GIÁO TRÌNH THANH TỊNH ĐẠO VISUDDHIMAGGA
Giáo trình này là bản tóm lược những nội dung thiết yếu
nhằm định hướng căn bản cho sinh viên Phật học năm 3, khóa 7 ở Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội.
(Thích Thiện Minh)
LỜI NÓI ĐẦUNhà
Phật học danh tiếng châu Âu Edward Conze có lần nói rằng, nếu ông chỉ được
mang theo một quyển sách ra một hòn đảo
hoang vắng thì đó là quyển
Thanh tịnh đạo.
Phát biểu này
thực không hề phô trương bởi không phải
tự nhiên mà
Thanh tịnh đạo lại được các
tín đồ Phật tử từ Nam Truyền đến Bắc Truyền chú
trọng như vậy.
Thanh tịnh đạo nghĩa là "con đường dẫn đến thanh tịnh", là tên của một bộ luận cơ bản của Theravādin (Nam Truyền), được Buddhaghosa soạn
trong khoảng thế kỉ thứ 5.
Thanh tịnh đạo trình bày theo
giáo lí của
Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada), một
dòng truyền thừa kinh điển Pali
lâu đời nhất.
Thanh tịnh đạo là một bộ luận
tuyệt hảo, gần như là một bộ bách khoa toàn thư của
Phật giáo. Bộ luận này
gồm có 3 phần với 23 chương: chương 1-2 nói về Sīla (Giới), chương 3-13 nói về Samādhi (Định) và chương 14-23 nói về Pañña (Tuệ).
Sila được trình bày rất
chi tiết,
giới thiệu khá đầy đủ
chi tiết giới hạnh,
mô tả 13 pháp
đầu đà, hạnh tu cao thượng của người
xuất gia. Samādhi trình bày rõ các
phương pháp và đối tượng
thiền định của Nguyên Thuỷ, khả năng phát triển và
thánh quả của các phép
thiền định. Pañña trình bày
giáo lí cơ bản của
đạo Phật dưới lăng
kinh pháp Chân đế, đó là uẩn, xứ, giới, đế, căn,
Duyên khởi, thất tịnh.
Giáo trình này là bản tóm lược những nội dung thiết yếu nhằm định hướng
căn bản cho sinh
viên Phật học năm 3, khóa 7 ở Học viện
Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội. Trong quá
nghiên cứu chúng tôi sẽ
chỉ dẫn và
cung cấp thêm các
tài liệu có
giá trị học thuật cao về
Thanh tịnh đạo để các bạn sinh viên có nhiều nguồn tư liệu tiếp cận. Phần đứng lớp giảng dạy khoá này,
chúng tôi phụ trách phần Giới, Định; TT. TS. Bửu
Chánh phụ trách phần Tuệ. Trong quá trình
biên tập không
tránh khỏi những sai sót.
Trân trọng mọi
ý kiến đóng góp của quí
học giả nhằm
hoàn thiện giáo trình.
Góp ý xin gởi về email:
[email protected] hoặc số điện thoại: 0903870370
Tài liệu được
biên soạn dựa trên nguồn tư liệu:
- The Path of Purification – Visuddhimagga.
Tác giả: Bhadantacariya Buddhaghosa (Pali); Nanamoli Thera (Chuyển từ Pali sang Anh ngữ);
Thích Nữ Trí Hải (Chuyển từ Anh ngữ sang Việt ngữ).
-
Thanh Tịnh Đạo Luận Toản Yếu. Thích Phước Sơn (
Biên soạn)
-
Thanh Tịnh Đạo,
Ngộ Đạo dịch (Phần Giới và Tuệ)
Tổ Đình
Bửu Quang, ngày 23/2/2017.
TT. Gs.
Tiến Sĩ Thiện Minh
NỘI DUNG
Lời Nói ĐầuNội Dung
Bảng
Chữ Viết Tắt (List Of Abbreviations Used)
Bài Mở Đầu
I. Khái Quát Về
Tác Giả1.
Tiểu Sử Ngài Buddhaghosa
2.
Tiểu Sử Ngài
Trưởng Lão Nanamoli (1905-1960)
3.
Tiểu Sử Thích Nữ Trí HảiII. Khái Quát
Thanh Tịnh ĐạoBài Một
Chương I - Giới
Bài Hai
Chương II : Giới-
Hạnh Đầu Đà (Dhutanga-Niddesa)
Bài Ba
Chương III : Định -
Đề Mục Thiền Định (Kammatthana-Gahana-Niddesa)
Bài Bốn
Chương IV: Định -
Đề Mục Đất (Pathavī- Kasina - Niddesa)
Bài Năm
Chương V - Định - Những
Đề Mục Khác
Bài Sáu
Chương VI - Định -
Quán Bất TịnhBài Bảy
Chương VII: Định - Sáu
Tùy NiệmBài Tám
Chương VIII - Định - Những
Tùy Niệm Khác (Anussati Kammatthāna-Niddesa)
Bài Chín
Chương IX - Định -
Phạm Trú (Brahmavihāra - Niddesa)
Bài Mười
Chương X: Định -
Vô Sắc Xứ (Aruppa-Niddesa)
Bài Mười Một
Chương XI: Định -
Mô TảBài Mười Hai
Chương XII: Định - Các
Thần ThôngBài Mười Ba
Chương XIII: Định - Các
Thần Thông (
Tiếp Theo)
Bài Mười Bốn
Chương XIV: Các Uẩn (Khandha Niddesa)
Bài Mười Lăm
Chương XV: Xứ Và Giới (Aryatana-Dhātu-Niddesa)
Bài Mười Sáu
Chương XVI: Căn Đế (Indriya-Sacca-Niddesa)
BÀI MƯỜI BẢY
Chương XVII -
Duyên KhởiBÀI MƯỜI TÁM
Chương XVIII -
Kiến Thanh Tịnh (Ditthi-Visuddhi-Niddesa)
BÀI MƯỜI CHÍN
Chương XIX: Đoạn Nghi
Thanh Tịnh (Kankhāvitarana-Visuddhi-Niddesa)
BÀI HAI MƯƠI
Chương XX:
Đạo Phi Đạo
Tri Kiến Thanh Tịnh (Maggāmagga-Nanadassana- Visuddhi- Niddesa)
BÀI HAI MƯƠI MỐT
Chương XXI: Đạo
Tri Kiến Thanh Tịnh (Patipadā-Nanadassana-Visuddhi-Niddesa)
BÀI HAI MƯƠI HAI
Chương XXII:
Tri Kiến Thanh Tịnh (Nanadassana-Visuddhi-Niddesa)
BÀI HAI MƯƠI BA
Chương XXIII - Những
Lợi Ích Của Sự Tu Tuệ (Pannābhāvanānisamsa-Niddesa)
KẾT LUẬNKINH SÁCH
THAM KHẢOBÀI MỞ ĐẦU
I. KHÁI QUÁT VỀ
TÁC GIẢ1.
TIỂU SỬ NGÀI BUDDHAGHOSA
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha,[1] thuộc
Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi
đức Phật thành đạo Bodhigaya. Ngài
xuất thân trong
gia đình Bà la môn, cha tên Kesi và mẹ Kesini. Năm 7 tuổi, ngài học
thông thạo 3 quyển Veda[2] trong
thời gian 7 năm v.v..., Duyên lành hội đủ, Ngài
quy y Phật giáo với
Thánh tăng Revata,
chuyên tâm học
Tam tạng và
Chú giải kinh điển Pali.. Vì
mục đích hoằng truyền
Phật pháp, rống tiếng rống của
sư tử, Ngài soạn các
Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh (Manorathapurani),
Chú giải bộ
Pháp tụ (Atthasālini) v.v…
Vào năm 432
sau Công Nguyên, Ngài vượt biển sang Sri Lanka, trú tại chùa Mahāvihāra, và theo
Trưởng lão Sangharāja
nghiên cứu thánh điển Pali đang tàng trữ tại chùa, đem dịch sang tiếng Pāḷi. Tại đây, Ngài soạn
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga),
Chú giải luật tạng (Samantapāsādikā), v.v....
Đồng thời, Ngài là người có
công đức lớn trong việc hoàn chỉnh
hệ thống nhất hoán
Tam tạng Pali. Ngày nay, những
quốc gia Phật giáo như Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia,
Việt Nam, Anh quốc vẫn còn
gìn giữ truyền thống Tam tạng,
Chú giải và Phụ giải
kinh điển Pali. Trong đó, có thể nói
Thanh Tịnh Đạo là một
tác phẩm toát yếu toàn bộ Tam tạng kinh điển và
Luận sớ. Về sau, Ngài dịch
Tam tạng sang tiếng Pāḷi và
chú giải tại chùa Granthakara parivena, thành phố cổ Anurādhapura. Những quyển
chú giải đó là:
Chú giải Trường Bộ kinh - Sumangalavilāsinī;
chú giải Trung Bộ kinh - Papaĩcasūdanī;
chú giải Tương Ưng Bộ kinh - Sāratthappakāsinī;
chú giải Tăng Chi Bộ kinh - Manorathapūraịī,
Chú giải Kinh tập (Paramatthajotika (II),
Suttanipata-atthakatha), Chú giả
Kinh Pháp Cú (Dhammapada),
Chú giải Tiểu Tụng (
Khuddhakapadha- Paramatthajotika (I),
Chú giải Kinh Bổn Sanh (Jatakatthavannana,
Jataka-atthakatha),
Chú giải Bộ Phân Tích (Sammohavinodani),
Chú giải Bộ Thuyết
Luận Sự (Pañcappakaranatthakatha). Đến lúc này,
Tam Tạng Pāḷi mới có thể coi là
hoàn thiện.
Những
chú giải của Ngài không chỉ mang nghĩa hạn hẹp thuần thúy trong nội dung nào đó mà còn bao hàm tất cả các
phạm trù về
lịch sử, địa lý,
thiên văn,
âm nhạc,
động vật,
thực vật v.v...,
đặc biệt, đối với phong tục tập quán của
Ấn độ cổ đại, Ngài còn làm thêm ký thuật
liên quan đến những
văn hiến trọng yếu dùng để
nghiên cứu về
Ấn độ. Người Sri Lanka
ca ngợi học vấn
uyên bác của Ngài và
sùng kính Ngài như là
Bồ tát Di Lặc tái thế.
Lúc cuối đời, Ngài
trở về cố quốc
an dưỡng tuổi già. Trình báo với
sư phụ việc đã
hoàn thành công trình sang định
Tam tạng,
chú giải kinh điển Pali. Ngài thăm lại
gia đình và tiếp độ
phụ thân an trú chánh pháp. Ngài
tịch diệt năm nào không thấy bất kỳ
tài liệu nào đề cập đến. Được biết, khi ngài
tịch diệt thực hiện theo
nghi thức hoả thiêu và tro cốt của ngài được dân làng chôn dưới Cội
cây Bồ Đề nơi
đức Phật Thích Ca thành đạo.
2.
TIỂU SỬ NGÀI
TRƯỞNG LÃO NANAMOLI (1905-1960)
Ngài Nanamoli sinh ngày 25-6-1905 tại Anh quốc, thế danh là Osbert Moore.
Thiếu thời, Ông từng học và tốt nghiệp tại Học viện Exeter,
Đại học Oxford (England). Trong lúc thế chiến thứ 2 xảy ra, Ông
phục vụ trong hàng ngũ lục quân Anh, và đóng quân tại Italia. Do
nhân duyên run rủi, Ông cùng người bạn là Harold Musson, đọc được một cuốn sách viết về
Phật giáo của người Ý là J. Evola; vì thế, 2 người
phát tâm quy y Phật giáo.
Sau khi thế chiến thứ 2
kết thúc, Ông
trở về nước, đến năm 1949 Ông cùng Harold Musson
quyết tâm sang Sri Lanka
nghiên cứu Phật học, và
may mắn được một
Trưởng lão người Đức là Nyanaponika hướng dẫn
gia nhập Tăng đoàn, dưới quyền điều khiển của
Đại đức Nanatiloka Mahathera.
Năm 1950, ngài và người bạn
thọ cụ túc giới,
xuất gia Tỳ khưu với bổn sư Nanatiloka và có được
pháp danh là Nanamoli.
Đến năm 49 tuổi (1954) Nanamoli
chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ Pāḷi. Không bao lâu sau đó, Ngài rất
tinh thông các
ngôn ngữ nầy, nhờ vậy có
điều kiện nghiên cứu sâu về
Phật pháp, và
trở thành một
học giả uyên thâm. Từ đó, Ngài
cộng tác với
Hiệp hội Thánh điển Pāḷi để
phiên dịch các
kinh luận Pāḷi sau đây sang Anh văn: 1.
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga); 2.
Vô Ngại Giải Đạo (Patisambhida-magga) 3.
Chỉ Đạo luận (Nettipakarana); 4.
Tạng luận Thích (Petakopadesa).
Ngoài ra, Ngài còn viết về
Lịch sử đức Phật và
dịch kinh Trung bộ. Chừng ấy
công trình phiên dịch cũng đủ
chứng minh trình độ Phật học uyên thâm của Ngài.
Ngài sống rất giản dị,
tuân thủ giới luật một cách tinh nghiêm (
trong suốt 11 năm trường, Ngài chỉ mặc y vàng,
tượng trưng cho sự
thanh khiết, và cũng hiếm khi xỏ chân vào dép).
Tính tình hòa nhã,
trầm lặng,
ít nói, và mỗi
lời nói của Ngài đều
giá trị triết học,
trí tuệ và nhân văn.
Ngài
viên tịch năm 1960. Từ lúc
xuất gia cho đến lúc xả
báo thân, ròng rã 11 năm trời, Ngài
cống hiến trọn vẹn cho
sự nghiệp phiên dịch kinh điển, và
truyền bá chánh pháp. Ngài mất sớm, thật là một
tổn thất lớn đối với
Phật giáo trên
thế giới.
3.
TIỂU SỬ THÍCH NỮ TRÍ HẢIThích Nữ Trí Hải (
Ni trưởng Tâm Hỷ), thế danh Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh. Sinh ngày 09 tháng 03 năm 1938 (Mậu Dần), tại Vỹ Dạ, tỉnh
Thừa Thiên, thành phố Huế, nguyên quán Gia Miêu Ngoại Trang, Thanh Hóa.
Xuất thân từ một
danh gia vọng tộc nhiều đời
thân tín Phật giáo,
thân phụ là cụ Nguyễn Phước Ưng Thiều tự Mân Hương,
Pháp danh Như Chánh, thuộc phủ Tuy Lý Vương,
thân mẫu là cụ bà Đặng Thị Quê,
Pháp danh Trừng Xuân.
Ni trưởng là con thứ năm trong
gia đình có sáu anh em. Bởi có duyên sâu đối với
Phật pháp, nên lúc còn là
thai nhi ba tháng,
Ni trưởng đã sớm được
quy y Tam Bảo với đức Đệ Nhất
Tăng Thống thượng Tịnh hạ Khiết. Ngôi chùa
Tường Vân,
Diệu Đức đã ươm
hạt giống Bồ-đề cho người từ
buổi thiếu thời vào những ngày còn học
phổ thông.
Ni trưởng với
thiên tư thông tuệ,
tài hoa, phẩm cách thanh cao đã nuôi chí
xuất trần vào giữa tuổi
hoa niên tươi đẹp.
Năm 17 tuổi đỗ Tú tài
toàn phần,
Ni trưởng đã muốn
xuất gia nhưng
cơ duyên chưa đến.
Ni trưởng tiếp tục vào trường
Đại học Ngài phạm và sau khi tốt nghiệp, đi dạy trường Phan Chu Trinh – Đà Nẵng.
Năm 1960,
Ni trưởng sang Mỹ du học và tốt nghiệp Cao học ngành Thư viện (M.A).
Cuối năm 1963,
Ni trưởng về nước gặp lúc Viện Cao đẳng
Phật học Việt Nam ra đời, đã cùng với em gái là Tôn Nữ Phùng Thăng
vâng lời Hòa thượng thượng Trí
hạ Thủ đến
phụ tá Ni trưởng chùa
Phước Hải,
quán xuyến cư xá Nữ Sinh Viên và làm việc tại chùa
Pháp Hội.
Năm 1964
Ni trưởng quyết dứt
trần duyên, cắt
tóc xanh,
xuất gia y chỉ Ni trưởng thượng Diệu hạ Không tại chùa
Hồng Ân. Huế và đã được
thọ giới Sa-di Ni. Sau đó, Người được
Giáo Hội cử làm
thư ký cho
Thượng tọa Viện trưởng Thích
Minh Châu khi Viện Cao đẳng
Phật học trở thành Viện
Đại học Vạn Hạnh.
Năm 1968,
Ni trưởng thọ giới Siksamānā[3] tại Nha Trang và được
Thượng tọa Viện trưởng Viện
Đại học Vạn Hạnh bổ nhiệm làm Thư viện trưởng và giám đốc
Trung tâm An sinh
xã hội của Viện. Từ đó
Ni trưởng tham gia việc giảng dạy, dịch thuật,
thuyết pháp cho sinh viên,
Tăng Ni Phật tử tại Viện và
thực hiện công tác An sinh
từ thiện cho đồng bào bị
thiên tai bão lụt và chiến tranh.
Năm 1970
Ni trưởng thọ Tỳ-kheo-ni và Bồ-tát giới tại
Đại Giới đàn Vĩnh Gia tổ chức ở Đà Nẵng.
Khi Viện
Phật học Vạn Hạnh được
thành lập,
Ni trưởng tiếp tục làm Giảng Ngài tại
Thiền viện Vạn Hạnh rồi giảng dạy tại các trường Cao cấp
Phật học và Học viện
Phật giáo Việt Nam,
phụ trách lớp
Trung Bộ Kinh bằng Anh ngữ cho
Tăng Ni sinh.
Năm 1996 đến 1999 trường Trung cấp
Phật học Long An,
Ni viện Thiên Phước thỉnh
Ni trưởng dạy
Luật Tứ Phần Tỳ-kheo-ni và Bồ-tát giới.
Các
Đại Giới đàn Minh Tánh (1996), Liễu Thiền (1999), Khánh Phước (2002) tổ chức tại
Ni viện Thiên Phước – Long An đều cung thỉnh
Ni trưởng làm Tuyên Luật Ngài và Trưởng Ban khảo hạch.
Năm 2003
Ni trưởng được cử vào Phó Ban khảo hạch
Đại Giới đàn Thiện Hoa ở
Từ Nghiêm.
Đầu tháng 12 năm 2003
Ni trưởng được suy cử Phó viện trưởng Viện
Nghiên Cứu Phật học Việt Nam và Trưởng ban
vận động tài chính.
Ngoài những
hoạt động giáo dục,
hoằng pháp,
Ni trưởng còn dành nhiều
thì giờ cho việc
phiên dịch,
biên soạn và in ấn
kinh điển để giúp
Tăng Ni,
Phật tử có thêm
tài liệu nghiên cứu học tập, mà
tổng số lên đến cả trăm
tác phẩm.
Đặc biệt nổi tiếng là những bản dịch:
Câu chuyện dòng sông của
Đại văn hào Hermann Hesse, Gandhi tự truyện,
Câu chuyện triết học,
Thanh tịnh đạo luận, Thắng Man, Tạng thư
Sống Chết,
Giải thoát trong lòng tay.
Ni trưởng còn trước tác một số
tác phẩm khác mà quan trọng nhất là các bản
Toát yếu Trung Bộ Kinh (3 tập).
Một chiều
mùa đông Ni trưởng bận chút
Phật sự đi Phan Thiết với ba em
thị giả, trên đường
trở về Ni trưởng cùng hai em
đệ tử Tuệ Nhã và Phước Tịnh đều bị
lâm nạn, Người đã Xả
báo thân vào lúc 17 giờ ngày 14 tháng 11 năm Quý Mùi tức ngày 07 tháng 12 năm 2003, hưởng thọ 66 tuổi đời với 33
Hạ lạp.
II. KHÁI QUÁT
THANH TỊNH ĐẠOThanh Tịnh Đạo - Visuddhimagga là gì? Chữ
Thanh tịnh ở đây phải hiểu là
Niết bàn (Nibbana). Vì
Niết bàn không có tất cả
cấu uế, nên
hoàn toàn Thanh tịnh.
Thanh Tịnh Đạo là
con đường dẫn đến sự
thanh tịnh ấy,
cách đi đến gọi là
con đường.
Con đường dẫn đến
thanh tịnh được dạy là
tuệ quán:
"Tất cả hành
vô thườngVới
tuệ quán thấy vậy
Đau khổ được
nhàm chánChính
con đường Thanh tịnh".
(
Pháp cú 277)
Khi có
Thiền định và
Trí tuệ, như kinh nói:
"Người có Thiền có trí,
Nhất định gần Niết bàn". (Pc. 372)
Khi có giới, kinh nói:
"Ai luôn luôn
trì giớiTrí tuệ khéo định tĩnh
Chí siêng năng dõng mãnh
Vượt
bộc lưu khó vượt".
Khi đề cập đến
Bốn niệm xứ, kinh nói: "Nầy các Tỳ khưu,
con đường nầy là
con đường duy nhất để
thanh tịnh các
hữu tình... để chứng
Niết bàn, đó là
Bốn niệm xứ (
Trường bộ II, 290)
Nhưng nếu nói một cách đầy đủ thì
con đường dẫn đến
thanh tịnh chính là 3
vô lậu: Giới, Định và Tuệ. Sự
tu tập tăng thượng giới chính là Sila;
tu tập tăng thượng tâm chính là Samadhi; và
tu tập tăng thượng tuệ, chính là Panna.
Giáo pháp tốt đẹp ở chặng đầu chính là Giới;
giáo pháp tốt đẹp ở chặng giữa chính là Định; và
giáo pháp tốt đẹp ở chặng cuối, chính là Tuệ.
Dhammapada số 183 có
tóm tắt 3
ý nghĩa giới định tuệ như sau:
"Không làm mọi điều ác
Thành tựu các
hạnh lànhGiữ tâm ý
trong sạchChính lời chư Phật dạy".
Câu kệ đầu nói về Giới, câu thứ hai nói về Định và hai câu cuối nói về Tuệ.
Lại nữa,
điều kiện cần thiết để chứng ba
minh chính là Giới;
điều kiện cần thiết để
đạt được lục thông là Định; và
điều kiện cần thiết để đắc
tứ Vô ngại giải chính là Tuệ.
Kinh tạng còn nói rõ:
đắc quả Dự lưu và
Nhất lai là nhờ tu Giới,
đắc quả Bất hoàn là nhờ tu Định, và
đắc quả A La Hán là nhờ tu Tuệ. Vì bậc
Dự lưu và
Nhất lai được gọi là " người
thành tựu viên mãn các
phẩm loại của Giới" bậc
Bất hoàn gọi là "viên mãn Định", và
A La Hán gọi là "
viên mãn Tuệ".
BÀI MỘT
CHƯƠNG I - GIỚI
Nội dung của
Thanh tịnh đạo là Giới, Định, Tuệ.
Trước tiên,
chúng ta khảo
sát giới. Trong phần này có những nội dung sau:
1. Giới là gì?
2. Giới có nghĩa gì?
3.
Đặc tính,
nhiệm vụ, tướng trạng và nhân gần của giới
4.
Lợi ích của giới?
5. Có mấy loại giới?
6. Cái gì làm giới ô nhiễm?
7. Cái gì làm
giới thanh tịnh?
(i) Giới là gì? Đáp rằng: cetanā sīlaṃ -
cố ý gọi là giới, cetasikaṃ sīlaṃ - tánh gọi là giới, saṃvaro sīlaṃ - thu thúc gọi là giới, avītikkamo sīlaṃ - sự không
vi phạm gọi là giới.[4]
Trong các giới ấy, người
cố ý tránh xa
sát sanh... hay người
thực hiện cho đầy đủ các phận sự
cần phải hành gọi
cố ý là giới. Người
kiêng cữ tránh xa
sát sanh... gọi là tánh giới. Lại nữa,
cố ý giới, tức là
cố ý từ bỏ bảy
nghiệp đạo như
sát sanh..., tánh giới là các pháp
vô tham ác,
vô sân ác và
chánh kiến, như đã được
đức Phật thuyết: “Người đã
từ bỏ tham ác, trú với tâm
vô tham[5]“.
Vấn đề thu thúc gọi là giới, giải rằng: bậc
thiện trí thức nên biết có năm loại thu thúc:
. Pātimokkhasaṃvaro: biệt
biệt giải thoát thu thúc
. Satisaṃvaro: niệm thu thúc.
. Ñāṇasaṃvaro: trí thu thúc.
. Khantisaṃvaro: nhẫn thu thúc.
. Viriyasaṃvaro:
tinh tấn thu thúc
Giới theo nghĩa
chế ngự là sự
chế ngự theo năm cách:
Chế ngự với sự
chế ngự của
giới bổn Pàtimokkha
chế ngự bằng
tỉnh giác,
chế ngự bằng
tri kiến,
chế ngự bằng
kham nhẫn và
chế ngự bằng
tinh tiến.
Chế ngự bằng
Giới bổn là: "Vị ấy được trang bị đầy đủ với sự
chế ngự của
Giới bổn Pàtimokkha". (Vbh. 246);
chế ngự bằng
chánh niệm tỉnh giác là: "vị ấy
hộ trì nhãn căn, sống với sự ngự trị nhãn căn". (D. i, 70)
Chế ngự bằng
tri kiến là như
đức Thế tôn dạy:
Những dòng thác chảy trên đời Này Ajita, được ngăn chận là nhờ
chánh niệm. Ta
tuyên bố sự
chế ngự những
bộc lưu Do tuệ, chúng bị
chận đứng. (Sn. 1035)
Cách
sử dụng bốn
vật dụng cũng được
bao gồm trong sự
chế ngự này. Nhưng
chế ngự bằng
kham nhẫn thì như kinh dạy: "Vị ấy là người
kham nhẫn lạnh, nóng". (M. i, 10) Và
chế ngự bằng
tinh tấn là "Vị ấy
không chấp nhận một
ý tưởng thuộc
tham dục khi nó khởi lên". (M. i, 11) ở đây,
thanh tịnh sinh mạng được
bao gồm. Vậy sự
chế ngự gồm năm phần ấy và sự kiêng giữ nơi những
thiện nam,
thiện nữ biết sợ điều ác mỗi khi gặp cơ hội
vi phạm, đều gọi là Giới theo nghĩa
chế ngự. Giới theo
nghĩa không phạm là sự không
vượt qua, bằng thân hoặc lời, các giới điều đã thọ.
(ii) Giới Có Nghĩa là Gì? Giới (Sìla) có nghĩa
kết hợp (Sìlana).
Kết hợp có
hai nghĩa: một là
phối hợp (samàdhàna), chỉ sự không bất nhất trong
ba nghiệp thân, lời và ý nhờ
đức hạnh; hai là nâng lên (upadhàrana), nghĩa là nền tảng (àdhàra) vì giới là nền tảng cho những
thiện pháp. Những người hiểu ngữ nguyên chỉ
chấp nhận hai nghĩa này, song cũng có những người luận về
ý nghĩa của giới là cái đầu (siras) là
mát mẻ (sìtala).
(iii)
Đặc Tính,
Nhiệm Vụ, Tướng Trạng Và Nhân Cần Của Giới?
Đặc tính của giới là
phối hợp. Dù phân tích nhiều cách Cũng như "thấy được" là
đặc tính của Sắc. Dù phân tích nhiều cách. Như
đặc tính "có thể trông thấy" là
đặc tính của
sắc xứ, dù phân tích thành những loại xanh, vàng, v.v... Vì dù có phân ra như vậy,
sắc pháp cũng không vượt ngoài tính "thấy được".
Cũng thế, sự
kết hợp - gồm
hai nghĩa "phối hợp" và "nền tảng" - ở trên là
đặc tính của giới, dù chia nhiều loại như
tư tâm sở, v.v.. Vì dù có chia ra những loại như vậy, giới cũng không ra ngoài hai
đặc tính là
phối hợp và nền tảng (các
thiện pháp).
Nhiệm vụ của nó gồm
hai nghĩa: Hành động để
chấm dứt tà hạnh Và sự
thành tựu Không lỗi nơi người có giới.
Bởi thế, khi gọi là giới, cần hiểu rằng nó có
nhiệm vụ chận đứng tà hạnh là
nhiệm vụ (hay
bản chất, rasa) của nó theo nghĩa hành động, và
bản chất không lỗi kể như
nhiệm vụ nó trong nghĩa
thành tựu. Vì ở đây
chính hành động (kicca) hoặc sự
thành tựu (sampatti) được gọi là
nhiệm vụ.
Nhân Gần của giới Chính là tàm và quý.
Giới này được
thể hiện bằng các thứ "Thanh tịnh của thân, ngữ và ý". (A. i, 271). Giới được hiện rõ, được nhận chân qua sự
thanh tịnh. Nhưng tàm và quý là cái nhân gần của giới, vì khi
tàm quý có mặt, thì giới phát sinh và
tồn tại; còn khi
tàm quý vắng mặt, thì
giới không phát sinh, cũng
không tồn tại.
(iv) Những
Lợi Ích Của Giới?
Trong kinh dạy: "Này Ananda, giới là thiện; nó có
mục đích là
bất hối, có
lợi ích là bất hối". (A. v, 1). Và ở một đoạn khác: "Này
gia chủ, có năm
lợi ích cho người
đức hạnh khi
viên mãn giới, đó là: người có
giới đức thừa hưởng gia sản lớn nhờ
tinh cần; được
tiếng tốt đồn xa; không
sợ hãi rụt rè khi đến giữa
hội chúng sát đế lỵ hay
bà la môn hay
gia chủ hay
sa môn; khi chết,
tâm không tán loạn;
mệnh chung được sanh vào
thiện thú,
cõi trời. Đó là năm lợi ích". (D. ii, 86) Lại còn nhiều
lợi ích của giới, đầu tiên là được
thương mến, và
cuối cùng là đoạn trừ (
phiền não)
lậu hoặc như đoạn kinh nói: "Nếu một
Tỷ kheo có
ước nguyện, mong rằng tôi được các vị đồng
phạm hạnh yêu mến,
kính trọng, thì vị ấy hãy
thành tựu viên mãn các học giới". (M. i, 33)
Trong tạng luật Nhất Thuyết
Hữu Bộ, còn kể 10
lợi ích khác như sau: 1. Vì để thu nhiếp
chúng Tăng. 2. Vì muốn cho
chúng Tăng hoan hỉ. 3. Vì muốn cho
chúng Tăng sống
an lạc. 4. Vì để
hàng phục những kẻ
phá giới. 5. Vì để cho những người có tàm quí được
an ổn. 6. Vì để cho những người không tin phải
tin tưởng. 7. Vì để cho những người đã tin càng thêm tin. 8. Vì muốn đoạn trừ các
pháp hữu lậu trong
hiện tại. 9. Vì muốn đoạn trừ các
pháp hữu lậu trong tương lai 10. Vì muốn cho
nếp sống phạm hạnh được
tồn tại lâu dài.
(v) Có Bao Nhiêu Loại Giới?
1. Giới một loại: "kết hợp".
2. Giới hai loại: hành và tránh (tác, chỉ)
3. Giới hai loại:
chánh hạnh, và
phạm hạnh.
4. Giới hai loại, là kiêng và không.
5. Giới hai loại, là
lệ thuộc và không.
6. Giới hai loại, tạm thời và
trọn đời.
7. Giới hai loại, hữu hạn và vô hạn.
8. Giới hai loại:
thế gian và
xuất thế.
9.
Giới ba loại: hạ, trung, thượng.
10.
Giới ba loại,
vị kỷ,
vị tha và vị pháp.
11. Giới có ba:
chấp thủ,
không chấp thủ,
an tịnh.
12. Giới có ba:
Thanh tịnh,
bất tịnh, khả nghi.
13. Giới có ba:
hữu học,
vô học và
phi hữu học, phi
vô học14. Giới bốn loại: thối giảm, tù đọng,
tăng tiến và
thâm nhập.
15. Giới bốn loại:
tỷ kheo,
Tỷ kheo ni, người chưa
thọ cụ túc và giới
tại gia.
16. Giới bốn loại:
tự nhiên,
cổ tục,
giới tất yếu, và giới do nhân về trước.
17. Giới bốn loại:
Giới bổn Pàtimokkha, phòng hộ các căn,
thanh tịnh nuôi mạng và
quán tưởng bốn
vật dụng.
18. Giới năm loại:
thanh tịnh hữu hạn,
thanh tịnh vô hạn,
thanh tịnh viên mãn,
thanh tịnh không dính mắc,
thanh tịnh đã
tịnh chỉ.
19. Giới năm loại:
từ bỏ, kiêng,
tác ý,
chế ngự, và không phạm.
LỜI
CHÚ GIẢI NHƯ SAU:
1). Giới một loại:
Kết hợp.
2). Giới hai loại: hành và tránh: sự
thành tựu viên mãn một
học giới do
đức Thế tôn dạy: "Điều này nên làm", thì gọi là hành (
tác trì). Không làm những gì Ngài
cấm chỉ rằng "Điều này không nên làm", gọi là tránh (
chỉ trì). Ở đây
ý nghĩa danh từ "hành" (caranti) là đi trong
phạm vi của giới, đi như những bậc
viên mãn giới đã đi; và phòng hộ, tránh né gọi là tránh. Sự
giữ giới hay hành được
thực hiện nhờ
đức tin và
tinh tấn, còn tránh nhờ
đức tin và
chánh niệm.
3). Giới có hai loại:
Chánh hạnh và
Phạm hạnh.
Chánh hạnh là
cách cư xử tốt đẹp nhất, chính nó được gọi là
chánh hạnh, hoặc những gì được
tuyên thuyết để
cư xử đẹp cũng gọi là giới
chánh hạnh. Đây là danh từ chỉ cho những giới ngoài tám giới (ba thuộc thân là không sát, đạo, dâm; bốn thuộc ngữ là không
nói dối, nói ác, nói thô và nói
vô ích, thứ tám là
chánh mạng). Tám giới này là khởi đầu của đời
phạm hạnh bao hàm đạo lộ nên được gọi là Giới khởi đầu
phạm hạnh, vì
cần phải được
thanh tịnh trước, như
Trung Bộ iii nói: "Thân nghiệp,
ngữ nghiệp và
ý nghiệp phải được
thanh tịnh trước đấy" (Pubbe va khopan'assa kàyakammam àjìvo suparisuddho hoti. -- M. iii, 289).
Hoặc hai loại chỉ những
tiểu giới kể như
chánh hạnh và giới còn lại là giới khởi đầu đời
phạm hạnh. Hoặc những gì gồm trong
giới luật tỷ kheo và
tỷ kheo ni trong
giới bổn Patimokkha là giới khởi đầu
đời sống phạm hạnh, còn
giới luật bao gồm trong những
kiền độ (khandhakas) của
Luật tạng (vinaya) gọi là giới thuộc
chánh hạnh. Nhờ
thành tựu chánh hạnh mà những giới khởi đầu đời
phạm hạnh được
viên mãn, nên kinh dạy: "vị
tỷ kheo không
viên mãn chánh hạnh mà có thể
thành tựu giới khởi đầu đời
phạm hạnh, điều ấy không thể xảy ra". (A. iii, 14-15).
4). Giới có hai loại: Kiêng và Không kiêng. Kiêng là kiêng
sát sinh, v.v.. Không kiêng là các
tâm sở, v.v...
5). Giới có hai loại:
Lệ thuộc và không
lệ thuộc. Có
lệ thuộc và không
lệ thuộc.
Lệ thuộc có hai thứ:
Lệ thuộc vì tham và
lệ thuộc do
tà kiến.
Lệ thuộc do tham là khi một người
mong ước: "Nhờ
giới hạnh này, tôi sẽ thành một vị trời lớn hoặc nhỏ". (M. i, 102).
Lệ thuộc tà kiến là khi một người có
tà kiến: "Sự
thanh tịnh là do
cử hành các tế lễ". (Vbh. 374). Nhưng giới
xuất thế, và giới
thế gian làm
điều kiện tiên quyết cho giới
xuất thế, gọi là
giới không lệ thuộc.
6). Giới có hai loại: Tạm thời và
trọn đời. Giới tạm thời là được thọ có hạn định
thời gian. Giới
trọn đời là
thọ trì đến khi
mạng chung.
7) Giới có hai loại: Hữu hạn và Vô hạn. Giới Hữu hạn là giới bị hạn cuộc vào
danh lợi,
quyến thuộc, chân tay hoặc mạng sống. Ngược lại gọi là giới vô hạn. Patisambhida nói: "Thế nào là giới bị hạn cuộc vào lợi? Đó là khi một người
nguyên nhân lợi mà
vi phạm một
học giới đã thọ". Những
giới hạn kia cũng vậy.
Giới không bị hạn cuộc hay vô hạn là khi "một người, không vì lợi mà
khởi tâm vi phạm, huống hồ thực sự
vi phạm, một
học giới đã thọ". (Ps. I, 44).
Tương tự, với các
giới hạn khác.
8). Giới có hai lại:
Thế gian và
xuất thế. Giới
thế gian là giới
hữu lậu và
xuất thế là giới
vô lậu. Giới
thế gian đem lại một
hậu hữu (thân cảnh trong tương lai)
tốt đẹp, và là
điều kiện tiên quyết để
thoát ly sinh tử, như Luật nói: "Giới là để
chế ngự,
chế ngự là để khỏi hối,
bất hối là để được
khinh an,
khinh an để dược lạc, lạc để được định, định để được chánh
tri kiến, chánh
tri kiến là để được vô dục, vô
dục để được
ly tham,
ly tham để
được giải thoát,
giải thoát là để có
giải thoát tri kiến,
giải thoát tri kiến là để đi đến vô
thủ trước Niết bàn. Sự nói chuyện có
mục đích ấy,
nâng đỡ có
mục đích ấy, khuyên bảo có
mục đích ấy,
nâng đỡ có
mục đích ấy, lóng tai có
mục đích ấy, tức là
sự giải thoát nhờ
không chấp thủ". (Vin. v, 164). Giới
xuất thế đem lại sự
thoát khỏi hữu, và là bình diện của
trí quán sát.
9).
Giới ba loại: hạ, trung, thượng. Giới bực hạ là giới phát sinh do ít
tinh cần, ít dục,
ít nhất tâm và ít
trạch pháp (tức
bốn như ý túc). Giới
bực trung là giới phát sinh nhờ
tinh tấn, v.v... Vừa vừa. Giới bực thượng là giới phát sinh nhờ bốn pháp đó được
thực hành cao độ. Giới thọ vì
ham danh là giới bực hạ, vì ham
quả báo công đức là
bực trung, vì tôn quý giới là bực thượng. Lại nữa, giới bị
nhiễm ô vì khen mình chê người, v.v... Như "ta có
giới hạnh, còn những
tỷ kheo khác
tà hạnh, theo ác giới". (M. i, 193) là bực hạ, giới
thế gian mà không
ô nhiễm là
bực trung, giới
xuất thế là bực thượng. Hoặc, giới có
động lực là
tham ái, với
mục đích tái sinh là bực hạ, giới
thực hành vì
mục đích giải thoát riêng mình là trung, các hạnh
ba la mật thực hành vì
giải thoát chúng sinh là bực thượng.
10).
Giới ba loại:
Vị kỷ,
vị tha, vị pháp. Giới
thực hành vì
bản thân, vì muốn bỏ những gì không
thích hợp với tự ngã, gọi là giới
vị kỷ. Giới
thực hành vì
quan tâm đến
thế gian, vì muốn người đời khỏi
chỉ trích, là giới
Vị Tha, Giới
thực hành vì
tôn trọng Pháp và Luật, gọi là vị pháp.
11). Giới có ba:
Chấp thủ,
không chấp thủ và
An tịnh. Giới "lệ thuộc" ở số 5 trên, gọi là
thủ trước do tham và
tà kiến. Giới được
thực hành bởi bậc
hữu học là
điều kiện tiên quyết cho đạo lộ, và giới
tương ứng với đạo lộ, ở các
vị hữu học, thì gọi là
giới không dính mắc. Giới
tương ứng với quả của
hữu học và
vô học gọi là giới được
an tịnh.
12). Giới có ba:
Thanh tịnh,
bất tịnh, khả nghi. Giới được
viên mãn do một người không
phạm giới, hoặc phạm mà đã
sám hối, gọi là
giới thanh tịnh. Giới nơi một người còn nghi không biết việc này có phải là một giới tội hay không, hoặc không biết đã
vi phạm giới nào, hoặc không
biết mình có phạm không, gọi là
bất tịnh.
Giới không thanh tịnh nên làm cho
thanh tịnh. Giới còn nghi thì nên tránh làm những gì mình còn
nghi vấn, và nên
tìm cách giải quyết nghi, đó là giới khả nghi.
13).Giới có ba:
Hữu học,
vô học,
phi hữu học và phi
vô học. Giới
tương ưng với bốn đạo và ba
quả đầu, là giới của
Hữu học. Giới
tương ưng với quả A-la-hán là giới của bậc
Vô học. Những loại còn lại là
giới không thuộc
hữu học và
vô học.
14). Giới bốn loại: Thỏi giảm, tù đọng,
tăng tiến và
thâm nhập. Người học
ác tri thức Không gần bậc
giới đức không thấy được lỗi
phạm giới ở đấy, Tâm thường
tà tư duy, Các căn không phòng hộ Giới nơi người như vậy.
Dự phần vào thối giảm. Người có tâm tự mãn Với giới đã
thành tựu Không bao giờ nghĩ đến Tập đề tài
thiền định Chỉ
an phận trong
giới Không nỗ lực tiến lên Giới như vậy gọi là
Dự phần vào tù đọng. Người có giới,
nỗ lực Với định làm
phương tiện Để
đạt đến mục tiêu, Giới của
tỷ kheo này Gọi là giới
tăng tiến: Visesa. Người thấy giới chưa đủ mà hướng đến
ly dục Giới do
ước vọng ấy gọi là giới
thâm nhập: nibbedha.
15). Giới có bốn: Tỳ khưu, Tỳ khưu ni,
Sa di và
Cư sĩ. Có những giới dành cho
tỷ kheo không
liên hệ đến những giới
công bố cho
tỷ kheo ni, gọi là giới
tỷ kheo. Giới riêng cho
tỷ kheo ni gọi là giới
tỷ kheo ni.
Mười giới của
sa di và
sa di ni là giới của người chưa
thọ cụ túc.
Ngũ giới hay
thập giới, khi có thể giữ
trọn đời và tám giới thọ vào ngày Uposatha (
bố tát) dành cho
nam nữ tại gia, gọi là giới
tại gia.
16). Giới bốn loại:
tự nhiên, tục lệ, tất yếu, nhân đời trước. Sự không phạm của những người uttarakuru gọi là
tự nhiên giới. Mỗi bộ lạc,
tông phái, địa phương, có luật riêng, gọi là giới theo tục lệ. Giới của mẹ
bồ tát khi
bồ tát nhập thai "không có
tư tưởng dục nhiễm", gọi là
giới tất yếu. Giới của những người
thanh tịnh như
Ma ha Ca diếp và của
tiền thân Phật khi hành
bồ tát hạnh, gọi là giới do nhân đời trước.
17). Giới bốn loại:
Giới bổn, phòng hộ các căn, nuôi mạng,
quán tưởng tứ
vật dụng.
(a)
Giới bổn Patimokkha: "Vị
tỷ kheo sống
chế ngự với sự
chế ngự của
giới bổn, đầy đủ
hành xứ và
chánh hạnh, thấy
sợ hãi trong những lỗi nhỏ, nên vị ấy
lãnh thọ các học giới". (Vbh. 244), đây là Giới thuộc sự
chế ngự của
giới bổn.
(b) Giới phòng hộ các căn: "Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những
nguyên nhân gì do đó mà
nhãn căn không được
chế ngự, khiến cho
tham ái,
ưu bi, các
bất thiện pháp khởi lên, vị ấy
chế ngự nguyên nhân ấy,
hộ trì nhãn căn,
thực hành sự
hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, ý
nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng...
Thực hành sự
hộ trì ý căn". (M. i, 180): đây là giới phòng hộ các
căn môn.
(c) Giới nuôi mạng chân chánh, không
vi phạm sáu
học giới liên hệ đến
cách sinh sống, cái
tà mạng lôi kéo theo những
ác pháp như "lừa đảo,
ba hoa,
hiện tướng, chê bai, lấy lợi cầu lợi" (M. iii, 75): đây là giới nuôi mạng chân chánh.
