi vào bằng ba ngả: ngả đức tin, ngả kiến thức và ngả thực hành. Ba ngả đều tụ về một điểm là trí tuệ nội quán trước khi tuệ giác cuối cùng được bừng sáng. Con đường còn rất dài cho những ai bắt đầu bước chân trên ấy. Tuy nhiên người Phật tử vẫn vững tâm tiến bước một cách chắc chắn vì đã có những tiêu chuẩn của sự tiến hóa tâm linhtrợ giúp. Những tiêu chuẩn ấy gồm có:

- tâm trở nên an, tĩnh, xả, lạc

- sự phát triển của lòng từ bi

- khả năng thoát khỏi những ràng buộc dính mắc

- sự nhẹ nhàng và thanh thoát của bản ngã

- khả năng sống trong Chánh Niệm và Giác Tĩnh một cách mau lẹ và bền vững, tức là khả năng sống ở đây và bây giờ một cách liên tục.