(d)
Quán tưởng tứ
vật dụng: "Người
xuất gia thọ dụng tứ
vật dụng:
y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men. Chân chánh
quán tưởng tứ
vật dụng qua các động tác sau đây: trước dùng,
đang khi dùng, sau khi dùng và cuối 1 ngày và 1 đêm". (M. i, 10): đây là giới
liên hệ đến bốn
vật dụng.
18. Giới 5 loại:
Thanh tịnh hữu hạn,
thanh tịnh vô hạn,
thanh tịnh viên mãn, không dính mắc,
thanh tịnh tịnh chỉCó "năm loại"
thanh tịnh đầu tiên. Patisambhidà nói:
(a)
Giới thanh tịnh hữu hạn? Đó là
học giới của người chưa nhập
Tăng chúng.
(b)
Giới thanh tịnh vô hạn? Là
học giới của các vị đã được nhập
tăng chúng, đã
thọ giới cụ túc.
(c)
Giới thanh tịnh đã viên mãn? Là giới của
phàm phu hữu học chuyên hành thiện, đang
viên mãn hữu học đạo, không kể sinh mạng vì đã
từ bỏ sự
bám víu vào
đời sống.
(d)
Giới thanh tịnh không dính mắc? Là giới của
thanh văn đệ tử đã đoạn tận lâu hoặc, là giới của các bậc
Giác ngộ không
tuyên bố lên, giới của các đấng đã
viên giác.
(e) Giới của bậc A-la-hán, v.v... Gọi là giới
an tịnh, vì không tất cả
cấu uế, và vì rất
thanh tịnh. (Ps. i, -3)
19).Giới năm loại:
từ bỏ, kiêng,
tác ý (
tư tâm sở),
chế ngự và không phạm, thì như Patisambhidà nói:
(1) Về
giới sát sanh:
(a)
từ bỏ sát sinh là giới (b) kiêng sát là giới (c)
Cố ý là giới (d)
chế ngự là giới (e) không phạm là giới
(2) Lấy của không cho:
từ bỏ lấy của không cho là giới, v.v... (3)
Từ bỏ dâm dục là giới,... (4)
Từ bỏ nói láo là giới,... (5)
Từ bỏ nói
độc ác là giới,... (6)
Từ bỏ nói thô là giới,... (7)
Từ bỏ nói
vô ích là giới,... (8)
Từ bỏ tham là giới,... (9)
Từ bỏ sân là giới,... (10)
Từ bỏ tà kiến là giới.
(11) Với hạnh
xuất ly,
từ bỏ tham dục là giới, v.v... (12) Với
vô sân,
từ bỏ ân là giới, v.v.. (13) Với tưởng ánh sáng,
từ bỏ hôn trầm là giới, v.v... (14) Với kshông
tán loạn,
từ bỏ trạo cử là giới, v.v.. (15) Với
trạch pháp,
từ bỏ nghi là giới, v. v... (16) với
tri kiến,
từ bỏ chán nản là giới, v.v.. (17) Với
hân hoan,
từ bỏ chán nản là giới,....
(18) Ở
sơ thiền,
từ bỏ năm thứ
triền cái là giới... (19)
Nhị thiền,
từ bỏ tầm tứ là giới... (20)
Tam thiền,
từ bỏ hỉ... (21)
Tứ thiền,
từ bỏ lạc và khổ...
(22)
Không vô biên xứ,
từ bỏ sắc tưởng,
đối ngại tưởng,
sai biệt tưởng là giới... (23)
Thức vô biên xứ,
từ bỏ không vô biên xứ tưởng là giới... (24)
Vô sở hữu xứ,
từ bỏ thức vô biên xứ tưởng là giới...
(25)
Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
từ bỏ vô sở hữu xứ tưởng là giới... (26) Quán
vô thường,
từ bỏ thường là giới (27) Quán khổ,
từ bỏ lạc tưởng là giới... (28)
quán vô ngã,
từ bỏ ngã tưởng là giới... (29) Quán yểm ly,
từ bỏ tưởng
ưa thích là giới... (30) Quán
ly tham,
từ bỏ tham là giới... (31) Quán diệt,
từ bỏ sanh là giới.... (32) Quán xả ly,
từ bỏ thủ trước là giới....
(33) Quán hoại,
từ bỏ tưởng
kết hợp là giới.... (34) Quán (các hành) diệt,
từ bỏ tích luỹ nghiệp là giới... (35) Quán
biến đổi,
từ bỏ tưởng về sự lâu bền là giới... (36) Quán
vô tướng,
từ bỏ tướng là giới.... (37) Quán
vô nguyện,
từ bỏ dục là giới... (38)
Quán không,
từ bỏ tà giải (
cố chấp) là giới... (39) Quán các pháp thuộc
tăng thượng tuệ,
từ bỏ tà giải do
chấp thủ là giới... (40) Với chánh
tri kiến,
từ bỏ tà giải do si là giới.... (41) Quán nguy hiểm,
từ bỏ tài giải do
y cứ vào các hành là giới... (42) Với
tư duy,
từ bỏ không
tư duy là giới... (43) Với quán "quay đi",
từ bỏ tà giải do
trói buộc là giới....
(44)
Dự lưu đạo,
từ bỏ cấu uế do
tà kiến là giới... (45)
Nhất lai đạo,
từ bỏ các
cấu uế thô là giới... (46)
Bất hoàn đạo,
từ bỏ cấu uế còn sót lại (dư tàn) là giới... (47) A-la-hán đạo,
từ bỏ tất cả
cấu uế là giới, kiêng giữ là giới,
tác ý là giới,
chế ngự là giới, không phạm là giới.
"Những giới ấy đưa đến
bất hối,
hân hoan hỉ,
khinh an, lạc tập hành (
thói quen nhờ lập đi lập lại) đến
tu tập, đào luyện,
cải thiện, đến
điều kiện cho định, trang bị cho định, đưa đến
viên mãn,
hoàn toàn viễn ly,
ly tham, đưa đến sự
tịch diệt,
an ổn, thắng trí,
giác ngộ, Niết bàn". (Ps. i, 466-7)
"Từ bỏ" nghĩa là không khởi lên các
bất thiện pháp như sát sinh, v.v.. Nhưng sự
từ bỏ một pháp
bất thiện sẽ hổ trợ,
nâng đỡ một
thiện pháp do nghĩa sự
từ bỏ ấy làm nền tàng cho thiện, tập trung thiện ấy bằng cách ngăn sự
do dự, nên gọi là giới Sìla với nghĩa
phối hợp Sìlana, nghĩa là
nâng đỡ và tập trung (xem đoạn 19). Bốn việc còn lại chỉ sự có mặt của
ý chí kiêng làm điều này điều khác,
ý chí kể như sự
tác ý về hai việc "kiêng và chế ngự" ấy, và
ý chí kể như sự vô phạm ở nơi một người không
phạm giới này giới nọ.
6 và 7: Điều gì làm giới
ô nhiễm, điều gì làm
giới thanh tịnh?
Trả lời là sự rách nát của giới gọi là
ô nhiễm, và không rách nát gọi là
thanh tịnh. Sự "rách nát" của giới là
phạm giới do vì
lợi dưỡng, tiếng khen, (danh xưng) v.v... Và do bảy
trói buộc của nhục dục. Khi một người
vi phạm học giới ở chặn đầu hay chặn cuối của đường tu, thuộc về bất cứ giới nào nằm trong bảy "tụ" (là bảy nhóm
giới luật tỷ kheo), thì giới của vị ấy gọi là bị rách, như một tấm vải bị cắt ở biên. Nhưng khi vị ấy
phạm giới nửa chừng
tu học, thì gọi là giới bị "lủng", như tấm vải bị cắt ở giữa. Khi
phạm giới liên tiếp hai ba lần, giới của vị ấy gọi là "bị ố", như một con bò
toàn thân đen hay đỏ, mà bỗng có một mảng lông khác màu ở lưng hay bụng. Khi vị ấy
phạm giới thường xuyên, thì giới vị ấy gọi là "lốm đốm", như con bò trên
toàn thân có những đốm khác màu với da của nó
Một người thiếu
giới hạnh thì không thể làm cho
chư thiên hoan hỷ, mà còn
trở thành kẻ
ngoan cố đối với các bạn đồng
phạm hạnh. Vị ấy
đau khổ khi
phạm giới, vì bị
chỉ trích, và
hối hận khi thấy những người
giữ giới được
tán dương. Người ấy
vô giá trị, vì không đem lại
quả báo tốt đẹp cho các
thí chủ. Người ấy khó làm cho sạch, như thùng phân dơ lâu năm, như một khúc gỗ mục trên giàn hoả, vì không phải người
xuất gia, cũng không phải
cư sĩ. Mặc dù tự xưng là
Tỳ kheo mà không phải
Tỳ kheo, nên giống như con lừa
đi theo bầy bò. Vị ấy luôn
nóng nảy, như
kẻ thù của
mọi người. Sống chung với vị ấy khó khăn, như sống chung với một
xác chết. Mặc dù vị ấy có thể là người
đa văn, nhưng vị ấy không đáng được các bậc đồng
phạm hạnh cung kính. Vị ấy không
thể đạt được các quả
thù thắng, như người mù không thể thấy sắc. Vị ấy bất cẩn đối với
diệu pháp, như kẻ nghèo sống trong một đất nước
phú cường. Mặc dù vị ấy tưởng mình
hạnh phúc, nhưng kỳ thực rất
đau khổ, vì phải gặt hái những
ác quả do sự
phạm giới đem lại. (Kinh
Hoả tụ, A. IV, 128-34)
Tóm lại, người
giữ giới trọn vẹn là: Không
vi phạm các
học giới,
sám hối những giới đã phạm, không có các sự
trói buộc của
dục vọng, không khởi những
ác pháp như
phẫn nộ,
hận thù,
độc đoán, khinh thường,
đố kỵ,
bỏn xẻn, lừa dối,
gian lận,
cứng đầu,
kiêu căng,
ngã mạn, cao ngạo, khoe khoang, lơ đễnh, mà thường khởi những đức tính như ít muốn, biết đủ,
viễn ly. (
Trung bộ kinh, số 7 và số 24)
Cách
sử dụng 4 sự
cúng dường liên quan đến giới hạnh: dùng như
kẻ trộm, dùng như kẻ
mắc nợ, dùng như hưởng
gia tài của
tổ tiên, dùng như người chủ. Một người
không giới đức
sử dụng 4
vật dụng được
cúng dường, ngay cả sự có mặt trong
Tăng chúng, gọi là dùng như
kẻ trộm, Một người có giới mà không chân
chánh giác sát trong khi dùng 4 vật
cúng dường, thì gọi là dùng như kẻ
mắc nợ.
Trái lại,
sử dụng 4 vật
cúng dường để
đạt được bảy bậc
Hữu học (4 đạo, 3 quả), thì gọi là dùng như hưởng
gia tài của
tổ tiên, vì họ là những người con của
Như Lai, họ dùng những
vật dụng như
thừa hưởng gia tài của cha để lại. Một vị đã đoạn trừ hết
phiền não, không còn bị các dục sai sử, là dùng các vật
cúng dường như người chủ.
BÀI HAI
CHƯƠNG II : GIỚI-
HẠNH ĐẦU ĐÀ (Dhutanga-niddesa)
A. CÁC PHÁP
ĐẦU ĐÀKhi
chúng ta theo đuổi con đường giới luật,
quyết tâm tu tập hạnh ít muốn, biết đủ,
viễn ly,
độc cư,
tinh cần v.v.. Mong
đạt đến đạo quả giải thoát,
đức Phật cho phép thực hành 13 pháp
Đầu đà sau đây:
1. Hạnh mặc y
phấn tảo2. Hạnh chỉ mặc 3 y
3. Hạnh sống bằng
khất thực4. Hạnh
khất thực theo thứ lớp
5. Hạnh
nhất tọa thực6. Hạnh chỉ ăn một bát
7. Hạnh không ăn đồ dư tàn
8. Hạnh ở rừng
9. Hạnh ở gốc cây
10. Hạnh ở giữa trời
11. Hạnh ở nghĩa địa
12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng được
13. Hạnh
ngồi không nằm
B.
Ý NGHĨA PHÁP
ĐẦU ĐÀ1. Hạnh mặc y
phấn tảo:
Phấn tảo (pamsukūla: bụi bặm): Loại vải bị
vứt bỏ ở những đống rác bên đường, nghĩa địa, hay những đống phân. Một người đã
thọ giới nầy chỉ mặc một y trong những loại sau: Vải lấy từ nghĩa địa; từ cửa hàng;
từ đường cái; từ hố phân; từ giường trẻ; vải tẩy uế; vải từ chỗ tắm; vải bị cháy; bị
gia súc ăn; bị kiến ăn; bị chuột ăn; vải rách ở biên; rách ở đầu; vải làm cờ; vải bỏ tại điện thờ; y của nhà
Đầu đà; vải từ cuộc lễ; vải do
thần thông biến hóa (tức tấm y do pháp Phật
biến hóa lúc Ngài nói "Thiện lai Tỳ khưu", thì
pháp phục tự nhiên xuất hiện trên vị nầy, nhờ
công đức đời trước của thầy); vải trên xa lộ; vải gió bay; vải do
thiên thần bố thí; vải trôi giữa biển.
2. Hạnh chỉ mặc 3 y: Đó là
y Tăng già lê,
thượng y và
hạ y.
3. Hạnh sống bằng
khất thực: Chỉ
nhận thức ăn do đi
khất thực mà được.
4. Hạnh
khất thực theo thứ lớp: Đi từ nhà nầy đến nhà khác, không chừa một nhà nào ở khoảng giữa.
5. Hạnh
nhất tọa thực: Ăn
một lần mà thôi, đứng lên rồi, không ngồi xuống ăn lại.
6. Hạnh chỉ ăn một bát: Chỉ ăn những gì đã xin được trong bát, không nhận thêm bát thứ hai
7. Hạnh không ăn đồ dư tàn: Không ăn đồ ăn thừa, và không nhận đồ ăn sau khi ăn xong.
8. Hạnh ở rừng: Vị nầy chỉ sống trong rừng.
9. Hạnh ở gốc cây: Vị nầy chỉ sống
dưới gốc cây.
10. Hạnh ở giữa trời: Vị nầy chỉ sống ở
ngoài trời11. Hạnh ở nghĩa địa: Vị nầy chỉ sống tại các nghĩa địa.
12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng được: Ai phân phối cho mình chỗ nào cũng đều
chấp nhận.
13. Hạnh
ngồi không nằm: Khi ngủ cũng ngồi chứ không nằm.
C. PHÁP
THỌ TRÌ, CẤP BẬC VÀ
LỢI ÍCH1. Hạnh mặc
phấn tảo y:
a. Pháp
thọ trì: Người
thọ trì hạnh nầy nói lên một trong 2
lời nguyện như sau: "Tôi nguyện giữ
Đầu đà phấn tảo y" hoặc "Tôi từ chối những y do
gia chủ cúng dường".
b. Gồm 3 cấp bậc: -Cấp thượng: giữ một cách nghiêm ngặt, chỉ lượm vải ở nghĩa địa về làm y. Cấp trung: giữ một cách trung bình, lượm vải do người khác bỏ. Cấp hạ: lượm vải do một Tỳ khưu khác cho mình bằng cách đặt dưới chân.
c.
Lợi ích: Vị nầy không
đau khổ do phải
giữ gìn y phục; sống không tuỳ thuộc vào người khác; không sợ trộm cướp; không có sự
thèm muốn đối với
y phục. Vì những vải ấy dễ kiếm, ít
giá trị; nhờ đó sẽ phát sinh kết quả ít muốn, biết đủ và
tinh tấn tu tập.
2. Hạnh 3 y:
a. Pháp
thọ trì: Giới nầy được
thọ trì bằng cách nói: "Tôi
giữ giới mặc 3 y" hoặc "Tôi không nhận cái y thứ tư".
b. Các cấp bậc: Cấp thượng: khi nhuộm phải nhuộm từng cái, nhuộm xong thay cái khác để nhuộm tiếp. Cấp trung: Khi nhuộm có thể dùng một miếng vải vàng thay cái y nầy để nhuộm. Cấp hạ: Có thể mượn y của Tỳ khưu khác mặc để nhuộm.
c.
Lợi ích: Vị nầy đi đâu cũng chỉ
mang theo 3
y như chim mang đôi cánh, không tích trữ, sống
đạm bạc,
từ bỏ tánh tham
y phục, sống
viễn ly.
3. Hạnh
khất thực:
a. Pháp
thọ trì: Giới nầy được
thọ trì bằng cách nói: "Tôi
thọ trì hạnh
khất thực hằng ngày", hoặc "Tôi không nhận đồ ăn
để dành (tàn thực)". Người đã
thọ giới nầy không được nhận 14 thứ
thực phẩm sau đây:
bữa ăn do
cư sĩ cúng dường cho
chư Tăng;
bữa ăn cúng cho một số Tỳ khưu
đặc biệt;
bữa ăn do người ta mời;
bữa ăn được mời bằng một phiếu ăn;
bữa ăn vào ngày lễ
trai giới Uposatha;
bữa ăn vào ngày rằm;
bữa ăn vào ngày đầu tháng;
bữa ăn dành cho khách;
bữa ăn cho người lữ hành;
bữa ăn cho người bệnh;
bữa ăn cho người nuôi bệnh;
bữa ăn cúng cho
một trú xứ nào đó;
bữa ăn được
bố thí tại một ngôi nhà chính (dhurabhatta);
bữa ăn cúng theo thứ tự.
b. Ba cấp bậc: Cấp thượng, nhận đồ ăn do người ta đem đến
trước mặt và sau lưng (đi qua rồi
thí chủ mới
chạy theo cúng). Cấp trung, có thể ngồi chờ người ta mang đồ ăn đến. Cấp hạ, có thể ăn đồ ăn được hứa
mang đến hôm sau và hôm sau nữa.
c.
Lợi ích: Sự sống không
lệ thuộc vào người khác; sự
phóng dật được
trừ khử, mạng sống được
thanh tịnh;
thực hành các học pháp dễ
đạt được kết quả.
4. Hạnh
khất thực theo thứ lớp:
a. Pháp
thọ trì:
Thọ trì hạnh nầy bằng cách
phát nguyện: "Tôi nguyện theo hạnh
khất thực tuần tự", hoặc "Tôi không
khất thực bằng cách lựa chọn".
b. Ba cấp bậc: Cấp thượng: Không nhận đồ ăn
mang đến từ
trước mặt hoặc từ sau lưng. Cấp trung: Có thể nhận đồ ăn đem đến từ
trước mặt, hoặc từ sau lưng. Cấp hạ: Ngồi đợi đồ ăn
mang đến nội ngày hôm ấy.
c.
Lợi ích: Vị nầy
từ bỏ sự
quyến luyến đối với các
gia đình; có
lòng từ mẫn một cách
bình đẳng; tránh được sự
ràng buộc bởi một
gia đình.
5. Hạnh
nhất tọa thực.
a. Pháp
thọ trì: Hạnh nầy được
thọ trì bằng cách lập nguyện: "Tôi nguyện theo hạnh nhất tọa thực", hoặc "Tôi không ăn nhiều lần".
b. Ba cấp bậc: Cấp thượng: Không được ăn nhiều hơn những gì mình đã lấy
một lần vào bát. Cấp trung: lúc đang ăn có thể nhận thêm
thức ăn bỏ vào bát. Cấp hạ: Có thể ăn đến lúc rời chỗ mới thôi.
c.
Lợi ích: Vị nầy ít bệnh, ít não,
thân thể nhẹ nhàng, có
sức khỏe, có
một đời sống
hạnh phúc, loại trừ được lòng tham vị ngon và sống
thiểu dục tri túc.
6. Hạnh ăn một bát.
a. Pháp
thọ trì: Được
thọ trì bằng cách
phát nguyện: "Tôi giữ hạnh ăn một bát", hoặc "Tôi từ chối ăn bát thứ hai".
b. Ba cấp bực: Cấp thượng: Không được ném bỏ
thức ăn không
vừa ý, trừ xác mía. Cấp trung: được bẻ nhỏ đồ ăn trong khi ăn. Cấp hạ: được bẻ nhỏ
thức ăn bằng tay hoặc bằng răng.
c.
Lợi ích: Lòng tham vị ngon được đoạn trừ; mong cầu
thái quá được
từ bỏ; thấy rõ
mục đích và lượng
thức ăn vừa đủ.
7. Hạnh không ăn đồ dư tàn:
a. Pháp
thọ trì: Người thọ hạnh nầy
phát nguyện: " Tôi
thọ giới không ăn tàn thực", hoặc "Tôi từ chối đồ ăn thêm".
b. Ba cấp bậc: Cấp thượng: khi đã
chứng tỏ mình ăn
vừa đủ thì không được nhận thêm
thức ăn nữa. Cấp trung:
vẫn có thể ăn thêm sau khi đã nói thôi. Cấp hạ: có thể
tiếp tục ăn
cho đến khi rời khỏi chỗ.
c.
Lợi ích: Khỏi bị
bội thực, khỏi cất giữ
thức ăn, khỏi
tìm kiếm thêm đồ ăn.
8. Hạnh ở rừng:
a. Pháp
thọ trì: Người theo hạnh nầy
phát nguyện: "Tôi lập hạnh sống ở rừng", hoặc "Tôi không ở
một trú xứ trong xóm làng".
b. Ba cấp bậc: Cấp thượng: Người nầy phải luôn luôn
trở về rừng vào lúc bình minh. Cấp trung: có thể cư trú tại một khu làng vào 4 tháng mùa mưa. Cấp hạ: có thể ở trong làng luôn cả
mùa đông.
c.
Lợi ích:
Tâm hành giả không bị
dao động bởi những
sắc pháp không
thích đáng;
thoát khỏi những
lo âu,
từ bỏ bám víu vào cõi đời và hưởng được
lạc thú độc cư.
9. Hạnh ở gốc cây:
a. Pháp
thọ trì: Người theo hạnh nầy
phát nguyện: "Tôi theo
Đầu đà ở gốc cây", hoặc "Tôi từ chối một mái nhà".
b. Ba cấp bậc: Cấp thượng: Không được phép quét
dọn sạch sẽ gốc cây đã chọn. Cấp trung: có thể nhờ người nào đó quét dọn gốc cây. Cấp hạ: có thể sai những
chú tiểu trong chùa quét
dọn sạch sẽ, trải cát bằng phẳng
xung quanh gốc cây.
c.
Lợi ích: Dễ quán
vô thường khi thấy lá cây luôn thay đổi, đoạn trừ được lòng tham về trú xứ,
phù hợp với
nếp sống ít muốn.
10. Hạnh ở
ngoài trời:
a. Pháp
thọ trì: Được
thọ trì bằng cách
phát nguyện: " Tôi tu hạnh ở giữa trời", hoặc "Tôi từ chối mái nhà và gốc cây".
b. Ba cấp bậc: Cấp thượng: Không được ở gần một gốc cây, hang đá hay nhà, phải dùng một tấm y làm lều mà ở giữa trời. Cấp trung: Được ở gần một gốc cây, hang đá hay nhà. Cấp hạ: có thể ở dưới một hốc đá không có ống máng, hoặc dưới lều bằng cành cây.
c.
Lợi ích: Khỏi bị những
chướng ngại do chỗ trú gây ra, trừ được
hôn trầm biếng nhác, sống không
ràng buộc, muốn đi đâu cũng được.
11. Hạnh ở nghĩa địa:
a. Pháp
thọ trì: Người theo hạnh nầy
phát nguyện: "Tôi lập hạnh sống tại nghĩa địa", hoặc "Tôi từ chối chỗ trú không phải nghĩa địa".
b. Ba cấp bậc: Bậc thượng: Phải sống tại những nơi luôn luôn có
tử thi được thiêu đốt và tang lễ. Bậc trung: được sống tại những nơi chỉ có một trong các điều ấy. Bậc hạ: có thể sống tại một nơi chỉ có
đặc tính của một nghĩa địa.
c.
Lợi ích:
Hành giả được sự tưởng niệm về cái chết, sống
tinh tấn, tưởng
bất tịnh luôn
hiện tiền,
tham dục biến mất, có
tỉnh giác cao độ,
từ bỏ 3
kiêu mạn về sự sống,
tuổi trẻ và vô bệnh,
chinh phục được
sợ hãi khiếp đảm.
12. Hạnh nghỉ ở đâu cũng được:
a. Pháp
thọ trì: Được
thọ trì bằng cách
phát nguyện: "Tôi giữ hạnh nghỉ đâu cũng được", hoặc "tôi
từ bỏ lòng tham đắm sàng toạ".
b. Ba cấp bậc: Bậc thượng: Không được
hỏi thăm về trú xứ dành cho mình. Bậc trung: được phép hỏi, nhưng không được đi
quan sát trước. Bậc hạ: được đi
quan sát trước và
nếu không thích có thể chọn một chỗ ở khác.
c.
Lợi ích: Có thể
tùy hỉ với những gì mình có được, có tâm
nghĩ tưởng đến những bạn đồng
phạm hạnh,
từ bỏ so đo cao thấp, bỏ tâm
thuận nghịch, đóng cái cửa
tham muốn.
13. Hạnh
ngồi không nằm:
a. Pháp
thọ trì: Được
thọ trì bằng cách
phát nguyện: "Tôi giữ hạnh ngồi, không nằm", hoặc "Tôi sẽ không nằm".
b. Ba cấp bậc: Bậc thượng: Không được dùng một chỗ tựa lưng hay dây vải nịt lưng. Bậc trung: được dùng bất cứ thứ nào trong những
phương tiện ấy. Bậc hạ: được dùng một chỗ tựa, một băng vải, một nịt lưng, một gối dựa.
c.
Lợi ích: Thói lười biếng bị cắt đứt, dễ
chú tâm vào đề tài
thiền quán, dễ
tinh cần tinh tấn.
Nói chung
phương pháp tu
Đầu đà thường có những
hiệu quả tích cực, và khái quát có thể chia thành mấy hạng người sau: có người tu
Đầu đà mà không giảng về
Đầu đà; có người giảng về
Đầu đà mà không phải là người tu
Đầu đà; có người không giảng cũng không tu; có người vừa giảng vừa tu.
Pháp
Đầu đà thường đi đôi với 5
tác dụng: ít muốn, biết đủ,
viễn ly,
độc cư và kết quả từ các
thiện pháp ấy. Ít muốn, biết đủ và
viễn ly là không tham.
Độc cư thuộc
vô si. Vì
Đầu đà thích hợp cho những người nhiều tham và si.
Nếu chia theo nhóm thì
pháp môn Đầu đà nầy
gồm có 8: Ba chính và năm lẻ. Ba chính là:
Khất thực từng nhà,
nhất tọa thực, và ở
ngoài trời. Năm lẻ là: Hạnh mặc y
phấn tảo, hạnh 3 y, hạnh ở rừng, hạnh ngồi và hạnh ở nghĩa địa.
Nếu chia riêng biệt thì có 13
Đầu đà cho Tỳ khưu, 8 cho Tỳ khưu ni, 12 cho
Sa di, 7 cho
Sa di ni và tịnh nữ, 2 cho
nam nữ cư sĩ. Như vậy, tất cả có 42
Đầu đà.
Tỳ khưu có thể
thực hiện cả 13
Đầu đà, nhưng Tỳ khưu ni thì không được
thực hành 5 pháp nầy: Hạnh ở rừng, không ăn tàn thực, hạnh ở giữa trời, ở gốc cây và ở nghĩa địa. Đối với
Sa di, chỉ trừ
Đầu đà 3 y, còn lại 12 pháp kia có thể
thực hành. Đối với
Sa di ni và tịnh nữ,
thực hành theo Tỳ khưu ni, chỉ trừ
Đầu đà 3 y, nên còn lại 7
Đầu đà.
Nam nữ cư sĩ thì lại
thích hợp đối với 2
Đầu đà nhất tọa thực và chỉ ăn một bát.
BÀI BA
CHƯƠNG III : ĐỊNH -
ĐỀ MỤC THIỀN ĐỊNH(Kammatthana-gahana-niddesa)
Trong phần này,
chúng ta cần
nghiên cứu những phần như sau:
I. Định nghĩa định,
II.
Đặc tính của định,
III. Phân loại định,
IV. Những
chướng ngại trong sự
tu tậpV. Khảo sát cá tính
VI. Phân loại
đề mụcVII.
Đề mục thích hợp cho các cá tính
1. ĐỊNH NGHĨA ĐỊNH
Tiếng Pāḷi "Samādhi" được dịch là định. Định nghĩa là tập
trung tâm ý vào một đề tài hay một đối tượng
duy nhất không được phân tán hay
xao lãng.
2.
ĐẶC TÍNH CỦA ĐỊNH
Đặc tính của định là không phân tán, loại trừ mọi
dao động,
tán loạn của
tâm trí.
3. PHÂN LOẠI VỀ ĐỊNH
Định được
phân chia nhiều loại, từ một loại, 2 loại đến 5 loại.
a. Định một loại:
Ý nghĩa tổng quát đã nói ở trên.
b. Định hai loại: Định cận hành và định an chỉ. Định cận hành là sự
nhất tâm đạt được nhờ các phép
quán tưởng: Sáu tưởng niệm, quán
xác chết, quán sự
bình an,
quán bất tịnh của
thức ăn, phân tích
tứ đại, và sự
nhất tâm có trước định an chỉ. Định an chỉ là sự
nhất tâm theo liền sau các việc đã chuẩn bị sẵn.
- Định
thế gian và
xuất thế gian: Định
thế gian là sự
nhất tâm có tánh thiện ở 3 cõi dục, sắc,
vô sắc. Định
xuất thế gian: là định thuộc
thánh đạo.
- Định
câu hữu hỉ và
định không hỉ. Định
câu hữu hỉ là sự
nhất tâm ở 2
thiền đầu trong 4 thiền và 3
thiền đầu trong 5 thiền.
Định không hỉ là sự
nhất tâm trong 2 thiền cuối.
c. Định 3 loại: Định bậc hạ, bậc trung và bậc thượng. Định mới
đạt được là bậc hạ, định chưa phát triển là bậc trung và định đã đến mức độ
thuần thục là bậc thượng.
- Định
câu hữu hỉ, định
câu hữu lạc và định
câu hữu xả. Định
câu hữu hỉ: định ở 2
thiền đầu trong 4 thiền hay 3
thiền đầu trong 5 thiền. Định
câu hữu lạc: Định ở
tam thiền trong
hệ thống 4 thiền và
tứ thiền trong
hệ thống 5 thiền. Định
câu hữu xả: định ở thiền
cuối cùng trong 2
hệ thống.
- Định
giới hạn, định
đại hành và định
vô lượng. Định có
giới hạn là sự
nhất tâm trong cận hành định. Định
đại hành là sự
nhất tâm trong
thiện pháp thuộc
sắc giới và
vô sắc giới. Định
vô lượng là sự
nhất tâm liên hệ đến
thánh đạo.
d. Định 4 loại: Định khó tiến lâu đắc, định khó tiến mau đắc, định dễ tiến lâu đắc, và định dễ tiến mau đắc. Khi một người
tu tập những pháp thiền không
thích hợp, thì khó tiến lâu đắc. Khi
tu tập pháp thiền
thích hợp thì dễ tiến mau đắc. Khi một người ít
cấu uế, nhưng
căn môn cùn nhụt, thì
tu tập dễ tiến nhưng lâu đắc. Khi một người nhiều
cấu uế, nhưng
căn môn sắc bén thì
tu tập khó tiến nhưng mau đắc.
-
Sơ thiền, có 5
thiền chi: tầm, tứ, hỉ, lạc và
nhất tâm để loại trừ 5
triền cái (
hôn trầm, nghi, sân,
trạo hối,
tham dục). Ở
nhị thiền bỏ tầm và tứ, còn lại 3
thiền chi. Ở
Tam thiền bỏ hỉ, còn 2
thiền chi. Ở
Tứ thiền bỏ lạc, còn
nhất tâm và xả.
đ. Định 5 loại: Đó là 5 thiền: dùng
hệ thống 4 thiền, nhưng chia
nhị thiền thành 2 là thiền không tầm có tứ và thiền không tầm không tứ, do đó thành ra 5 thiền.
4. NHỮNG
CHƯỚNG NGẠI TRONG SỰ
TU TẬPCó 10
chướng ngại: 1. trú xứ, 2.
gia đình, 3.
lợi dưỡng, 4.
đồ chúng, 5. việc xây cất, 6. du lịch, 7.
quyến thuộc, 8. ưu não, 9. sách vở, 10.
thần thông.
Có người trong lúc
tu tập hay bận tâm
quyến luyến đến chỗ ở của mình, hoặc bị tình cảm
gia đình trói buộc, hoặc do
quyến thuộc lôi kéo, hoặc vì những
lợi dưỡng làm cho
hệ lụy, hoặc vì
đồ chúng bủa vây chiếm hết
thì giờ tu tập, hoặc công việc xây cất
chi phối tâm trí, hoặc
ưa thích du lịch đây đó, mất hết
thì giờ, hoặc do sự
buồn bực làm cho trở ngại, hoặc vì đọc nhiều kinh sách làm cho
tâm trí phân tán, hoặc đặt sự
tu tập vào
mục đích đạt được thần thông. Đó là những trở ngại chính của người
tu tập thiền định.
5. KHẢO SÁT CÁ TÍNH
6 loại Cá tính như sau: 1. nặng về tham, 2. nặng về sân, 3. nặng về si, 4. Nặng về tín, 5. Nặng về tuệ, 6. Nặng
tư duy.
Lại còn có những mối tương quan giữa các đức tính trên. Chẳng hạn, người thiên về
đức tin thường đi đôi với người nặng về tham. Tính tham không
từ bỏ cái gì có hại, còn
đức tin thì không bỏ cái gì có lợi. Người thiên về
trí tuệ thường đi đôi với tánh sân. Tính sân
sinh khởi bằng cách
buộc tội chúng sinh, trong khi tuệ
sinh khởi bằng cách
buộc tội các hành. Người thiên về
tư duy thường đi đôi với tính si, và
đặc tính của tầm cũng gần với
đặc tính của si. Tính si không an là do
bối rối, tầm không an là do
suy nghĩ nhiều. Nếu phân tích thêm, ta sẽ thấy dục và mạn đều
liên hệ mật thiết với tham, và
kiến chấp hay
tà kiến thì bắt nguồn từ si.
Phần lớn những đức tính mà
chúng ta hiện có thường bắt nguồn từ
tiền kiếp. Chẳng hạn, người nhiều tham có thể đời trước họ đã làm nhiều việc mà họ
ưa thích; người nhiều sân có thể đời trước
thường hay đâm chém hay làm những việc tàn bạo khác; còn một người nhiều si, có lẽ trước kia đã từng uống nhiều rượu, ít chú ý đến học vấn. Đó là
quan điểm lấy nguồn gốc từ
kiếp trước.
Hơn nữa,
quan điểm nầy còn cho rằng 4 đại có
ảnh hưởng đến
tâm tính của mỗi người. Chẳng hạn một người có tánh si là do
hỏa đại và
địa đại tăng thịnh. Người có nhiều sân là do
thủy đại và
phong đại tăng thịnh. Nhưng người nhiều tham là vì 4
đại quân bình. Về khí chất, người nặng về tham thì dư đàm, người nặng về si thì dư phong.
Tuy nhiên, những
quan điểm vừa nêu cũng không
hoàn toàn đúng hẳn.
Nhưng muốn
nhận xét một người thiên về tính nào nhiều hơn, Buddhaghosa
căn cứ vào hành vi,
cử chỉ,
ngôn ngữ,
nhận thức và tâm trạng để xếp loại.
Về
hành vi,
cử chỉ. Người có tính tham khi đi
tự nhiên, bước chân
cẩn thận,
tự nhiên và khoan thai. Người có tính sân, bước đi hấp tấp, đặt chân xuống và dở chân lên đều nhanh nhẹn. Người có tính si, dáng đi
bối rối, để chân xuống và nhấc chân lên một cách
do dự.
Khi làm việc, người tham làm việc một cách từ tốn,
cẩn thận; người sân làm việc một cách
căng thẳng; người si làm việc một cách
vụng về.
Khi ăn, người tham thích ăn
thực phẩm ngọt ngào, béo bổ; người sân ưa ăn đồ dai và chua; người si không có sự
lựa chọn nhất định.
Khi nhìn sự vật, người tham chú ý những gì mình thích, kể cả những
chi tiết vụn vặt, mà không
quan tâm nhiều đến những khuyết điểm. Người sân khi thấy một
sắc pháp hơi khó ưa, thường xoi mói các khuyết điểm nhỏ, mà bỏ qua những đức tính khác; người si không có những chủ kiến
nhất định, khen chê theo ý của người khác.
Về tâm trạng: Người tham
thường có tâm trạng lừa dối,
gian lận,
kiêu mạn,
ác dục,
bất mãn, làm đỏm, khoe khoang. Người sân
thường có tâm trạng
giận dữ,
thù hằn,
phỉ báng,
thống trị, ganh tị, biển lận. Người si
thường có tâm trạng đờ đẫn,
dao động,
lo âu,
bất định,
bám víu không chịu xả bỏ.
Người có tính tín,
tính tình rộng rãi, mong muốn gặp những bậc thánh, mong nghe
diệu pháp,
vui vẻ,
hồn nhiên,
thành thực tin tưởng những gì gợi lên
niềm tin.
Người có tính tuệ, ngoan hiền, biết
vừa đủ trong
ẩm thực,
chánh niệm tỉnh giác, ưa sự
thức tỉnh, có
ý thức tôn trọng những nguyên tắc.
Người có
tính tư duy, thích nói, dễ hòa mình, không
ham thích làm việc phước thiện, khó
hoàn tất được những công
việc đã làm.
6. PHÂN LOẠI
ĐỀ MỤCBuddhaghosa đã khái quát các
đề mục ấy thành 40 loại:
- 10
Biến xứ,
- 10
Bất tịnh,
- 10 Suy niệm,
- 4
Phạm trú,
- 4
Vô sắc,
- 1 Quán vật thực,
- 1 Quán
tứ đại.
Mười biến xứ: đất, nuớc, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng,
hư không.
Mười
bất tịnh: 1.
Tử thi phình trướng, 2.
Tử thi bầm xanh, 3.
Tử thi máu mủ, 4.
Tử thi nứt nẻ, 5.
Tử thi thú ăn, 6.
Tử thi phân lìa, 7.
Tử thi rã rời, 8.
Tử thi chảy máu, 9.
Tử thi sâu đục, 10. bộ xương.
Mười tưởng niệm: 1.
niệm Phật, 2.
niệm pháp, 3.
niệm Tăng, 4.
niệm Giới, 5.
niệm Thí, 6.
niệm Thiên, 7. niệm Chết, 8.
niệm Thân, 9. niệm
hơi thở, 10. niệm diệt.
Bốn phạm trú: 1. Từ, 2. Bi, 3. Hỉ, 4. Xả.
Bốn
vô sắc: 1.
Không vô biên, 2. Thức
vô biên, 3.
Vô sở hữu, 4.
Phi tưởng phi phi tưởng.
Một quán: quán
thức ăn bất tịnh.
Một quán: quán
tứ đại chủng.
Trong 40
đề mục trên, thì 22
đề mục có tướng trạng bên ngoài, đó là: 10
biến xứ, 10
bất tịnh của
tử thi,
niệm thân và niệm
hơi thở. Mặt khác, có 12
đề mục lấy
tự tính làm đối tượng, đó là: 8 trong 10 tưởng niệm - trừ
niệm thân và niệm
hơi thở, tưởng
thức ăn bất tịnh, phân tích 4
đại chủng,
Thức vô biên xứ và
Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Còn những
đề mục khác không thể phân loại như thế được.
Quả chứng đắc các thiền:
- 9
biến xứ - trừ
biến xứ hư không - là những
điều kiện để chứng
Vô sắc xứ.
-
Mười biến xứ là những
điều kiện để
chứng đắc các loại thắng trí (
thần thông).
- Ba
phạm trú (
vô lượng tâm) đầu là
điều kiện để chứng
phạm trú thứ tư.
- Mỗi
vô sắc cấp dưới là
điều kiện cho
vô sắc trên nó một bậc.
-
Phi tưởng phi phi tưởng xứ là
điều kiện để chứng
diệt thọ tưởng định. Tất cả là
điều kiện phát sinh
trí tuệ để sống
an lạc trong những
sinh thú tốt đẹp.
7.
ĐỀ MỤC THÍCH HỢP CHO CÁC CÁ TÍNH
- Mười phép
quán bất tịnh của
tử thi và
niệm thân là những
đề mục thích hợp cho người nhiều
tham dục.
-
Bốn phạm trú và bốn
biến xứ về màu sắc là những
đề mục thích hợp cho người sân.
- Niệm
hơi thở thích hợp cho người có tính si và người có
tính tư duy.
- Sáu tưởng niệm đầu trong 10 tưởng niệm
thích hợp cho những người có
tịnh tín.
- Niệm chết, niệm diệt, phân tích
bốn đại, tưởng
thức ăn bất tịnh, là bốn
đề mục thích hợp cho những người có tính tuệ.
- Những
biến xứ còn lại và những
vô sắc thích hợp cho mọi loại
tính tình. Và bất cứ
biến xứ nào cũng cần có
giới hạn cho người có
tính tư duy và vô hạn cho người có tính si.
Những cách phân loại trên là nói theo thể thức
đối trị trực tiếp và
hoàn toàn thích hợp, nhưng kỳ
thực không có pháp tu nào mà không trừ bỏ được tham, hỗ trợ được tín v.v... Nói một cách khái quát thì: "Tu
bất tịnh quán để trừ
tham dục; tu
từ bi quán để
từ bỏ sân hận; niệm
hơi thở để
từ bỏ tầm
tư duy;
tưởng vô thường để
từ bỏ ngã mạn" (A. IV, 358)
BÀI BỐN
CHƯƠNG IV: ĐỊNH -
ĐỀ MỤC ĐẤT
(Pathavì- kasina - niddesa)
Chúng ta đã chọn một
đề mục thích hợp để
tu tập cần phải an trú tại
một trú xứ thuận tiện, tránh 14
chướng ngại như sau:
1. Trú xứ quá rộng, 2. mới mẻ, 3. tả tơi, 4. gần đường, 5. có cây ăn trái, 6. có
tiếng tăm, 7. gần
đô thị, 8. gần chỗ lấy gỗ, 9. gần đồng ruộng cày cấy, 10. có những người
xung khắc nhau, 11. gần cửa khẩu, 12. gần
biên giới các nước, 13. gần kinh đô, 14. thiếu
thiện tri thức.
Lời
Giải ThíchNếu trú xứ quá rộng thì sẽ có đông người thành ra bất tiện; hoặc một ngôi chùa mới thì trở ngại vì việc xây cất; còn nếu chùa
cũ kỹ tơi tả, thì phải lo việc
sửa chữa. Nếu gần đường thì luôn luôn có khách
lui tới. Nếu có cây ăn trái thì có người đến
hái quả. Nếu là chỗ
nổi tiếng thì
thường có nhiều người
lui tới đảnh lễ. Nếu gần
đô thị sẽ gặp những cảnh
hào nhoáng đập vào mắt. Nếu gần chỗ lấy gỗ sẽ gặp cảnh
ồn ào tấp nập. Còn gần đồng ruộng thì bị những người làm ruộng gây trở ngại. Nếu trú xứ có những người chống đối nhau, thì gây nên không khí
căng thẳng bất an. Nếu ngôi chùa gần cửa khẩu thì bất tiện vì có nhiều đoàn lữ hành tới xin
tá túc. Nếu ở gần
biên giới các nước thì sợ có việc
tranh chấp, binh đao xảy ra. Nếu thiếu
thiện tri thức thì không ai
dìu dắt giúp đỡ. Đó là những
điều kiện bất tiện đối với một
hành giả tu tập thiền quán.
5
yếu tố thuận tiện cho việc
tu tập:
Đức Thế tôn dạy trong kinh Tăng chi như sau: 1. "Một trú xứ không quá xa, không quá gần và có một
con đường để đi lại; 2. ban ngày ít người
lui tới, ban đêm ít
ồn ào; 3. ít ruồi, muỗi, gió,
ánh nắng và các loài bò sát; 4. người sống trong đó dễ kiếm 4 thứ nhu yếu; 5. trong đó có những
thượng tọa Tỳ khưu
đa văn, thông
kinh điển, những người tuân giữ Pháp và Luật,
thỉnh thoảng hỏi
nghĩa lý kinh điển thì những vị nầy có thể khai thị những điều chưa được khai thị,
trừ nghi cho
hành giả những điểm còn nghi". (A. v. 15)
Đề mục đất: Khi một Tỳ khưu đã tìm được một nơi
tương đối thuận lợi, thì
cần phải chọn một
đề mục thích hợp để
thiền định.
Đề mục hay
biến xứ phổ thông nhất mà các Tỳ khưu
thường dùng là
đề mục đất.
Đề mục đất: nắn một cục đất có hình
hoa sen, đường kính khoảng 1 gang tay.
Vị trí: đặt cố định hoặc
mang theo lưu động.
Cần tránh: màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Tóc, móng tay dài, ở dơ, y rách.
Chú tâm vào đối tượng, nghĩ rằng: "Chắc chắn bằng cách nầy ta sẽ
thoát khỏi già chết"; "Dục đem lại vui ít mà khổ nhiều, não nhiều", khởi lên sự khao khát
thoát ly dục vọng, khao khát
từ bỏ mọi sự
ô nhiễm của
tâm hồn. Khởi lên niềm
hân hoan tưởng nhớ những đức tính
đặc biệt của Phật, Pháp, Tăng, khởi lên niềm kính phục với
ý nghĩ rằng: "Đây là
con đường từ bỏ mà tất cả chư Phật,
Độc giác và
Thánh chúng đã dấn thân", Khởi lên niềm
hăng hái với
ý nghĩ: "Bằng cách nầy,
chắc chắn ta sẽ biết được vị ngọt của hạnh độc cư".
Phương pháp thiền: mở 2 con mắt một cách
vừa phải,
quán tưởng và
tiếp tục khai triển, nhưng mắt không rời đối tượng, như thể đang nhìn gương mặt mình trên một tấm gương soi.
Chúng ta tiếp tục tu tập quán
biến xứ ấy
cho đến khi
thâm nhập vào nơi tâm, bấy giờ dù
mở mắt hay nhắm mắt,
hành giả vẫn thấy tướng ấy
rõ ràng. Đó tức là Sơ tướng đã phát sinh. Thế rồi,
tiếp tục quán chiếu dần dần, những
triền cái được
dập tắt,
cấu uế lắng xuống, tâm trở nên tập trung với định cận hành và Tợ tướng
xuất hiện. Sự khác nhau giữa Sơ tướng và Tợ tướng, như sau: Trong Sơ tướng, bất cứ lỗi nào của
biến xứ đều hiện rõ, nhưng Tợ tướng
xuất hiện như thể tách rời khỏi sơ tướng và
trong sạch hơn gấp trăm ngàn lần.
Tâm
chúng ta bấy giờ trở nên
an tĩnh, thông thường trong
kinh điển gọi là phát sinh 2 thứ định. Đó là Định cận hành (upacāra) và Định an chỉ (appanā). Định cận hành là do
từ bỏ những
triền cái, và Định an chỉ là do sự
xuất hiện những
thiền chi. Hai loại định nầy khác nhau chủ yếu là khi Định cận hành thì các
thiền chi (tầm, tứ, hỉ, lạc,
nhất tâm) còn
yếu kém, nhưng đến khi Định an chỉ thì các
thiền chi trở nên mạnh mẽ, và do thế, khi định nầy phát sinh là lúc
hữu phần dừng lại, tâm
tiếp tục với một dòng
tốc hành tâm suốt cả đêm ngày.
MƯỜI
THIỆN XẢO TRONG ĐỊNH AN CHỈ
Giả dụ,
chúng ta đã chọn được
một trú xứ có khí hậu
mát mẻ,
ẩm thực đầy đủ, không xa xóm làng, cũng không quá gần xóm làng, có
thiện hữu tri thức,
nỗ lực tu tập mà vẫn không đắc định thì phải nhờ đến 10
thiện xảo trong sự đắc định an chỉ như sau: 1. Làm sạch nội, ngoại xứ. 2.
Duy trì sự
quân bình giữa các căn. 3.
Thiện xảo về tướng. 4.
Nỗ lực tâm
đúng lúc nỗ lực. 5.
Chế ngự tâm lúc đáng
chế ngự. 6. Khích lệ tâm lúc đáng khích lệ. 7. Nhìn tâm với
thái độ xả khi cần nhìn với xả. 8. Tránh những người
không định tĩnh. 9. Gần những người định tĩnh. 10.
Quyết tâm đối với định.
Chú giải:
1. Làm sạch nội, ngoại xứ là giữ cho
thân thể và quần áo sạch sẽ.
2.
Duy trì các căn là làm
quân bình 5 căn tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Vì khi bất cứ một căn nào trở nên quá mạnh thì những căn khác không phát huy được
tác dụng của nó.
Ví dụ như một người có tín nhiều, tuệ ít, thì
tin tưởng thiếu
phán đoán, thiếu căn cứ. Còn một người nhiều tuệ mà ít tín thì dễ sinh ra ngông cuồng, cũng như người bị lạm thuốc rất khó chữa trị. Một người định nhiều, tấn ít, thì dễ sinh
giải đãi; một người tấn nhiều, định ít, thì dễ sinh
trạo cử. Nhưng nếu định
quân bình với tấn, thì không rơi vào
giải đãi, và
tinh tấn cân đối với định thì không rơi vào
trạo cử.
Tuy nhiên, niệm mới là
yếu tố cần thiết nhất trong mọi
trường hợp, vì nó có khả năng
thiết lập sự cân bằng giữa các căn khác.
3.
Thiện xảo về tướng là sự khéo léo làm phát
sinh tướng nhất tâm qua
biến xứ đất.
4.
Nỗ lực tâm khi cần
nỗ lực là khi tâm
giải đãi thì
hành giả nên
tu tập trạch pháp,
tinh tấn và hỉ.
Có 7 pháp
trợ duyên cho
Trạch pháp giác chi là:
1. đặt câu hỏi;
2. Làm sạch nội, ngoại xứ;
3.
Quân bình các căn;
4. Tránh những người thiếu
trí tuệ;
5. Thân cận người có trí;
6. Ôn lại những
tri kiến đã thủ đắc;
7.
Quyết định đối với
trạch pháp.
Đồng thời có 11 pháp
trợ duyên cho
Tinh tấn giác chi như sau:
1. Ôn lại sự khủng khiếp của các đọa xứ;
2. Thấy
lợi ích trong sự
đạt đến những điều
thù thắng thuộc
thế gian và
xuất thế gian;
3. Thấy rõ
con đường mình đi cũng chính là
con đường mà chư Phật đã đi;
4. Phải
tỏ ra xứng đáng với những đồ
khất thực;
5. Nhớ đến
tính cách vĩ đại của
đức Phật;
6. Nghĩ đến sự cao cả của
chánh pháp;
7. Dùng
quán tưởng để đoạn trừ
hôn trầm thụy miên;
8. Tránh những người
biếng nhác;
9. Gần những người siêng năng;
10. Ôn lại 4
chánh cần;
11.
quyết định đối với
tinh tấn.
Lại có 11 pháp
trợ duyên cho
Hỉ giác chi:
1.
Niệm Phật2.
Niệm pháp3.
Niệm Tăng4.
Niệm giới5.
Niệm thí6.
Niệm Thiên7. Niệm sự
bình an8. Tránh gần người
thô lỗ9. Gần người tao nhã
10. Đọc lại những kinh khích lệ
11.
Quyết tâm đối với hỉ.
5.
Chế ngự tâm lúc cần
chế ngự là khi tâm (
dao động) thì
cần tu tập
khinh an, định và
xả giác chi. Vì một tâm
dao động nhờ những pháp nầy mà được định tĩnh.
Theo Buddhaghosa có 7 pháp
trợ duyên cho
Khinh an giác chi như sau:
1. Dùng
thực phẩm bậc thượng;
2. Ở nơi khí hậu tốt;
3. Giữ tư thế
thoải mái,
dễ chịu;
4. Làm theo
trung đạo;
5. Tránh người hung hăng,
bạo động;
6. Gần gũi người
thân hành an tịnh;
7.
Quyết tâm đối với sự
khinh an.
Đồng thời có 11 pháp
trợ duyên cho
Định giác chi:
1. Làm sạch
nội ngoại xứ;
2.
Thiện xảo về tướng;
3.
Quân bình các căn;
4.
Chế ngự tâm khi cần
chế ngự;
5.
Tu tập tâm lúc
cần tu tập;
6. Khích lệ tâm bằng
niềm tin và
ý thức về cái chết;
7. Nhìn mọi sự xảy ra với
thái độ xả;
8. Tránh những người
không định tĩnh;
9. Gần gũi người định tĩnh;
10. Ôn tầm các thiền và
giải thoát;
11.
quyết tâm đối với định.
Lại có 5 pháp
trợ duyên cho
Xả giác chi:
1. Giữ
thái độ xả đối với các
hữu tình;
2. Xả đối với các hành (loài vô tình);
3. Tránh những người
bảo thủ cố chấp;
4. Gần gũi người ưa
hỉ xả;
5.
Quyết tâm đối với xả.
6. Khích lệ tâm lúc cần khích lệ là
hành giả nên tự
cảnh tỉnh về nỗi khổ sinh, già, bịnh, chết, và những nỗi khổ khác.
7. Nhìn tâm với
thái độ xả khi cần nhìn là
hành giả khi thấy có
tiến bộ phải giữ tâm một cách bình thản,
an tịnh.
8. Tránh những người
không định tĩnh là tránh những người
đa đoan, hiếu sự,
tâm trí tán loạn.
9. Gần gũi người định tĩnh là nên gần gũi những người đã
xuất ly, đã đắc định.
10.
Quyết tâm đối với định tức xem định là
yếu tố quan trọng, luôn luôn hướng tâm về định.
Khi
hành giả hướng tâm
tu tập theo những cách kể trên thì sẽ phát sinh 4 hoặc 5
tốc hành tâm sau đây: tâm chuẩn bị; tâm cận hành; tâm
thuận thứ; tâm chuyển tánh; tâm an chỉ. Hoặc bỏ bớt tâm chuẩn bị còn lại 4 tâm.
SƠ THIỀNĐến đây,
hành giả hoàn toàn ly dục, ly
bất thiện pháp, chứng và trú
Sơ thiền, có tầm, có tứ, với hỉ lạc do
ly dục sinh;
từ bỏ 5 pháp,
đạt được 5 pháp,
tốt đẹp ở 3
phương diện, có 10
đặc tính, và
Sơ thiền nầy thuộc
biến xứ đất.
Hoàn toàn ly dục nghĩa là
thoát khỏi mọi
dục vọng, vì dục là cái đối nghịch với so thiền. Nếu có dục thì không thể đắc
Sơ thiền, cũng như có tối thì không có sáng. Danh từ "dục"
bao gồm nhiều thứ; Đó là dục kể như đối tượng, tức là những
sắc pháp dễ
ưa thích, và dục kể như
cấu uế như Bộ Phân Tích (vibhanga) nói: "Đam mê là dục,
thèm muốn là dục, khát khao là dục".
Ly
bất thiện pháp là
xa lìa các
triền cái khác ngoài dục. Như vậy,
ly dục là
từ bỏ cái nhân của tham, còn ly
bất thiện pháp là
từ bỏ cái nhân của si.
Ly dục là
thanh tịnh thân nghiệp, ly
bất thiện pháp là
thanh tịnh ý nghiệp. Nói cách khác,
ly dục tức là thân
viễn ly còn ly
bất thiện pháp tức là tâm
viễn ly.
Ở đây, cũng nên hiểu thêm về
ý nghĩa của dục. Chữ dục
thường dùng để dịch các từ chanda, kāma và rāga. Chanda rất
thông dụng, có nghĩa là hăng say,
ham muốn tốt hoặc xấu. Kāma chỉ chung
ngũ dục thuộc
dục giới, còn theo
nghĩa hẹp là
dâm dục. Nếu kāma
kết hợp với chanda thì thành ra kāmacchanda nghĩa là
dục tham. Rāga là
ham muốn,
thèm khát theo ý xấu.
Ở trên nói
đạt được năm pháp
tức chỉ cho 5
thiền chi là tầm, tứ, hỉ, lạc và
nhất tâm.
Tầm (vitakka) là
trạng thái hướng tâm đến một đối tượng;
nhiệm vụ nó là đập mạnh vào.
Tứ (vicāra) là
tư duy được nâng lên cao độ.
Đặc tính của nó là
liên tục nhấn mạnh vào đối tượng.
Nhiệm vụ của nó là khiến cho những
tâm pháp đều tập trung trên đối tượng. Mặc dù tầm và
tứ không rời nhau, nhưng tầm có nghĩa là sự xúc chạm đầu tiên của tâm với đối tượng, như đánh lên một
tiếng chuông. Còn tứ là buộc tâm vào một chỗ, như rung chuông. Hơn nữa, tầm được
ví như bàn tay
nắm chặt cái đĩa kim loại bị hoen rỉ, còn tứ như bàn tay chà xát cái đĩa ấy bằng một
mảnh dẻ tẩm dầu. Hoặc khi ta vẽ một cái vòng tròn thì cây kim cố định giữa
trung tâm ví như tầm, cây kim
di động vòng quanh cái tâm điểm đó gọi là tứ.
Sơ thiền được xảy đến
cùng lúc với tầm và tứ nên được gọi là "Câu hữu với tầm tứ".
Hỉ là
trạng thái tươi tỉnh,
mát mẻ. Nó
gồm có 5 cấp bậc từ thấp lên cao: tiểu hỉ; hỉ như
chớp nhoáng; hỉ như mưa rào; hỉ nâng người lên và hỉ
sung mãn. Tiểu hỉ chỉ có thể là dựng lông tóc trong người mà thôi. Hỉ như
chớp nhoáng thỉnh thoảng lóe lên. Hỉ như mưa rào nổi trên cơ thể
liên tục, như sóng vỗ vào bờ. Hỉ nâng người có thể làm cho
thân thể mất trọng lượng và bay bổng lên. Hỉ
sung mãn là
toàn thân được
thấm nhuần, như cái chai đổ đầy nước.
Năm thứ hỉ nói trên, khi được làm cho
chín muồi thì sẽ
viên mãn 2 thứ
khinh an là thân
khinh an và tâm
khinh an.
Khinh an được làm cho
chín muồi sẽ
viên mãn 2 thứ lạc là thân lạc và
tâm lạc. Lạc được ấp ủ làm cho
chín muồi, sẽ
viên mãn 3 thứ định là định chốc lát, định cận hành và định an chỉ.
Lạc (sukha) là sự
hài lòng, sự
hạnh phúc.
Đặc tính của nó là làm
thỏa mãn. Dụng của nó là
tăng cường độ các pháp
tương ứng. Tướng của nó là sự hỗ trợ.
Khi hỉ lạc được
liên kết, thì hỉ có nghĩa "hài lòng vì
đạt được điều mong ước", còn lạc là "kinh nghiệm thực thụ đối với điều đã đạt được". Có hỉ tất nhiên có lạc, nhưng có lạc thì không
nhất định có hỉ. Hỉ thuộc
hành uẩn, lạc thuộc
thọ uẩn. Lúc một người khát nước
kiệt sức trên sa mạc mà thấy được vũng nước ven rừng, người ấy sẽ có hỉ, nếu người ấy đi đến uống nước ấy thì sẽ có lạc.
Nhất tâm hay định là tâm
chuyên chú vào một đối tượng
duy nhất.
Sơ thiền là cấp
thiền đầu tiên đối với các cấp bậc khác. Chứng (upassampajja) là
đạt đến, là
thể nhập, đến nơi, sờ chạm,
thực hiện. Trú (viharati) là
an trú trong tư thế
thích hợp đối với cấp thiền đã
đạt được.
Từ bỏ 5 pháp tức là
từ bỏ 5
triền cái (tham, sân,
hôn trầm,
trạo hối và nghi). Mặc dù lúc đắc thiền, các pháp
bất thiện khác cũng được
từ bỏ, nhưng chỉ có 5 pháp nầy là
đặc biệt chướng ngại đối với thiền.
Khi tâm bị
tham dục chi phối do
thèm muốn các đối tượng sai khác, thì không thể tập trung vào một đối tượng
duy nhất. Khi tâm bị nhiễm độc bởi sân thì không thể
sinh khởi hỉ lạc. Khi tâm bị
hôn trầm, thùy miên
chi phối, thì rất khó
điều phục. Khi bị
trạo hối quấy nhiễu, thì tâm trở nên
bất an,
lăng xăng. Khi
hoài nghi nổi lên thì
tâm không thể
bước lên đạo lộ để đắc thiền.
Bản đồ dùng 5
thiền chi đối trị 5
triền cái:
Thiền chi*
Triền cáiTầm
đối trịHôn trầmTứ
đối trịNghi
Hỉ
đối trịSân
Lạc
đối trịTrạo hối (cử)
Nhất tâm (định)
đối trịTham dục.
Những ví dụ về 5
triền cái:
Tham dục được
ví như một tô nước có trộn lẫn các màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Sân được
ví như một nồi nước đang đun sôi sùng sục.
Hôn trầm được
ví như một hồ nước bị rong rêu che phủ.
Trạo hối được
ví như một hồ nước bị gió chao làm cho nổi sóng. Nghi được
ví như một hồ nước bị khuấy bùn đục ngầu. (
Tương Ưng bộ kinh, Chương II, phẩm VI, mục 55, tr. 126-129)
Tốt đẹp ở 3
phương diện là chỉ cho 3 giai đoạn đầu, giữa và cuối. Ở
Sơ thiền, sự
thanh tịnh đạo lộ là chặng đầu; sự
tăng trưởng xả là chặng giữa và sự
toại ý là chặng cuối.
Mười
đặc tính: là chặng đầu có 3, chặng giữa 3 và chặng cuối 4. Chặng đầu 3
đặc tính là:
Tịnh tâm được lọc sạch
chướng ngại do thiền; nhờ lọc sạch nó chuẩn bị cho
trạng thái quân bình ở chặng giữa tức tịnh tướng; nhờ tâm đã chuẩn bị, nên dễ
thể nhập Tịnh
trạng thái ấy. Chặng giữa 3
đặc tính là:
hành giả bấy giờ, với
trạng thái xả, nhìn tâm xả đã được thanh lọc; nhìn tâm đã được chuẩn bị cho tịnh tướng xả, và nhìn sự
xuất hiện của
trạng thái xả. Chặng cuối có 4
đặc tính là:
toại ý Pháp vì không có sự
quá độ nào trong các pháp khởi lên;
toại ý căn vì các căn chỉ có một
nhiệm vụ duy nhất;
toại ý kết quả vì sự
nỗ lực đã có kết quả;
toại ý thuần thục với
nghĩa lý thuần thục. Đó là 10
đặc tính khi một
hành giả đã
đạt được Sơ thiền.
Khi
hành giả đã làm
chủ sự tác ý, làm
chủ sự chứng đắc, làm
chủ sự quyết định, làm
chủ sự xuất định và làm
chủ sự quán sát, thì lúc xuất khỏi
sơ thiền đã trở nên
quen thuộc. Vị nầy có thể quán những khuyết điểm của nó như sau: "Thiền nầy bị
đe dọa vì gần các
triền cái, và các
thiền chi còn yếu
do bởi tầm, tứ còn thô".
Hành giả có thể nghĩ đến
Nhị thiền là
an tịnh hơn; do đó,
chấm dứt bám víu vào
Sơ thiền, mà khởi sự làm những gì
cần thiết để
đạt đến Nhị thiền.
NHỊ THIỀNĐến đây, "hành giả làm
tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú
Nhị thiền, nội tĩnh
nhất tâm, không tầm, không tứ, với hỉ và lạc do định sanh; Vị ấy
từ bỏ 2 pháp, có được 3 pháp,
tốt đẹp ở 3
phương diện, có 10
đặc tính và thuộc
biến xứ đất."
Làm
tịnh chỉ tầm và tứ nghĩa là làm cho tầm và tứ lắng xuống,
vượt qua Tầm và Tứ, hai
thiền chi này không có mặt ở
Nhị thiền.
Nội tĩnh
nhất tâm: Nội là phát xuất từ
nội tâm. Tĩnh là làm cho tâm
an ổn với
niềm tin, làm lắng dịu sự
dao động.
Nhất tâm là làm tâm
thuần nhất,
vững chãi, là sự tập trung cao độ. Từ nầy chỉ cho định.
Có hỉ và lạc như đã
giải thích ở
Sơ thiền. Do định sanh nghĩa là sinh
từ định của
Sơ thiền, hoặc sinh
từ định tương ưng.
Từ bỏ hai pháp là
từ bỏ tầm và tứ. Có được 3 pháp là có hỉ, lạc và
nhất tâm. Những gì còn lại cũng giống như đã nói ở
Sơ thiền.
Khi
hành giả đã nhuần nhuyễn đối với
Nhị thiền,
dần dần sẽ thấy rõ
Nhị thiền còn có những khuyết điểm. Do đó, hướng đến
Tam thiền.
TAM THIỀNĐến đây, "Hành giả ly hỉ, trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm thọ lạc, một
trạng thái mà các bậc thánh
tuyên bố là "Có xả và
chánh niệm, trú trong an lạc", và vị này
đạt đến Tam thiền,
từ bỏ một pháp, có được 2 pháp,
tốt đẹp ở 3
phương diện, có 10
đặc tính và thuộc
biến xứ đất."
Ly hỉ là
vượt qua, làm rơi rụng Hỉ ở
Nhị thiền.
Trú xả (Upekkha-xả) có nghĩa là
ngắm nhìn sự vật khi chúng xảy ra một cách
thản nhiên, không thêm không bớt, không
thành kiến. Khái
niệm xả này
gồm có 10 thứ: Xả thuộc 6 căn; Xả thuộc 4
phạm trú; Xả kể như một
giác chi; Xả về
tinh tấn; Xả về
hành uẩn; Xả về
thọ uẩn; Xả thuộc tuệ; Xả kể như tính
trung lập đặc biệt; Xả ở thiền; Và xả kể như sự
thanh tịnh.
Xả thuộc 6 căn là xả ở một vị đã đoạn
tận lậu hoặc. Xả kể như một
phạm trú là
thái độ bình đẳng đối với mọi loài
chúng sanh. Xả kể như một
giác chi là
trạng thái trung tính. Xả về
tinh tấn là
trạng thái không quá
tinh cần, cũng không quá
biếng nhác. Xả thuộc
hành uẩn là
thái độ thản nhiên đối với những
triền cái. Xả về
thọ uẩn là
tình trạng không lạc không khổ. Xả thuộc tuệ là
tính cách trung lập đối với sự suy đạt. Xả kể như tính
trung lập đặt biệt là một trong 4 pháp thuộc
bất định pháp. Xả thuộc thiền là tính
vô tư bình đẳng. Xả kể như sự
thanh tịnh là loại xả nhờ đã được
tịnh chỉ hết các
đối lập.
Tóm lại, Xả nầy có
đặc tính là
trung tính;
Nhiệm vụ nó là không
can dự. Nó được biểu hiện bằng vô dục. Nhân gần của nó là sự
từ bỏ hỉ. Đó là
giải thích về Xả. Sau đây,
tiếp tục giải thích các
vấn đề ở trên.
Chánh niệm tỉnh giác: Vị ấy nhớ lại (sarati) nên gọi là
chánh niệm (sati); có sự
giác tỉnh toàn vẹn, nên gọi là
tỉnh giác (sampajāna). Mặc dù
chánh niệm và tỉnh giác nầy cũng
hiện hữu ở 2
thiền đầu, nhưng chưa rõ rệt lắm.
Thân
cảm thọ lạc là vị này
cảm thấy lạc
liên hệ đến
thân thể, và sau khi xuất thiền vẫn còn lạc.
Tam thiền là theo thứ tự thiền này được chứng vào hàng thứ 3.
Từ bỏ một pháp, có hai pháp là
từ bỏ hỉ, khởi lên lạc và
nhất tâm. Đây là những
yếu tố căn bản của thiền thứ 3 này. Nhưng
hành giả tu tập thiền này đến độ
thuần thục,
dần dần sẽ
nhận ra thiền này vẫn còn khuyết điểm, nên hướng tâm đến thiền thứ tư.
TỨ THIỀNBước sang giai đoạn này "Với sự
từ bỏ lạc và khổ, với sự biến mất từ trước của hỉ và ưu, vị này chứng và trú
Tứ thiền, không khổ, không lạc, có sự
thanh tịnh của niệm nhờ xả." Và như vậy,
hành giả đắc
Tứ thiền,
từ bỏ một pháp, có 2 pháp,
tốt đẹp ở 3
phương diện, có 10
đặc tính và thuộc
biến xứ đất.
Với sự
từ bỏ lạc và khổ là
từ bỏ lạc và khổ của thân. Với sự biến mất của hỉ và ưu là sự biến mất lạc và khổ của tâm. Từ trước là không phải ở giai đoạn
Tứ thiền mới xảy ra.
Không
khổ không lạc: không khổ vì
vắng mặt thân khổ; Không lạc vì
vắng mặt thân lạc. Bằng câu này, Buddhaghosa nêu lên loại
cảm thọ thứ ba trái ngược hẳn với khổ và lạc, chứ không phải chỉ có sự
vắng mặt của khổ và lạc mà thôi. Do đó, không
khổ không lạc còn gọi là xả.
Từ bỏ một pháp, có được hai pháp là
từ bỏ lạc, có được xả - kể như
cảm thọ - và
nhất tâm. Đây là những
yếu tố căn bản của thiền thứ tư này.
Tóm lại,
trải qua các giai đoạn từ
Sơ thiền đến thứ tư,
dần dần các
yếu tố được loại trừ và còn lại như sau:
-
Sơ thiền bỏ 5
triền cái, được 5
thiền chi.
-
Nhị thiền bỏ tầm tứ, còn lại hỉ, lạc và
nhất tâm.
-
Tam thiền bỏ hỉ còn lại lạc và
nhất tâm.
-
Tứ thiền bỏ lạc còn lại
nhất tâm và Xả.
NGŨ THIỀN
Ngoài ra, có một
số luận Ngài còn chủ trương
hệ thống 5 thiền.
Hệ thống này chỉ khác
hệ thống 4 thiền ở chỗ chia thiền thứ hai thành ra 2 cấp, như bảng
so sánh sau đây:
Hệ thống 4 thiền
Hệ thống 5 thiền
Sơ thiềnSơ thiềnNhị thiềnNhị thiềnTam thiềnTam thiềnTứ thiềnTứ thiềnNgũ thiền.
BÀI NĂM
CHƯƠNG V - ĐỊNH - NHỮNG
ĐỀ MỤC KHÁC
1.
Biến xứ nước
Người
tu tập biến xứ này - cũng như trong
trường hợp biến xứ đất - cần có thế ngồi
thoải mái và nắm lấy tướng nước. Nếu người đã
tu tập ở đời trước, thì khi cần
tác ý đến nước,
biến xứ nước sẽ
hiện ra. Nếu đời trước chưa
tu tập biến xứ này thì cần lấy một cái bát đổ đầy nước làm căn cứ để
tác ý đến nước, và miệng thầm nhủ "nước, nước",
cho đến khi nào Sơ tướng và Tợ tướng khởi lên rõ rệt. Khi tướng ấy
xuất hiện thì
hành giả đạt đến định cận hành và định an chỉ thuộc
Tứ thiền hay Ngũ thiền như trên đã nói.
2.
Biến xứ lửa
Người muốn
tu tập biến xứ lửa cần nắm lấy tướng lửa. Nếu
hành giả đời trước đã
tu tập, thì có thể
tác ý đến bất cứ loại lửa nào khi cần. Nếu đời trước chưa
tu tập thì phải dùng một que củi đốt lên, rồi
chú tâm đến ngọn lửa, miệng thầm nhủ " lửa, lửa",
cho đến khi nào 2 loại định
xuất hiện như
trường hợp biến xứ nước.
3.
Biến xứ gió
Người muốn
tu tập biến xứ này
cần phải nắm lấy tướng
hư không, rồi
an trú niệm vào gió thầm nhũ "gió, gió",
cho đến khi nào Sơ tướng rồi tợ tướng
xuất hiện.
4.
Biến xứ xanh
Người
tu tập biến xứ này
cần phải nắm lấy tướng màu xanh. Nếu người đã từng
tu tập từ đời trước thì có thể
tác ý về màu xanh ở bất cứ vật gì. Nếu người chưa từng
tu tập, thì phải dùng
hoa sen xanh đặt trên một vật cố định, rồi
chú tâm trên tướng ấy, thầm nhủ: "xanh, xanh", còn các việc khác như đã nói trong phần
biến xứ đất.
5.
Biến xứ vàng
Người muốn
tu tập biến xứ này
cần phải nắm lấy tướng màu vàng nơi một cái hoa, hay một tấm vải. Nếu đời trước đã
tu tập thì tướng màu vàng
xuất hiện dễ dàng. Nếu đời trước chưa
tu tập, thì phải làm một
biến xứ theo cách đã nói ở
biến xứ xanh, rồi
chú tâm trên tướng ấy, thầm tưởng "vàng, vàng".
6-9.
Biến xứ màu đỏ;
Biến xứ màu trắng;
Biến xứ ánh sáng;
Biến xứ hư không.
Người muốn
tu tập các
biến xứ này cũng theo cách
tương tự như đã trình bày ở các
biến xứ trên.
10. Nói tổng quát về
tác dụng của các
biến xứ trên
Ngài đã dạy về 10
biến xứ, mỗi thứ đều có thể làm nhân cho 4 thiền hay 5 thiền. Đó là chìa khóa chủ yếu của cõi
sắc giới. Trong những
biến xứ này,
biến xứ đất là
căn bản cho những
thần thông, như: "một thân biến ra nhiều thân".
Biến xứ nước là
căn bản cho những
thần thông như
độn thổ, chui ra khỏi đất.
Biến xứ lửa là
căn bản cho những
năng lực làm ra khói, ra lửa, nhưng chỉ đốt cháy những gì mình muốn đốt.
Biến xứ gió là
căn bản cho những
thần thông như tạo ra những trận cuồng phong.
Biến xứ xanh là
căn bản cho những
thần thông như tạo ra những
hình tướng màu đen, bóng tối.
Biến xứ vàng là
căn bản cho những
thần thông như tạo ra những
hình tướng màu vàng.
Biến xứ đỏ là
căn bản cho những
thần thông như tạo ra những
hình tướng màu đỏ.
Ngoài ra, các
biến xứ còn lại cũng có những
tác dụng tương tự như
các loại vừa kể.
Tuy vậy, không phải ai cũng có thể
tu tập được
các loại biến xứ này. Bởi vì, nếu một
hữu tình thuộc loại sau đây thì không thể
tu tập bất cứ
biến xứ nào: "Bị nghiệp làm
chướng ngại, bị
phiền não làm
chướng ngại, bị nghiệp
dị thục (
quả báo của nghiệp) làm
chướng ngại, thiếu
đức tin, thiếu dục, thiếu tuệ. Những người này không
thể nhập được
quyết định tánh trong các
thiện pháp." (Vbh. 341)
Nghiệp chướng là chỉ những người có
ác nghiệp kéo theo
quả báo tức thì vào lúc
tái sinh.
Phiền não chướng chỉ cho hạng người có
tà kiến bác bỏ nhân quả. Nghiệp
dị thục hay
báo chướng chỉ cho hạng người có một kiết
sinh không có
thiện căn. Thiếu
đức tin là không tin
tam bảo. Thiếu dục là thiếu
lòng ham muốn đối với đạo lộ
vô ngại. Thiếu tuệ là thiếu
chánh kiến thế gian và
xuất thế gian. Tánh
quyết định chỉ cho
thánh đạo.
Bởi vậy, việc
tu thiền phải được
thực hiện bởi một
thiện nam tử không bị
báo chướng, không có
phiền não chướng và
nghiệp chướng, nuôi lớn
đức tin, có dục và tuệ, siêng
nghe pháp và gần gũi
thiện hữu tri thức.
BÀI SÁU
CHƯƠNG VI - ĐỊNH -
QUÁN BẤT TỊNH1. ĐỊNH NGHĨA TỔNG QUÁT
Theo Buddhaghosa, 10 thứ
bất tịnh nơi
Tử thi chết không còn
thần thức được kể như sau: 1. Tướng phình trương; 2. Tướng xanh bầm; 3. Tướng
máu mủ; 4. Tướng nứt nẻ; 5. Bị gậm nhấm; 6. Bị
rã rời; 7. Bị phân tán; 8. Bị chảy máu; 9. Bị trùng ăn; 10. Tướng bộ xương. (Ch. III, 105)
2. TƯỚNG PHÌNH TRƯƠNG
Khi một thiền giả muốn
tu tập phép
quán bất tịnh về một
tử thi phình trương,
cần phải thọ giáo với một vị thầy
am tường về đề tài này. Lúc đi đến bãi tha ma hay nơi có
tử thi,
hành giả phải thưa với một vị
thượng tọa hay một Tỳ khưu khác biết việc mình làm, và nên
đi theo chiều xuôi gió để tránh hôi thối làm cho mình nôn mửa.
Tử thi thích hợp phải là
tử thi của người cùng phái. Vì nếu thi thể của một
phụ nữ thì không
thích hợp cho một
hành giả phái nam. Thậm chí, nếu
Tử thi mới chết, nó còn có thể trông đẹp nữa là khác, và do đó có thể nguy hiểm cho
đời sống phạm hạnh. Khi đã đến nơi,
hành giả phải đứng
đối diện với
tử thi ở một khoảng cách
vừa tầm nhìn rõ, không
xa quá, cũng không gần quá. Thế rồi,
hành giả chú tâm trên đối tượng ấy với các
yếu tố:
1/ Theo màu sắc của nó;
2/ Theo
đặc điểm của nó;
3/ Theo
hình dáng;
4/
Phương hướng;
5/ Định xứ;
6/
Giới hạn của nó.
Nhưng nếu
quán tưởng theo các cách trên mà tợ
tướng không xuất hiện, thì
hành giả nên
quán tưởng theo 5 cách khác nữa:
7/ Những khớp xương;
8/ Những chỗ mở ra;
9/Những chỗ lồi;
10/ Những chỗ lõm;
11/
Xung quanh 4 phía.
Theo những cách này,
hành giả chú tâm vào
tử thi, thầm nhủ: "Tướng phình trương, tướng phình trương",
cho đến khi nào
hình ảnh tử thi hiện rõ trong
tâm hành giả. Nếu tướng ấy vẫn chưa hiện rõ,
hành giả phải lập đi lập lại nhiều lần: "Bất tịnh là tướng phình trương,
bất tịnh là tướng phình trương", và nhắm mắt lại tưởng đến tướng ấy
cho đến khi nào tướng ấy
hiện ra trước mắt, dù
hành giả mở mắt nhìn hay nhắm mắt quán.
Khi
hành giả luyện tập đến độ nhuần nhuyễn, tợ tướng sẽ khởi lên, và khi luyện tập tâm đối với tợ tướng,
hành giả sẽ đắc định an chỉ. Khi đã
vững chắc với an chỉ,
hành giả tu tập tuệ giác và
đắc quả A la hán.
Tướng
tử thi phình trương được
tu tập như trên thì các tướng bầm xanh v.v... cũng
áp dụng tương tự như thế, chỉ cần đổi danh từ "phình trương" bằng danh từ
thích hợp với
tình trạng tử thi mà mình đang
quán tưởng.
3. BÀN TỔNG QUÁT
Một người đã đắc thiền nhờ bất cứ pháp
quán bất tịnh nào trên đây thì
thoát khỏi tham dục. Vì khi tâm đã được tập trung vào
đề mục quán tưởng thì không còn chú ý đến các đối tượng bên ngoài.
Khi khảo sát
bản tính của từng người để tìm một pháp
quán bất tịnh thích hợp, ta thấy như sau: Tướng
Tử thi phình trương
thích hợp cho mẫu người tham
hình dáng, vì nó làm hiện rõ sự
xấu xí của
hình dáng tử thi.
Tử thi bầm xanh
thích hợp cho vị nào tham màu da, vì nó hiện rõ sự
xấu xí dị hình của màu da.
Tử thi có mủ
thích hợp cho một người tham
mùi thơm toát ra từ
thân thể ướp hương, vì vết thương này làm hiện rõ mùi thối tha
liên hệ đến
thân thể.
Tử thi bị chặt
thích hợp cho một người
tham sự chắc chắn của
thân thể, vì nó làm hiện rõ những lỗ hổng trong thân.
Tử thi bị
gặm nhấm thích hợp cho một người
tham sự tích tụ của thịt ở những
thân phần như bộ ngực, vì nó làm hiện rõ
sự tích tụ thịt đi đến tan rã.
Tử thi rã rời thích hợp cho một người tham dáng
kiều diễm của tay chân, vì nó làm hiện rõ tay chân bị
rã rời như thế nào.
Tử thi phân tán
thích hợp cho một người tham
toàn bộ một
thân hình đẹp, vì nó làm hiện rõ sự phân tán và đổi khác của
toàn bộ thân thể.
Tử thi chảy máu
thích hợp cho một người tham cái vẻ
yểu điệu do đồ trang sức, vì nó làm hiện rõ vẻ ghê tởm của
Tử thi chết cả mình đầy máu.
Tử thi bị trùng ăn
thích hợp cho một người tham
sở hữu thân thể, vì nó làm hiện rõ thân này là chỗ ở của nhiều loại trùng bọ. Một bộ xương
thích hợp với người tham răng đẹp, vì nó làm hiện rõ
tính cách ghê tởm của những cái xương trong cơ thể. Đây là cách phân loại
bất tịnh có 10 thứ
tùy theo tính tham.
Pháp
quán bất tịnh này chỉ ở trong
phạm vi Sơ thiền,
Nhị thiền và những thiền khác không có. Mặc dù đối tượng này đáng ghê tởm, nhưng nó lại là một động cơ khích lệ cho những người bị sự
bức bách của các
triền cái, họ có thể
quyết tâm tuyên bố: "Chắc chắn bằng cách này ta sẽ
thoát khỏi già chết".
Tác dụng của pháp quán này cũng giống như thuốc xổ đối với một người đau bụng.
Tuy pháp
quán bất tịnh này được chia thành 10 loại, nhưng đều có cùng một
đặc tính, đó là
trạng thái không sạch, hôi hám, đáng ghê tởm. Không những
tử thi mới gọi là
bất tịnh, mà một xác sống cũng mang đầy đủ
tính chất bất tịnh như một
xác chết, chỉ khác một điều là
tính chất bất tịnh nơi xác sống không được rõ rệt, vì nó
may mắn được
che dấu dưới những lớp trang sức khả ái.
Đây là
bản chất đích thực của thân xác: Nó là
sự tích tụ của hơn 300 cái xương được nối lại
với nhau bởi 180 khớp dính liền nhờ 900 cái gân, trét đầy khắp với 900 miếng thịt, được bọc bằng lớp da trong ẩm ướt, bao ngoài với lớp da có những lỗ rải rác đó đây, luôn luôn tiết ra như một cái bình dầu mà trong đó cả một tập thể
vi trùng cư trú. Đó là cái nhà của tật bệnh, nền tảng của những
trạng thái đau khổ, luôn luôn rỉ ra từ 9 lỗ như một ung nhọt
kinh niên. Nơi 2 con mắt ghèn chảy, nơi 2 lỗ tai thì cứt ráy, từ 2 lỗ mũi là nước mũi, từ miệng là
thức ăn, mật, đàm, máu; từ 2 lỗ bài tiết bên dưới là phân và nước tiểu, và từ 99. 000 lỗ chân lông tiết ra một chất mồ hôi
vô vị, với ruồi nhặng bu quanh. Cái thân xác này,
nếu không được tắm rửa, chăm sóc, khoác
y phục bên ngoài, thì xét về
tính chất đáng tởm, một ông vua cũng không khác gì người hốt rác. Nhưng nhờ đánh răng, súc miệng, nhờ thoa ướp bằng những
hương hoa mà nó
biến thành một
trạng thái được xem là tôi và của tôi. Cứ thế, đàn ông
say đắm đàn bà, đàn bà
say đắm đàn ông, mà không
nhận thức cái
thực chất dơ bẩn của cơ thể được
che đậy bằng những trang sức
mong manh. Trong
ý nghĩa tối hậu thật không có một chỗ nào trên thân xác, dù nhỏ như
hạt bụi, đáng để mà tham đắm.
Khi có một mẫu nhỏ nào nơi thân xác như tóc, lông, răng, móng rơi ra, thì người ta sẽ không dám động tới, mà còn
cảm thấy hổ thẹn, nhục nhã, ghê tởm.
Vậy mà, khi chúng còn ở trong thân xác - thì mặc dù vẫn đáng ghê tởm - người ta lại xem là
dễ chịu, đáng
ham muốn,
trường cửu, khả ái, tự ngã v.v.... Bởi vì bị trùm kín trong màn tối
vô minh, bị nhuốm đầy
tham ái đối với tự ngã, mà người ta đã
nhận thức sai lạc như thế. Chẳng khác chi con chồn già trông thấy cái hoa đỏ trên cây mà tưởng lầm là miếng thịt:
"Xưa có con chồn già
Thấy cây rừng trổ hoa
Vội vàng chạy đến, nghĩ:
Đây thịt, cây sinh ra !
Chồn ta nhai hoa rụng
Chả thấy nước nôi gì
Tưởng thịt trên cây khác
Thịt rụng có ngon chi."
Thế nhưng, người trí sẽ
quán sát thân này như sau:
"Thân xác thối tha này
Như phân, như nhà xí
Khó ưa với người trí
Nhưng người ngu say mê.
Như vết thương
chín lỗBọc trong lớp áo da
Rỉ
bất tịnh mọi chỗ
Uế khí, mùi bay xa."
Do vậy, một Tỳ khưu có khả năng nên nắm lấy bất cứ tướng
bất tịnh nào khi thấy chúng
hiển lộ, để làm một
đề mục thiền quán, hầu
đạt đến định tâm.
BÀI BẢY
CHƯƠNG VII: ĐỊNH - SÁU
TÙY NIỆMThông thường pháp
Tùy niệm gồm có 6 thứ, nhưng nếu nói đủ thì có 10
tùy niệm, đó là:
Niệm Phật,
niệm pháp,
niệm tăng,
niệm giới,
niệm thí,
niệm thiên,
niệm tử,
niệm thân, niệm tức, niệm diệt.
1)
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ
đấng giác ngộ, gọi là
Niệm Phật.
2)
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ pháp, gọi là
Niệm pháp.
3)
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ tăng, gọi là
Niệm tăng.
4)
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ giới, gọi là
Niệm giới.
5)
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ
bố thí, gọi là
Niệm thí.
6)
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ cái chết, gọi là
Niệm tử.
7)
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ
chư thiên, gọi là
Niệm thiên.
8)
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ
thân thể, gọi là
Niệm thân hay
thân hành niệm.
9)
Tùy niệm bắt nguồn từ
hơi thở ra vào, gọi là Niệm tức, hay niệm
hơi thở (anāpanāsati).
10)
Tùy niệm có
cảm hứng từ sự
bình an, gọi là Niệm diệt.
1.
NIỆM PHẬTChúng ta muốn
tu tập niệm Phật về
đấng Giác ngộ, thì nên
độc cư tại
một trú xứ thích hợp, và tưởng niệm đức tính
đặc biệt của
đấng Giác Ngộ như sau: "Đức
Thế Tôn là bậc
A la hán,
Chánh Đẳng giác, đầy đủ minh và hạnh, đấng
Thiện Thệ, đấng
hiểu rõ thế gian, bậc
Vô thượng Đạo Ngài
điều phục những người đáng
điều phục, bậc thầy của
chư thiên và
loài người, Phật,
Thế Tôn. (M.I. 37; A. III. 285)
Itipi so Bhagavā
1 - Arahaṃ (
Ứng Cúng)
Đức Thế Tôn hiệu Arahaṃ bởi Ngài đã
xa lìa các
tội lỗi nên
tiền khiên tật thân và khẩu của Ngài đều được trọn lành.
2 - Sammā-sambuddho (
Chánh Biến Tri)
Đức Thế Tôn hiệu Sammā Sambuddho bởi Ngài đã thành bậc Chánh Đẳng,
Chánh Giác, tự Ngài ngộ lấy không thầy chỉ dạy.
3 - Vijjācarana-sampanno (
Minh Hạnh Túc)
Đức Thế Tôn hiệu Vijjācaranasampanno bởi Ngài toàn đắc 3 cái giác, 8 cái giác và 15 cái hạnh.
4 - Sugato (
Thiện Thệ)
Đức Thế Tôn hiệu Sugato bởi Ngài đã ngự đến nơi
an lạc,
bất sanh,
bất diệt.
Đại Niết Bàn:
5 - Lokavidū (
Thế Gian Giải)
Đức Thế Tôn hiệu Lokavidū , bởi Ngài đã
thông suốt Tam Giới.
6 - Anuttaro (
Vô Thượng Sĩ)
Đức Thế Tôn hiệu Anuttaro bởi Ngài có
đức hạnh không ai bì.
7 - Purisadammasārathi (
Điều Ngự Trượng Phu)
Đức Thế Tôn hiệu Purisadammasārathi bởi Ngài là đấng
tế độ những người
hữu duyên nên
tế độ.
8 - Satthā-devamanus-sānaṃ (
Thiên Nhơn Sư)
Đức Thế Tôn hiệu Satthādevama-nussānaṃ bởi Ngài là thầy cả
Chư Thiên và
nhân loại.
9 - Buddho (Phật)
Đức Thế Tôn hiệu Buddho bởi Ngài
Giác Ngộ lý
Tứ Diệu Đế và đem ra
giáo hóa chúng sanh cùng biết với.
10 - Bhagavāti (
Thế Tôn)
Đức Thế Tôn hiệu Bhagavā bởi Ngài đã siêu xuất
Tam Giới tức là Ngài không còn
luân hồi lại nữa. (lạy).
Danh hiệu Phật ở đây chỉ kể có chín hiệu và ghép
Vô Thượng Sĩ và
Điều ngự trượng phu thành một. Thế nhưng, theo các
Kinh Luận của
Đại thừa thì
danh hiệu của Phật được tính thành 10, như sau:
1.
Như Lai;
2.
Ứng cúng;
3.
Chánh Biến Tri;
4.
Minh Hạnh Túc;
5.
Thiện Thệ;
6.
Thế Gian Giải;
7.
Vô Thượng Sĩ;
8.
Điều Ngự Trượng Phu;
9.
Thiên Nhân Sư;
10. Phật,
Thế Tôn.
2.
NIỆM PHÁPMột người muốn
tu tập đề mục niệm pháp, hãy
đi vào sống riêng biệt
một mình và tưởng niệm những đức tính
đặc biệt của
pháp như sau: "Pháp được
Thế Tôn khéo
thuyết giảng,
tự chứng ngay
hiện tại, vượt ngoài
thời gian, đến để mà thấy, có
hiệu năng hướng thượng, được người
trí chứng biết". (M. I, 37)
DHAMMA GUṆA -
ÂN ĐỨC PHÁP BẢOMột người muốn
tu tập đề mục niệm pháp, hãy
đi vào sống riêng biệt
một mình và tưởng niệm những đức tính
đặc biệt của
pháp như sau: "Pháp được
Thế Tôn khéo
thuyết giảng,
tự chứng ngay
hiện tại, vượt ngoài
thời gian, đến để mà thấy, có
hiệu năng hướng thượng, được người
trí chứng biết". (M. I, 37)
1 - Svākkhāto Bhagavatā.
nghĩa là
tam tạng Pháp Bảo của
Đức Thế Tôn đã
khẩu truyền y theo chánh pháp.
2 - Dhammo.
là Pháp Thánh có 9 hạng: "4 đạo 4 quả và 1 Niết Bàn".
3 - Sandiṭṭhiko.
là Pháp mà Chư Thánh đã thấy chắc, biết chắc bởi nhờ
kiến tánh, chẳng phải vì nghe, vì tin kẻ nào khác, nghĩa là tự mình thấy rõ chơn lý.
4 - Akāliko.
là
Pháp độ cho
đắc quả không chờ ngày giờ, là khi nào
đắc đạo thì
đắc quả không
chậm trễ.
5 - Ehipassiko.
là Pháp của Chư Thánh đã
đắc quả rồi, có thể
ứng hóa cho kẻ khác biết được.
6 - Opanayiko.
là Pháp của Chư Thánh đã có trong mình do nhờ phép
Thiền Định.
7 - Paccattaṃ veditabbo viññū hīti.
là Pháp mà các hàng
trí tuệ nhất là bậc Thượng Trí được biết, được thấy tự nơi tâm. (lạy)
"Người thực sự có trí
Thì
thường xuyên tu tậpNiệm tưởng về
chánh phápTối thắng nhiều tiềm năng."
3.
NIỆM TĂNGMột người
tu tập niệm Tăng, nên
đi vào độc cư tại những nơi
thanh vắng để tưởng niệm những đức tính
đặc biệt của đoàn thể
Thánh chúng như sau: "Chúng
đệ tử của
Thế Tôn đã
đi vào thiện đạo,
trực đạo,
chân đạo,
chánh đạo, nghĩa là 4 đôi 8 vị. Chúng
đệ tử nầy của
Thế Tôn đáng được
cúng dường,
cung kính chấp tay chào, là
phước điền vô thượng của
thế gian." (A. III, 286)
SAṄGHA GUṆA -
ÂN ĐỨC TĂNG BẢO1 - Suppaṭipanno bhagavato sāva-kasaṅgho-
Tăng là các bậc Thinh Văn
đệ tử Phật. Các Ngài đã
tu hành chín chắn y theo chánh pháp.
2 - Ujupaṭipanno bhagavato sāva-kasaṅgho.
Tăng là các bậc Thinh Văn
đệ tử Phật, các Ngài đã
tu hành chín chắn y theo Thánh Pháp.
3 - Ñayapaṭipanno bhagavato sāva-kasaṅgho.
Tăng là các bậc Thinh Văn
đệ tử Phật, các Ngài
tu hành để
Giác Ngộ Niết Bàn, là nơi
an lạc dứt khỏi các sự
thống khổ.
4 - Sāmīcipaṭipanno bhagavato sāva-kasaṅgho.
Tăng là các bậc Thinh Văn
đệ tử Phật, các Ngài đã tu theo phép
Giới Định Tuệ.
5 - Yadidaṃ cattāri purisa-yugāni.
Tăng nếu đếm đôi thì có bốn bậc:
Tăng đã
đắc đạo cùng quả
Tu Đà Huờn, Tăng đã
đắc đạo cùng quả
Tư Đà Hàm, Tăng đã
đắc đạo cùng quả
A Na Hàm, Tăng đã
đắc đạo cùng quả
A La Hán,
6 - Aṭṭha purisa-puggalā
Tăng nếu đếm chiếc thì có tám bậc:
Tăng đã
đắc đạo Tu Đà Hườn, Tăng đã
đắc đạo quả
Tu Đà Hườn, Tăng đã
đắc đạo Tư Đà Hàm, Tăng đã
đắc quả Tư Đà Hàm, Tăng đã
đắc đạo A Na Hàm, Tăng đã
đắc quả A Na Hàm, Tăng đã
đắc đạo A La Hán, Tăng đã
đắc quả A La Hán,
7 - Esa Bhagavato sāvakasaṅgho.
Chư Tăng ấy là các bậc Thinh Văn
đệ tử Phật.
8 - Āhuneyyo.
Các Ngài đáng
thọ lãnh bốn món
vật dụng của
tín thí, ở phương xa đem đến dâng cúng cho những người có
giới hạnh.
9 - Pāhuneyyo.
Các Ngài đáng
thọ lãnh của
tín thí, mà họ dành để cho
thân quyến cùng bầu bạn ở các nơi, nhưng họ lại đem đến dâng cúng cho các Ngài.
10 - Dakkhiṇeyyo.
Các Ngài đáng
thọ lãnh của
Tín thí,
tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.
11 - Añjalikaranīyo.
Các Ngài đáng cho
chúng sanh lễ bái.
12 - Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokas-sāti.
Các Ngài là
phước điền của
chúng sanh không đâu
bì kịp. (lạy)
4.
NIỆM GIỚINgười muốn
tu pháp niệm giới nên
đi vào độc cư tại một nơi
thanh vắng và tưởng niệm đến những loại giới khác nhau của chính mình. Nếu
giới pháp mà người
xuất gia hay
tại gia đã
lãnh thọ, không bị
phá hủy ở chặng đầu, hay chặng cuối, như miếng vải vị xé rách ở hai đầu thì giới ấy gọi là không bị rách. Nếu
giới không bị
phá hủy ở chặng giữa, thì gọi là
giới không bị lủng, như miếng vải bị đâm lủng ở giữa. Nếu
học giới không bị
vi phạm 2, 3, lần
liên tiếp, gọi là
giới không bị vá. Nếu
giới không bị phá cùng khắp,
cách nhau từng thời khoảng, thì gọi là
giới không bị lốm đốm, như con bò có những đốm trên lưng.
Chính những giới ấy là nền tảng đưa đến
giải thoát, vì chúng giải tỏa khỏi sự
nô lệ cho
dục ái. Chúng được người trí
tán thán. Chúng không
liên hệ đến
tham dục và
tà kiến. Chúng có khả năng đưa đến
thiền định.
Khi
chuyên tâm vào việc
niệm giới,
hành giả có sự
tôn trọng đối với học pháp. Vị nầy sống
hòa hợp với những bạn đồng
phạm hạnh, không sợ bị
lương tâm cắn rứt. Vị nầy thấy sự
sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt,
đạt đến lòng tin viên mãn. Vị nầy sẽ sống
an lạc, dù không
đạt được đạo quả gì cao hơn, thì cũng đang trên đường tiến đến những
thiện thú tươi đẹp. Thế nên:
"Người thật sự có trí
Sẽ
thường xuyên niệm giới."
5.
NIỆM THÍNgười muốn
tu tập niệm thí nên
phát tâm bố thí một cách
tự nhiên, thường san sẻ những gì mình có khi gặp người khác đến xin. Một người thường
bố thí thì được nhiều người thân cận mến mộ. Người nầy sẽ
an ổn khi sống tại
một trú xứ với
suy nghĩ: "Ta
an trú với
tâm không bị
ô nhiễm bởi tham." hay "Ta
thích thú trong sự
từ bỏ, ta
vui mừng được cơ hội ban phát cho người nghèo thiếu một ít tài vật của chính mình." Khi một Tỳ khưu
chuyên tâm niệm tưởng về
bố thí, vị ấy sẽ
cảm thấy hân hoan trong sự
bố thí, hành xử
phù hợp với
tâm từ bi, và niệm
vô úy, và do đó, sẽ hưởng được nhiều
an lạc.
6.
NIỆM THIÊNNgười muốn
tu tập niệm thiên cần phải đi vào độc cư để tưởng niệm về
chư thiên, và tin rằng: "Có
chư thiên thuộc cõi
Tứ thiên vương,
chư thiên thuộc cõi Tam thập tam v.v... và
chư thiên ấy có giới...
đa văn,
bố thí,
trí tuệ,
đồng thời trí tuệ ấy cũng có nơi ta". Khi
hành giả niệm tín, thí, giới, văn, tuệ của
chư thiên, rồi
liên tưởng mình cũng có những đức tính ấy, thì
tâm hành giả sẽ không bị tham, sân,
si ám ảnh.
Tóm lại, một Tỳ khưu
chuyên tu tập
niệm thiên sẽ được
chư Thiên thương tưởng,
nếu không đắc quả gì cao, thì
ít nhất cũng hướng đến một
cảnh giới tốt đẹp.
Nói chung,
lục niệm vừa kể là đối tượng dành cho các Tỳ khưu
tu tập. Khi
hành giả quyết chí chuyên niệm về một trong những
đề mục ấy,
cần phải sống
độc cư tại một nơi
thanh vắng, dốc hết tâm tư
suy nghĩ về những đức tính
tốt đẹp của đề tài mình đã chọn. Nhờ
chuyên chú vào
đề mục với những
tính chất tốt đẹp,
tâm hành giả sẽ
dần dần loại trừ các
cấu uế và
trở nên thanh tịnh, tạo
điều kiện để chứng đạt các
thiền chứng.
Ngoài ra, một
cư sĩ nếu
giới thanh tịnh, cũng có thể
tu tập 6 pháp nầy, nhờ đó các
triền cái sẽ lắng xuống, tâm trở nên
an lạc,
trí tuệ sẽ phát triển, hướng đến những kết quả
tốt đẹp trong đời sống
hiện tạiBÀI TÁM
CHƯƠNG VIII - ĐỊNH - NHỮNG
TÙY NIỆM KHÁC
(Anussati Kammatthāna-niddesa)
1. NIỆM CHẾT
Ở đây chết là sự
gián đoạn mạng căn được
giới hạn trong
một đời sống. Cái chết nầy có thể chia thành 2 loại: Chết đúng
thời hạn và chết
phi thời. Chết đúng
thời hạn xảy đến hoặc do hết
phước đức, hoặc do hết
thọ mạng, hoặc do hết cả hai
cùng lúc. Cái chết do hết
phước đức như người bị
chết đói mặc dù
thân thể không đau ốm gì. Cái chết do hết
thọ mạng như những người già chết mà
chúng ta thường thấy. Còn chết
phi thời là cái chết xảy đến đột ngột do
ác nghiệp đời trước đã gây, nên đời nầy bị người ta giết hại bằng vũ lực hoặc bằng binh khí.
Một người muốn
tu tập phép quán nầy, cần
đi vào độc cư và
chuyên tâm tác ý một
cách trí tuệ như sau: "Chết sẽ xảy đến,
mạng căn sẽ bị
gián đoạn." hay: "chết, chết".
Hành giả có thể
tác ý đến cái chết một cách chung chung, hoặc
tác ý cụ thể đến những người trước đây đã
thọ hưởng đầy đủ
dục lạc mà mình từng
quen biết, nhưng giờ đây họ đã ra người
thiên cổ.
Hành giả nghĩ đến
trường hợp người ấy và thầm nhủ: "Cái chết thực sự đã xảy đến.", làm như vậy, tức là niệm chết một cách có
trí tuệ.
Khi một người
tu tập niệm chết như
vậy thì những
triền cái của vị này được
điều phục, niệm được
an trú với cái chết làm đối tượng, và có
thể đạt đến hành định.
TÁM CÁCH NIỆM CHẾT
Nhưng, nếu
hành giả nhận thấy sự
tu tập niệm chết không được
tiến bộ thì có thể
áp dụng 8 cách sau: 1/ Có sự
xuất hiện của một người sát nhân; 2/ Sự
thành công bị
phá sản; 3/
So sánh; 4/
Thân thể bị san sẻ với nhiều
chúng sinh; 5/ Mạng sống
mong manh; 6/
Không tướng; 7/ Sự
giới hạn của
đời người; 8/ Sự ngắn ngủi của
sát na.
1/ Có sự
xuất hiện của một người sát
nhân nghĩa là vị ấy nên nghĩ về mạng sống của mình cũng như của
mọi người rất là
mong manh, như đang bị một người sát nhân rình rập định
sát hại bất cứ lúc nào. Bởi vì, mọi
chúng sinh từ lúc mới
chào đời là đã
tuần tự du hành hướng về cái chết. Do
vậy mà có một
bài kệ cảnh tỉnh như sau:
"Ngày nay đã qua
Mạng sống giảm dần
Như cá ít nước
Nào có vui gì!
Đại chúng cần phải tinh tấnNhư cứu đầu cháy
Phải nghĩ
vô thườngChớ có
phóng dật."
2/ Sự
thành công bị
phá sản nghĩa là mọi sự
thành công dù
vẻ vang đến đâu cũng đều chứa cái mầm móng của sự thất bại và
suy tàn. Hơn nữa, mọi
sức khỏe sẽ
chấm dứt bằng tật bệnh, mọi
tuổi trẻ sẽ
chấm dứt bằng
già nua, mọi sự sống
chấm dứt bằng cái chết. Tất cả sự tồn sinh trên
thế gian đều do sinh mà có, bị già
ám ảnh, bị tật bệnh tấn công
thình lình, và bị cái chết đánh gục.
3/ Bằng cách
so sánh là
so sánh mình với những hạng người có
danh vọng,
công đức,
sức mạnh,
thần thông,
trí tuệ và với
đức Phật Độc giác và
đức Phật toàn giác. Những vị có
tài năng đức hạnh,
sự nghiệp và
công hạnh cao cả, chung cục cũng phải
tuân theo định luật vô thường, không
thoát khỏi cái chết. Thế thì,
chắc chắn cái chết cũng sẽ đến với ta như đã đến với các vị ấy.
4/
Thân thể bị san sẻ với nhiều
chúng sinh nghĩa là
thân thể của ta có nhiều
chúng sinh cư trú, mà Buddhaghosa cho là có 80
gia đình vi trùng, sống bám vào thân ta từ ngoài da
cho đến trong xương tủy.
5/ Mạng sống
mong manh là mạng sống
con người liên quan mật thiết với những
yếu tố khác nhau để được
tồn tại một cách rất tạm bợ. Nếu khi
thở vào mà không
thở ra, khi nóng lạnh
bất hòa, khi 4 đại
mâu thuẫn nhau, hay không được
tiếp tế thức ăn, thì mạng sống liền
kết thúc.
6/
Không tướng nghĩa là có
tính cách bấp bênh, không thể định trước được. Người ta không thể
biết trước là mình sẽ chết vì bệnh gì,
chừng nào chết, thọ bao nhiêu tuổi, và sẽ chết tại nơi nào. Đó là sự
vô tướng hay
tính cách bất định của cái chết.
7/ Sự
giới hạn của
đời người là mạng sống
con người tối đa cũng chỉ độ trên trăm tuổi, nhưng mấy ai sống đến tuổi đó, có người chỉ sống được 70, 50, 20 v.v.... Thậm chí có người từ giã
cuộc đời từ lúc còn nằm trên nôi. Đó là sự
giới hạn của
đời sống.
8/ Sự ngắn ngủi trong
sát na nghĩa là đời của
chúng sanh vô cùng ngắn ngủi chỉ
trong khoảng một niệm. Như cái bánh xe khi lăn chỉ lăn trên một điểm và khi nghỉ cũng chỉ nghỉ trên một điểm (điểm tiếp giáp với đất). Mạng sống
chúng sinh cũng chỉ trong khoảnh khắc, khi niệm ấy qua đi,
chúng sinh ấy được coi như đã
kết thúc. Đó là niệm chết theo nghĩa sự ngắn ngủi trong
sát na.
Tóm lại, khi
hành giả tưởng niệm về sự chết bằng một trong tám cách nói trên, tâm vị ấy sẽ
an trú trong
chánh niệm, những
triền cái bị
áp đảo, và những
thiền chi xuất hiện. Vị ấy sẽ không còn
tham luyến đối với các hữu, không còn
bám víu vào
đời sống, không bị
cấu uế chi phối, tướng
vô thường dần dần phát triển trong tâm. Nhờ đó, khi chết vị ấy chết một cách
tỉnh táo, không
vọng tưởng. Trong khi những
chúng sinh chưa
tu tập niệm chết thường là nạn nhân của
hãi hùng kinh sợ,
bối rối dữ dội vào lúc chết. Khác hẳn những
chúng sinh ấy, người có
tu tập niệm chết dù không
đạt được bất tử ngay trong
hiện tại, ít ra cũng hướng đến một
cảnh giới tốt đẹp khi thân hoại
mạng chung.
2.
NIỆM THÂN (
THÂN HÀNH NIỆM)
Trước khi
Phật phát hiện, trong hàng ngũ
ngoại đạo chưa hề có
pháp môn này. Những ai
tu tập pháp thiền này sẽ được
lợi ích như đoạn kinh
mô tả: "Hỡi các Tỳ khưu, ai
thưởng thức thân hành niệm, người ấy nếm vị
bất tử, ai không
thưởng thức thân hành niệm, người ấy không nếm được vị
bất tử. " (A. I, 45)
Thông thường pháp
quán thân hành niệm
gồm có 14
đề mục: Niệm
hơi thở (sẽ xếp thành mục riêng); nói về thế ngồi;
các loại tỉnh giác; về pháp
quán bất tịnh; quán
tứ đại; và về 9 pháp
quán tử thi nơi nghĩa địa "đề mục này đã được nói ở trước".
Ở đây, chủ yếu đề cập đến 32 vật
bất tịnh như kinh văn
mô tả: "Lại nữa, này các Tỳ khưu, một Tỳ khưu
quán sát thân này, từ dưới bàn chân trở lên
cho đến đỉnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật
bất tịnh sai biệt. Trong thân này đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, phân, mật, đàm, niêm dịch, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu và não. (M III, 90)
Ba mươi hai vật này được xếp thành 6 nhóm như sau:
- Nhóm 1 (tóc lông), gồm 5 thứ: tóc, lông, móng, răng, da.
- Nhóm 2 (
thịt xương), gồm 5 thứ: thịt, gân, xương, tủy, thận.
- Nhóm 3 (tim phổi), gồm 5 thứ: tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi.
- Nhóm 4 (ruột não), gồm 5 thứ: ruột non, màng ruột, mỡ da, phân, não.
- Nhóm 5 (
máu mủ), gồm 6 thứ: mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ.
- Nhóm 6 (nước tiểu), gồm 6 thứ: nước mắt, nước mũi, nước miếng, niêm dịch, nước khớp xương, nước tiểu.
Một
hành giả muốn
tu tập đề mục thiền này, trước hết phải đến
thụ giáo với một vị thầy đã có
kinh nghiệm tu tập về nó. Vị thầy cần chỉ dạy cho
hành giả 7 điều
thiện xảo để
áp dụng cho việc
tu tập như sau:
1/ Học thuộc tên gọi của các vật;
2/ Làm cho nó thuộc nằm lòng;
3/ Biết rõ màu sắc của mỗi vật;
4/ Biết rõ
hình dáng của mỗi vật;
5/ Biết rõ
phương hướng;
6/ Biết rõ
vị trí;
7/ Biết rõ
giới hạn.
Đó là 7
thiện xảo mà một
hành giả muốn
tu tập về
quán tưởng 32 vật
bất tịnh trước hết phải học tập. Tiếp đến vị thầy
cần phải hướng dẫn về 10
thiện xảo trong việc
chú tâm như sau:
1/ Về thứ tự;
2/ Không quá nhanh;
3/ Không quá chậm;
4/ Tránh phân tâm;
5/
Vượt qua khái niệm;
6/
Lần lượt loại bỏ;
7/ Về định;
8/ - 10/ Về
bản kinh trình bày rõ
vấn đề trên.
Nói chung,
hành giả khi bắt đầu học thuộc phải nhớ rõ thứ tự của từng vật; khi khảo sát không nên quá nhanh, cũng không được quá chậm; vì nhanh hay chậm đều làm cho vật ấy không hiện
rõ ràng.
Đồng thời phải
chú tâm không được
để tâm bị phân tán trong những đối tượng bên ngoài. Khi tâm phân tán thì
thiền định bị thối thất. Tiếp đến là
vượt qua khái niệm, nghĩa là phải quên tên gọi của chúng mà chú trọng khía cạnh ghê tởm của chúng. Thế rồi, cần
lần lượt loại bỏ những phần nào không hiện rõ mà
chú tâm vào những phần hiện rõ. Nhờ đó mà
hành giả phát sinh
định tâm. Nhưng
hành giả phải biết cách điều hòa mới
đạt được kết quả tốt nhất. Nếu một Tỳ khưu
tu tập tăng thượng tâm mà chỉ
tác ý đến tướng định, thì tâm dễ trở nên
giải đãi.
Trái lại nếu
tinh tấn quá mức, thì cũng dễ sinh ra
trạo cử. Thế nhưng, nếu chỉ
tác ý đến tưởng xả, thì tâm sẽ không tập trung đúng mức để
diệt trừ các
lậu hoặc. Về 3
bản kinh: Ba
bản kinh này chủ yếu lý giải về sự khéo léo trong cách
tu tập pháp thiền kể trên, như được
diễn tả: " Này các Tỳ khưu, như một người thợ vàng
thiện xảo sửa soạn lò bệ, đốt lò và đổ vàng thô vào đó để luyện, thì vị ấy
thỉnh thoảng thụt bệ,
thỉnh thoảng rưới nước,
thỉnh thoảng ngồi canh chừng. Nếu người thợ vàng ấy chỉ có một bề thụt ống bệ thì vàng sẽ cháy; nếu chỉ có một bề rưới nước, thì vàng sẽ nguội lạnh; và nếu chỉ ngồi nhìn mãi thì vàng không được tôi luyện đúng mức. Nhưng nếu vị ấy
thỉnh thoảng thụt bệ,
thỉnh thoảng rưới nước,
thỉnh thoảng ngồi canh chừng, thì vàng sẻ trở nên
nhu nhuyến, dễ
sử dụng, tươi sáng không vỡ bể và dễ
uốn nắn, muốn làm đồ trang sức như dây chuyền, kiềng vàng đều làm được dễ dàng.
Cũng vậy, này các Tỳ khưu, có 3 tướng mà Tỳ khưu
tu tập tăng thượng tâm cần phải thỉnh thoảng tác ý... thì tâm vị ấy trở nên
nhu nhuyến, dễ
sử dụng và tập trung đúng mức để
diệt trừ lậu hoặc. Vị ấy sẽ có khả năng
chứng đắc bất cứ
trạng thái nào mà vị ấy mong muốn
chứng đắc nhờ vào
trí tuệ." (A. I, 256)
32 UẾ VẬT
Khi khởi sự
tu tập, trước hết
hành giả hãy khảo sát đối tượng thứ nhất của 32 uế vật, tức là tóc v.v...
Phương pháp khảo sát là
dựa vào 5
yếu tố đã đề cập trên, tức là: màu sắc,
hình dáng,
phương hướng,
xuất xứ và
giới hạn của nó. Trước hết, tóc
bình thường có màu đen, ngoại trừ vài
trường hợp có những màu sắc khác. Về
hình dáng, tóc có hình ống dài. Về
phương hướng, chúng ở phía trên. Về
xuất xứ, chúng ở trong lớp da sát lớp da bao bọc cái sọ. Về
giới hạn, ở 2 bên chúng là 2 vành tai, phía trước là cái trán, và phía sau là cái gáy. Nói chung, chủ yếu của
phương pháp khảo sát là làm nổi bất
tính chất bất tịnh của chúng.
Hành giả lần lượt khảo sát 31 vật còn lại cũng theo
phương cách vừa kể. Nhưng ở đây,
chúng ta cũng nên
ghi nhận vài vật
cụ thể mà Buddhaghosa đã khảo sát tỉ mỉ để
hiểu rõ và
đối chiếu với y học
hiện đại. Chẳng hạn về răng, Buddhaghosa bảo rằng từ răng cửa
cho đến răng cùng được chia thành 4 loại: từ loại răng 1 chân, đến 2 chân, 3 chân và
cuối cùng là 4 chân. Về xương có tất cả 300 xương,
bao gồm 64 đốt xương chân, 64 xương sụn
phụ thuộc vào thịt, 18 xương sống, 24 xương sườn (gồm cả 2 bên), 14 xương ngực, 7 xương cổ v.v...; cộng tất cả thành số lượng kể trên. Về quả tim, Buddhaghosa bảo: ở người có
trí tuệ trái tim hơi rộng, còn ở người không có
trí tuệ, nó chỉ là một cái chồi
hoa sen. Về mật,
gồm có mật tại chỗ và mật
luân lưu. Mật
luân lưu rải ra như một giọt dầu lan trên mặt nước khắp cả châu thân, trừ tóc, lông v.v... Khi túi mật bị
xáo trộn, sinh vật sẽ
nổi điên khùng, mất hết tàm quí, và làm những việc không
suy nghĩ. Về đàm, nó có màu trắng, khi
thức ăn rơi xuống bao tử lớp đàm sẽ phủ lên trên giống như nắp đậy của một thùng phân. Nếu đàm yếu, thì bao tử trở nên hôi hám ghê tởm như mùi phân hay mùi trứng thối. Về máu: máu của người có tánh tham thì màu đỏ; tánh sân thì màu đen; tánh si thì giống như nước rửa thịt; máu ở người hay
suy nghĩ thì giống như canh đậm màu; ở người có
tánh tín thì giống như hoa vàng. Ở người có tánh tuệ thì
trong sáng, không
vẩn đục. Đó là
trạng thái của máu
tùy theo tâm tính của mỗi hạng người. Về nước ở khớp xương: đây là chất nhờn ở trong những khớp xương nơi cơ thể. Nó có
nhiệm vụ làm cho trơn khớp. Nếu chất nước nầy
thiếu hụt thì một người đi đứng,
cử động rất
vất vả, làm cho
tứ chi bị đau nhức.
Khi
hành giả chú tâm quan sát về màu sắc,
hình dáng,
phương hướng, trú xứ và
ranh giới của 32 vật nầy
cho đến lúc dù mắt không trông thấy, chúng vẫn hiện rõ trong tâm. Đó là sự
tu tập về học tướng đã nhuần nhuyễn, rồi phát triển
tính chất ghê tởm của chúng làm cho tâm
cảm thấy nhàm chán, đó là tợ tướng
xuất hiện. Khi
hành giả khai triển được tợ tướng, làm cho nó
rõ ràng, thì
định tướng sẽ khởi lên. Nhưng, nên nhớ rằng pháp quán về 32 vật
bất tịnh này chỉ ở trong
lãnh vực sơ thiền, chứ không có trong các tầng thiền cao hơn.
3. NIỆM TỨC (NIỆM
HƠI THỞ)
Đề tài này được
Thế Tôn trình bày
cặn kẽ thành 16 công đoạn như sau: Nầy các Tỳ khưu thế nào là niệm
hơi thở được
tu tập, được làm cho
sung mãn, sẽ đưa đến
an lạc, loại trừ các
nhiễm ô, làm cho
tịnh chỉ các
tư duy bất thiện khi chúng khởi lên? Ở đây, nầy các Tỳ khưu, một Tỳ khưu đi đến khu rừng, hay đến một gốc cây, hoặc ngôi nhà trống,
ngồi kiết già, lưng thẳng,
an trú niệm trước mặt, luôn
tỉnh giác, vị ấy
thở vào và
thở ra:
1. Khi thở vô dài, vị ấy biết "Tôi thở vô dài". Khi
thở ra dài, vị ấy biết "Tôi
thở ra dài".
2. Khi thở vô ngắn, vị ấy biết "Tôi thở vô ngắn". Khi
thở ra ngắn, vị ấy biết "Tôi
thở ra ngắn".
3. Vị ấy tập "Cảm giác
toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Cảm giác
toàn thân, tôi sẽ thở ra".
4. Vị ấy tập "An
tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "An
tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra".
5. Vị ấy tập "Cảm giác hỉ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Cảm giác
hỷ thọ, tôi sẽ thở ra".
6. Vị ấy tập "Cảm giác
lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Cảm giác
lạc thọ, tôi sẽ thở ra".
7. Vị ấy tập "Cảm
giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Cảm
giác tâm hành, tôi sẽ trở ra".
8. Vị ấy tập "An
tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "An
tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra".
9. Vị ấy tập "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra".
10. Vị ấy tập "Khiến tâm
hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Khiến tâm
hân hoan, tôi sẽ thở ra".
11, Vị ấy tập "Khiến
tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Khiến
tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra".
12. Vị ấy tập "Khiến tâm cởi mở, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Khiến tâm cởi mở, tôi sẽ thở ra".
13. Vị ấy tập "Quán
vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Quán
vô thường, tôi sẽ thở ra".
14. Vị ấy tập "Quán tan hoại, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Quán tan hoại, tôi sẽ thở ra".
15, Vị ấy tập "Quán
tịch diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Quán
tịch diệt, tôi sẽ thở ra".
16. Vị ấy tập "Quán
từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Quán
từ bỏ, tôi sẽ thở ra".
(
Tương ưng V, 321-2)
4. NIỆM DIỆT (
NIẾT BÀN)
Một nguời muốn
tu tập niệm diệt, hãy
đi vào độc cư để tưởng đến những đức tính
đặc biệt của sự
tịch diệt (
Niết bàn). Đó là sự
ly tham, vì
ly tham, được xem là
yếu tố tối thượng trong tất cả
pháp hữu vi cũng như
vô vi; là nhiếp phục
kiêu mạn; nhổ tận gốc rễ của
khát ái, vì
khát ái là
yếu tố gắn bó bốn loài chúng sinh, 5 thú, 7 thức và 9 cõi; là
chấm dứt tái sanh;
đạt đến Niết bàn. Đức tính
niết bàn này được
Thế Tôn mô tả như sau: "Nầy các Tỳ khưu, ta sẽ dạy cho các ngươi cái
vô vi,
chân lý,
bỉ ngạn, cái khó thấy, cái
bất hoại, cái
trường cửu, cái không biến dị, cái
bất tử, cái hiền thiện, cái
an ổn, cái
kỳ diệu, cái nguyên vẹn, cái không sầu, cái
thanh tịnh, hòn đảo, chỗ trú". (S. IV, 360-72)
Tóm lại, một Tỳ khưu
chuyên tâm tưởng đến
tịch diệt sẽ ngủ trong
an lạc và thức trong
an lạc, các căn
tịch tịnh, tâm được
bình an, vị ấy có tàm quí,
tin tưởng,
quyết định đạt đến đạo quả cao cả, và được sự
tôn trọng cung kính của những vị đồng
phạm hạnh. Và dù cho vị ấy không được
quả vị nào cao hơn,
ít nhất cũng hướng đến một
thiện thú.
BÀI CHÍN
CHƯƠNG IX - ĐỊNH -
PHẠM TRÚ(Brahmavihāra - niddesa)
1. TỪ (METTĀ)
Những
đề mục Thiền
kế tiếp các
tùy niệm, đó là 4
Phạm trú: Từ, Bi, Hỉ và Xả. Trước hết hãy nói về Từ.
Một
hành giả muốn
tu tập đề mục thiền nầy trước hết phải
trừ khử những
chướng ngại và học kỹ về nó bằng cách
quán sát những nguy hiểm của
sân hận và
lợi ích của sự
kham nhẫn, như kinh đã dạy: "Không có pháp nào cao hơn
nhẫn nhục, không có
Niết bàn nào cao hơn kham nhẫn". (Trường II, 94;
Pháp cú 184)
Theo Buddhaghosa, lúc mới bắt đầu
tu tập về
tâm từ,
hành giả nên tránh 5 đối tượng sau đây: Người thân; người thù; người dưng; người khác phái; và người đã chết. Vì đối với người thân thì tâm ta bị
ràng buộc nặng nề về
đời sống của họ. Còn đối với người thù thì
hành giả sẽ dễ nổi sân. Đối với người dưng,
hành giả sẽ khó
chú tâm. Đối với người khác phái, thì
hành giả có thể khởi lên
tham dục. Đối với người chết, thì
quán niệm khó
đạt được kết quả. Thế nên, tốt nhứt là
hành giả nên trải
tâm từ đến chính
bản thân mình và lập đi lập lại như sau: "Mong rằng ta được
an lạc,
thoát khỏi mọi khổ ách". Kế đến,
hành giả nên trải
tâm từ đến một
giáo thọ sư hay một
đồng giáo thọ sư với
ước mong: "Mong rằng
con người hiền thiện ấy được
hạnh phúc an vui,
thoát khỏi mọi khổ ách".
Hành giả áp dụng phương pháp quán
từ tâm như thế rất dễ
đạt đến định an chỉ. Khi pháp quán đã
tiến triển thuận lợi,
hành giả sẽ trải
tâm từ đến một người thân, rồi đến một người dưng và
cuối cùng là đến người thù.
(Xua tan tâm hận)
Nhưng nếu
hành giả lấy người thù làm đối tượng để quán
từ tâm mà không thể xua tan được những sự hiềm hận đối với họ, thì nên
suy nghĩ theo
tinh thần Phật dạy:
"Hận thù diệt
hận thùĐời nầy không thể có
Từ bi diệt
hận thùLà
định luật nghìn thu". (PC. 5)
Đồng thời tự
cảnh tỉnh mình bằng cách
suy nghĩ về những điều mà người thù mong muốn cho người thù mình như sau: "Mong rằng nó
xấu xí, mong rằng nó ngủ trong
đau khổ; mong rằng nó gặp điều
bất hạnh; mong rằng nó bị nghèo khốn; mong rằng nó phải sống trong
cô độc; mong rằng sau khi thân hoại
mạng chung nó phải sinh vào cõi dữ, ác thú". (A. IV. 94). Bởi vì, nếu ta để cho lòng
hận thù cấu xé, thì ta sẽ ngủ không yên,
thân thể sẽ trở nên
xấu xí và do thế sẽ tự làm hại mình và làm cho người thù được
thỏa mãn mà thôi.
Theo chiều hướng
suy nghĩ như
vậy mà hận thù lắng dịu thì tốt, bằng không,
hành giả nên
xóa bỏ mối tức giận kia bằng cách nhớ lại vài
ưu điểm nơi người ấy. Vì một người dù
ngu si,
xấu xa đến đâu cũng sẽ có được vài nét dễ mến.
Nhưng nếu sự tức giận vẫn khởi lên, mặc dù
hành giả đã
cố gắng, thì nên tự trách như sau:
"Cơn
giận dữ chưa chắc hại ai
Nhưng
chắc chắn hại ngươi trước nhất
Người sân trước
lên đường đau khổNgười sân sau
bén gót theo sau".
Nếu hiềm hận vẫn không giảm, thì
hành giả nên nghĩ đến
sự thật "Mọi
chúng sinh đều là người thừa tự
nghiệp quả của chúng" như sau: "Có
lợi ích gì khi tức giận như vậy ! Há chẳng phải nghiệp sân nầy của ngươi chỉ đưa đến
tai hại cho ngươi? Vì ngươi là
sở hữu chủ của nghiệp, là người thừa tự của nghiệp. Ngươi giống như người tay cầm cục than nóng đỏ, hay cục phân để đánh người, chưa gì, mà chính mình đã cháy và hôi thối ghê tởm". Lại nghĩ: "Người tức giận ngươi sẽ ra sao? Có phải chung cục sẽ đưa đến
tai hại cho chính nó? Điều đó có khác gì một người đứng ngược gió mà tung bụi vào người khác,
cuối cùng chỉ làm cho chính thân mình lấm bụi mà thôi":
"Nếu hại người
lương thiệnNgười
thanh tịnh vô nhiễmÁc quả sẽ về ta
Như ngược gió tung bụi". (PC. 125)
Nhưng nếu hiềm hận vẫn không nguôi, thì
hành giả nên nghĩ đến những đức tính
đặc biệt của
đức Thế Tôn trong những
tiền kiếp, như chuyện
Bản sinh Khantivàdin kể lại: "Khi vua Kàsi
ngu ngốc hỏi Ngài (đang là một
tu sĩ): "Nầy
sa môn, ngươi giảng về pháp gì thế?" Ngài đáp: "Tôi là người giảng về
pháp nhẫn nhục". Nhà vua liền sai quân lính chặt hết tay chân Ngài, nhưng Ngài vẫn tự
chế ngự, không khởi lên một niệm
sân hận nào hết". (Jà III, 39) Và còn biết bao chuyện
Bản sinh khác nói về hạnh
nhẫn nhục,
từ ái của Phật, khi thì Ngài làm
tượng vương, khi thì làm
long vương, khi thì làm khỉ chúa v.v... tất cả đều đáng cho
chúng ta tìm hiểu để học về hạnh
nhẫn nhục của Đức Đạo Ngài.
Nhưng, nếu nghĩ những đức tính
đặc biệt của
Thế Tôn, mà hiềm hận vẫn không lắng dịu, thì
hành giả nên đọc lại những
kinh đề cập đến
vòng sinh tử nối tiếp
vô tận, như sau: "Nầy các Tỳ khưu, không dễ gì
tìm thấy một
chúng sinh nào chưa từng là mẹ ngươi, cha ngươi, anh ngươi, chị ngươi, con trai, con gái ngươi". (S. II. 189) Thế nên,
hành giả hãy nghĩ về người kia như sau: "Con người nầy trong
quá khứ đã từng làm mẹ ta,
cưu mang ta suốt 10 tháng trong bụng, chính tay đã rửa phân, tiểu, sài, đẹn của ta không chút nhờm gớm, nâng niu ta trên gối, ẵm bồng ta bên nách, nuôi nấng ta suốt cả tuổi ấu thơ...", rồi nghĩ rằng người đó hoặc là cha, là anh, chị hay em ta v.v..., cũng bằng cách ấy.
Nhưng nếu vẫn không
dập tắt được hiềm hận bằng cách ấy, thì
hành giả nên gợi lại 11
lợi ích của
lòng từ mà
đức Thế Tôn đã dạy sau đây:
11
Lợi Ích Của
Lòng Từ"1. Người
tu tập lòng từ sẽ ngủ trong
an ổn; 2. thức trong
an ổn; 3. không
chiêm bao ác mộng; 4. được người khác yêu mến; 5. được
phi nhân giúp đỡ; 6. được
chư Thiên hộ trì; 7. lửa,
khí giới và chất
độc không làm hại được; 8. tâm dễ
an định; 9. nét mặt
thanh thoát; 10. khi chết
tâm không rối loạn; 11.
nếu không được
đạo quả gì cao siêu, thì
ít nhất cũng đuợc
tái sinh về
cảnh giới Phạm thiên". (A. V. 342)
Nếu đã
áp dụng phương pháp đó mà vẫn không hết tức giận, thì
hành giả hãy phân tích
tính chất vô ngã nơi người ấy, như sau: "Khi ngươi tức giận người kia, thì cái gì nơi người lấy làm cho ngươi tức giận? Người giận tóc, hay lông, hay móng... hay nước tiểu?" Nếu phân tích
con người ấy, về
tứ đại,
ngũ uẩn,
thập nhị xứ hay
thập bát giới, ta đều không thấy có một
yếu tố nào để
kết luận có một ngã thể nơi người ấy. Do thế nên
cơn giận không có một chỗ nào để mà đặt chân lên được.
Nhưng nếu
hành giả không thể phân tích được bằng cách ấy, thì nên
tìm cách tặng cho người đó một món quà. Khi làm như vậy, sự hiềm hận sẽ có nhiều
thuận duyên để lắng dịu.
Qua các phương thức đã trình bày, thế nào
hành giả cũng tìm được một
giải pháp thích hợp với
hoàn cảnh và
trình độ của mình để mà
tu tập, như Kinh
mô tả: "Vị Tỳ khưu
an trú biến mãn một phương với tâm
câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, trên, dưới, bốn bên, cùng khắp
thế giới bình đẳng; vị ấy
an trú biến mãn với tâm
câu hữu với từ,
chan chứa, cao cả,
vô biên, không hận, không não". (D. I, 250)
Biến mãn nghĩa là cùng khắp tất cả. Ở đây chỉ cho khắp chủng loại và khắp 10 phương. Chủng loại
gồm có 7, đó là:
Nữ nhân,
nam nhân, các bậc thánh, người
phàm tục,
chư thiên,
nhân loại, và tất cả những
chúng sinh ở các đọa xứ.
Mười phương là Đông, Tây, Nam, Bắc, 4 góc và trên dưới.
Hành giả phải cầu mong cho 7 chủng loại ở khắp
mười phương thoát khỏi hận thù, ưu não, và sống
hạnh phúc.
Từ
chúng sinh hay
hữu tình được dịch từ chữ Satta có nghĩa là bị giữ lại, hay bị
dục vọng tóm lấy, và
tham luyến đối với 5 uẩn. Lại còn có mấy từ tương đương khác, như vật có
hơi thở (pàna), vì sự
hiện hữu của chúng
tùy thuộc vào
hơi thở vô,
hơi thở ra;
hữu thể (bhùta), vì có sự
hiện hữu, được sinh ra và được
trở thành; người (puggala), được dịch âm là bổ-đặc-già-la, nó được cấu trúc từ chữ pum: tên gọi
địa ngục, và chữ galanti: rơi vào.
Ngoài ra, còn có từ tự ngã (attabhàva), chỉ cho cái thân
vật lý, hay cả
ngũ uẩn.
Tóm lại, từ
chúng sinh gồm có các nghĩa:
hữu tình,
hữu thể, vật có
hơi thở, người và tự ngã (Satta, pàna, bhùta, puggala và attabhàva).
Bản luận kể về
trường hợp trưởng lão Visàkha
an trú 4 tháng tại
tu viện Cittapabbata,
tu tập từ tâm được loài
phi nhân cảm mến, đến lúc Ngài ra đi,
phi nhân ấy khóc lóc, Ngài hỏi vì sao, thì nó nói: "Bạch
đại đức, trong lúc Ngài trú tại đây, thì các
phi nhân đối xử
với nhau ôn hòa và tử tế. Bây giờ Ngài đi, thì chúng sẽ khởi sự
gây lộn và nói tục".
2. BI (KARUNĀ)
Một người muốn
tu tập tâm bi cần phải khởi đầu
quán sát sự nguy hiểm do thiếu
tâm bi, và
lợi ích của
tâm bi.
Hành giả cũng
cần phải tránh
quán sát đến 5 hạng người: người thân, người thù, người dưng, người chết và người khác phái, như
trường hợp tu tập tâm từ đã nói ở trên.
Trước hết,
hành giả nên
khởi tâm bi đối với một người
bất hạnh, thiếu
may mắn, nghĩ rằng: "Khổ thay vị
chúng sinh nầy, mong sao vị ấy
thoát khỏi đau khổ".
Nếu không gặp
trường hợp như thế, thì
hành giả có thể
khởi tâm bi đối với một người làm ác, dù
hiện tại nó đang sống
hạnh phúc, nghĩ rằng: "Mặc dù người khốn nạn nầy
hiện giờ đang
hạnh phúc,
vui vẻ hưởng thụ những
tài sản mà y có được, nhưng vì y không làm được một
việc thiện nào về thân, ngữ, ý trong
hiện tại,
chắc chắn y sẽ chuốc lấy cái
khổ không thể nói được ở trong các đọa xứ". Người ấy cũng giống như một người trộm cướp đang
bị bắt quả tang với những
vật dụng nó lấy trộm, rồi nhà vua ra lệnh cho quân lính trói chặt nó, và dẫn nó đến
pháp trường.
Sau khi đã
khởi tâm bi đối với một người như thế, kế đó,
hành giả nên
khởi tâm bi đối với một người thân, người dưng và đối với người thù. Về
diễn tiến tu tập tâm bi nầy cũng
tương tự như
phương pháp tu tập tâm từ đã được đề cập
rộng rãi ở trên.
3. HỈ (MUDITĀ)
Một người mới khởi sự
tu tập tâm hỉ, trước hết nên bắt đầu từ vị
giáo thọ sư rồi đến người thân, người dưng và người thù, như
trường hợp quán niệm về 2
tâm từ và bi ở trước. Sau đó
mở rộng đến các đối tượng khác và trải
tâm hỉ đến khắp 10 phương, chung cục sẽ
đạt được những
lợi ích như đã nói ở phần
tu tập tâm từ.
Tu tập tâm hỉ khi
đạt được kết quả sẽ đắc thiền thứ ba, còn 2
tâm từ và bi thì ở giai đoạn thiền thứ nhất và thứ hai trong
hệ thống 4 thiền.
4. XẢ. (UPEKKHĀ)
Một người muốn
tu tập tâm xả
cần phải đắc
tam thiền trong
hệ thống 4 thiền và
tứ thiền trong
hệ thống 5 thiền về
quán niệm tâm từ, bi, hỉ.
Hành giả trước hết nên hướng tâm xả đến một người không thân, không sơ theo cách đã nói ở trên, rồi đến các đối tượng người thân, người thù và chính
bản thân mình. Khi
tu tập tâm nầy đến độ
sung mãn,
tứ thiền sẽ khởi lên nơi
hành giả theo cách đã nói trong phần
biến xứ đất. Còn các
phương diện khác cũng
tương tự như
tu tập tâm từ, bi, hỉ ở trước.
TỔNG QUÁT
a.
Ý nghĩaTrước
hết nói về
ý nghĩa của Từ, bi, hỉ và xả. Từ có nghĩa là hòa tan, là hóa giải những uất kết; Bi là
tiêu hủy những nỗi khổ của người khác; Hỉ là tươi mát,
vui vẻ; Xả là
trạng thái thản nhiên, không bận tâm. Nói chung, Từ cho vui đối với tất cả
chúng sinh, Bi là
cứu khổ tất cả
chúng sinh (Từ năng dữ
nhất thiết chúng sinh chi lạc, Bi năng bạt
nhất thiết chúng sinh chi khổ.)
b.
Đặc tínhVề
phương diện đặc tính, Từ đem lại sự
an lạc, làm cho
ác tâm lắng dịu. Bi có
đặc tính làm
giảm bớt đau khổ, và
triệt tiêu sự tàn bạo. Hỉ là
vui mừng trước sự
thành công của người khác, nó làm cho sự
chán ghét tiêu tan. Xả có
đặc tính là phát triển tính
thản nhiên đối với
hữu tình, nó dẫn đến
trạng thái không còn ưa và ghét.
c.
Mục đíchMục đích tổng quát của 4
phạm trú nầy là sự
an lạc của
tuệ giác, và đưa đến một
hình thức tái sinh tốt đẹp trong tương lai. Từ có
mục đích là diệt tâm sân; Bi có
mục đích là ngăn tâm ác; Hỉ có
mục đích là trừ tâm
chán ghét; Xả có
mục đích là đoạn tâm hận và tham.
d. Những
chướng ngại gần và xa.
Mỗi đức tính trên đây có 2
chướng ngại, một gần và một xa.
Phạm trú Từ có tham là
chướng ngại (người thù) gần, sân là
chướng ngại xa.
Phạm trú Bi có
nỗi buồn liên hệ với
gia đình là
chướng ngại gần, và sự tàn bạo là
chướng ngại xa của nó.
Phạm trú Hỉ có niềm vui
liên hệ tại gia là
chướng ngại gần, và sự thù ghét là
chướng ngại xa của nó.
Phạm trú Xả có xả do
vô tri liên hệ đến
đời sống tại gia là người thù gần, và lòng tham cùng
chán ghét là người thù xa của nó.
đ. Các giai đoạn
Lòng hăng hái muốn
tu tập các đức tính kể trên là giai đoạn đầu.
Trừ khử các
triền cái là giai đoạn giữa, và
đạt được định an chỉ là
giai đoạn cuối.
e. Bốn
yếu tố cần được
giải thích.
Tại sao từ, bi, hỉ, xả được gọi là 4 phạm trú? Tại sao chỉ có 4? Thứ tự của chúng thế nào? Tại sao chúng được gọi là vô lượng?
Từ
phạm trú ở đây cần được hiểu là tốt nhất, là
vô cấu. Cũng như vị
trời Phạm thiên an trú với tâm cao thượng,
vô nhiễm, thiền giả
thành tựu những đức tính nầy cũng
an trú ngang hàng với
phạm thiên. Do đó, chúng được gọi là
phạm trú theo nghĩa tốt nhất và
vô nhiễm. Vì
mục đích cứu độ chúng sinh cũng chỉ cần đến 4
phương diện là: đem lại
an lạc (từ), tẩy trừ
đau khổ (bi), vui trước sự
thành công của
chúng sinh (hỉ), và không bận tâm với bất cứ điều gì (xả); do đó, chỉ cần đến 4 pháp mà thôi. Vì Xả là kết quả của 3
phạm trú trên, do đó, phải theo thứ tự từ, bi, hỉ và xả.
Phạm vi của chúng là
bao la không thể lường được, nên chúng được gọi là
Vô lượng.
g.
Lãnh vực hoạt hiện của chúng.
Mặc dù
phạm vi của chúng được nói là
vô lượng, nhưng 3
phạm trú đầu phát huy
tác dụng mạnh mẽ ở 3 bậc
thiền đầu trong 4 thiền, hay 4 bậc
thiền đầu trong
hệ thống 5 thiền. Nhưng Xả thì thuộc bậc thiền
cuối cùng trong 2
hệ thống.
h.
Giới hạn cao nhất của chúng.
Đành rằng 4
phạm trú nầy phát huy
tác dụng rõ ràng nhất ở cõi
thiền Sắc giới, nhưng
đồng thời chúng cũng làm nền tảng sự
tu tập ở cõi
Vô sắc. Buddhaghosa cho rằng Từ là cơ sở cho
sự giải thoát nhờ tịnh tướng (M. II, 12). Bi là
điểm tựa căn bản cho Không vô biên xứ. Hỉ là
điểm tựa căn bản cho
Thức vô biên xứ. Và Xả là
điểm tựa căn bản cho
Vô sở hữu xứ.
Tóm lại, chủ yếu của chương IX nầy là đề cập đến
phương pháp tu tập lấy 4
phạm trú từ, bi, hỉ, xả làm cơ sở.
BÀI MƯỜI
CHƯƠNG X: ĐỊNH -
VÔ SẮC XỨ
(Aruppa-niddesa)
1.
KHÔNG VÔ BIÊN XỨ (Akāsānantāyatana)
Sau khi
hành giả tu tập 4
phạm trú đắc được các cấp thiền ở
Sắc giới,
tiếp tục tiến sâu hơn nữa vào cõi định, sẽ thấy rằng cõi
sắc giới, vẫn còn có hàng ngàn thứ nguy hiểm, do thế hướng tâm về
Không vô biên xứ thuộc cõi
Vô sắc để
tu tập.
Hành giả tác ý đến khoảng
Không vô biên ấy bằng cách thầm nhủ "Khoảng không, khoảng không". Khi
hành giả vận dụng tầm, tứ
tác ý đến
cảnh giới ấy nhiều lần, thì những
triền cái dần dần được
chế ngự, niệm được
an trú và
tâm hành giả trở nên định tĩnh trong cận hành định, như bản luận nói: "Với sự
hoàn toàn vượt qua sắc tưởng, với sự biến mất những
chướng ngại tưởng, không
tác ý sai biệt tưởng,
hành giả biết rằng "Hư không là vô biên", chứng và trú "Không
vô biên xứ. " (Vbh. 245)
Hoàn toàn nghĩa là về mọi
phương diện.
Vượt qua sắc tưởng nghĩa là
vượt qua,
siêu việt các
thiền chứng đã
đạt được ở cõi
sắc giới, Với sự biến mất những
chướng ngại tưởng:
Chướng ngại tưởng hay
đối ngại tưởng là những tưởng khởi lên do căn
tiếp xúc với trần
tương ứng, như các tưởng về sắc, thanh, hương, vị, xúc, đó là những
đối ngại tưởng. Không
tác ý các tướng
sai biệt: Một người chưa đắc định, mà có tưởng về
ý giới và
ý thức giới, đó gọi là "Các tướng sai biệt".
Hư không vô biên nghĩa là
biên giới sinh và diệt của nó không thể biết được. Cái khoảng không còn lại sau khi rời bỏ
đề mục (
biến xứ)
tu tập gọi là "hư không".
Không vô biên xứ: Cái gì không có
giới hạn trong
không gian thì gọi là
hư không vô biên.
Hư không vô biên nầy được
xem như một "xứ" hay một khái niệm mà Thiền giả dùng để
an trú. Nghĩa là tâm thiền giả lúc nầy
tương ứng với một khoảng không
bao la. Đó là những
giải thích về
đề mục thiền
Không vô biên xứ.
2.
THỨC VÔ BIÊN XỨSau khi
đạt được thiền chứng về
Không vô biên xứ,
hành giả lại
khám phá rằng
thiền chứng nầy vẫn còn có những mối nguy hiểm, nên
tác ý đến
Thức vô biên xứ, xem đây như là đối tượng
an tịnh hơn. Rồi
hành giả vận dụng tầm và tứ
tác ý đến "xứ" ấy nhiều lần như "Thức là
vô biên, thức là vô biên".
Khi
hành giả hướng tâm thiền nhiều lần trên tướng ấy như vậy, những
triền cái được
từ bỏ, niệm được
an trú, tâm trở nên định tĩnh trong cận hành định, như kinh văn
mô tả: "Vị ấy
hoàn toàn vượt qua Không vô biên xứ, biết rằng Thức là
vô biên, chứng và trú Thức
vô biên xứ". (Vbh. 245)
Thức là
vô biên:
Hành giả tác ý đến khoảng không được biến mãn bởi thức, mà thức ấy thì
bao la vô giới hạn, nên gọi là Thức
vô biên. Hoặc là
hành giả tác ý đến cái thức đã biến mãn
hư không ấy.
Thức vô biên xứ: Thức nầy là "xứ" hay môi trường, vì nó là nền tảng mà thiền giả đang hướng tâm
tu tập.
3.
VÔ SỞ HỮU XỨKhi
hành giả muốn
tu tập vô sở hữu xứ trước hết
cần phải thành tựu sự
thiện xảo theo 5 cách trong
thiền chứng về
Thức vô biên xứ. Thế rồi, thiền giả thấy được
tính chất nguy hiểm trong
Thức vô biên xứ như sau: "Thức này có
Không vô biên xứ là người thù gần của nó, và nó không được
an tịnh như
vô sở hữu xứ". Do đó,
hành giả vận dụng tầm và
tứ hướng đến
vô sở hữu xứ tác ý nhiều lần như sau: "Không có gì cả", hoặc "Không, không", và
liên tục quán sát nó.
Khi
hành giả hướng tâm đến tướng ấy một cách
thiện xảo, thì những
triền cái bị
áp đảo, niệm được
an trú, và
tâm hành giả tập trung ở cận hành định, như kinh văn nói: "Vị ấy
hoàn toàn vượt qua Thức vô biên xứ, biết rằng "Không có gì", chứng và trú
Vô sở hữu xứ". (Vbh. 245)
Vô sở hữu xứ: "xứ" ở đây có nghĩa là chỗ trú, như "chư thiên xứ" là chỗ trú của
chư thiên; do vậy, đây là
một trú xứ không có
sở hữu, nên gọi là
vô sở hữu. Nó nói lên
ý nghĩa Thức thuộc về
không vô biên xứ đã biến mất.
4.
PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG XỨSau khi chứng đạt về định
Vô sở hữu xứ,
hành giả tiếp tục tư duy sâu hơn nữa, lại thấy rằng
pháp định nầy còn có những nhược điểm, như sau: "Thiền nầy có
Thức vô biên xứ là người thù gần của nó, và nó không được
an tịnh như
Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
Sau khi đã
từ bỏ bám víu vào
Vô sở hữu xứ,
hành giả vận dụng tầm và tứ
tác ý đến
Phi tưởng phi phi tưởng xứ, xem
cảnh giới nầy là
an tịnh, bằng cách thầm nhủ "an tịnh, an tịnh".
Khi
hành giả hướng tâm nhiều lần đến tướng ấy, thì những
triền cái bị
áp đảo, niệm được
an trú, tâm trở nên tập trung trong cận hành định, như kinh văn
mô tả: "Bằng cách
vượt qua hoàn toàn Vô sở hữu xứ,
hành giả chứng đạt và
an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ". (Vbh. 245)
Phi tưởng phi phi tưởng: Vì ở đây
vắng bóng những tưởng thô, nhưng có mặt những tưởng
vi tế. Hơn nữa, tưởng ở đây không phải là tưởng, vì nó không
đủ sức mạnh để làm
nhiệm vụ của tưởng, nhưng nó cũng không phải là không hẳn, vì nó còn
hiện diện trong một
trạng thái vi tế, như một hành còn sót lại, nên gọi nó là Không phải tưởng cũng không phải không có tưởng. Ở đây không những Tưởng mới có
tính chất như vậy, mà Thọ cũng là phi thọ phi phi thọ, kể cả Thức và Xúc
cũng thế.
Để làm
sáng tỏ vấn đề trên, ở đây cần nêu một ví dụ như sau:
Ví như một cái bát đựng đầy dầu vừa mới trút ra, nếu
bảo cái bát ấy không có dầu thì không đúng, vì nó vẫn còn dính dầu. Nhưng nếu
bảo cái bát ấy có dầu cũng không ổn, vì dầu ấy không thể
sử dụng vào việc gì được.
TỔNG QUÁT
Trong 4 pháp thiền cõi
Vô sắc nầy,
Không vô biên xứ đầu tiên là do
vượt qua những tướng về
sắc pháp.
Thức vô biên xứ thứ hai là do
vượt qua Không vô biên xứ;
Vô sở hữu xứ thứ ba là do
vượt qua Thức Vô biên xứ và
Phi tưởng phi phi tưởng thứ tư là do
vượt qua Vô sở hữu xứ, nghĩa là do sự biến mất của Thức lấy
hư không làm đối tượng. Ở đây nên nhớ rằng mỗi
thiền Vô sắc nầy chỉ có 2
thiền chi là xả và
nhứt tâm mà thôi. Tuy chỉ có 2
thiền chi trong cả bốn
Vô sắc, nhưng phải hiểu rằng mỗi thiền
kế tiếp bao giờ cũng
vi tế hơn là bậc thiền trước nó.
Đến đây cũng cần mượn một ví dụ để trình bày
vấn đề:
Ví như có một cái lều dựng trên một chỗ dơ dáy. Rồi một người đi đến nhờm gớm sự nhơ uế, nên tựa 2 tay vào túp lều. Người thứ hai đi đến, liền
dựa vào người ấy. Người thứ ba đi đến và nghĩ, cả 2 người kia không
an toàn, vì nếu túp lều sụp đổ thì chúng sẽ gặp nguy hiểm, do vậy ta nên đứng ở ngoài. Thế rồi, một người thứ tư đi đến, thấy sự bất ổn của 2 người đầu, và nghĩ rằng người đứng ở ngoài
an toàn hơn, nên y đứng
dựa vào người ấy.
Cái khoảng không mà
biến xứ đã dời bỏ,
ví như căn lều dựng chỗ dơ uế. Thức thuộc
Không vô biên xứ, lấy
không gian làm đối tượng, do
chán ghét các
sắc vi tế, là giống như người đầu bám vào cái lều vì nhờm gớm đồ dơ. Thức thuộc
Thức vô biên xứ, mà sự
sinh khởi nương vào Thức thuộc
Không vô biên xứ, là
ví như người tựa vào người bám cái lều. Thức thuộc
Vô sở hữu xứ, thay vì lấy cái thức thuộc
Không vô biên xứ làm đối tượng, lại lấy sự
phi hữu của thức ấy làm đối tượng,
ví như người thứ ba sau khi xét thấy bất ổn nơi hai người trước, không
dựa vào người thứ hai, mà đứng ở ngoài. Thức thuộc
Phi tưởng phi phi tưởng xứ phát sinh nương nơi thức thuộc
Vô sở hữu, cái thức ra ngoài, nghĩa là ở nơi
phi hữu của thức trước đấy,
ví như người đứng
dựa vào người thứ ba, sau khi đã xét thấy bất ổn ở hai người đầu, và nghĩ rằng người đứng ngoài là khéo đứng.
Tóm lại:
Trọng tâm của chương thứ 10 là
mô tả về các
Thiền Vô sắc giới.
BÀI MƯỜI MỘT
CHƯƠNG XI: ĐỊNH -
MÔ TẢA. BỐN LOẠI
THỰC PHẨMThông thường,
thức ăn được chia thành 4 loại sau đây: 1.
Đoàn thực (
thức ăn vật chất); 2.
Xúc thực, 3. Tư
niệm thực (hành thực); 4. Và
thức thực.
Ở đây,
thức ăn có
công dụng nuôi sống:
Đoàn thực nuôi
thân thể vật chất.
Xúc thực: nuôi 3
cảm thọ (lạc, khổ và bất khổ
bất lạc). Hành thực nuôi sự
tái sinh trong 3 cõi hữu. Còn
Thức thực nuôi
danh sắc vào lúc
tái sinh.
Khi có
Đoàn thực thì có
chấp thủ, đem lại nguy hiểm. Khi có
Xúc thực thì có ái, đem lại nguy hiểm. Khi có Hành thực thì có
tái sinh, đem lại nguy hiểm. Khi có
Thức thực thì có kiết sinh (nối kết với sự
tái sinh), đem lại nguy hiểm. Trong kinh ví dụ
chúng ta phải nhờ
thức ăn đoàn thực để nuôi thân xác nầy chẳng khác gì một người phải
ăn thịt con mình để
vượt qua bãi sa mạc
hoang vu. (
Tương ưng II, 98)
Một người muốn
tu tập quán bất tịnh về
thức ăn,
cần phải học thuộc
đề mục thiền nầy, rồi tìm một nơi vắng vẻ, sống
độc cư, để
quán tưởng 10 khía cạnh
bất tịnh của
thức ăn sau đây: Ra đi,
tìm kiếm,
sử dụng, sự tiết lậu, chỗ chứa, vật không
tiêu hóa, vật được
tiêu hóa, kết quả, sự tuôn ra, sự vấy bẩn.
Một người dù đã
xuất gia, sống trong một
giáo pháp cao cả, vẫn phải cần đến
thức ăn để
duy trì đời sống. Do vậy, người ấy
hằng ngày tay cầm bát đi lang thang từ nhà này đến nhà khác như một người
ăn mày, để nhận lấy
thức ăn từ những
thí chủ hảo tâm. Nhưng đến lúc
sử dụng,
thức ăn đã mất hết màu sắc và hương vị nguyên sơ của nó.
Thức ăn ấy khi nuốt khỏi cổ, các dịch vị sẽ tiết ra để
tiêu hóa nó, bấy giờ nó đã
trở thành một thứ đáng buồn nôn. Nơi chứa đựng nó chẳng khác gì một thùng chứa phân đã 10 năm, hoặc 6, 7 mươi năm không rửa, nếu người ấy sống đến 70 -80 tuổi.
Thức ăn ấy
nếu không được
tiêu hóa, trộn lẫn với những
thức ăn còn lại hôm trước,
trở thành một thứ đáng gớm ghiếc, và là
nguyên nhân gây ra
bệnh hoạn. Nhưng nếu nó được
tiêu hóa, nó sẽ sản xuất ra đủ thứ dơ dáy gồm tóc, lông, răng, móng v.v... Khi được nuốt vào, nó vào bằng một cửa nhưng khi tuôn ra, nó thoát ra bằng nhiều cửa,
nói đúng hơn là thoát ra bằng cả 9 cửa (
cửu khiếu). Khi nuốt vào, nó được nuốt cùng với một đám đông
tụ họp vui vầy, nhưng khi tuôn ra, nó được bài tiết trong quạnh quẽ
cô đơn. Vào lúc
sử dụng nó,
hành giả làm bẩn tay, môi, lưỡi, và những thứ nầy trở nên gớm ghiếc, vì dính đầy
thức ăn. Đó là
tóm tắt về 10
tính chất bất tịnh của
thức ăn mà Buddhaghosa đã quảng diễn khá
phong phú.
Khi
hành giả vận dụng tầm và tứ
quán sát 10 khía cạnh
bất tịnh như trên, thì
tính chất đáng ghê tởm của
thức ăn hiện rất rõ nơi
hành giả. Nhờ đó,
tâm hành giả sẽ dễ dàng tập trung ở định cận hành. Và nếu chưa chứng được
mục tiêu bất tử trong đời nầy,
ít nhất vị ấy cũng hướng đến một
thiện thú tốt đẹp.
B.
BỐN ĐẠI CHỦNG
Những kinh chuyên trình bày về 4 đại
gồm có các kinh chủ yếu sau đây:
Kinh Đại niệm xứ (Mahàsatipatthàna, D. II, 294),
Tượng tích dụ đại kinh (Mahàhatthipàdùpamà, M. I, 184),
Kinh Giáo giới
La Hầu La (Ràhulovàda, M. I. 421) và
kinh Giới phân biệt (Dhàtuvibhanga, M. III, 240).
Kinh Đại Niệm xứ dành cho hạng người
lợi căn, trình bày
vắn tắt phương pháp thiền quán 4
đại chủng như sau: "Nầy các Tỳ khưu, như một đồ tể
thiện xảo hay
đệ tử người đồ tể, sau khi giết một con bò, và ngồi ở ngã tư đường, xẻ nó ra thành từng miếng, cũng vậy, một Tỳ khưu
quán sát thân nầy, dù đặt như thế nào,
sử dụng như thế nào cũng chỉ
gồm có 4 đại: Trong thân nầy, đây là
địa đại,
thủy đại,
hỏa đại và phong đại". (D. II, 294)
Một
cư sĩ hay một Tỳ khưu khi chưa
tu tập phương pháp phân tích về
tứ đại, thì thường thấy
bản thân mình là một
con người, một
chúng sinh hay một tự ngã; nhưng khi Tỳ khưu ấy đã phân tích thân nầy
cặn kẽ, thì cái tưởng về
chúng sinh sẽ biến mất, mà chỉ còn thấy một khối
vật chất gồm 4
đại chủng mà thôi.
Ngoài
bản kinh kể trên
mô tả vắn tắt dành cho hạng người
lợi căn, ba kinh còn lại trình bày
tương đối tỉ mỉ về 4 đại, dành cho hạng người
bình thường, như
kinh Giới Phân biệt mô tả: "Nầy
chư hiền, thế nào là
địa đại ở bên trong? - Bất cứ cái gì ở nội
thân thuộc cá nhân, thô
phù kiên cứng, bị
chấp thủ, như tóc, lông, răng, móng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân, và bất cứ vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc
cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị
chấp thủ, đây gọi là nội
địa giới (M. I.185).
"Và
chư hiền, thế nào là
thủy giới ở bên trong? Cái gì thuộc nội thân, thuộc
cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị
chấp thủ như mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, mở da, nước mắt, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, và nước tiểu, và bất cứ thứ gì khác thuộc nội thân, thuộc
cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị
chấp thủ, đây gọi là nội
thủy giới (M. I. 187).
"Và
chư hiền, thế nào là nội hỏa giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc
cá nhân, thuộc lửa thuộc chất nóng, bị
chấp thủ, cái gì khiến cho
thân thể nóng lên, thiêu đốt,
biến hoại, cái gì khiến cho những vật được
ăn uống, nhai nếm có thể khéo
tiêu hóa, hay tất cả những gì khác thuộc nội thân, thuộc
cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị
chấp thủ; đây gọi là nội
hỏa giới (M. I. 188).
"Và này
chư hiền, thế nào là nội phong giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc
cá nhân, thuộc gió, thuộc về động tánh, bị
chấp thủ, nghĩa là gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong bụng, gió trong ruột, gió thổi qua các chân tay,
hơi thở vô,
hơi thở ra, hay bất cứ cái gì khác thuộc nội thân, thuộc
cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị
chấp thủ, đây gọi là nội
phong giới (M. I. 188).
Đối với những người
lợi căn thì có thể
quán sát về
tứ đại ngay trong mình như sau: "Trong thân nầy, cái gì thuộc chất cứng, thô là
Địa đại (giới). Cái gì thuộc chất lỏng, chảy được, làm cho dính liền, là
Thủy đại; Cái gì làm cho chín, làm cho nóng, là
Hỏa đại; Cái gì
duy trì hay chuyển động là phong đại". Nghĩa là
quán thân nầy như là
tứ đại mà thôi, chứ không phải là một
chúng sinh, và không có tự ngã.
Khi
hành giả nỗ lực bằng cách đó, thì không bao lâu định cận hành sẽ
sinh khởi, được
tăng cường bởi tuệ,
soi sáng sự phân loại của các
đại chủng, nhưng chưa
đạt đến định an chỉ, vì các đối tượng của nó là những
đặc tính cá biệt.
Thế nhưng, nếu
hành giả là hạng người thuộc
căn cơ bình thường, thì nên
tu tập đề mục thiền nầy theo 4 cách: 1. Lược thuyết các
thành phần; 2. Quảng thuyết các
thành phần; 3. Lược thuyết về các
đặc tính; 4. Quảng thuyết về các
đặc tính.
1. Lược thuyết về các
thành phần (các
thành phần nầy sẽ nói rõ ở phần Quảng thuyết):
Ở đây
hành giả phân tích ngắn gọn như sau: "Cái gì có
tính chất kiên cứng, thuộc
địa đại,
gồm có 20
thành phần. Cái gì có
tính chất dính liền thuộc
thủy đại, gồm 12
thành phần; Cái gì làm cho chín, thuộc
hỏa đại,
gồm có 4
thành phần; Cái gì có
tính chất duy trì, thuộc
phong đại,
gồm có 6 thành phần". Như vậy,
toàn bộ tứ đại gồm có tất cả 42
thành phần.
Khi
hành giả phân tích chúng như vậy, chúng sẽ trở nên rõ rệt, và nhờ
tác ý nhiều lần định cận hành sẽ khởi lên nơi
hành giả.
2. Quảng thuyết về các
thành phần:
Hành giả khi phân tích về 4
đại chủng nên dùng 32 vật
bất tịnh làm đối tượng để phân tích. Nhưng điểm khác nhau là ở đây phân tích 32 vật nầy về
phương diện đại chủng, còn ở chướng VIII, phân tích 32 vật nầy về
phương diện bất tịnh. Trong 32 vật này
địa đại gồm có 20
thành phần: tóc, lông, răng, móng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột non, ruột già, bao tử, phân, não.
Thủy đại gồm có 12
thành phần: Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, mỡ nước, nước mắt, nước dãi, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu.
Cùng lúc hành giả tác ý đến các vật
bất tịnh tóc, lông v.v...,
cần phải chú tâm đến 4
thành phần thuộc
Hỏa đại của chúng như sau: cái làm cho nóng, cái làm cho chín, cái làm cho
biến đổi và cái làm cho
tiêu hóa.
Đồng thời cũng
tác ý đến
thân thể qua 6
thành phần thuộc
phong đại sau đây: Sự chuyển động
đi lên, sự chuyển động
đi xuống, sự chuyển động trong bụng, sự chuyển động trong ruột, sự chuyển động ngang qua
tứ chi và
hơi thở vô
hơi thở ra. Đó là cách
chú tâm về
phong đại theo 6
thành phần:
3. Lược thuyết về các
đặc tính:
Nếu đã
tác ý về các
thành phần của
tứ đại như trên, mà chưa
đạt được mục đích thì
hành giả hãy
tác ý một cách tóm lược về các
đặc tính của chúng nhu sau: Cái gì có
tính chất cứng là thuộc
Địa đại, cái gì có
tính chất dính liền là thuộc
Thủy đại, cái gì có
tính chất làm cho chín là thuộc
Hỏa đại, cái gì có
tính chất bành trướng là thuộc
phong đại. Đó là nói
sơ lược về các
đặc tính của 4 đại.
4. Quảng thuyết về các
đặc tính:
Nhưng nếu
đề mục thiền ấy vẫn chưa
đạt được thành công thì
hành giả hãy
tác ý một cách tỉ mỉ theo 13 cách sau đây: a. Về
ý nghĩa danh từ; b. Theo từng nhóm; c. Bằng những
vi tế; d. Do
đặc tính; đ. Do sự phát sinh; e. Về khía cạnh
dị đồng; g. Về
tính chất khả phân và bất khả phân; h. Về giống và khác; i. Về phân định trong ngoài; k. Về sự
bao gồm; l. Về
điều kiện; m. Về sự thiếu
phản ứng tâm thức; n. Về sự phân tích các duyên (
điều kiện).
a. Về
phương diện ý nghĩa: Nếu nói một cách tổng quát thì 4
đại chủng đều là giới (dhàtu) mang
tính chất đau khổ. Nhưng nói theo cách
phân biệt thì cái gì trải ra gọi là địa; cái gì
trôi chảy gọi là thuỷ; cái gì làm cho nóng, gọi là hoả; cái gì chuyển động gọi là phong.
b. Theo từng nhóm: Trong 32 vật
bất tịnh được chia thành 2 nhóm, nhóm
địa đại gồm 20
thành phần và nhóm
thủy đại gồm 12
thành phần.
c. Bằng những vi thể: Trong thân ta,
địa đại kể như đã nghiền thành bụi nhỏ như cỡ
vi trần; nó được
kết hợp với
thủy đại, được
duy trì bằng
hỏa đại, và được
tăng trưởng nhờ
phong đại.
d. Về
đặc tính:
Địa đại có
đặc tính cứng;
Thủy đại có
đặc tính chảy;
Hỏa đại có
đặc tính nóng; và
phong đại có
đặc tính bành trướng.
đ. Về nguồn gốc phát sinh: Trong 32 vật gồm
địa đại và
thủy đại là do thời sinh và tâm sinh;
hỏa đại làm
tiêu hóa thức ăn, là nghiệp sinh;
phong đại, tức
hơi thở là tâm sinh.
e. Về khía cạnh
dị đồng:
Bốn đại chủng tuy
đặc tính,
nhiệm vụ và tướng trạng khác nhau, nhưng chúng cùng có chung một
đặc tính là thuộc về
sắc pháp.
g. Về tính khả phân và bất khả phân:
Bốn đại có thể phân tích riêng theo
đặc tính của chúng, đó là tính khả phân; nhưng chúng cùng gồm chung trong 4
phương diện là: màu, mùi, vị và dưỡng chất, đó là tính bất khả phân.
h. Về
phương diện giống và khác: Mặc dù chúng
cùng chung là
sắc pháp nhưng 2
đại địa và thuỷ có tính nặng, 2 đại hỏa và phong có tính nhẹ. Đó là chỗ khác nhau của chúng.
i. Về phân định trong ngoài:
Bốn đại ở
nội giới làm cơ sở cho thức
tồn tại, còn 4 đại ở
ngoại giới thì làm đối tượng cho thức
nhận biết.
k. Về sự
bao gồm:
Địa đại do nghiệp sinh được gồm chung với những đại do nghiệp sinh khác.
Cũng thế, những đại do thức sinh được gồm chung
với nhau.
l. Về
phương diện điều kiện:
Địa đại được giữ lại nhờ nước, được
duy trì bởi lửa, và bành trướng nhờ phong. Như vậy, các đại đều là
nhân duyên cho nhau, đại nầy làm
điều kiện cho đại khác
tồn tại.
m. Về sự thiếu
phản ứng ý thức:
Địa đại không biết "ta là địa đại", hoặc "ta là
điều kiện cho các đại khác tồn tại". Đó là
tính chất không có
phản ứng ý thức của chúng.
n. Về sự phân tích các duyên (
điều kiện): có 4 duyên cho 4
đại chủng, đó là: nghiệp, thức, dưỡng chất, và nhiệt độ (
thời tiết). Nghiệp là sanh duyên cho những gì do nghiệp sanh, và là thân y duyên cho những cái còn lại. Thức là sanh duyên cho những gì do thức sanh, và là
hậu sanh duyên,
hữu duyên,
bất ly khứ duyên cho những thứ còn lại. Dưỡng chất và Nhiệt độ cũng
tương tự như 2 loại trên.
LỢI ÍCH CỦA
PHÁP MÔN NÀY
Vị Tỳ khưu chuyên phân tích về 4 đại thì dễ thấu hiểu được
tính không của các pháp, do đó có thể đoạn trừ được cái tưởng về
chúng sinh, về tự ngã, nhiếp phục được sự
sợ hãi, dứt được niệm ưa ghét.
Nếu không đạt được Niết bàn hiện tại, thì cũng hướng đến một
thiện thú tốt đẹp trong tương lai. Vị nầy
thường có được 5 việc
lợi ích sau đây:
An trú trong
giới luật của bậc thánh;
trí tuệ khai phát, thấy đúng
chân tướng của các sự vật; có
thể đạt được
thần túc thông, như một thân
hiện ra nhiều thân;
bảo đảm một cuộc sống
tốt đẹp sau khi
tái sinh trong
cõi dục giới, hoặc sinh vào
phạm thiên giới; có
thể đạt được
diệt thọ tưởng định ngay trong
hiện tại. Đó là 5
lợi ích của một người
tu tập về
pháp môn phân tích 4
đại chủng.
BÀI MƯỜI HAI
CHƯƠNG XII: ĐỊNH - CÁC
THẦN THÔNG1.
THẦN TÚC THÔNGSau phần
mô tả về 4
đại chủng là nói về
các loại thần thông. Ở đây, trước hết bàn về
Thần túc thông.
Hành giả muốn
thực hiện các
năng lực thần thông cần phải hoàn tất 8
thiền chứng về các
đề mục thiền khởi từ
đề mục đất và
cuối cùng là
đề mục màu trắng.
Đồng thời vị ấy còn phải
tăng trưởng 6 pháp sau đây:
Tăng cường Tín,
để tâm khỏi
dao động;
tăng cường Tấn
để tâm khỏi
giải đãi;
tăng cường Niệm
để tâm khỏi lơ đễnh (
thất niệm);
tăng cường Định,
để tâm khỏi
trạo cử;
tăng cường Tuệ,
để tâm khỏi
mê muội;
tăng cường Quán chiếu,
để tâm khỏi bị lung lạc (bởi
phiền não). Đó là 6 pháp hỗ trợ làm cho tâm trở nên
bất động.
Ngoài ra, còn có 8 pháp khác dùng để
yểm trợ thần thông như sau: Tâm được định tĩnh nhờ định
tứ thiền; tâm được thuần tịnh nhờ tách rời các
triền cái, tâm được
trong sáng nhờ
vượt qua tầm;
tâm không lỗi lầm nhờ không có các
ác dục; tâm được
vô nhiễm nhờ các
cấu uế biến mất, tâm được
nhu nhuyến nhờ sự
tự chủ; tâm dễ
sử dụng nhờ có
quyết tâm; tâm
vững chắc nhờ sự
tu tập đã
viên mãn.
Thông thường bản luận xếp các thứ
thần thông (
thành công) thành 10 loại, như sau:
1.
Thần thông do
quyết định;
2.
Thần thông bằng
biến hóa;
3.
Thần thông bằng thân
ý sinh;
4.
Thần thông bằng sự
can thiệp của trí;
5.
Thần thông bằng sự
can thiệp của định;
6.
Thần thông của các
thánh giả;
7.
Thần thông do nghiệp;
8.
Thần thông do
công đức;
9.
Thần thông do kỹ thuật;
10.
Thần thông do
nỗ lực đúng.
Đó là 10 loại
thần thông.
1.
Thần thông do
quyết định: chẳng hạn
hành giả quyết định biến một thân mình thành ra cả trăm, nghìn thân.
2.
Thần thông do
biến hoá:
Hành giả từ bỏ hình dáng thông thường và
biến thành một cậu bé hay một con rắn.
3.
Thần thông do thân
ý sinh:
Hành giả dùng mãnh lực của tâm tạo ra một thân người theo ý đồ của mình.
4.
Thần thông do sự
can thiệp của trí:
Hành giả vận dụng
trí tuệ đoạn trừ các
lậu hoặc, đắc
A La hán quả, đó là
thần thông do trí
can thiệp.
5.
Thần thông do sự
can thiệp của định: Như
trường hợp tôn giả Xá lợi Phất đang ngồi
nhập định ngoài trời vào lúc đêm trăng, bỗng có một ác quỉ đến đánh vào đầu
tôn giả vang tiếng như sấm nổ, nhưng
tôn giả chẳng hề hấn gì cả. Đó là
thần thông do định
can thiệp.
6.
Thần thông của các bậc thánh:
Hành giả có tâm
thản nhiên đối với những gì đáng ghê tởm mà không ghê tởm, đó là
thần thông của
thánh giả.
7.
Thần thông do
quả báo của nghiệp: Như
trường hợp chư thiên hay các loài chim bay đi trong không trung, đó là
thần thông do nghiệp.
8.
Thần thông do
công đức: Như
trường hợp Chuyển luân Vương du hành tự tại trong
không gian, đó là
thần thông do những
công đức.
9.
Thần thông do kỹ thuật: Như
trường hợp những thầy phù thủy dùng bùa chú có thể bay đi trong không trung, đó là
thần thông do kỹ thuật.
10.
Thần thông do
nỗ lực đúng: Như
hành giả nỗ lực tu tập mà
đạt được giải thoát, hay bất cứ người
học nghề gì, do
nỗ lực tối đa mà học tập thành nghề; đó là
thần thông do
nỗ lực đúng đắn.
Trong 10 loại
thần thông kể trên, chỉ có
thần thông do
quyết định, do
biến hóa và thân
ý sinh là thực sự được gọi là
thần thông mà thôi.
Bây giờ, để trình bày về những
phương diện khác nhau của loại
thần túc thông nầy, ở đây, nên trích dẫn một đoạn kinh văn như sau: "Vị ấy một thân
hóa thành nhiều thân, nhiều thân
trở thành một thân. Vị ấy
hiện ra rồi biến mất, hoặc đi ngang qua tường, qua vách núi, qua những chỗ kín bít không bị trở ngại như qua
hư không. Vị ấy
độn thổ rồi trồi
lên mặt đất như thể là ở trong nước; hoặc đi trên nước như đi trên đất. Vị ấy
ngồi kiết già mà đi trên
hư không như con chim, với bàn tay, vị ấy sờ
chạm mặt trăng,
mặt trời, và những vật có đại oai lực như thế. Vị ấy
thực hiện việc làm chủ thân xác
cho đến tận
Phạm thiên giới". (D I, 77)
Muốn
thực hiện được các phép
thần thông trên đây,
hành giả trước hết phải
hoàn tất các
vấn đề sau: 1. Bốn cấp thiền; 2. Bốn
yếu tố căn bản; 3. Tám bước; 4. Mười sáu
trợ duyên và; 5. Trí
quyết định.
1. Về 4 cấp thiền: như
tôn giả Xá lợi Phất đã trình bày: "Sơ thiền, cõi phát sinh do
viễn ly;
Nhị thiền, cõi của hỉ và lạc;
Tam thiền, cõi của xả và lạc;
Tứ thiền, cõi của không lạc không khổ. Bốn
cõi nầy của Thắng trí đưa đến sự
chứng đắc các thần thông". (D. II. 205)
2. Bốn
yếu tố căn bản: Định do dục và sự
quyết tâm; định do
tinh tấn và sự
quyết tâm; định do
thanh tịnh tự nhiên và sự
quyết tâm; Định do
trạch pháp và sự
quyết tâm.
3. Tám bước:
Y chỉ vào dục
đạt được định, nhưng dục khác, định khác (bước 1-2);
y chỉ vào
tinh tấn đạt được định, nhưng
tinh tấn khác, định khác (bước 3-4);
y chỉ vào tâm (niệm)
đạt được định, nhưng tâm khác, định khác (bước 5-6);
y chỉ vào
trạch pháp đạt được định, nhưng
trạch pháp khác, định khác (bước 7-8).
4. Mười sáu
trợ duyên:
Tâm không chán nản nên không bị
giải đãi làm
dao động.
Tâm không mừng rỡ nên không bị
trạo cử làm
dao động.
Tâm không đam mê thì không bị
tham dục làm
dao động.
Tâm không oán ghét thì không bị
ác ý làm
dao động. Tâm
độc lập thì không bị
tà kiến làm
dao động.
Tâm không dính mắc thì không bị
tham lam làm
dao động.
Tâm giải thoát thì không bị
ngũ dục làm
dao động.
Tâm không trói buộc (vì
cấu uế) thì không bị
cấu uế làm
dao động.
Tâm không còn rào ngăn thì không bị rào ngăn
cấu uế làm
dao động. Tâm
chuyên nhất thì không bị
cấu uế sai biệt làm
dao động. Tâm
tăng cường với tín, thì không bị
nghi ngờ làm
dao động. Tâm
tăng cường bởi tấn, thì không bị
uể oải làm
dao động. Tâm
tăng cường bởi niệm thì không bị lơ đễnh làm
dao động. Tâm
tăng cường bởi định, thì không bị
tán loạn làm
dao động. Tâm
tăng cường bởi tuệ thì không bị
si mê làm
dao động.
Tâm quán chiếu thì không bị bóng tối
vô minh làm
dao động. Đó là 16
trợ duyên đưa đến
chứng đắc thần thông (Ps. II, 206).
5. Trí
quyết định:
Hành giả nhập thiền về
phương diện thắng trí và xuất thiền, rồi
quyết định như sau: "Ta hãy biến ra 100, ta hãy biến ra 100". Đó là trí
quyết định.
Một thân
biến thành nhiều thân:
Hành giả muốn
thực hiện phép
thần thông nầy - hay các phép
thần thông khác -
cần phải vận dụng các pháp
trợ duyên đã kể trên, rồi dùng
ý chí quyết định: "Ta hãy biến ra nhiều thân.", rồi biến ra nhiều thân. Đó là
trường hợp tôn giả Cùla-panthaka (Châu-lợi Bàn-đà), như trong luận đã kể (Ps. II, 207).
Tôn giả vốn tối dạ, học cả 4 tháng trời mà không thuộc một
bài kệ, người anh thầy định đuổi thầy ra khỏi
tu viện,
đức Thế Tôn thương tình, đưa thầy một miếng giẻ bắt thầy lau bụi. Nhưng lau được một ít lâu, miếng giẻ
trở thành màu đen, Thầy nghĩ rằng: "Miếng vải vốn sạch, không có gì quấy ở nó, chỉ có
chấp ngã là
sai lầm.", nhờ thế thầy đắc
thiền chứng, và
đạt được thần biến, một thân
hiện ra nhiều thân.
Phép tàng hình - làm cho biến mất:
Hành giả muốn
thực hiện phép
thần biến nầy thì phải xuất khỏi thiền
căn bản và
tác ý như sau: "Ánh sáng nầy hãy
trở thành bóng tối", hoặc "Vật không bị
che khuất nầy phải bị che khuất". Thế là vật ấy sẽ khuất dạng không ai còn trông thấy nữa.
Phép
thần thông đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, không bị trở ngại như đi trên
hư không:
Hành giả muốn
thực hiện phép
thần biến nầy
cần phải đắc thiền về
biến xứ hư không và xuất thiền, rồi
tác ý đến bức tường, bức vách như sau: "Hãy
hiện ra hư không", thì nó sẽ thành
hư không.
Tuy nhiên, nếu núi hay vách tường đó do một vị có
thần thông tạo ra trước, thì phép
thần thông sau không thể
hư vô hóa nó được, mà phải đi tránh qua nó.
Phép
thần thông độn thổ, rồi trồi lên: Một
hành giả muốn
thực hiện phép nầy thì phải đắc thiền về
biến xứ nước, rồi xuất khỏi thiền ấy, và
quyết định rằng: "Đất đai vùng nầy hãy
biến thành nước." Thế là đất đai vùng ấy đều
hóa thành nước, và vị nầy có thể lặn xuống, trồi lên khỏi mặt đất như ở trong nước. Nhưng chỉ có vị nầy làm được thế, còn những người khác vẫn phải đi bộ trên đất ấy, vì đất vẫn nguyên trạng là đất.
Phép
thần thông làm cho nước đông cứng:
Hành giả muốn
thực hiện phép
thần biến nầy
cần phải đắc thiền về
biến xứ đất, rồi xuất thiền, và
quyết định: "Nước ở tại chỗ nầy hãy
biến thành đất.", thế là nước
biến thành đất, và vị nầy có thể đi trên đó. Hơn nữa, vị nầy còn có thể biến nước thành ra ngọc, vàng, cây, đá v.v..., nếu vị nầy muốn.
Phép
thần thông bay trên
hư không:
Hành giả muốn
thực hiện phép nầy
cần phải đắc thiền về
biến xứ đất, rồi
quyết định: "Hãy có đất", thế là đất
hiện ra, và vị nầy có thể
du hành trên ấy, nhưng vị nầy phải là người đã đắc
thiên nhãn, để có thể tránh được những
chướng ngại vật như núi, cây v.v..., trên đường đi.
Phép
thần thông dùng bàn tay rờ
mặt trăng,
mặt trời: Phép
thần biến nầy
thực hiện được nhờ đắc thiền và tâm
tự tại, chứ không
cần phải đắc thiền bằng một
biến xứ nào
đặc biệt. Vị nầy
tác ý đến
mặt trời,
mặt trăng, và
quyết định với trí: "Nó hãy ở trong tầm tay ta.", thế là
mặt trăng,
mặt trời nằm ngay trong tầm tay, và vị nầy có thể dùng tay sờ
mặt trăng,
mặt trời.
Phép
thần thông nhỏ
biến thành lớn, lớn
biến thành nhỏ: Con
độc long Nandopananda ỷ mình có
thần thông, đã
biến thành vật khổng lồ nằm khoanh
núi Tu Di 14 vòng, rồi tung bụi mù mịt để gây trở ngại đoàn
du hành có
đức Phật và
Thánh chúng. Do đó Phật đã bảo
tôn giả Mục Kiền Liên dùng
thần lực hàng phục nó.
Cuối cùng, nó đã bị
chinh phục, và xin
quy y Phật.
Phép
thần thông rút hay
tăng đường đất - làm cho xa
trở thành gần hay gần thành xa:
Hành giả muốn
thực hiện phép nầy
cần phải là người đã làm chủ được thân xác, và nếu muốn đi đến cõi
Phạm thiên, liền
quyết định: "Cõi
Phạm thiên hãy
đến gần đây." thế là nó
đến gần. Hoặc đối với một chỗ rất gần nếu muốn nó xa, liền
quyết định: "Chỗ này hãy cách xa ra", thế là chỗ ấy cách xa đến một mức độ mà
hành giả muốn.
Phép
thần thông biến ít thành nhiều:
Tôn giả Mục Kiền Liên đã
thực hiện phép nầy như
kinh Bổn Sinh đã kể (Ja. I, 348). Có khi,
đức Thế Tôn cũng từng biến một tô cháo, đủ cho cả
Tăng chúng dùng một bữa no nê.
Ngoài ra, còn có các phép
thần thông như biến nặng thành nhẹ, biến nhẹ thành nặng, hoặc biến mình thành một con voi hay một em bé, như
trường hợp Đề Bà Đạt Đa đã làm (Vin. II, 185)
BÀI MƯỜI BA
CHƯƠNG XIII: ĐỊNH - CÁC
THẦN THÔNG (
tiếp theo)
2.
THIÊN NHĨ THÔNGBây giờ đến lượt
mô tả về
Thiên nhĩ thông, ta có thể dẫn đoạn kinh sau đây làm căn cứ: "Vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến
Thiên nhĩ thông. Với
Thiên nhĩ thuần tịnh,
siêu nhân, vị ấy nghe cả 2 loại
âm thanh,
âm thanh của
Chư thiên và
âm thanh của
loài người, xa cũng như gần." (D. I, 79)
Thiên nhĩ thông:
tức tai giống như tai của
chư Thiên, vì
chư thiên có khả năng
nghe được một đối tượng
âm thanh dù cách rất xa, do họ đã
giải thoát khỏi các
cấu uế.
Thuần tịnh:
Thiên nhĩ nầy
hoàn toàn trong sạch, không có
cấu uế.
Siêu nhân: vượt khỏi
phạm vi của
loài người.
Hành giả muốn
thực hiện phép
thần thông nầy
cần phải đạt được thiền chứng căn bản về thắng trí, rồi
xuất định và
tác ý đến các
âm thanh thô ở xa mà tầm tai có thể
nghe được, như
tiếng chuông, tiếng trống trong
tu viện, hay tiếng Ngài tử trong rừng sâu. Thế rồi, vị ấy
tuần tự tác ý đến những loại
âm thanh vi tế, xa xôi ở 4 phương trời. Bấy giờ
diễn tiến 4 hoặc 5
Tốc hành tâm xảy ra. Ba hay 4 tâm đầu là giai đoạn chuẩn bị
gồm có tâm cận hành, tâm
thuận thứ, và tâm chuyển tánh thuộc
dục giới, còn tâm thứ tư hay thứ 5 là tâm an chỉ thuộc thiền thứ tư ở
Sắc giới.
Hành giả định
giới hạn từ một
tu viện, đến một khu làng,
dần dần đến cả
thế giới hay
xa hơn nữa, tất cả
âm thanh trong
phạm vi ấy đều
nghe được, nếu
hành giả tác ý đến nó. Đây là cách
hành giả nới rộng tâm
thiên nhĩ từng
phạm vi.
3.
THA TÂM THÔNGGiải thích về
Tha tâm thông, kinh văn viết như sau: "Vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến
Tha tâm thông. Vị ấy dùng tâm của mình
thâm nhập vào tâm của các
chúng sinh khác, và hiểu chúng như sau: - Tâm có tham biết là tâm có tham;
tâm không tham biết là
tâm không tham; tâm có sân biết là tâm có sân;
tâm không sân biết là
tâm không sân; tâm có si biết là tâm có si;
tâm không có si biết là
tâm không có si; tâm chật hẹp biết là tâm chật hẹp;
tâm tán loạn biết là
tâm tán loạn; tâm
đại hành biết là tâm
đại hành;
tâm không đại hành biết là
tâm không đại hành; tâm hữu thượng biết là tâm hữu thượng; tâm
vô thượng biết là tâm
vô thượng;
tâm định tĩnh biết là
tâm định tĩnh;
tâm không định tĩnh biết là
tâm không định tĩnh;
tâm giải thoát biết là
tâm giải thoát;
tâm không giải thoát biết là
tâm không giải thoát." (D.I,79). Đó là 16 loại tâm thông thường của các
chúng sanh.
Tha tâm thông nầy
sinh khởi được là nhờ có sự trợ giúp của
Thiên nhãn thông, và có thể thấy được máu trong tim của các
chúng sinh đang
hiện hữu. Nếu tâm của
chúng sinh đó đang
hoan hỉ, thì máu có màu đỏ; nếu tâm đang
ưu sầu thì máu có màu hơi đen; nếu tâm
an tịnh, thì máu có màu trong như dầu mè. Do
quan sát như
vậy mà thấy rõ tâm trạng của
chúng sinh.
Chỉ khi
Tha tâm thông được
củng cố như thế,
tâm hành giả mới
dần dần biết được tâm trạng của
chúng sinh ở cõi Sắc và
Vô sắc mà không
cần phải xem máu trong tim nữa.
Ở đoạn văn trích dẫn có mấy từ sau đây
cần phải giải thích: Tâm
đại hành là tâm thuộc
phạm vi Sắc giới và
Vô sắc giới.
Tâm không đại hành tức ngược lại tâm trên. Tâm hữu thượng là tâm thuộc về 3 cõi. Tâm
vô thượng là tâm
siêu thế - vượt ngoài 3 cõi.
Tâm định tĩnh là tâm
đạt được định cận hành và định an chỉ.
Tâm không định tỉnh là
tâm không đạt cả 2.
Tâm giải thoát là tâm
đạt đến một trong 5 thứ
giải thoát sau:
Giải thoát bằng sự thay
thế pháp đối lập (nhờ
tuệ quán);
giải thoát nhờ sự
đàn áp các pháp
chướng ngại (nhờ định);
giải thoát bằng sự đoạn trừ các
chướng ngại (nhờ đạo lộ);
giải thoát bằng sự
an tịnh (nhờ
quả chứng);
giải thoát bằng sự
từ bỏ (nhờ
đạt được Niết bàn).
Tâm không giải thoát là tâm chưa
đạt được bất cứ
giải thoát nào trong 5 loại trên.
4.
TÚC MẠNG THÔNGĐể
giải thích về
Túc mạng thông, kinh văn viết: "Vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến
Túc mạng thông, nhớ đến nhiều đời trước của mình, đó là:
một đời, hai đời,
ba đời, bốn đời, năm đời, 10 đời, 20 đời, 30 đời, 40 đời, 50 đời, 100 đời, 1000 đời, 100. 000 đời, nhiều
hoại kiếp, nhiều
thành kiếp, nhiều
hoại kiếp và
thành kiếp. Vị ấy nhớ tại chỗ kia ta có tên như thế,
chủng tộc như thế,
tướng mạo như thế, đồ ăn như thế, thọ khổ lạc như thế, tuổi thọ như thế.
Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ, tại đây, ta có tên như thế,
chủng tộc như thế,
tướng mạo như thế,
ăn uống như thế, tuổi thọ như thế.
Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sinh ra ở đây. Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều
đời sống quá khứ, cùng với các nét
đại cương và chi tiết". (D. I. 81)
Túc mạng thông hay
Túc mạng trí là cái
trí nhớ lại những đời
quá khứ. Trong
trường hợp nhớ lại các
đấng Giác ngộ trong
quá khứ đã cắt đứt dòng
luân hồi, thì chỉ có các
đấng Giác ngộ mới làm được. Có 6 hạng người nhớ đời
quá khứ, đó là:
Ngoại đạo;
đệ tử thường;
đệ tử trẻ xuất sắc;
đại đệ tử;
Độc giác; Phật.
Ngoại đạo chỉ nhớ 40 kiếp về trước, không thể
xa hơn nữa, vì
trí tuệ họ
yếu ớt. Những
đệ tử thường nhớ đến 100 kiếp hay 1000 kiếp; vì
trí tuệ họ mãnh liệt. Hạng
đệ tử trẻ xuất sắc
cũng thế. Nhưng các
đại đệ tử nhớ được trăm nghìn kiếp hay một
vô số kiếp về trước.
Các bậc
Độc giác nhớ được trăm nghìn kiếp và 2
vô số kiếp về trước. Còn với chư Phật thì
trí nhớ không có
giới hạn.
Bản luận nêu ví dụ: Cái thấy của
ngoại đạo như lửa đom đóm; cái thấy của
phàm phu như
ánh đèn cầy; cái thấy của
đệ tử xuất sắc như bó đuốc; cái thấy của
đại đệ tử như sao mai; của
Độc giác như
mặt trăng; của chư Phật như muôn ngàn
tia sáng mặt trời vào
mùa thu quang đãng.
Một Tỳ khưu mới
tu tập muốn nhớ lại
đời sống quá khứ theo cách trên,
cần phải đi vào độc cư,
tuần tự nhập 4 thiền và xuất thiền thứ tư thuộc
căn bản thắng trí. Rồi vị ấy hướng tâm đến
hành vi gần nhất của mình như lúc mới ngồi xuống, và đi ngược về
quá khứ như các
việc làm hôm qua, tháng trước, năm trước, v.v..
cho đến một đời, nhiều đời,
hoại kiếp và
thành kiếp, với những nét
đại cương và
chi tiết.
Về
hoại kiếp có 3 loại
tai nạn là
hỏa tai,
thủy tai, và
phong tai. Đó gọi là
tam tai. Ba loại
tai họa nầy
lần lượt xuất hiện để hủy diệt
thế giới. Đầu tiên là
hỏa tai nổi lên, từ một
mặt trời lần lần đến 2
mặt trời xuất hiện rồi đến 7
mặt trời xuất hiện cùng lúc,
thiêu hủy thế giới đến hết
cõi Sơ thiền, và dừng lại ở
Nhị thiền. Thế rồi
thủy tai nổi lên
phá hủy đến cõi
Nhị thiền và dừng lại ở
Tam thiền. Sau đó
phong tai xuất hiện,
phá hủy hết cõi
Tam thiền và dừng lại ở
Tứ thiền.
Thoạt tiên liên tiếp khởi 7 trận
hỏa tai,
tiếp theo có một trận
thuỷ tai nổi lên.
Thuỷ tai nầy lập lại tới 7 lần thì đến trận
phong tai. (
Luận Câu xá q. 12: Theo bản luận
cho biết khi
tham dục quá
cường thịnh thế giới sẽ bị hủy hoại bởi
thủy tai. Khi
sân hận quá
cường thịnh thì
thế giới sẽ bị hủy hoại bỡi
hỏa tai, và khi
si mê quá
cường thịnh thì
thế giới bị hủy hoại bởi
phong tai)
Ở đây thiết tưởng nên giảng rõ chữ kiếp để làm
sáng tỏ vấn đề trên. Kiếp (kalpa)
gồm có 3 loại:
Tiểu kiếp,
trung kiếp, và
đại kiếp.
Tiểu kiếp: Lấy
đời sống của
nhân loại ở mức độ 10 tuổi mà khởi sự, cứ qua 100 năm thì
đời sống thêm một tuổi,
cho đến lúc
đời sống con người được 84.000 năm; đó là kiếp tăng. Rồi bắt đầu
con người từ 84.000 tuổi, cứ qua 100 năm thì
đời sống giảm một tuổi
cho đến lúc
đời sống con người chỉ còn 10 tuổi; đó là
kiếp giảm.
Một lần kiếp tăng và
một lần kiếp giảm như vậy được kể là một
Tiểu kiếp,
gồm có 16.800.000 năm.
Trung kiếp:
Lần lượt đủ hai mươi
tiểu kiếp được kể là một
trung kiếp,
gồm có (16.800.000 x 20 =) 336.000.000 năm.
Đại kiếp có 4
trung kiếp.
Trải qua Trung kiếp thứ nhất gọi là
thành kiếp;
trải qua trung kiếp thứ nhì, gọi là
trụ kiếp;
trải qua trung kiếp thứ ba gọi là
Hoại kiếp;
trải qua trung kiếp thứ tư gọi là
Không kiếp. Như vậy một
Đại kiếp gồm có 4 giai đoạn là: thành, trụ, hoại và không, và
thời gian là (336.000.000 x 4 =) 1.344.000.000 năm. (
Phật Học từ điển, mục từ Kiếp)
Về
Thành kiếp: Sau một
thời gian dài, đất bắt đầu
xuất hiện. Nó có màu sắc và
mùi vị như lớp ván trên mặt nồi cơm vừa cạn. Rồi những
chúng sinh ở
cõi trời Quang Âm, do hết phước và
mạng chung, liền sinh đến đó. Chúng tự phát sáng, và
du hành trong
hư không. Thế rồi, nghe mùi đất thơm
hấp dẫn, chúng nếm thử và thấy
thích thú, nên ăn chất đất ấy càng lúc càng nhiều, do đó, ánh sáng của chúng tan biến.
Vì vậy mặt trời xuất hiện; sau đó là
mặt trăng và
tinh tú xuất hiện. Từ đó hình
thành thời gian, ngày đêm, tháng năm và
thời tiết. Kế đến là núi non, sông biển và
ngũ cốc xuất hiện.
Những
chúng sinh sử dụng chất đất đầu tiên ấy,
dần dần một số trở nên
đẹp đẽ, một số
xấu xí. Người đẹp khinh bỉ người xấu, do đó, chất đất
tinh túy kia biến mất, và từ đất mọc lên một thứ cỏ, cây leo, lúa không có trấu cám. Rồi một ngọn lửa
tự nhiên nấu chín lúa ấy thành cơm,
có mùi thơm ngon, và
chúng sinh dùng thứ cơm ấy. Do đó, nước tiểu và phân
xuất hiện,
dần dần nam căn và
nữ căn xuất hiện. Vì có
hình thức nam nữ khác nhau nên nam giới
nghĩ tưởng nữ giới,
nữ giới nghĩ tưởng nam giới. Do khoảng
thời gian dài
nghĩ tưởng về nhau, nên cơn sốt nhục
dục sinh khởi, vì thế chúng bắt đầu
hành lạc. Thấy cảnh
hành lạc công khai chướng mắt, nên những người trí
chỉ trích và
trừng phạt những người ấy. Từ đó, chúng bắt đầu xây nhà với
mục đích che đậy những việc xấu kia,
đồng thời dùng làm chỗ cất chứa
thức ăn. Bấy giờ lúa sinh ra cám và trấu, và chúng phải đi lấy phần
hằng ngày để về dùng. Do vậy chúng dựng lên những
ranh giới để chia phần cho mỗi
cá thể.
Tuy thế, có người
tham lam, lấy phần của người khác,
vì vậy mà thành ra có sự
ăn trộm. Do có sự
trộm cắp, chúng bèn hội nhau lại, bầu ra một người lãnh tụ để giữ
vai trò thưởng phạt, ổn định
trật tự. Người đầu tiên được
mọi người bầu làm lãnh tụ trong thời kiếp này chính là
Đức Thế Tôn. Vì Ngài được tất cả
mọi người trên
thế gian nầy
tín nhiệm,
tôn kính, nên có
danh hiệu là
Thế Tôn. Ngài cũng có
danh hiệu là điền chủ (khetta), lại được gọi là
Sát đế lợi (Khettiya), tức
giai cấp chiến sĩ cao quí. Ngài đem lại
lợi ích cho
mọi người một cách
chính trực và
công bằng, nên Ngài được gọi là một vị vua (Ràjà). Sau đó là
Bà la môn và những
giai cấp khác được
tuần tự thành lập. (D. III. 85)
5.
THIÊN NHÃN THÔNGGiải thích về
Thiên nhãn thông này, kinh văn viết: "Vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí biết về sự chết và
tái sanh của
chúng sinh. Với
Thiên nhãn thuần tịnh
siêu nhân, vị ấy thấy
chúng sinh chết và sinh
trở lại, chịu số phận
hạ liệt hay cao sang, đẹp hay xấu,
hạnh phúc hay
bất hạnh; vị ấy biết
hữu tình đi theo hạnh nghiệp của chúng: Những
tôn giả chúng sinh nầy tạo
ác nghiệp về thân, về lời, và về ý,
phỉ báng các bậc Thánh, có
tà kiến, tạo những nghiệp theo
tà kiến, sau khi thân hoại
mạng chung, đã sinh vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ,
địa ngục v.v... Còn những
tôn giả chúng sinh nầy, tạo những
thiện nghiệp về thân,về lời và về ý, không
phỉ báng các bậc Thánh, có
chánh kiến, tạo những nghiệp theo
chánh kiến; sau khi thân hoại
mạng chung đã sinh vào một
thiện thú,
thiên giới. Như vậy, với
thiên nhãn thuần tịnh
siêu nhân vị ấy thấy
chúng sinh chết và
tái sinh, người
hạ liệt người cao sang, người
đẹp đẽ, người thô xấu, người
may mắn người
bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng". (D. I, 82)
Thiên nhãn: mắt của
chư thiên. Vì nhãn quang của
chư thiên rất bén nhạy, do
thiện nghiệp phát sinh, nên có thể trông thấy một đối tượng ở rất xa. Một Tỳ khưu do
tinh tấn tu hành, trong
tâm trí cũng phát sinh một thứ nhãn quang
kỳ diệu như thế, nên gọi là
Thiên nhãn.
Hạ liệt: bị khinh bỉ, bị
miệt thị v.v... Vì
chủng tộc thấp hèn; do
quả báo của si. Cao sang: Ngược lại
hạ liệt, do
quả báo không si. Đẹp: có một
bề ngoài dễ coi, khả ái, do
quả báo của
vô sân. Xấu: có một
bề ngoài khó ưa, khả ố, do
quả báo của sân.
May mắn: đi đến một
thiện thú, hoặc nơi
giàu sang, do
quả báo không tham.
Bất hạnh: đi đến một
ác thú, hoặc nơi nghèo hèn, do
quả báo của
tham lam. Hủy báng các bậc thánh: Các bậc thánh
gồm có Phật,
Độc giác, các
đệ tử Thanh văn, hoặc những
gia chủ đã chứng
Dự lưu quả. Hủy báng có 2 cách: hoặc là
xúc phạm, khinh miệt họ; hoặc là phủ nhận những
công đức phẩm hạnh của họ. Những ai đã hủy báng các vị ấy bằng một trong 2 cách thì phải
sám hối hoặc trực tiếp hoặc
gián tiếp đối với họ.
Nếu không sám hối thì đạo lộ
tu hành sẽ bị
chướng ngại.
Cõi dữ:
đồng nghĩa với địa ngục.
Địa ngục: là
cảnh giới đau khổ cùng cực, đáng
ghê sợ nhất.
Ác thú: là chỗ trú ẩn của những
đau khổ.
Đọa xứ: nơi những người phạm
tà hạnh rơi vào đó. Thông thường cõi dữ chỉ cho
cảnh giới của loài
súc sinh;
ác thú là
cảnh giới của
ngạ quỉ; đọa xứ là
cảnh giới của
A tu la, nhưng
cảnh giới nầy cũng có nghĩa là cõi dữ và
ác thú.
Thiện thú: chỉ cho
cảnh giới của
nhân loại, còn
cảnh giới của
chư thiên thì thường gọi là
cõi trời.
Một
hành giả muốn
thực hiện phép
Thiên nhãn thông cần phải tu tập thành tựu ba
biến xứ:
biến xứ lửa,
biến xứ màu trắng và
biến xứ ánh sáng. Nhưng
biến xứ ánh sáng là tốt nhất.
TỔNG QUÁT:
Về loại
Thần túc thông (đã trình bày ở chương XII)
liên hệ đến 7 thứ đối tượng: đối tượng hữu hạn; đối tượng
đại hành (cao cả); đối tượng
quá khứ; đối tượng
hiện tại; đối tượng
vị lai; đối tượng bên trong; đối tượng bên ngoài. Hữu hạn: nghĩa là thuộc
lãnh vực Dục giới;
đại hành thuộc
lãnh vực Sắc giới và
Vô sắc giới; bên trong là ngay trong thân mình; bên ngoài là ở ngoài thân mình. Còn
quá khứ,
vị lai và
hiện tại là khoảng
thời gian trước, sau và ngay
lúc ấy.
Về loại
Thiên nhĩ thông gồm có 4 đối tượng: đối tượng hữu hạn; đối tượng
hiện tại; đối tượng bên trong và đối tượng bên ngoài. Vì nó lấy
âm thanh làm đối tượng, mà
âm thanh thì có
giới hạn, nên nó có một đối tượng hữu hạn. Vì nó phát sinh từ những
âm thanh đang
hiện hữu, nên nó có một đối tượng
hiện tại.
Về
Tha tâm thông gồm có 8 đối tượng: đối tượng hữu hạn;
đại hành;
vô lượng; đạo lộ;
quá khứ;
hiện tại;
vị lai; bên ngoài. Vào lúc biết đạo và quả, nó có một đối tượng
vô lượng. Vì một người thường (
phàm phu) không thể biết được tâm của một bậc
Dự lưu; một bậc
Dự lưu không thể biết được tâm của một bậc
Nhất lai; và cứ thế lên đến
A la hán. Còn
A la hán thì biết được tâm của tất cả. Vào lúc trí lấy tâm của một đạo lộ làm đối tượng, nó có một đối tượng đạo lộ.
Về
Túc mạng thông gồm có 8 đối tượng: hữu hạn;
đại hành;
vô lượng; đạo lộ;
quá khứ; bên trong; bên ngoài; không thể phân loại. Vào lúc nhớ lại các khái niệm như danh, tánh, trong
quá khứ thì trí ấy có một đối tượng không thể phân loại.
Ngoài ra những từ khác như đã
giải thích ở trên.
Về
Thiên nhãn thông, Buddhaghosa chia thành 3 loại: trí biết sự chết và
tái sanh; trí biết
vị lai; trí biết sở hành
tùy theo nghiệp.
Trí biết sự chết và
tái sinh gồm có 4 đối tuợng: hữu hạn;
hiện tại; bên trong; bên ngoài.
Trí biết
vị lai tương ứng với 8 đối tượng: hữu hạn;
đại hành;
vô lượng; đạo lộ;
vị lai; bên trong; bên ngoài; không thể xếp loại.
Trí biết sở hành
tùy theo nghiệp
tương ứng với 5 đối tượng: hữu hạn;
đại hành;
quá khứ; bên trong; bên ngoài. Về
ý nghĩa các từ, xem những
giải thích ở trên.
Theo
quan điểm của Buddhaghosa
các loại thần thông - đôi khi còn gọi là thắng trí hay
năng lực siêu nhiên - chỉ
gồm có 5 thứ:
Thần túc thông;
Thiên nhĩ thông;
Tha tâm thông;
Túc mạng thông;
Thiên nhãn thông. Nhưng thông thường
kinh điển thêm một loại nữa là
Lậu tận thông, thành ra 6 loại, và được gọi là
lục thông.
Ba loại đầu thường gọi là thông, nhưng 3 loại sau còn gọi là minh hay trí như:
Túc mạng minh hay
Túc mạng trí;
Thiên nhãn minh hay
Thiên nhãn trí;
Lậu tận minh hay
Lậu tận trí.
BÀI MƯỜI BỐN
CHƯƠNG XIV: CÁC UẨN
(Khandha niddesa)
A- TUỆ:
Sau khi
kết thúc phương pháp tu tập về ĐỊNH, giờ đây, trình bày cách thức
tu tập về TUỆ. Tuệ có nhiều loại và nhiều khía cạnh, nhưng ở đây chủ yếu là trình bày về cái tuệ thuộc
quán trí đưa đến đạo lộ
siêu việt.
Tuệ là
hiểu biết,
tương tự với nó có tưởng tri và thức tri. Nhưng tưởng tri chỉ là sự
nhận biết một đối tượng như xanh hay vàng. Thức tri vừa biết đối tượng ấy xanh, hay vàng, vừa biết cả
bản chất cuả đối tượng ấy. Còn Tuệ vừa biết đối tượng theo cách đã nói, vừa hướng đến một đạo lộ
siêu thế do
tinh tấn. Tưởng tri
ví như một đứa trẻ khi nhìn
đồng tiền, chỉ biết đó là một vật kim loại, có hình vẽ. Thức tri như người nhà quê không thể
phân biệt đó là tiền giả hay thật. Tuệ như người đổi tiền, biết rõ
tính chất và
giá trị của
đồng tiền.
Tuy thế, sự khác nhau giữa chúng rất
tế nhị, khó mà
phân biệt rằng: "đây là tưởng tri, đây là thức tri và đây là tuệ".
Nếu phân tích
chi tiết thì tuệ có một loại, 2 loại, 3 loại và 4 loại.
Tuệ một loại: là nó có
đặc tính đi sâu vào
tự tính của các pháp.
Tuệ hai loại: là
thế gian và
xuất thế gian. Tuệ
thế gian là
liên hệ đến đạo lộ
thế gian; Tuệ
xuất thế gian là tuệ
liên hệ đến đạo lộ
siêu thế.
Tuệ ba loại:
văn tuệ,
tư tuệ và tu tuệ.
Văn tuệ: tuệ có được do nghe người khác.
Tư tuệ: Tuệ có được do sự
suy nghĩ của mình. Tu tuệ: Tuệ phát sinh nhờ
tu thiền định và
đạt đến an lạc.
Tuệ ba loại (thứ hai) là tuệ có một đối tượng hữu hạn; tuệ có một đối tượng
đại hành và tuệ có một đối tượng
vô lượng. Tuệ khởi lên
liên hệ với các pháp
Dục giới là tuệ có đối tượng hữu hạn. Tuệ khởi lên
liên hệ với các pháp
Sắc giới hay
Vô sắc giới là tuệ có đối tượng
đại hành. Tuệ
sinh khởi liên hệ đến
Niết bàn là tuệ có đối tượng
Vô lượng.
Tuệ bốn loại: Tuệ phát sinh
liên hệ đến
chân lý về khổ gọi là
khổ trí. Tuệ phát sinh do biết nguồn gốc của khổ, gọi là
Khổ tập trí. Tuệ phát sinh
liên hệ đến sự
diệt khổ, gọi là
khổ diệt trí. Tuệ phát sanh
liên hệ đến đạo lộ đưa đến
diệt khổ: gọi là
khổ diệt đạo trí.
Ngoài ra còn có 4 loại tuệ khác được gọi là 4
biện tài, đó là: Trí biết về nghĩa, gọi là
biện tài về nghĩa. Trí biết về pháp gọi là
biện tài về pháp. Trí biết về các
ngôn từ, gọi là
biện tài về từ. Trí biết về
các loại trí, gọi là
biện tài về trí.
B.
NĂM UẨN:
Bây giờ đến lượt trình bày về 5 uẩn.
Năm uẩn là: Sắc, thọ, tưởng, hành, và thức.
1.
Sắc uẩn:
Trước
hết nói về
sắc uẩn. Bất cứ pháp nào có
đặc tính bị tiêu hoại do
nguyên nhân lạnh nóng v.v... đều
bao gồm trong
sắc uẩn. Nếu đem phân loại thì có
sắc uẩn thuộc một loại, hai loại, và bốn loại. Một loại do có
trạng thái tiêu hoại. Hai loại chính là:
sắc tứ đại và
sắc y đại sinh.
Sắc tứ đại có 4 loại:
địa đại,
thủy đại,
hỏa đại và
phong đại. (
Xem lại chương XI)
Sắc y đại sinh có 24 loại: 1. nhãn thanh triệt; 2. nhĩ thanh triệt; 3. tỷ thanh triệt; 4. thiệt thanh triệt; 5. thân thanh triệt; 6. cảnh sắc; 7. cảnh thinh; 8. cảnh khí; 9. cảnh vị; 10
nữ tính; 11. nam tính; 12. ý vật; 13. mạng quyền; 14. vật thực; 15. giao giới; 16. thân biểu tri; 17. khẩu biểu tri; 18. nhẹ; 19. mềm; 20. thích sự; 21. tích trữ; 22.
thừa kế; 23. lão mại; 24.
vô thường.
1. Sắc nhãn thanh triệt: là sắc thâu đặng cảnh sắc.
Đặc tính của sắc này là sự trong ngần của
sắc tứ đại mà thâu nhận cảnh sắc.
2. Sắc nhĩ thanh triệt: là sắc thâu nhận cảnh thinh.
Đặc tính của sắc này là sự trong ngần của
sắc tứ đại mà thâu nhận cảnh thinh.
3. Sắc tỷ thanh triệt: là sắc thâu nhận cảnh khí.
Đặc tính của sắc này là sự trong ngần của
sắc tứ đại mà thâu nhận cảnh khí.
4. Sắc thiệt thanh triệt: là sắc thâu nhận cảnh vị.
Đặc tính của sắc này là sự trong ngần của
sắc tứ đại mà thâu nhận cảnh vị.
5.
Sắc thân thanh triệt: là sắc thâu nhận cảnh xúc.
Đặc tính của sắc này là sự trong ngần của
sắc tứ đại mà thâu nhận cảnh xúc.
Một
số luận Ngài cho rằng: "Trong con mắt, hỏa thịnh; trong lỗ tai, phong thịnh; trong lỗ mũi, địa thịnh; trong lưỡi, thủy thịnh; trong thân thì 4
đại quân bình".
Ví dụ: Như những con rắn, cá sấu, chim, chó, chồn hoang thường hướng về những nơi chúng hay
lui tới là tổ kiến, nước,
không gian, làng mạc, nghĩa địa v.v...
Cũng thế, tai, mắt, v.v.. hướng đến những
hành xứ riêng của chúng là sắc, thanh v.v...
6.
Sắc cảnh sắc: là tất cả màu, tức là sắc bị thấy. Có
đặc tính là
đối chiếu với nhãn thanh triệt.
Nhiệm vụ là làm cảnh cho
nhãn thức.
7.
Sắc cảnh thinh: là tất cả tiếng, tức là sắc bị nghe. Có
đặc tính là
đối chiếu với nhĩ thanh triệt.
Nhiệm vụ là làm cảnh cho
nhĩ thức.
8.
Sắc cảnh khí: là các thứ hơi, tức là sắc bị ngửi. Có
đặc tính là
đối chiếu với tỷ thanh triệt.
Nhiệm vụ là làm cảnh cho
tỷ thức.
9.
Sắc cảnh vị: là các thứ hơi, tức là sắc bị nếm. Có
đặc tính là
đối chiếu với thiệt thanh triệt.
Nhiệm vụ là làm cảnh cho
thiệt thức.
10.
Nữ tính: là có cách thức nữ. Có
đặc tính là khuôn khổ nữ.
Nhiệm vụ là trình bày cách người nữ.
11. Nam tính: là có cách thức nam. Có
đặc tính là khuôn khổ nam.
Nhiệm vụ là trình bày cách người nam.
12. Sắc ý vật: là sắc tim, là sắc mà
chúng sanh nương nhờ vào làm việc có lợi và không
lợi ích. Có
đặc tính là làm chỗ nương cho
ý giới và
ý thức giới.
Nhiệm vụ nó là chứa để cho
ý giới và
ý thức giới.
13. Sắc mạng quyền: là sự sống còn hay
gìn giữ sắc nghiệp. Có
đặc tính là
bảo vệ sắc đồng sanh.
Nhiệm vụ là làm cho các sắc nghiệp
tồn tại.
14. Sắc vật thực: là
đoàn thực. Có
đặc tính là làm dưỡng chất.
Nhiệm vụ nó là làm cho
các loại sắc
tồn tại.
15. Sắc giao giới: là
hư không, trống không. Có
đặc tính là chặn giữa của bọn sắc với bọn sắc.
Nhiệm vụ nó là trình bày riêng từ phần của bọn sắc.
16.
Sắc thân biểu tri: là
thân hành động hiện bày ra. Tức là thân nêu bày có
ý nghĩa tỏ hiểu (thân biểu tri
thông tri).
Nhiệm vụ nó là bày
tỏ ý định.
17. Sắc khẩu biểu tri: là cách phát lời bằng miệng. Tức là miệng phát ra nêu bày có
ý nghĩa để tỏ hiểu.
Nhiệm vụ nó là bày tỏ, nêu ra.
18. Sắc nhẹ: là cách nhẹ nhàng của sắc. Có
đặc tính là nhẹ nhàng.
Nhiệm vụ nó là phá trừ tính nặng nề của sắc.
19. Sắc mềm: là sự mềm của
sắc tâm,
sắc âm dương, sắc vật thực. Có
đặc tính là mềm.
Nhiệm vụ nó là
bài trừ sự cứng sượng của sắc.
20. Sắc thích sự: là vừa với cách điều khiển để làm công việc
như ý. Có
đặc tính là cách
thích hợp.
Nhiệm vụ nó là cách lưu tồn lượng lực.
21. Sắc tích trữ: là cách phát sanh ra của sắc. Có
đặc tính là sơ sanh.
Nhiệm vụ nó là làm việc sanh ra cho các sắc.
22. Sắc
thừa kế: là sự
tiến hóa,
tiếp nối lớn lên của sắc
thành tựu. Có
đặc tính là cách đang
tiến hóa.
Nhiệm vụ nó là làm cho
liên tiếp.
23. Sắc lão mại: là cách già của sắc. Có
đặc tính là cách
hao mòn của
sắc pháp.
Nhiệm vụ nó là dẫn dắt cách
hao mòn.
24. Sắc
vô thường: là cách đang diệt vừa sắp mất của sắc. Có
đặc tính là cách hư hao làm cho hư mất.
Nhiệm vụ nó là làm cho
sắc pháp chìm xuống.
Như vậy,
sắc tứ đại gồm 4 thứ,
sắc y đại sinh gồm 24 thứ, tất cả có 28 thứ thuộc về
sắc pháp. Tất cả
sắc pháp chia thành một loại còn có 8 tên gọi khác là:
phi nhân,
hữu duyên,
hữu lậu, thuộc
thế gian,
Dục giới, vô cảnh, phi trừ.
Sắc pháp chia 2 loại còn có tên gọi: sắc nội và sắc ngoại;
sắc hữu vật và sắc vô vật; sắc môn và sắc phi môn; sắc quyền và sắc phi quyền; sắc thô và sắc tế; sắc xa và sắc gần; sắc chạm nhau và
sắc không chạm nhau; sắc thủ và sắc phi thủ;
sắc hữu kiến và sắc bất kiến, sắc thâu cảnh và
sắc không thâu cảnh.
Năm thứ: nhãn thanh triệt, nhĩ thanh triệt, tỷ thanh triệt, thiệt thanh triệt, thân thanh triệt gọi là sắc nội; vì
chúng sinh ra như một phần của
toàn thể con người. Những gì còn lại là ngoại sắc; vì chúng ở ngoài
con người. Năm thứ trên
cộng thêm sắc cảnh sắc,
sắc cảnh thinh,
sắc cảnh khí,
sắc cảnh vị, và địa, hỏa, phong thành 12 thứ được xem là sắc thô; vì chúng dễ dàng được thấy và hiểu. Còn lại là
tế sắc, vì chúng ngược lại. Sắc tế còn gọi là sắc xa vì
thực tính khó
thông suốt,
ngoài ra gọi là sắc gần. Bốn giới, 13 sắc như nhãn thanh…. Và sắc vật thực gom thành 18 loại sắc
thành tựu vì
trải qua đặc tánh giao giới, kỳ dị,
sắc tướng phải xác định lấy theo
thực tính; còn lại là sắc phi
thành tựu vì trái ngược.
Sắc thanh triệt còn gọi là sắc quyền vì thành trưởng cùng với cả ba quyền như mạng quyền, nam quyền, nữ quyền; còn lại là phi quyền. Những thứ đề cập sau đây, kể như nghiệp sinh, gọi là hữu
chấp thủ; còn lại là vô
chấp thủ.
Sắc thô
gồm có 5
sắc thanh triệt + 7
sắc cảnh. Trong sắc thô, chỉ có
sắc cảnh sắc là
sắc hữu kiến; sắc còn lại là
vô kiến. Cả 12 sắc thô còn gọi là
sắc hữu đối chiếu, sắc còn lại là
vô đối chiếu
Lại nữa, sắc thuộc 4 loại do khả năng là: sắc
sở kiến, sắc sở văn, sắc sở tư, sắc
sở tri.
Sắc xứ được thấy, vì là đối tượng của sự thấy, nên thuộc về sắc
sở kiến. Thinh xứ được nghe, vì là đối tượng của sự nghe, nên thuộc về sắc sở văn. Khí, vị, xúc xứ được biết, vì
phạm vi của quyền nhận lấy cảnh vừa
thích hợp nên thuộc về sắc sở tư. Các sắc còn lại đều là đối tượng
nhận thức chắc chắn của tâm, nên thuộc về sắc
sở tri.
Nói chung,
Sắc uẩn hay
Sắc pháp ở đây được chia thành 2 loại,
Sắc tứ đại và
sắc y đại sinh,
gồm có 28 thứ.
2. Tâm uẩn (
Thức uẩn)
Trong 5 uẩn, một uẩn đầu thuộc về sắc, đã được đề cập ở trên, 4 uẩn còn lại thuộc về tâm, giờ đây sẽ bàn đến. Cái gì có
đặc tính cảm thọ, thuộc về
thọ uẩn. Cái gì có
đặc tính tri giác, nhớ biết, thuộc về
tưởng uẩn. Cái gì có
đặc tính tạo tác, thuộc về
hành uẩn. Cái gì có
đặc tính nhận biết, thuộc về
thức uẩn. Trong các uẩn trên,
thức uẩn là
trọng tâm của tất cả. Ở đây, Thức có nghĩa như là tâm hay ý.
Theo
thực tính,
tâm thức được phân tích thành 3
phương diện là thiện,
bất thiện và
vô ký,
gồm có tất cả 89 thứ (nói hẹp) hoặc 121 thứ (nói rộng).
Tâm thiện: được chia theo 4 phần là
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới và
Siêu thế.
Tâm thiện ở
Dục giới với hỷ, xả, trí và hữu dẫn,
gồm có 8 thứ sau đây:
1/
Câu hành với hỷ,
tương ưng với trí, vô dẫn.
2/
Câu hành với hỷ,
tương ưng với trí, hữu dẫn.
3/
Câu hành với hỷ, không
tương ưng với trí, vô dẫn.
4/
Câu hành với hỷ, không
tương ưng với trí, hữu dẫn.
5/
Câu hành với xả,
tương ưng với trí, vô dẫn.
6/
Câu hành với xả,
tương ưng với trí, hữu dẫn.
7/
Câu hành với xả, không
tương ưng với trí, vô dẫn.
8/
Câu hành với xả, không
tương ưng với trí, hữu dẫn.
Giải thích:
1. Khi một người
sung sướng nghĩ rằng: "Bố thí có
công đức lớn", và
bố thí không
do dự; đó là tâm
câu hành với hỷ,
tương ưng với trí, không cần người khác nhắc bảo.
2. Khi một người
sung sướng hài lòng như trên, nhưng hành động
do dự, cần được người khác nhắc bảo; đó là tâm hữu dẫn.
3. Khi một em bé muốn làm
việc thiện, nhưng phải được người lớn cổ vũ; đó là tâm hữu dẫn.
4. Khi một em bé bắt chước người lớn, làm
việc thiện một cách
tự nhiên; đó là tâm vô dẫn.
5 - 8.
Tương tự 4
trường hợp trên, nhưng không có hỷ; đó là tâm
câu hành với xả.
Đó là 8
thiện tâm thuộc
Dục giới. Giờ đây đề cập đến 5
thiện tâm thuộc
Sắc giới, như sau:
9/.
Sơ thiền.
10/.
Nhị thiền.
11/.
Tam thiền.
12/.
Tứ thiền.
13/. Ngũ thiền.
Đó là 5
thiện tâm thuộc
Sắc giới, theo
hệ thống Ngũ thiền. Bây giờ đề cập đến 4
thiện tâm Vô sắc giới:
14/.
Không vô biên xứ.
15/
Thức vô biên xứ16/
Vô sở hữu xứ17/
Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Và đây là 4 tâm thiện thuộc
Siêu thế:
18/ Sơ đạo
19/
Nhị đạo20/
Tam đạo21/
Tứ đạoNhư vậy,
thiện tâm gồm có tất cả 21 thứ.
Bất thiện tâm: tâm này chỉ thuộc
Dục giới,
liên hệ đến 3
yếu tố là tham, sân và si,
gồm có 12 thứ.
Trước hết là
tâm bất thiện liên quan đến tham gồm 8 thứ:
22/.
Câu hành với hỷ,
tương ưng tà kiến, vô dẫn.
23/.
Câu hành với hỷ,
tương ưng tà kiến, hữu dẫn.
24/.
Câu hành với hỷ, không
tương ưng tà kiến, vô dẫn.
25/.
Câu hành với hỷ, không
tương ưng tà kiến, hữu dẫn.
26/.
Câu hành với xả,
tương ưng tà kiến, vô dẫn.
27/.
Câu hành với xả,
tương ưng tà kiền, hữu dẫn.
28/.
Câu hành với xả, không
tương ưng tà kiến, vô dẫn.
29/.
Câu hành với xả, không
tương ưng tà kiến, vô dẫn.
Tiếp theo đây là
tâm bất thiện liên quan đến sân, gồm 2 thứ:
30/.
Câu hành với ưu,
tương ưng khuể, vô dẫn.
31/.
Câu hành với ưu,
tương ưng khuể, hữu dẫn.
Bây giờ đến
tâm bất thiện liên quan đến si, gồm 2 thứ:
32/.
Câu hành với xả,
tương ưng hoài nghi.
33/.
Câu hành với xả,
tương ưng điệu cử.
Đó là 12 thứ
bất thiện tâm thuộc
Dục giới.
Tâm
vô ký: Loại này chia theo 2
phương diện là tâm
vô ký dị thục quả và tâm
vô ký tố. Tâm
dị thục lại xếp theo 4 loại là
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới và
Siêu thế.
Tâm
vô ký dị thục quả thuộc
Dục giới có 2 loại là
dị thục quả thiện và
dị thục quả bất thiện.
a)
Dị thục quả thiện lại chia thành 2 loại là
vô nhân và hữu nhân.
Tâm
dị thục quả thiện
vô nhân: là
tâm không có nhân
dị thục quả như
vô tham v.v...gọi là
vô nhân,
gồm có 8 thứ:
34/ - 38/.
Nhãn thức,
nhĩ thức,
tỉ thức,
thiệt thức, và
thân thức.
39/.
Ý giới, có
nhiệm vụ tiếp thâu.
40/. - 41/. Hai
ý thức giới với
nhiệm vụ thẩm tấn v.v...
Nhãn thức (34) có
đặc tính được hỗ trợ bởi con mắt, và
nhận biết cảnh sắc.
Ý giới (39) có
đặc tính là
nhận biết sắc,
kế tiếp nhãn thức.
Ý thức giới (40-41) có
đặc tính là
nhận biết 6 cảnh;
nhiệm vụ của nó là
điều tra. Tâm
dị thục quả thiện
vô nhân (40)
tương ưng với hỷ, có 2 sở trong lộ trình tâm là: khởi lên ở 5 môn (
ngũ môn hướng tâm) gọi là tâm thẩm tấn; khởi lên ở cuối đổng lực tâm gọi là tâm na cảnh. Tâm (41)
tương ưng với xả, có 5 sở là: ở tâm thẩm tấn, na cảnh, tái tục,
hữu phần và tử.
Dị thục quả thiện hữu nhân là những tâm
tương ưng với
vô tham,
vô sân,
vô si, làm nhân cho quả
dị thục,
từ tâm (42) - (49). Nó có 8 loại,
liên quan đến hỷ, xả, trí và nhắc bảo,
y như thiện tâm thuộc
Dục giới từ (1) - (8).
b)
Dị thục quả bất thiện: Loại này chỉ có
vô nhân, gồm 7 thứ:
50/. -54/.
Nhãn thức,
nhĩ thức,
tỉ thức,
thiệt thức,
thân thức.
55/.
Ý giới nhiệm vụ tiếp thâu.
56/.
Ý thức giới với
nhiệm vụ thẩm tấn, có 5 sở, về
đặc tính v.v..
tương tự như thiện
dị thục vô nhân (34-41).
Chỗ khác nhau giữa Thiện
dị thục và
Bất thiện dị thục là Thiện
dị thục thì chỉ có những đối tượng
khả ý hoặc
khả ý trung tính, còn
Bất thiện dị thục thì chỉ có những đối tượng bất
khả ý, hoặc bất
khả ý trung tính. Như vậy, tâm
dị thục Dục giới có tất cả 23 thứ.
Tâm
dị thục quả Sắc giới gồm có 5 thứ:
57/. - 61/. Giống như tâm thiền (9-13) . Nhưng, chỗ khác nhau là tâm nầy khởi lên do khả năng tái tục,
hữu phần và tử.
Tâm
dị thục quả Vô sắc giới gồm có 4 thứ:
62/. -65/. Các tâm nầy thuộc
Không vô biên xứ v.v.. Như (14-17). Sự
sinh khởi của nó cũng được xếp loại như đã nói về tâm
sắc giới.
Tâm
dị thục quả Siêu thế gồm có 4 thứ:
66/. - 69/. Đây là quả của những tâm
tương ưng với 4 đạo, như các tâm (18-21), sẽ đề cập ở chương XXII.
Như vậy, tâm
dị thục quả trong cả 4 loại
gồm có 36 thứ.
Tâm
vô ký tố được chia theo 3 cõi:
Dục giới,
Sắc giới và
Vô sắc giới.
Dục giới gồm 2 loại,
vô nhân và hữu nhân.
a) Tố
vô nhân là tâm tố không có nhân như
vô tham v.v…, gồm 2 loại:
70/.
Ý giới có
đặc tính làm
tiền đạo cho
nhãn thức.
71/. - 72/.
Ý thức giới này
gồm có 2 là chung và riêng. Chung (71) là
câu hành với xả. Riêng (72) là
câu hành với hỷ.
Như vậy tâm tố
vô nhân thuộc
Dục giới gồm có 3 thứ.
Tố
Dục giới hữu nhân, gồm 8 thứ:
73/. -80/ . Giống như
thiện tâm ở
Dục giới (1-8). Nhưng, chỗ khác nhau là
thiện tâm chỉ khởi lên ở bậc
phàm phu hữu học, còn tố hữu nhân thì khởi nơi vị
A la hán.
Như vậy, tâm tố ở
Dục giới gồm có 11 thứ.
Tâm tố ở
Sắc giới có 5 thứ: 81/. - 85/.
Tâm tố ở
Vô sắc giới có 4 thứ: 86/. - 89/.
Cả hai loại nầy đều giống
thiền tâm Sắc giới và
Vô sắc giới. Nhưng tâm tố thì chỉ khởi lên nơi
A la hán.
Như vậy, tâm Duy tác ở cả 3 cõi
gồm có 20 thứ.
Tóm lại,
Thiện tâm gồm có 21;
Bất thiện tâm
gồm có 12;
dị thục quả có 36; tố có 20; tổng cộng thành 89 tâm. Xem đồ biểu dưới đây:
3.
Thọ uẩn.
Thế nào là Thọ uẩn? Bất cứ cái gì có
đặc tính được cảm nhận, gọi là
Thọ uẩn. Thông thường Thọ
gồm có 3 loại là:
lạc thọ,
khổ thọ và
xả thọ (bất khổ
bất lạc thọ); hoặc nó được xếp theo 3 loại là: thiện,
bất thiện và
vô ký; hoặc được chia thành 5 loại là: thân lạc, thân khổ,
tâm hỷ, tâm ưu và xả.
Lạc: có
đặc tính là cảm nhận một vật xúc chạm đáng
ưa thích. Nó được biểu hiện bằng sự
vui sướng của thân. Khổ có
đặc tính là
cảm thọ một vật được xúc chạm không đáng ưa. Nó có biểu hiện là sự
đau đớn của thân. Hỷ có
đặc tính là
cảm thọ một đối tượng đáng
mong mỏi. Nó được biểu hiện bằng sự
vui mừng trong tâm. Ưu có
đặc tính là
cảm thọ một đối tượng không đáng
mong mỏi. Xả có
đặc tính là
cảm thọ một đối tượng
không vui không khổ. Nó được biểu hiện bằng sự
an tĩnh. Đó là những
giải thích về
Thọ uẩn.
4.
Tưởng uẩnThế nào là Tưởng uẩn? Bất cứ cái gì có
đặc tính tri giác, nhớ biết, đều thuộc về
Tưởng uẩn. Ở đây, tưởng cũng được xếp thành 3 loại là: thiện,
bất thiện, và
vô ký. Cái gì
tương ưng với
thiện tâm, gọi là thiện;
tương ưng với
bất thiện tâm, gọi là
bất thiện. Tưởng không thể tách rời với tâm, nên nó có cùng một cách phân loại như tâm, nghĩa là gồm 89 loại.
Về
đặc tính, tưởng chỉ có một là nhớ biết.
Nhiệm vụ nó là
ghi nhận một dấu hiệu để làm
điều kiện cho lần sau có thể
nhận diện được, như "đây là một thứ như trước ". Đó là những
giải thích về
Tưởng uẩn.
5.
Hành uẩnThế nào là Hành uẩn? Bất cứ cái gì có
đặc tính tạo tác, gọi là
Hành uẩn. Theo
đặc tính thì Hành chỉ có một, nhưng theo loại thì có 3 là: thiện,
bất thiện và
vô ký.
Hành
tương ưng với 89 loại tâm:
a) Trước hết,
tương ưng với tâm thiện thuộc
Dục giới có 27 hành tợ tha, 4 hành
biến hành và 5 hành
bất định, tổng cộng là 36 loại hành.
27 hành tợ tha:
(1) Xúc (Phassa)
(2) Tư (Cetanā)
(3) Tầm (Vitakka)
(4) Tứ (Vicāra)
(5) Hỷ (Pīti)
(6) Cần (Viriya)
(7) Mạng quyền (Jīvitindriya)
(8) Định (Samādhi)
(9) Tín (Saddhā)
(10) Niệm (Sati)
(11) Tàm (Hiri)
(12) Quí (Ottappa)
(13)
Vô tham (Alobha)
(14)
Vô sân (Adosa)
(15)
Vô si (Amoha)
(16)
Tịnh thân (Kāyapassaddhi)
(17)
Tịnh tâm (Cittapassaddhi)
(18) Khinh thân (Kāyalahutā)
(19) Khinh tâm (Cittalahutā)
(20) Nhu thân (Kāyamudutā)
(21) Nhu tâm (Cittamudutā)
(22) Thích thân (Kāyakammannatā)
(23)
Thích tâm (Cittakammannatā)
(24) Thuần thân (Kāyapāgunnatā)
(25) Thuần tâm (Cittapāgunnatā)
(26) Chánh thân (Kāyujjukatā)
(27) Chánh tâm (Cittujjukatā)
4 hành
biến hành:
(28) Dục (Chanda)
(29)
Thắng giải (Adhimokkha)
(30)
Tác ý (Manikāra)
(31) Trung bình (Tattaramajjattata)
5 hành
bất định:
(32) Bi (Karunā)
(33)
Tùy hỷ (Muditā)
(34)
Chánh ngữ (Sammāvāca)
(35)
Chánh nghiệp (Sammākammanta)
(36)
Chánh mạng (Sammā ājiva)
b) Các hành
tương ưng với
tâm bất thiện.
Bây giờ đề cập đến các hành
tương ưng với
tâm bất thiện có nguồn gốc từ tham. Loại này
gồm có 13 hành tợ tha và 4 hành
biến hành, thành ra 17 thứ.
13 hành tợ tha là: Xúc, tư, tầm, tứ, hỷ, cần, mạng quyền, định,
vô tàm, vô quí, tham, si,
tà kiến. 4 hành
biến hành là: Dục,
thắng giải, điệu cử và
tác ý. Đó là những hành
tương ưng với
tâm bất thiện.
Tiếp theo đây là những
tâm sở tương ưng với
tâm bất thiện có nguồn gốc từ sân. Loại này có tất cả 18 thứ: 11 hành tợ tha, 4 hành
biến hành và 3 hành
bất định.
11 hành tợ tha là: Xúc, tư, tầm, tứ, cần, mạng quyền, định,
vô tàm, vô quí, sân, si. 4 hành
biến hành (xem trên), và 3 hành
bất định là: Tật, lận và hối.
Lại có 13 hành
tương ưng với
tâm bất thiện có gốc từ si, sau đây: 11 hành tợ tha (xem ở trên); 2 hành
biến hành: điệu cử,
tác ý.
c) Về các hành
tương ưng với tâm
vô ký dị thục gồm có 2 loại là hữu nhân và
vô nhân. Những
sở hữu nào
tương ưng với tâm
dị thục vô nhân, gọi là các hành
vô nhân. Những
sở hữu nào
tương ưng với tâm
dị thục hữu nhân, gọi là các
hành hữu nhân.
Các hành
tương ưng với tâm
dị thục quả Sắc giới (57-61), với tâm
dị thục quả Vô sắc giới (62-65) và
Siêu thế (66-69) là
tương tự các hành
tương ưng với
thiện tâm cùng loại (9-21).
Các hành
tương ưng với tâm tố
vô nhân cũng được chia thành 2 loại là
vô nhân và hữu nhân. Những
sở hữu nào
tương ưng với các tâm tố
vô nhân (70-72) gọi là các hành
vô nhân. Những
sở hữu nào
tương ưng với các tâm tố hữu nhân (73-80) gọi là các
hành hữu nhân.
Các hành
tương ưng với tâm tố
Sắc giới (81-85) và tâm tố
Vô sắc giới (86-89) cũng
tương tự như các hành
tương ưng với
thiện tâm (9-17).
Trên đây là phần trình bày về các
sở hữu thuộc về hành.
Sau đây là vài
giải thích thêm để làm
sáng tỏ 5
thủ uẩn. Giữa uẩn và
thủ uẩn khác nhau thế nào? Uẩn là được nói lên mà không
phân biệt.
Thủ uẩn là nói để
phân biệt những uẩn bị
chấp thủ và còn
lậu hoặc. Chẳng hạn, khi nói sắc thì đó chỉ là một pháp
đơn thuần. Nhưng khi sắc đó làm đối tượng cho sự
chấp thủ, thì nó được gọi là
thủ uẩn. Thọ, tưởng, hành và thức
cũng thế, khi chúng không còn
lậu hoặc chi phối, thì chúng chỉ là những pháp
đơn thuần. Nhưng khi chúng còn
lậu hoặc và là cơ sở cho sự
chấp thủ, thì chúng được gọi là
Thủ uẩn.
Ở đây, ta có thể ví dụ Sắc
thủ uẩn như cái phòng bệnh, vì nó là chỗ cư trú.
Thọ thủ uẩn
ví như cơn bệnh, vì nó đem lại
đau khổ. Tưởng
thủ uẩn ví như sự
kích thích của cơn bệnh, vì nó làm
sinh khởi cảm thọ tương ưng với tham. Hành
thủ uẩn ví như dùng thứ thuốc không
thích hợp, vì nó là nguồn gốc phát sinh ra bệnh. Thức
thủ uẩn ví như người bệnh, vì nó không bao giờ
thoát khỏi thọ và cơn bệnh.
Lại nữa, 5 uẩn
lần lượt được
ví như lao ngục, hình phạt,
tội lỗi, người
trừng phạt và người gây tội.
Lại thêm một ví dụ khác: Sắc
ví như đống bọt; Thọ
ví như bong bóng nổi trên mặt nước; Tưởng
ví như ảo ảnh; Hành
ví như thân cây chuối; Thức
ví như trò
ảo thuật.
Nếu một người thấy sắc nội là
bất tịnh, thì
hiểu rõ về
thức ăn đoàn thực. Một người thấy Thọ là khổ, thì
hiểu rõ xúc thực. Một người thấy Tưởng, Hành là
vô ngã, thì
hiểu rõ tư
niệm thực. Một người thấy Thức là
vô thường, thì
hiểu rõ thức thực. Người ấy
từ bỏ tà kiến thấy thường trong
vô thường, vượt
bộc lưu vô minh, thoát
kiết sử vô minh,
giải thoát vô minh lậu, bẻ gãy
hệ phược của sự bám vào
lễ nghi tế tự. Người ấy sẽ
không chấp thủ
tà kiến,
thoát khỏi kiến thủ.
Bây giờ đến lượt trình bày về 5 uẩn.
Năm uẩn là: Sắc, thọ, tưởng, hành, và thức.
1.
Sắc uẩn:
Trước
hết nói về
sắc uẩn. Bất cứ pháp nào có
đặc tính bị
quấy nhiễu bởi lạnh nóng v.v... đều
bao gồm trong
sắc uẩn. Nếu đem phân loại thì có
sắc uẩn thuộc một loại, hai loại, và bốn loại. Một loại là nó có
đặc tính bị
quấy nhiễu. Hai loại là:
đại chủng sắc và
sở tạo sắc.
Đại chủng sắc có 4 loại:
địa đại,
thủy đại,
hỏa đại và
phong đại. (
Xem lại chương XI)
Sở tạo sắc có 24 loại: 1. Mắt; 2. Tai; 3. Mũi; 4. Lưỡi; 5. Thân; 6. sắc; 7. Thanh; 8. Hương; 9. Vị; 10
Nữ căn; 11.
Nam căn; 12.
Mạng căn; 13.
Tâm cơ; 14. Thân biểu; 15. Ngữ biểu; 16.
Không giới; 17. Khinh khoái; 18.
Nhu nhuyến; 19. Kham nhậm; 20. Sinh; 21. Trú; 22. Lão; 23.
Vô thường; 24.
Đoàn thực.
1. Mắt:
Đặc tính của nó là sự
nhạy cảm của 4 đại trước sự
va chạm với
sắc pháp.
2. Tai:
Đặc tính của nó là sự
nhạy cảm của 4 đại khi
tiếp xúc với
âm thanh.
3. Mũi:
Đặc tính của nó là sự
nhạy cảm của 4 đại khi
tiếp xúc với mùi hương.
4. Lưỡi:
Đặc tính của nó là sự
nhạy cảm của 4 đại khi
tiếp xúc với vị.
5. Thân:
Đặc tính của nó là tính
nhạy cảm của 4 đại khi xúc chạm những vật sờ được.
Một
số luận Ngài cho rằng: "Trong con mắt, hỏa thịnh; trong lỗ tai, phong thịnh; trong lỗ mũi, địa thịnh; trong lưỡi, thủy thịnh; trong thân thì 4
đại quân bình".
Ví dụ: Như những con rắn, cá sấu, chim, chó, chồn hoang thường hướng về những nơi chúng hay
lui tới là tổ kiến, nước,
không gian, làng mạc, nghĩa địa v.v...
Cũng thế, tai, mắt, v.v.. hướng đến những
hành xứ riêng của chúng là sắc, thanh v.v...
6. Sắc: Có
đặc tính là đập vào mắt.
Nhiệm vụ nó là làm đối tượng cho
nhãn thức.
7. Thanh: Có
đặc tính là đập vào tai.
Nhiệm vụ nó là làm đối tượng cho
nhĩ thức.
8. Mùi: có
đặc tính là đập vào mũi.
Nhiệm vụ nó là làm đối tượng cho
tỉ thức.
9. Vị: Có
đặc tính là đập vào lưỡi.
Nhiệm vụ nó là làm đối tượng cho
thiệt thức.
10.
Nữ căn: Có
đặc tính là nữ tánh. Nhiệm vu nó là
phân biệt với nam giới.
11.
Nam căn: Có
đặc tính là nam tánh.
Nhiệm vụ nó là
phân biệt với
nữ giới.
12.
Mạng căn: Có
đặc tính là
duy trì các loại sắc
câu sinh.
Nhiệm vụ nó là làm cho các sắc ấy sinh ra.
13.
Tâm cơ: Có
đặc tính là làm
điểm tựa cho
ý giới và
ý thức giới.
Nhiệm vụ nó là làm
phương tiện cho chúng.
14. Thân biểu: Nó làm nhân cho sự
di chuyển tới lui.
Nhiệm vụ nó là bày
tỏ ý định.
15. Ngữ biểu: Nó làm nhân cho sự phát ngôn.
Nhiệm vụ nó là bày tỏ nguyện vọng.
16.
Không giới: Có
đặc tính là định
giới hạn cho sắc.
Nhiệm vụ nó là bày ra những
ranh giới của sắc.
17. Khinh khoái: Có
đặc tính là không
chậm chạp.
Nhiệm vụ nó là xua tan tính nặng nề của sắc.
18.
Nhu nhuyến: Có
đặc tính là không cứng đờ.
Nhiệm vụ nó là xua tan tính cứng đờ của sắc.
19. Kham nhậm: Có
đặc tính là dễ
sử dụng thuận tiện cho
hành vi của thân.
Nhiệm vụ nó là xua tan tính khó
sử dụng.
20. Sanh: Có
đặc tính là dựng nên.
Nhiệm vụ nó là làm cho các
sắc pháp nổi lên đầu tiên.
21. Trụ: Nó được biểu hiện bằng sự không
gián đoạn.
Nhiệm vụ nó là giữ lại.
22. Già: Có
đặc tính là làm
chín muồi sắc pháp.
Nhiệm vụ nó là
tiếp tục dẫn đến sự
chấm dứt.
23.
Vô thường: Có
đặc tính là tan rã
hoàn toàn.
Nhiệm vụ nó là làm cho
sắc pháp chìm xuống.
24.
Đoàn thực: Có
đặc tính là làm dưỡng chất.
Nhiệm vụ nó là
nuôi dưỡng các loại sắc.
Như vậy,
Đại chủng sắc gồm 4 thứ,
Sở tạo sắc gồm 24 thứ, tất cả có 28 thứ thuộc về
sắc pháp.
Tính chất của chúng là
vô nhân, tách rời nhân,
hữu duyên,
hữu lậu, thuộc
thế gian v.v... Nó
thường có 2
phương diện: nội sắc và ngoại sắc; thô và tế; xa và gần; sở tạo và phi sở tạo;
tịnh sắc và phi
tịnh sắc; căn sắc và
phi căn sắc; hữu
chấp thủ và vô
chấp thủ v.v...
Năm thứ: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, gọi là nội sắc; vì
chúng sinh ra như một phần của
toàn thể con người. Những gì còn lại là ngoại sắc; vì chúng ở ngoài
con người. Năm thứ trên cọng thêm sắc, thanh, hương, vị, và địa, hỏa, phong thành 12 thứ được xem là thô sắc; vì chúng có sự
tiếp xúc. Còn lại là
tế sắc, vì chúng ngược lại. Cái gì tế gọi là viễn sắc (sắc xa); vì chúng khó vào sâu. Cái gì thô gọi là cận sắc (sắc gần); vì chúng dễ vào.
Bốn đại chủng,
đoàn thực và 13 thứ khởi từ mắt, thành 18 thứ, gọi là
tịnh sắc; vì chúng là
điều kiện để
nhận biết các
sắc pháp v.v... Còn lại là phi
tịnh sắc; vì ngược với
tịnh sắc.
Tịnh sắc,
nam căn,
nữ căn và
mạng căn, gọi là căn sắc; vì tính
nổi bật của chúng. Còn lại là
phi căn sắc; vì ngược lại với căn sắc. Những thứ đề cập sau đây, kể như nghiệp sinh, gọi là hữu
chấp thủ; còn lại là vô
chấp thủ.
Về loại thô sắc, thì một vật có thể thấy được gọi là
sắc hữu kiến,
hữu đối; còn lại là
vô kiến,
hữu đối. Tất cả
tế sắc là
vô kiến,
vô đối.
Lại nữa, sắc thuộc 4 loại là: Kiến, văn, giác, tri.
Sắc xứ được thấy, vì là đối tượng của sự thấy, nên thuộc về kiến. Thanh xứ được nghe, vì là đối tượng của sự nghe, nên thuộc về văn. Hương, vị, xúc xứ được biết, vì là đối tượng của
cảm giác, nên thuộc về giác. Các sắc còn lại đều là đối tượng
nhận thức của tâm, nên thuộc về tri.
Nói chung,
Sắc uẩn hay
Sắc pháp ở đây được chia thành 2 loại,
Đại chủng sắc và
Sở tạo sắc,
gồm có 28 thứ. Thế nhưng, các luận điển của
Đại Thừa (
Duy thức) chia
Sắc pháp thành 2 loại là căn và trần gồm 11 thứ như sau:
Nhãn căn,
nhĩ căn,
tỉ căn,
thiệt căn, và
thân căn (5 căn).
Sắc trần,
thanh trần,
hương trần,
vị trần,
xúc trần và
pháp trần (6 trần).
2. Tâm uẩn (
Thức uẩn)
Trong 5 uẩn, một uẩn đầu thuộc về sắc, đã được đề cập ở trên, 4 uẩn còn lại thuộc về tâm, giờ đây sẽ bàn đến. Cái gì có
đặc tính cảm thọ, thuộc về
thọ uẩn. Cái gì có
đặc tính tri giác, tưởng tượng, thuộc về
tưởng uẩn. Cái gì có
đặc tính tạo tác, thuộc về
hành uẩn. Cái gì có
đặc tính phân biệt, thuộc về
thức uẩn. Trong các uẩn trên,
thức uẩn là
trọng tâm của tất cả. Ở đây, Thức có nghĩa như là tâm hay ý.
Theo bản luận,
tâm thức được phân tích thành 3
phương diện là thiện,
bất thiện và
bất định,
gồm có tất cả 89 thứ.
Tâm thiện: được chia theo 4 cõi là
Dục giới;
Sắc giới;
Vô sắc giới và
Siêu thế.
Tâm hiện ở
Dục giới với hỉ, xả, trí và nhắc bảo,
gồm có 8 thứ sau đây:
1/
Câu hữu với hỉ,
tương ưng với trí, cần nhắc bảo.
2/
Câu hữu với hỉ,
tương ưng với trí, không cần nhắc bảo.
3/
Câu hữu với hỉ, không
tương ưng với trí, cần nhắc bảo.
4/
Câu hữu với hỉ, không
tương ưng với trí, không cần nhắc bảo.
5/
Câu hữu với xả,
tương ưng với trí, cần nhắc bảo.
6/
Câu hữu với xả,
tương ưng với trí, không cần nhắc bảo.
7/
Câu hữu với xả, không
tương ưng với trí, cần nhắc bảo.
8/
Câu hữu với xả, không
tương ưng với trí, không cần nhắc bảo.
Giải thích:
1. Khi một người
sung sướng nghĩ rằng: "Bố thí có
công đức lớn", và
bố thí không
do dự; đó là tâm
câu hữu với hỉ,
tương ưng với trí, không cần nhắc bảo.
2. Khi một người
sung sướng hài lòng như trên, nhưng hành động
do dự, cần được người khác nhắc bảo; đó là tâm cần nhắc bảo.
3. Khi một em bé muốn làm
việc thiện, nhưng phải được người lớn cổ vũ; đó là tâm cần nhắc bảo.
4. Khi một em bé bắt chước người lớn, làm
việc thiện một cách
tự nhiên; đó là
tâm không cần nhắc bảo.
5 - 8.
Tương tự 4
trường hợp trên, nhưng không có hỉ; đó là tâm
câu hữu với xả.
Đó là 8
thiện tâm thuộc
Dục giới. Giờ đây đề cập đến 5
thiện tâm thuộc
sắc giới, như sau:
9/.
Tương ưng với cả 5
thiền chi (tâm
Sơ thiền).
10/.
Tương ưng với tứ, hỉ, lạc,
nhất tâm (tâm
Nhị thiền).
11/.
Tương ưng với hỉ, lạc,
nhất tâm (tâm
Tam thiền).
12/.
Tương ưng với lạc,
nhứt tâm (tâm
Tứ thiền).
13/.
Tương ưng với xả và
nhất tâm (tâm Ngũ thiền).
Đó là 5
thiện tâm thuộc
Sắc giới, theo
hệ thống Ngũ thiền. Bây giờ đề cập đến 4
thiện tâm Vô sắc giới:
14/.
Tương ưng với
Không vô biên xứ.
15/ - 17/.
Tương ưng với
Thức vô biên xứ,
Vô sở hữu xứ và
Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Và đây là 4
thiện tâm thuộc
Siêu thế:
18/ - 21/.
Tương ưng với 4 đạo lộ thuộc 4
thánh quả.
Như vậy,
Thiện tâm gồm có tất cả 21 thứ.
Bất thiện tâm: tâm nầy chỉ thuộc
Dục giới,
liên hệ đến 3
yếu tố, là tham, sân và si,
gồm có 12 thứ.
Trước hết là
tâm bất thiện liên quan đến tham gồm 8 thứ:
22/.
Câu hữu với hỉ,
tương ưng với
tà kiến, không cần nhắc bảo.
23/.
Câu hữu với hỉ,
tương ưng với
tà kiến, cần nhắc bảo.
24/.
Câu hữu với hỉ, không
tương ưng tà kiến, không cần nhắc bảo.
25/.
Câu hữu với hỉ, không
tương ưng tà kiến, cần nhắc bảo.
26/.
Câu hữu với xả,
tương ưng tà kiến, không cần nhắc bảo.
27/.
Câu hữu với xả,
tương ưng với tà kiền, cần nhắc bảo.
28/.
Câu hữu với xả, không
tương ưng tà kiến, không cần nhắc bảo.
29/.
Câu hữu với xả, không
tương ưng tà kiến, cần nhắc bảo.
Tiếp theo đây là
Tâm bất thiện liên quan đến sân, gồm 2 thứ:
30/.
Câu hữu với ưu,
tương ưng với hận, cần nhắc bảo.
31/.
Câu hữu với ưu,
tương ưng với hận, không cần nhắc bảo.
Bây giờ đến
tâm bất thiện liên quan đến si, gồm 2 thứ:
32/.
Câu hữu với xả,
tương ưng với nghi.
33/.
Câu hữu với xả,
tương ưng với
trạo cử.
Đó là 12 thứ
bất thiện tâm thuộc
Dục giới.
Tâm
bất định: Loại này chia theo 2
phương diện là tâm
dị thục và tâm duy tác. Tâm
dị thục lại xếp theo 4 cõi là
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới và
Siêu thế. Tâm thuộc
Dục giới có 2 loại là Thiện
dị thục và
Bất thiện dị thục. Thiện
dị thục lại chia thành 2 loại là hữu nhân và
vô nhân.
Thiện
dị thục vô nhân: là
tâm không có tham v.v... làm nhân cho quả
dị thục,
gồm có 8 thứ:
34/ - 38/.
Nhãn thức,
nhĩ thức,
tỉ thức,
thiệt thức, và
thân thức.
39/.
Ý giới, có
nhiệm vụ tiếp thọ.
40/. - 41/. Hai
ý thức giới với
nhiệm vụ suy đạt v.v...
Nhãn thức (34) có
đặc tính được hỗ trợ bởi con mắt, và
nhận biết sắc pháp.
Ý giới (39) có
đặc tính là
nhận biết sắc,
kế tiếp nhãn thức.
Ý thức giới (40-41) có
đặc tính là
nhận biết 6 loại đối tượng;
nhiệm vụ của nó là suy đạt.
Tâm
dị thục vô nhân (40)
tương ưng với hỉ, có 2
vị trí trong lộ trình tâm là: khởi lên ở 5
căn môn (
Ngũ môn hướng tâm) gọi là tâm suy đạt; khởi lên ở cuối
tốc hành tâm, gọi là tâm đồng
sở duyên.
Tâm (41)
tương ưng với xả, có 5
vị trí là: ở tâm suy đạt; đồng
sở duyên; kiết sinh;
hữu phần;
tử tâm.
Thiện
dị thục hữu nhân là những tâm
tương ưng với
vô tham,
vô sân,
vô si, làm nhân cho quả
dị thục,
từ tâm (42) - (49). Nó có 8 loại,
liên quan đến hỉ, xả, trí và nhắc bảo,
y như thiện tâm thuộc
Dục giới từ (1) - (8).
Bất thiện dị thục: Loại này chỉ có
vô nhân, gồm 7 thứ:
50/. -54/.
Nhãn thức,
nhĩ thức,
tỉ thức,
thiệt thức,
thân thức.
55/.
Ý giới nhiệm vụ tiếp thọ.
56/.
Ý thức giới với
nhiệm vụ suy đạt, có 5
vị trí, về
đặc tính v.v..
tương tự như thiện
dị thục vô nhân (34-41).
Chỗ khác nhau giữa Thiện
dị thục và
Bất thiện dị thục là Thiện
dị thục thì chỉ có những đối tượng
khả ý hoặc
khả ý trung tính, còn
Bất thiện dị thục thì chỉ có những đối tượng bất
khả ý, hoặc bất
khả ý trung tính. Như vậy, tâm
dị thục Dục giới có tất cả 23 thứ.
Tâm
dị thục Sắc giới gồm có 5 thứ:
57/. - 61/. Giống như tâm thiền (9-13) . Nhưng, chỗ khác nhau là tâm nầy khởi lên như một kiết sinh,
hữu phần và
tử tâm.
Tâm
dị thục Vô sắc giới gồm có 4 thứ:
62/. -65/. Các tâm nầy thuộc
Không vô biên xứ v.v.. Như (14-17). Sự
sinh khởi của nó cũng được xếp loại như đã nói về tâm
sắc giới.
Tâm
dị thục Siêu thế gồm có 4 thứ:
66/. - 69/. Đây là quả của những tâm
tương ưng với 4 đạo lộ, như các tâm (18-21), sẽ đề cập ở chương XXII.
Như vậy, tâm
dị thục trong cả 4 cõi
gồm có 36 thứ.
Tâm duy tác được chia theo 3 cõi:
Dục giới,
Sắc giới và
Vô sắc giới.
Dục giới gồm 2 loại,
vô nhân và hữu nhân.
Duy tác
vô nhân là
tâm không có tham v.v.. làm nhân cho quả
dị thục, gồm 2 loại:
70/.
Ý giới có
đặc tính làm
tiền đạo cho
nhãn thức.
71/. - 72/.
Ý thức giới nầy
gồm có 2 là chung và không chung. Chung (71) là
câu hữu với xả. Không chung (72) là
câu hữu với hỉ.
Như vậy tâm duy tác
vô nhân thuộc
Dục giới gồm có 3 thứ.
Duy tác hữu nhân ?
Dục giới, gồm 8 thứ:
73/. -80/ . Giống như
thiện tâm ở
Dục giới (1-8). Nhưng, chỗ khác nhau là
thiện tâm chỉ khởi lên ở bậc
phàm phu hữu học, còn duy tác tâm hữu nhân thì khởi nơi vị
A la hán.
Như vậy, tâm duy tác ở
Dục giới gồm có 11 thứ.
Tâm Duy tác ở
Sắc giới có 5 thứ: 81/. - 85/.
Tâm Duy tác ở
Vô sắc giới có 4 thứ: 86/. - 89/.
Cả hai loại nầy đều giống
thiền tâm Sắc giới và
Vô sắc giới. Nhưng tâm duy tác thì chỉ khởi lên nơi
A la hán.
Như vậy, tâm Duy tác ở cả 3 cõi
gồm có 20 thứ.
Tóm lại,
Thiện tâm gồm có 21;
Bất thiện tâm
gồm có 12;
Bất định dị thục có 36;
Bất định duy tác có 20; tổng cộng thành 89 tâm. Xem đồ biểu dưới đây:
BÀI MƯỜI LĂM
CHƯƠNG XV: XỨ VÀ GIỚI
(Aryatana-Dhātu-Niddesa)
A. XỨ.
Xứ
gồm có 12 thứ: 1. Nhãn xứ; 2.
Sắc xứ; 3.
Nhĩ xứ; 4. Thanh xứ; 5. Tỉ xứ; 6. Hương xứ; 7. Thiệt xứ; 8. Vị xứ; 9.
Thân xứ; 10. Xúc xứ; 11.
Ý xứ; 12.
Pháp xứ.
Ý nghĩa của chúng như sau: 1. Nhãn xứ (cakkhu) là cái
thưởng thức sắc pháp. 2.
Sắc xứ (rùpa) là cái làm cho thấy được. 3.
Nhĩ xứ (sota) là cái nghe 4. Thanh xứ (sadda) là cái được truyền đi. 5. Tỉ xứ (ghàna) là cái ngửi. 6. Hương xứ (gandha) là cái được ngửi. 7. Thiệt xứ(jivhà) là cái gợi lên
đời sống. 8. Vị xứ (rasa) là cái
chúng sinh thưởng thức. 9.
Thân xứ(kàya) là nguồn gốc của các pháp
xấu xa chịu
chi phối bởi
lậu hoặc. 10. Xúc xứ (phasso) là cái bị sờ chạm. 11.
Ý xứ (mano) là cái đo lường. 12.
Pháp xứ (dhamma) là cái khiến cho
tự tính nó được
duy trì.
Ở đây, Xứ có nghĩa là trú xứ, chỗ gặp gỡ, chỗ phát xuất, là
nguyên nhân. Trong 12 xứ nầy gồm cả danh và sắc,
ý xứ là một phần của pháp thuộc về danh, còn lại các cái khác đều là sắc.
Khi mắt và
sắc pháp gặp nhau thì
nhãn thức sinh khởi, do thế, con
mắt thường bị các
sắc pháp đáng ưa và khó chịu nhiễu loạn. Thế nên, 6 nội xứ đư?c
ví như 6 con vật, và 6 ngoại xứ được
ví như chỗ
lui tới của 6 con vật ấy.
B. GIỚI
Tiếp theo uẩn, xứ là Giới (xem chương XIV)
gồm có 18 thứ:
Nhãn giới,
sắc giới,
nhãn thức giới,
nhĩ giới, thanh giới,
nhĩ thức giới, tỉ giới,
hương giới,
tỉ thức giới, thiệt giới, vị giới,
thiệt thức giới,
thân giới, xúc giới,
thân thức giới,
ý giới,
pháp giới,
ý thức giới.
Về
ý nghĩa riêng biệt,
xem lại ở trên, còn
ý nghĩa tổng quát thì Giới có nghĩa: lựa riêng ra,
thích hợp với, được
mang theo. Vì giới là thành tố của
tri thức và cái
khả tri. Giới là một danh từ dùng để chỉ cái không có tự ngã.
Hai thứ
nhãn giới và
sắc giới là nhân, còn
nhãn thức giới là quả. Vì căn (
nhãn giới), trần (
sắc giới) đối nhau, mà thức (
nhãn thức giới) phát sinh.
Các
kinh luận thường đề cập đến nhiều loại giới khác nữa như,
dục giới,
sắc giới...
địa giới,
thủy giới v.v..., nhưng về
phương diện tự tính, thì tất cả giới
hiện hữu đều không ngoài 18 loại nầy. Mười bảy giới trước và một phần của
pháp giới là giới
hữu vi, nhưng phần còn lại của
pháp giới là giới
vô vi.
Đức Phật vì muốn đoạn trừ sự
chấp ngã sai lầm của
chúng sinh, tưởng rằng có một cái ngã bền chắc,
thường hằng, nên mới nói đến 18 giới.
Về
phương diện chúng làm duyên cho nhau, thì
cổ đức dạy: "Nhãn thức sinh do duyên mắt,
sắc pháp, ánh sáng và sự chú ý.
Nhĩ thức sinh do duyên lỗ tai, tiếng, khoảng trống và sự
tác ý.
Tỉ thức sinh do duyên mũi, mùi,
không gian và sự
tác ý.
Thiệt thức sinh do duyên lưỡi, vị, nước và sự
tác ý.
Thân thức sinh do duyên thân, chạm xúc,
địa giới và
tác ý.
Ý thức sinh do
duyên tâm hữu phần, pháp và
tác ý. Tất cả
pháp hữu vi cần được
xem như tách biệt với
quá khứ và
vị lai, là trống rỗng, không có tự ngã, và
chúng hiện hữu
tùy thuộc các duyên (
điều kiện).
Để làm
sáng tỏ vấn đề, bản luận dùng các ví dụ như sau:
Nhãn giới ví như cái mặt trống,
sắc giới như dùi trống, và
nhãn thức giới ví như tiếng trống. Hoặc,
nhãn giới ví như mặt gương,
sắc pháp ví như cái mặt, và
nhãn thức giới ví như hình ảnh cái mặt
phản chiếu trong gương. Nhưng
ý giới thì như người
tùy tùng theo sau nhãn thức giới, song lại là người
đi trước ý thức giới. Còn
ý thức giới thì như con khỉ chuyền trên cành cây, không bao giờ ở yên một chỗ, hay như một vũ công trên sân khấu.
BÀI MƯỜI SÁU
CHƯƠNG XVI: CĂN ĐẾ
(Indriya-Sacca-Niddesa)
MẢNH ĐẤT CHO TUỆ
TĂNG TRƯỞNGA.
MÔ TẢ VỀ CĂN.
Tiếp theo giới là căn,
gồm có 22 thứ:
Nhãn căn,
nhĩ căn,
tỉ căn,
thiệt căn,
thân căn,
ý căn,
nữ căn,
nam căn,
mạng căn,
lạc căn,
khổ căn (thân lạc, thân khổ), hỉ căn, ưu căn, xả căn,
tín căn,
tấn căn,
niệm căn,
định căn,
tuệ căn, vị tri đương
tri căn, cụ
tri căn,
dĩ tri căn.
Trước hết, về
ý nghĩa của căn thì phần lớn đã được
giải thích ở chương XV, ở đây sẽ
giải thích về 3 căn
cuối cùng.
Vị tri đương
tri căn: Căn nầy khởi lên ở giai đoạn đầu của
Dự lưu đạo, nơi một người đã
nhập lưu.
Dĩ tri căn: đã
hiểu rõ vấn đề. Cụ
tri căn: nó khởi lên nơi một người đã đoạn trừ
lậu hoặc, biết
rốt ráo về 4
chân lý.
Vì sao gọi là căn? Căn
gồm có mấy nghĩa: 1. Nó là dấu hiệu của
chủ tể; 2. Được vị
chủ tể chỉ dạy; 3. Được vị
chủ tể thấy rõ; 4. Được vị
chủ tể hoàn chỉnh; 5. Được vị
chủ tể nuôi dưỡng. Vị
chủ tể ở đây nhằm chỉ
đức Thế Tôn, vì Ngài là vị
chủ tể tối thượng.
Nhiệm vụ của
nhãn căn là phát sinh ra
nhãn thức, và các
tâm sở tương ưng. Nhĩ, tỉ, thiệt,
thân căn cũng thế.
Về
cảnh giới, thì có 10 căn thuộc
Dục giới: Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, nữ, nam, lạc, khổ, ưu. Tám căn thuộc cả 4
cảnh giới, Dục, Sắc,
Vô sắc và
Siêu thế:
Ý căn, xả căn,
mạng căn, tín, tấn, niệm, định, tuệ. Một căn thuộc cả ba
cảnh giới Dục, Sắc,
Siêu thế là: Hỉ. Ba căn thuộc
Siêu thế là: Vị tri đương
tri căn,
Dĩ tri căn và Cụ
tri căn.
B. ĐẾ
Kế tiếp căn là đế, tức 4
Thánh đế:
Thánh đế về khổ,
thánh đế về
khổ tập,
thánh đế về
khổ diệt, và
thánh đế về đạo
diệt khổ.
Bản luận đề cập đến 4 nghĩa của khổ là: "Bức bách,
hữu vi, bốc cháy và
biến đổi;
tính chất của nó là
chân thật, không
hư ngụy, không thể khác. Nguồn gốc hay
tập khởi của khổ với
ý nghĩa tích tập, căn nguyên,
trói buộc,
chướng ngại. Diệt có nghĩa là
thoát ly, tách rời,
vô vi,
bất tử. Đạo có nghĩa là lối ra,
nguyên nhân, thấy, ưu thắng. (Ps. 2, 104)
Nguyên nghĩa của Khổ (Dukkha): Du là
xấu xa,
ác độc; Kham là trống rỗng. Thế nên,
chân lý thứ nhất (khổ) là "xấu". Vì nó là nơi thường
lai vãng của nhiều sự hiểm nguy, và nó trống rỗng, vì không
trường cửu, không đẹp,
không vui, không có tự ngã.
Chân lý thứ hai Tập (Samudaya): Sam là
liên kết; U chỉ sự khởi lên, như udita (
đi lên); Ayachỉ
lý do. Như vậy,
chân lý nầy là
lý do cho sự khởi lên của khổ, khi
phối hợp với những duyên còn lại.
Chân lý thứ ba Diệt (Nirodha): Ni chỉ sự
vắng mặt; Rodha là nhà tù.
Chân lý này chỉ sự
vắng mặt của mọi
sanh thú, vì nơi đây không có sự bức não của khổ được
xem như nhà tù.
Chân lý thứ tư Đạo hay
Khổ diệt đạo (Nirodha-Gamini-Patipadà):
Con đường đưa đến
chấm dứt khổ nên gọi là
Khổ diệt đạo.
Cả 4
chân lý này được gọi là
Thánh đế, vì chỉ có những bậc thánh mới
thâm nhập được chúng. Lại nữa, những
sự thật cao cả được gọi là
sự thật của các bậc thánh. Hoặc,
bốn thánh đế này là
chân thật, không
hư ảo, không thể khác, nên gọi là
thánh đế. Đó là
ý nghĩa của chữ đế.
Bản luận lại
mô tả: Không có niềm đau nào ngoài khổ; không có nguồn khổ nào khác hơn
tham ái; không có niềm
an tịnh nào ngoài
tịch diệt (
Niết bàn); và không có lối thoát nào ngoài
chánh đạo.
Về thứ tự:
Khổ đế được nêu
trước tiên, vì nó
dễ hiểu, vì nó thô phù, vì nó chung cho tất cả
chúng sinh.
Chân lý khổ tập nêu
kế tiếp để chỉ rõ
nguyên nhân. Rồi
chân lý về diệt để
hiển thị rằng khi nhân
chấm dứt thì quả sẽ
kết thúc.
Chân lý về đạo được nói sau rốt để chỉ ra
con đường,
phương tiện đạt đến diệt. Và
cổ đức cũng bảo: tri khổ, đoạn tập,
tu đạo, chứng diệt. (Biết khổ để đoạn trừ các
nguyên nhân của khổ (tập), nên phải
thực hành các
pháp môn, do đó mà chứng đạt sự
tịch diệt)
Luận Vibhanga nêu ra 12 thứ Khổ: Sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, gần gũi cái không ưa,
xa lìa cái yêu mến, cầu không
toại ý, nói tóm, 5
thủ uẩn là khổ. Về nguồn gốc của khổ có 3 thứ:
Dục ái,
hữu ái,
phi hữu ái. Về Diệt chỉ có một, đó là
Niết bàn. Về Đạo có 8 thứ, đó là
Bát chánh đạo:
Chánh kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng,
chánh tinh tấn,
chánh niệm,
chánh định. (Vbh. 104)
1.
Chân lý về khổ
Thông thường khổ
gồm có 3 loại là:
Khổ khổ (dukkha-dukkha) tức nỗi khổ ở nội tại;
Hoại khổ (Viparinàma-dukkha), khổ do
biến hoại; và
Hành khổ (Sankhàra-dukkha), khổ về các
phương diện, hoặc ngấm ngầm, hoặc
lộ liễu. Khi
cảm thọ khổ về thân và tâm, gọi là
khổ khổ, vì
tự tính của nó là khổ. Khi
cảm thọ lạc về thân và tâm, gọi là
hoại khổ, vì đó là
nhân sinh ra khổ khi
cảm thọ ấy biến mất.
Xả thọ và các hành khác trong
ba cõi là
hành khổ, vì chúng bị
bức bách trong
sinh diệt.
a. Sanh (Jàti): Sanh là khổ, vì nó là cội nguồn cho khổ trong các đọa xứ; nào là nỗi khổ khi
đầu thai, khi ở trong
bào thai và khi sinh ra. Lúc đang sống,
chúng sinh cũng phải chịu bao nhiêu nỗi khổ. Nếu ở
địa ngục thì khổ vì bị lửa dữ thiêu đốt. Nếu ở loài
súc sinh thì phải chịu khổ vì bị đánh đập bằng roi, gậy, hoặc ăn nuốt lẫn nhau. Nếu sinh
ngạ quỷ thì
đau khổ vì
đói khát bức bách. Nếu sinh vào
a tu la thì
đau khổ vì giá lạnh,
tối tăm.
b. Già: là
căn bản cho sự
đau khổ thể xác và
tâm hồn, khởi lên do nhiều duyên, như
tứ chi nặng nề,
các căn suy yếu,
tuổi trẻ tan biến,
sức lực phá sản,
trí nhớ sút kém, bị người khi dễ v.v...
c. Chết: là sự
chấm dứt mạng căn nơi một
chúng sinh, có nhiều
nguyên nhân, như chết do
thọ mạng hết, do
công đức tận, hoặc chết bất đắc kỳ tử, bị
tai nạn đột ngột xảy ra.
d. Sầu: là sự nung nấu đốt cháy
tâm can nơi người bị mất
thân quyến, hay bị mất mát những gì mình
yêu quí.
đ. Bi: là sự đau buồn do mất mát người thân,
của cải v.v..., được biểu hiện bằng những
hành vi cử chỉ người khác có thể thấy được
e. Khổ: là sự khổ đau,
bức bách của thân xác.
g. Ưu: sự khổ sở về tâm.
h. Não: sự thiêu đốt
tâm can.
Sầu như chảo dầu nấu trên bếp lửa riu riu. Bi như nấu trên bếp lửa mạnh. Nãonhư những gì còn lại trong chảo sau khi nấu, còn
tiếp tục cho đến khi chảo khô.
i.
Oan gia tụ hội: sự gặp gỡ những người và vật mình oán ghét.
k. Ái
biệt ly: phải
xa lìa những người, vật mà ta yêu mến.
l. Cầu bất đắc: sự mong cầu không
toại ý.
m. Năm
thủ uẩn là khổ: Vì 5 uẩn là đối tượng của
chấp thủ, như tấm bia thu hút những tên bắn, như ruồi nhặng bu trên thân con bò.
Các nỗi khổ thuộc 5
thủ uẩn thì sinh là cái khổ đầu tiên, già là khổ chặng giữa, chết là khổ chặng cuối. Khổ nung nấu
tâm can, gọi là sầu. Khổ dưới
hình thức than van khóc lóc, gọi là Bi. Cái khổ do
thân tứ đại bị
xáo trộn gọi là khổ. Nỗi khổ
bức bách trong
tâm hồn, gọi là ưu. Khổ ngấm ngầm,
chồng chất nhiều lớp gọi là não. Khổ do
thất vọng, gọi là
cầu bất đắc khổ. Chung quy, khi 5 uẩn bị
chấp thủ, chính là khổ.
Ở đây,
Khổ uẩn được chia thành 12 thứ. Thế nhưng, theo các luận điển của
Đại thừa,
Khổ uẩn được chia gọn thành 8 thứ là: Sinh, lão, bệnh, tử, oán tắng hội, ái
biệt ly, cầu bất đắc và
ngũ ấm xí thạnh.
2.
Chân lý về
nguyên nhân khổ.
Vấn đề này sẽ trình bày trong phần
duyên khởi, chương XVII.
3.
Chân lý về sự
diệt khổ.
Nói đến
diệt khổ tức là diệt cái
nguyên nhân của khổ, tức là
khát ái, như
bài kệ:
"Như cây bị chặt đốn
Gốc còn vẫn mọc hoài
Ái
tùy miên chưa nhổ
Khổ này sanh dài dài."
Bản luận nêu một ví dụ để minh họa như sau: "Như con Ngài tử chuyển
sức mạnh tấn công người bắn nó chứ không hướng về mũi tên,
cũng thế,
đức Phật đề cập
nguyên nhân chứ không nói
hậu quả.
Trái lại,
ngoại đạo thì như con chó bị ném cục đất, nó sẽ hướng đến cục đất thay vì tấn công người ném.
Ngoại đạo chỉ dạy
chấm dứt khổ bằng cách hành thân hoại thể, mà lại không lo
chấm dứt những
ô nhiễm của
tự tâm. (Pm, 533)
Luận về
Khổ diệt hay
Niết bàn:
Niết bàn có
thể đạt dược nhờ đạo lộ chân chánh. Vì đã có các bậc
thánh đạt được nó nhờ dùng
phương tiện Giới, Định, Tuệ. Do thế, không thể bảo rằng
Niết bàn là không có gì cả, vì ta không thể hiểu được. Điều
hiển nhiên là không phải ai cũng thấy được
Niết bàn, mà nó chỉ có
thể đạt được bởi các vị
A la hán, tức là những người đã đoạn tận tham, sân, si, đã cắt đứt mọi gốc rễ của
khát ái.
Mục tiêu duy nhất mà
đức Phật truyền dạy chính là
Niết bàn. Theo bản luận thì
Niết bàn có hai loại là
Hữu dư y và
Vô dư y.
Hữu dư y Niết bàn nghĩa là các
cấu uế đã lắng dịu, nhưng
hậu quả của sự
chấp thủ trong
quá khứ vẫn còn
tồn tại.
Vô dư y Niết bàn nghĩa là đoạn tận các nghiệp đưa đến
tái sinh trong tương lai, các uẩn không còn
sinh khởi nữa, mà những uẩn đã sinh thì đã biến mất.
Đó là
ý nghĩa Niết bàn theo bộ luận nầy. Nhưng trong
Thành Duy Thức Luận thuộc
Đại Thừa, thì ngoài 2 tên gọi trên còn có 2 tên gọi khác về
Niết bàn nữa là:
Bản lai tự tính thanh tịnh Niết bàn và
Vô trụ xứ Niết bàn, tức gồm 4 loại.
Bản lai tự tính thanh tịnh Niết bàn:
Tự tính của tất cả
chúng sanh xưa nay vốn
thanh tịnh, có
vô lượng công đức,
không sinh không diệt,
vắng lặng như
hư không, nhưng vì bị bụi bặm
phiền não che khuất nên không
hiển lộ được.
Vô trụ xứ Niết bàn: Khi đã đoạn trừ hết mọi
chướng ngại của
tri thức, liền được
trí tuệ siêu việt, không còn
phân biệt giữa
sinh tử và
Niết bàn, không còn
ưa thích hay
chán ghét, phát
đại trí,
đại bi làm
lợi ích cho
chúng sinh đến
cùng tận đời
vị lai mà vẫn sống theo
tự tính vắng lặng. (
Thành Duy Thức Luận, q10, ĐTK. 31, tr. 55)
4.
Chân lý về
con đường đưa đến
khổ diệt.
Con đường dẫn đến
khổ diệt chính là 8
chánh đạo.
Tám pháp này đã được
giải thích trong phần
mô tả về các uẩn, nhưng ở đây cũng cần đề cập đến
ý nghĩa của chúng, như sau:
a.
Chánh kiến (Samma-ditthi):
Kiến giải chính xác,
hiểu biết chính xác.
b.
Chánh tư duy (Samma-Sankappa):
Suy nghĩ một cách
chính xác,
đúng đắn.
c.
Chánh ngữ (Samma-vaca): Nói lời
chân thực,
đúng đắn, dễ nghe, có
lợi ích.
d.
Chánh nghiệp (Samma-Kammanta): Làm những việc chân chánh,
như không sát sinh, không
trộm cắp, không
tà dâm v.v...
đ.
Chánh mạng (Samma-jìvati): Sinh sống bằng những nghề nghiệp
chân chính,
lương thiện.
e.
Chánh tinh tấn (Samma-Viriya):
Nỗ lực chính đáng, siêng làm
việc thiện.
g.
Chánh niệm (Samma-sati): Nghĩ nhớ chân chánh, luôn
tỉnh táo,
cảnh giác từng việc nhỏ.
h.
Chánh định (Samma-samàdhi): Tập trung
tư tưởng một cách chân chánh, không để
ngoại vật chi phối làm
rối loạn tâm trí.
Tám
chánh đạo này
liên quan đến các
pháp như sau:
Chánh kiến dẫn đầu bao gồm trạch pháp như ý túc,
tuệ căn,
tuệ lực và
trạch pháp giác chi.
Chánh tư duy bao gồm 3 loại tầm là
viễn ly tham, sân và hại.
Chánh ngữ bao hàm 3 loại thiện về thân.
Chánh mạng bao hàm
thiểu dục,
tri túc.
Chánh tinh tấn bao hàm 4
chánh cần,
tấn căn, tấn lực và
tinh tấn giác chi.
Chánh niệm bao hàm 4
niệm xứ,
niệm căn,
niệm lực và
niệm giác chi.
Chánh định bao hàm 4 loại định là định có tầm tứ,
định tâm,
định căn,
định lực và các
giác chi Hỉ,
Khinh an, Định, Xả.
Đồng thời Tám
chánh đạo liên quan mật thiết đến 3
Vô lậu học, như đoạn kinh sau đây
mô tả: "Bất cứ
Chánh ngữ nào,
Chánh nghiệp nào,
Chánh mạng nào, đều thuộc Giới uẩn. Bất cứ
Chánh tinh tấn nào,
Chánh niệm nào,
Chánh định nào, đều thuộc Định uẩn. Bất cứ
Chánh kiến nào,
Chánh tư duy nào, đều thuộc về Tuệ uẩn. (M. I, 301)
Bản luận nêu ví dụ: Định
ví như một người trông thấy hoa đẹp mà tự mình không hái được;
Tinh tấn ví như người bạn đưa lưng ra cho người ấy đứng lên; Niệm
ví như người đứng gần đưa vai làm
điểm tựa; nhờ
vậy mà người ấy hái đuợc hoa. Nghĩa là
Tinh tấn và Niệm là những
yếu tố giúp sức rất
đắc lực cho Định.
Để làm
sáng tỏ ý nghĩa của cả 4
chân lý, Buddhaghosa đưa ra ví dụ: Khổ
ví như gánh nặng; Tập
ví như sự mang
gánh nặng; Diệt như
gánh nặng được đặt xuống; Đạo như
phương tiện đặt
gánh nặng. Hoặc Khổ như chứng bệnh. Tập như
nguyên nhân gây bệnh. Diệt như sự hết bệnh; Đạo như thuốc chữa bệnh.
Theo nghĩa
tuyệt đối, cả 4
chân lý cần được hiểu là trống rỗng, vì không có người chịu khổ, người
tập khởi nên cái khổ, người chứng sự
diệt khổ, và người đi trên đạo lộ đến
khổ diệt. Do đó:
Có khổ, nhưng không có người chịu khổ
Có
sở tác, nhưng không có người tạo tác
Có
tịch diệt, nhưng không có người
chứng đắcCó đạo lộ, nhưng không thực có người đi.
Tóm tắt, hai đế Khổ, Tập giống nhau, vì
sâu xa, khó nắm, thuộc
thế gian,
hữu lậu. Nhưng chúng khác nhau về
phương diện nhân và quả, cái cần
liễu tri (khổ), và cái cần đoạn trừ (tập). Diệt, Đạo giống nhau, vì
sâu xa, khó nắm, vì
xuất thế,
vô lậu. Nhưng chúng khác nhau khi chia thành đối tượng cần chứng (diệt), và
cần tu tập (đạo).
Lại nữa, Khổ, Diệt giống nhau, vì cùng là
hậu quả; Nhưng chúng khác nhau, vì khổ thuộc
hữu vi, diệt thuộc
vô vi. Tập, Đạo giống nhau, vì chúng cùng là nhân; nhưng khác nhau vì Tập thuần là
bất thiện, Đạo thuần là thiện. Khổ, Đạo giống nhau, vì chúng cùng là
hữu vi; nhưng khác nhau ở chỗ Khổ thuộc
thế gian, Đạo thì
xuất thế. Cũng vậy, Tập và Diệt giống nhau, vì là
pháp không phải
hữu học hay
vô học; nhưng khác nhau, vì Tập có đối tượng, còn Diệt thì không.
BÀI MƯỜI BẢY
CHƯƠNG XVII -
DUYÊN KHỞIA. ĐỊNH NGHĨA
DUYÊN SINHĐức Thế Tôn đã trình bày
Duyên khởi: "Và này các Tỳ khưu,
Duyên khởi là gì? Đó là:
Vô minh duyên Hành,
Hành duyên Thức, Thức duyên
Danh sắc,
Danh sắc duyên
Lục nhập,
Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái,
Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu,
Hữu duyên Sinh, Sinh duyên
Lão tử, Sầu,
Bi Khổ Ưu Não. Như vậy là
duyên khởi của
toàn bộ khổ uẩn này." (S II, 1)
Thế nào là Duyên khởi? Vì nó do duyên (paticca) và cùng sinh (samuppāda) nên gọi là
Duyên khởi hay
Duyên sinh (paticca-samuppāda). Hoặc,
tùy thuộc (paticca) một sự
sinh khởi (uppāda) chân chánh (samma),
tùy thuộc vào
nguyên nhân một cách chân chánh, gọi là
Duyên khởi. Và vì các pháp nầy cần được thấu hiểu. Khi
hiểu rõ, chúng sẽ đưa
hành giả đến
an lạc siêu thế.
Khi đề cập đến
ý nghĩa của chữ Duyên, bản luận nêu ra 24 duyên sau đây: 1.
Nhân duyên; 2.
Cảnh duyên 3. Trưởng duyên; 4.
Vô gián duyên; 5.
Đẳng vô gián duyên; 6.
Câu sanh duyên; 7.
Hỗ tương duyên; 8.
Y chỉ duyên; 9. Cận y duyên; 10.
Tiền sanh duyên; 11.
Hậu sanh duyên; 12. Trùng dụng duyên; 13.
Nghiệp duyên; 14.
Dị thục quả duyên; 15. Vật thực duyên; 16. Quyền duyên; 17.
Thiền na duyên; 18. Đồ đạo duyên; 19.
Tương ưng duyên; 20.
Bất tương ưng duyên; 21.
Hiện hữu duyên; 22.
Vô hữu duyên; 23. Ly khứ duyên; 24. Bất ly duyên.
1.
Nhân duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng nhân (6 nhân
tương ưng) làm căn nguyên, gốc rễ. Mãnh lực từ nhân đó trợ giúp,
ủng hộ mà sinh ra, thì gọi nó là một duyên. Nó giúp cho sự
sinh khởi một pháp khác, thì gọi nó là duyên. Hoặc, nhân
tương ưng là
yếu tố căn nguyên, nền tảng, gốc rễ nên gọi nó là
nhân duyên (
điều kiện gốc).
2.
Cảnh duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng lối cảnh. Cảnh đây là pháp mà tâm và
sở hữu biết đặng.
3. Trưởng duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách trội lớn hơn. Các pháp
trợ lực nổi bật nhất, trội lớn hơn cho những pháp khác.
4.
Vô gián duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách không
gián đoạn, không dứt.
5.
Đẳng vô gián duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách
liên tiếp, không cách khoảng.
6.
Câu sanh duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách đồng sanh.
7.
Hỗ tương duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ qua lại.
8.
Y chỉ duyên: là mãnh lực trợ giúp
vững vàng và
ủng hộ cho những pháp
nương nhờ.
9. Cận y duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách làm chỗ
nương nhờ mạnh mẽ.
10.
Tiền sinh duyên: là mãnh lực trợ giúp bằng cách sanh trước. Một pháp khởi lên trước, làm
điều kiện cho pháp khác phát sinh.
11.
Hậu sinh duyên: là mãnh lực trợ giúp bằng cách sanh sau. Một pháp nào phát sinh, làm
điều kiện để
củng cố pháp trước.
12. Trùng dụng duyên: là mãnh lực trợ giúp bằng cách hưởng cảnh hoài hoài. Một pháp trợ giúp cho
pháp kế nó có
hiệu quả, nhờ lặp đi lặp lại.
13.
Nghiệp duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách
sắp đặt hay tạo tác. Một pháp trợ giúp cho pháp khác bằng cách
tác động tức là
tâm hành động.
14.
Dị thục quả duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng tâm quả. Một pháp trợ giúp cho pháp khác
thành tựu quả.
15. Vật thực duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách như đem chất bổ dưỡng vào. Bốn loại
thức ăn trợ giúp cho
danh sắc dinh dưỡng.
16. Quyền duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách cai quản. Ngoại trừ nam quyền và nữ quyền, 20 quyền còn lại (xem chương XVI) trợ giúp thành trưởng.
17.
Thiền na duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách thiêu đốt pháp nghịch hay là khắn khít với
đề mục. Các chi thiền nào trợ giúp cho các pháp
tương ưng thiền và các sắc mà pháp ấy sở sanh bằng
thiền na duyên.
18. Đồ đạo duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng
cách thông suốt lên xuống, bằng lối đạo. Mười hai chi đạo chia thành thiện trợ giúp cho pháp khác
tìm ra lối thoát,
xuất ly khỏi
kiết sử.
19.
Tương ưng duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách
hòa hợp nhau. Các pháp trợ giúp cho những pháp khác do
tính chất cùng
hòa hợp, nghĩa là có cùng một vật, cảnh, đồng sanh, đồng diệt.
20.
Bất tương ưng duyên: : là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách không hòa trộn. Các
sắc pháp trợ giúp cho
vô sắc, hay
vô sắc giúp cho
sắc pháp mà không đồng một vật.
21.
Hiện hữu duyên: là mãnh lực trợ giúp bằng cách đang còn. Một pháp giúp cho một pháp
tương tự khác bằng
tính chất đang có với
trạng thái đang sanh tồn.
22.
Vô hữu duyên: là mãnh lực trợ giúp bằng cách không có. Tâm và
sở hữu vừa diệt
liên tiếp trợ cho những tâm và
sở hữu đang sanh.
23. Ly khứ duyên: là mãnh lực trợ giúp bằng cách lìa nhau. Cũng chính những tâm và
sở hữu trợ giúp pháp khác bằng cách
xa lìa theo
diễn tiến.
24.
Bất ly khứ duyên: là mãnh lực trợ giúp,
ủng hộ bằng cách chưa lìa xa.
Đó là 24 duyên theo bản luận.
Thế nhưng, các luận điển của
Đại thừa chỉ cô đọng thành 4 duyên là: 1/
Nhân duyên; 2/
Đẳng vô gián duyên; 3/
Cảnh duyên ; 4/
Tăng thượng duyên. (Luận
Duy thức,
Đại trí độ). Bốn duyên này cũng chính là 3 duyên đầu và duyên thứ 5 của bản luận. Sau đây, đi sâu vào vòng 12
nhân duyên.
Trích dẫn kinh:
1. Già chết: cái gì thuộc
chúng sinh bị già yếu,
suy nhược, các căn tàn lụi v.v..., gọi là Già. Cái gì thuộc
chúng sinh, bị hủy hoại, tiêu mất, các uẩn tàn lụi,
thân thể vứt bỏ, đó gọi là Chết. Như vậy, đây là già và chết.
2. Sinh: cái gì thuộc
chúng sinh,
xuất hiện, sự
sinh khởi các uẩn, sự
thành tựu các xứ, đó gọi là Sinh.
3. Hữu:
gồm có 3 thứ, đó là:
Dục hữu,
sắc hữu,
vô sắc hữu, đó gọi là Hữu.
4. Thủ:
gồm có 4 thứ, đó là:
Dục thủ,
tà kiến thủ,
giới cấm thủ và
ngã chấp thủ, đó gọi là Thủ.
5. Ái:
gồm có 6 thứ, đó là:
Sắc ái, thinh ái, khí ái, vị ái, xúc ái và
pháp ái, đó gọi là ái.
6. Thọ:
gồm có 6 thứ, đó là: Thọ do nhãn xúc sinh, thọ do nhĩ xúc sinh, thọ do tỷ xúc sinh, thọ do thiệt xúc sinh, thọ do thân xúc sinh, thọ do ý xúc sinh, đó gọi là Thọ.
7. Xúc: gồm 6 thứ, đó là: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc, đó gọi là Xúc.
8.
Sáu xứ (
lục nhập)
gồm có 6 thứ, đó là: Nhãn xứ,
nhĩ xứ, tỉ xứ, thiệt xứ,
thân xứ và
ý xứ, đó gọi là
Sáu xứ.
9.
Danh sắc: Thọ, tưởng, tư, xúc,
tác ý, đó gọi là Danh.
Bốn đại chủng và các sắc do 4
đại chủng tạo ra, đó gọi là Sắc. Như vậy, đây là Danh và Sắc. Trong Abhidhamma,
liên quan tương sinh,
danh sắc ở đây có nghĩa là 35
sở hữu phối hợp 32 tâm quả hiệp thế và 18 thứ sắc nghiệp.
10. Thức:
gồm có 6 thứ, đó là:
Nhãn thức,
nhĩ thức,
tỉ thức,
thiệt thức,
thân thức,
ý thức; đó gọi là Thức. Trong
liên quan tương sinh,
hành duyên thức hay Thức duyên
danh sắc thì thức là 32 tâm quả hiệp thế.
11. Hành:
gồm có 3 thứ, đó là:
Thân hành, khẩu hành và ý hành, đó gọi là Hành. Trong lien quan tương sinh, hành có 7 hoặc 6:
hữu vi hành,
bất động hành v.v… Khi
hành duyên thức là
sở hữu tư hợp
tâm bất thiện và thiện hiệp thế là phúc hành, phi phúc hành,
bất động hành. Khi
vô minh duyên hành thì tùy
trường hợp trong 7 hành đó. Nhưng cái chính vẫn là
sở hữu tư
12.
Vô minh: không biết rõ về khổ, không biết rõ về
khổ tập, không biết rõ về
khổ diệt, không biết rõ về
con đường đưa đến
khổ diệt, đó là
Vô minh. Trong Abhidhamma,
liên quan tương sinh,
vô minh chỉ ngay cho
sở hữu si.
Như vậy, "Nầy các Tỳ khưu,
Vô minh duyên hành,
Hành duyên thức; Thức duyên
danh sắc;
Danh sắc duyên
sáu xứ;
Sáu xứ duyên xúc; Xúc duyên thọ; Thọ duyên ái;
Ái duyên thủ; Thủ duyên hữu;
Hữu duyên sinh; Sinh duyên
Lão Tử, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy là
toàn bộ khổ uẩn này
tập khởi. Nhưng do sự
đoạn diệt, ly khai
vô minh một cách
hoàn toàn, nên Hành diệt. Do hành diệt, nên Thức diệt. Do thức diệt, nên
Danh sắc diệt. Do
danh sắc diệt, nên
Sáu xứ diệt. Do
sáu xứ diệt, nên Xúc diệt. Do xúc diệt, nên Thọ diệt. Do thọ diệt, nên Ái diệt. Do ái diệt, nên Thủ diệt. Do thủ diệt, nên Hữu diệt. Do hữu diệt, nên
Sinh diệt. Do
sinh diệt, nên
Lão Tử, sầu, bi, khổ, ưu, não, đều diệt. Như vậy là
đoạn diệt toàn bộ khổ uẩn này. " (
Tương Ưng Bộ Kinh II, tr. 3 - 4)
Đoạn kinh sau đây còn
triển khai thêm: "Cái gì có mặt, nên già chết có mặt? Do duyên cái gì mà già chết sinh khởi? - Do Sinh có mặt, nên Già Chết có mặt; do
duyên sinh mà già chết
sinh khởi. - Do Hữu có mặt, nên sinh có mặt, do duyên hữu nên sinh
sanh khởi - Do Thủ có mặt, nên hữu có mặt; do duyên thủ, nên
hữu sinh khởi. - Do Ái có mặt, nên thủ có mặt; do duyên ái, nên thủ
sanh khởi - Do Thọ có mặt, nên ái có mặt; do duyên thọ nên ái
sanh khởi - Do Xúc có mặt, nên thọ có mặt; do duyên xúc, nên thọ
sinh khởi - Do
Sáu xứ có mặt, nên xúc có mặt; do duyên
sáu xứ, nên xúc
sanh khởi - Do
Danh sắc có mặt, nên
Sáu xứ có mặt; do duyên
danh sắc, nên
sáu xứ sanh khởi - Do Thức có mặt, nên
danh sắc có mặt; do duyên thức nên
danh sắc sanh khởi - Do Hành có mặt, nên Thức có mặt; do duyên hành, nên thức
sanh khởi - Do
Vô minh có mặt, nên hành có mặt; có duyên
vô minh, nên hành sanh khởi".
Đó là cái vòng 12
nhân duyên về
phương diện sinh khởi, khảo sát ngược từ dưới lên, và sau đây là khảo sát về
phương diện hoàn diệt, cũng từ dưới trở lên:
"Cái gì không có mặt, nên già chết không có mặt? Do cái gì diệt mà già chết diệt? - Do
Sanh không có mặt, nên Già chết không có mặt; do
sanh diệt, nên già chết diệt - Do
Hữu không có mặt, nên
sanh không có mặt; do hữu diệt, nên
sanh diệt - Do Thủ không có mặt, nên
hữu không có mặt, do thủ diệt, nên hữu diệt - Do Ái không có mặt, nên thủ không có mặt; do ái diệt nên thủ diệt - Do Thọ không có mặt, nên ái không có mặt; do thọ diệt nên ái diệt - Do Xúc không có mặt, nên thọ không có mặt; do xúc diệt, nên thọ diệt - Do
Sáu xứ không có mặt, nên xúc không có mặt; do
sáu xứ diệt, nên xúc diệt- Do
Danh sắc không có mặt, nên
sáu xứ không có mặt; do
danh sắc diệt, nên
sáu xứ diệt - Do Thức không có mặt, nên
danh sắc không có mặt; do thức diệt, nên
danh sắc diệt - Do
Hành không có mặt, nên thức không có mặt; do hành diệt, nên thức diệt - Do
Vô minh không có mặt, nên
hành không có mặt; do
vô minh diệt, nên hành diệt.
Như vậy, do
Vô minh diệt, nên hành diệt. Do Hành diệt, nên thức diệt. Do Thức diệt, nên
danh sắc diệt. Do
Danh sắc diệt, nên
sáu xứ diệt. Do
Sáu xứ diệt, nên xúc diệt. Do Xúc diệt, nên thọ diệt. Do Thọ diệt, nên ái diệt. Do ái diệt, nên thủ diệt. Do Thủ diệt, nên hữu diệt. Do Hữu diệt, nên
sanh diệt. Do
sanh diệt, nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự
đoạn diệt toàn bộ khổ uẩn nầy". (
Tương ưng BK. II, tr. 6-10)
Giải thích thêm
ý nghĩa quan hệ của các khâu:
Vô minh duyên hành được
thiết lập để khỏi thấy có người tạo tác.
Hành duyên thức được
thiết lập để khỏi thấy sự
luân chuyển của một tự ngã. Thức duyên
danh sắc được
thiết lập, để khỏi có
ảo tưởng về sự bền chắc của tự ngã, vì nó phân tích rõ căn để của cái tự ngã
ảo tưởng.
Danh sắc duyên
sáu xứ ..., được
thiết lập để ngăn chận sự thấy cái tự ngã nhìn, nghe, ngửi, nếm,
nhận thức, xúc,
cảm thọ,
khát ái,
chấp thủ,
trở thành, sanh, già, chết. Vậy, bánh xe
sanh tử này cần được hiểu là để
ngăn ngừa sự
nhận thức sai lầm.
Bản luận nêu ví dụ để làm
sáng tỏ các khâu trên:
Vô minh như người mù, vì không thấy được
đặc tính chung và riêng của các pháp.
Hành do duyên
vô minh ví như sự vấp của anh mù. Thức do hành
ví như sự té ngã.
Danh sắc do thức,
ví như ung nhọt phát sinh.
Sáu xứ do
danh sắc như
máu mủ tụ lại. Xúc do duyên
sáu xứ như đánh vào chỗ máu tụ. Thọ như cơn đau do bị đánh. Ái
ví như khao khát một liều thuốc. Thủ
ví như vớ nhằm thứ thuốc không hợp. Hữu
ví như đắp vào vết thương thứ thuốc không hợp ấy. Sanh
ví như vết thương thành
trầm trọng do xức thuốc bậy. Già chết
ví như ung nhọt vỡ ra, sau khi
biến đổi.
BÀI MƯỜI TÁM
CHƯƠNG XVIII -
KIẾN THANH TỊNH
(Ditthi-Visuddhi-Niddesa)
Thất tịnh
gồm có:
1.
Tịnh giới2.
Tịnh tâm3. Tịnh kiến
4. Tịnh nghi
5. Tịnh
kiến đạo phi đạo6. Tịnh mãn tuệ
7. Tịnh
kiến tuệPhần
tuệ quán là bắt đầu từ cái tịnh thứ 3 trở đi.
Bây giờ
mô tả về
Kiến thanh tịnh. Ở đây
kiến thanh tịnh là sự thấy đúng
như thật của
danh sắc. Danh là chỉ cho 4 uẩn: Thọ, tưởng, hành và thức, thuộc cả 3 cõi.
Hành giả phải cứu xét cái Danh ấy, tìm cho ra sự
sinh khởi của nó nương vào cái gì, và thấy rằng nó nương vào sắc ý vật. Sau đó, vị ấy phân tích
Sắc tứ đại làm chỗ nương của sắc ý vật, và
sắc y sinh còn lại
nương nhờ sắc tứ đại. Rồi vị ấy
nhận thấy Danh có
đặc tính hướng đến, và Sắc có
đặc tính bị tiêu hoại.
Nếu kể
chi tiết thì
Sắc uẩn gồm có 27 thứ đó là 17 sắc
thành tựu và 10 sắc phi
thành tựu. Mười bảy
hiển sắc là: 4
tứ đại trong nội thân,
sắc cảnh sắc,
sắc cảnh khí,
sắc cảnh vị, sắc vật thực, 5
sắc thanh triệt, sắc ý vật, sắc tính, mạng quyền, và
sắc cảnh thinh; đó là sắc
thành tựu. Và 10 sắc phi
thành tựu khác là: thân biểu, ngữ biểu,
hư không, 3 sắc kỳ dị, 4 thứ
sắc tứ tướng.
Hành giả tu tập thuần thục trong sự phân tích, Danh và Sắc trên 3
phương diện 18 giới, 12 xứ và 5 uẩn có thể
kết luận rằng: ngoài
Danh sắc không có một cái gì có thể gọi là cái ngã, hay
con người,
chư thiên hay
phạm thiên. Như
bài kệ nói:
"Các bộ phận kết tụ
Được gọi là chiếc xe
Cũng vậy uẩn quy tụ
Nên gọi là chúng sinh" (S. I, 135)
"Ví như một khoảng
không gian, được bao bọc bằng gỗ, dây, cỏ, đất sét, thì có ra danh từ nhà,
cũng thế, khi một khoảng
không gian được vây kín bằng xương, gân, thịt da, thì có ra danh từ Sắc". (M. I, 190)
Lại nữa,
ví như 2 cụm lau tựa vào nhau, cụm này làm chỗ tựa
vững chắc cho cụm kia, và khi cụm nầy đổ thì cụm kia đổ;
cũng thế, trong thân 5 uẩn,
danh sắc sinh khởi lệ thuộc vào nhau, phần nầy làm chỗ tựa và
củng cố cho phần kia, và khi một phần rơi xuống do cái chết, thì phần kia cũng sụp đổ.
Lại nữa,
y cứ vào sắc mà tâm sinh,
y cứ vào tâm, mà sắc sinh. Khi Danh có
ý muốn ăn uống, đi đứng, nằm, ngồi, thì chính Sắc làm công việc ấy.
"
Ví như người nương vào
Thuyền bè để vượt biển
Cũng vậy,
danh thân nầy
Cần
sắc thân để sinh".
Tóm lại, khi
hành giả thấy đúng danh và sắc như
vậy thì sự thấy ấy được gọi là
kiến thanh tịnh, cũng gọi là
phân biệt danh sắc bằng
trí tuệ.
BÀI MƯỜI CHÍN
CHƯƠNG XIX: ĐOẠN NGHI
THANH TỊNH(Kankhāvitarana-Visuddhi-Niddesa)
Cái trí phát sinh do
vượt qua hoài nghi về 3 thời bằng cách
phân biệt các duyên của
danh sắc, gọi là Đoạn nghi
thanh tịnh.
Bản luận nói, khi thân này sinh ra, nó không phải sinh ra trong một bông sen, nhưng nó được sinh ra ở giữa bọc chứa
thức ăn, đằng sau màng bụng, một chỗ hôi hám,
dơ bẩn. Khi được sinh kiểu ấy, nhân của nó là 4 thứ:
Vô minh, ái, thủ và nghiệp. Vì chính những thứ nầy làm ra sự sinh của thân xác. Và
thức ăn là duyên của nó, vì chính
thực phẩm củng cố thân xác. Như vậy, có 5 thứ làm nhân và duyên cho
sắc thân. Trong 5 thứ nầy, thì 3 thứ
Vô minh, ái, thủ là thân y duyên, như bà mẹ đối với hài nhi; và nghiệp sinh ra nó, thì như người cha đối với đứa bé, còn
thực phẩm bảo trì nó, thì như vú nuôi đối với đứa trẻ.
Khi
hành giả thấy như vậy, thì tất cả
nghi hoặc được rũ bỏ. Đó là 5 mối nghi về
quá khứ: " Trong
quá khứ, ta có mặt chăng? hay không có mặt? Ta là gì trong quá khứ? Ta như thế nào trong quá khứ? Ta đã là cái gì, và là cái
gì nữa, trong quá khứ?"
Năm mối nghi về tương lai: "Trong tương lai ta có mặt chăng? hay không có mặt? Ta sẽ là gì trong tương lai? Ta sẽ như thế nào trong tương lai? Sau khi là gì, ta sẽ là
gì nữa, trong tương lai?"
Năm mối nghi về
hiện tại: "Hiện tại ta có mặt chăng? hay không có mặt?
Hiện tại ta là gì? Ta như thế nào trong hiện tại? Từ đâu tự ngã nầy đi đến? Tự ngã nầy sẽ đi về đâu?" (M. I, 8)
Thế rồi
hành giả suy cứu lý
duyên sinh ngược dòng từ già chết trở lên, và
suy xét thuận chiều từ
vô minh trở xuống, tức "Vô minh duyên hành v.v... Tiếp đến,
hành giả suy cứu về nghiệp sẽ
nhận thấy có 4 lọai nghiệp là: Nghiệp có
quả báo được
cảm thọ ngay trong
hiện tại, gọi là
hiện báo; nghiệp có
quả báo khi
tái sinh, gọi là
sinh báo; nghiệp có
quả báo trong những
đời sống thuộc tương lai, gọi là
hậu báo; và nghiệp không có
quả báo, gọi là vô báo.
Hoặc phân tích theo 4 loại nghiệp khác là:
Cực trọng nghiệp,
thường nghiệp,
cận tử nghiệp và
tích lũy nghiệp.
Cực trọng nghiệp là
nghiệp bất thiện nặng nề, hoặc nghiệp thiện mạnh mẽ.
Thường nghiệp là loại nghiệp được làm theo
thói quen, và lập đi lập lại nhiều lần.
Cận tử nghiệp là nghiệp được nhớ lại một
cách sống động vào lúc
lâm chung.
Tích lũy nghiệp là nghiệp được làm từ nhiều đời trước
tích tụ lại. Đôi khi vì nhiều
lý do,
quả báo của một loại nghiệp nầy có thể
triển hạn, hoặc thay thế bằng
quả báo của một loại nghiệp khác. Đây là
phạm vi thấy biết của
Đức Phật về nghiệp. Và được trình bày như sau:
"Nghiệp báo
diễn tiến từ nghiệp
Quả báo có nghiệp là nguồn gốc
Hữu trong tương lai phát xuất từ nghiệp
Đây là cách
thế gian luân chuyển".
Khi thấy rõ như vậy,
hành giả sẽ đoạn trừ được 16 loại
nghi hoặc đã nói ở trên.
Lại một đoạn khác trình bày sự tương quan của nghiệp và báo:
"Như lửa không
hiện hữuTrong
mặt trời, ngọc, phân bò
Mà cũng không ở ngoài chúng,
Nhưng phát sinh nhờ những thứ nầy".
Hoặc như
ngọn đèn không
di chuyển từ cái tim nầy sang cái tim khác, nhưng không
vì vậy mà không mồi được
ngọn đèn khác. Cũng vậy, không có gì
di chuyển từ hữu
quá khứ đến hữu
hiện tại, hay từ đời
hiện tại đến đời
vị lai, nhưng uẩn xứ và giới vẫn sinh ở đây, lấy uẩn xứ, giới của
quá khứ, làm duyên, hoặc sẽ sinh trong tương lai, lấy uẩn, xứ, giới
hiện tại làm duyên, như
bài kệ nói:
"Cũng vậy trong kiết sinh
Dòng tâm tương tục chảy
Tâm trước vừa
chấm dứtTâm sau liền phát sinh".
Tóm lại, khi
hành giả đã
chấm dứt nghi hoặc nhờ
phân biệt danh sắc theo nhiều
phương pháp khác nhau, thì gọi là Đoạn nghi
thanh tịnh, hay gọi là Trí biết sự tương quan của các pháp hay Chánh tri,
Chánh kiến.
Một người tu tuệ đã
đạt đến trí này, tức đã tìm được
an lạc trong
giáo lý của Phật, vị ấy được gọi là một bậc
Dự lưuBÀI HAI MƯƠI
CHƯƠNG XX:
ĐẠO PHI ĐẠO
TRI KIẾN THANH TỊNH(Maggāmagga- Nanadassana- Visuddhi- Niddesa)
Trí biết được cái gì là đạo, cái gì là
phi đạo, gọi là
Đạo phi đạo
tri kiến thanh tịnh. Khi trí nầy
xuất hiện thì
cùng lúc hào quang cũng
xuất hiện. Đông thời
hành giả cũng làm phát sinh 3 thứ tuệ: Tuệ phát sinh do biết rõ
đặc tính của sắc là bức não,
đặc tính của thọ là cảm nhận gọi là
Tuệ tri kiến. Tuệ phát sinh do biết
đặc tính của sắc là
vô thường, của thọ là
vô thường, thì gọi là Tuệ suy đạt. Tuệ phát sinh do
từ bỏ thường tưởng, thì gọi là Tuệ
từ bỏ.
Tuệ
từ bỏ nầy
diễn tiến như sau: " (1) Quán các hành là
vô thường,
hành giả từ bỏ thường tưởng. (2) Quán các hành là khổ,
hành giả từ bỏ lạc tưởng. (3) Quán các hành là
vô ngã,
hành giả từ bỏ ngã tưởng. (4) Quán các hành là không đáng ưa,
hành giả từ bỏ thích thú. (5) Quán
ly tham,
hành giả từ bỏ tham. (6) Quán diệt,
hành giả từ bỏ sanh (
sinh khởi). (7) Quán xả ly,
hành giả từ bỏ chấp thủ.
Hành giả quán một cách tổng quát như sau:
"Bất cứ sắc nào,
quá khứ,
hiện tại hay
vị lai, nội hay ngoại, thô hay tế,
hạ liệt hay
thù thắng, xa hay gần, tất cả sắc ấy là
vô thường, là khổ, là
vô ngã. Bất cứ thọ nào, bất cứ tưởng nào, bất cứ hành nào, và bất cứ thức nào, chúng cũng đều mang 3
đặc tính kể trên. Đây là một loại quán tổng quát.
QUÁN 40
ĐẶC TÍNH CỦA 5 UẨN
Hành giả phân tích 5 uẩn, thấy chúng có những
đặc tính:
vô thường, khổ, như bệnh, cục bướu, như mũi tên,
mối họa,
xa lạ, phân hóa, cơn dịch,
tai ương,
khủng bố,
đe dọa, phù du, khả hoại, không bền, vô hộ, không chỗ trú, không chỗ nương, trống rỗng,
vô vi, không,
vô ngã, nguy hiểm, bị
biến đổi, không có lõi, gốc rễ của
tai ương, sát nhân, bị
hoại diệt,
hữu lậu,
hữu vi, mồi của ma, phải bị sinh, già, bịnh, chết, sầu, bi, ưu, não, bị
cấu uế.
Khi
quán sát các
đặc tính trên,
hành giả sẽ
nỗ lực tinh cần, và
dần dần đạt đến thanh tịnh,
Niết bàn.
Về
phương diện quán
vô thường có 50
yếu tố:
Hành giả quán mỗi uẩn
gồm có 10 thứ:
Vô thường, tan rã, phù du, khả hoại, không bền, bị
biến đổi không có lõi, phải
đoạn diệt,
hữu vi, phải chết. Mỗi uẩn có 10 thứ nên 5 uẩn thành ra 50 thứ.
Quán vô ngã có 25 thứ: mỗi uẩn gồm -
xa lạ, trống rỗng,
vô vị, không,
vô ngã.
Năm uẩn, mỗi uẩn có 5 thứ thành ra 25 thứ. Quán khổ có 125 thứ: dùng 25 pháp còn lại (trong số 40 pháp kể trên) nhân cho 5 uẩn, thành ra 125 thứ: Như vậy,
hành giả quán về 5 uẩn trên 3
phương diện vô thường, khổ và
vô ngã, sẽ
gồm có 200
đặc tính tất cả.
Bây giờ
hành giả phải đi sâu hơn nữa vào từng uẩn một, trước hết quán về sắc với các khía cạnh. Sắc do nghiệp sinh; sắc do tâm sinh; sắc do
đoàn thực sinh và sắc do
thời tiết sinh.
Hành giả phân tích Sắc do nghiệp sinh về 6
phương diện: (1) Nghiệp; (2) Cái do nghiệp sinh; (3) Cái có nghiệp làm duyên; (4) Cái do tâm sinh, có nghiệp làm duyên; (5) Cái do đồ ăn sinh, có nghiệp làm duyên; (6) Cái do
thời tiết sinh có nghiệp làm duyên.
Hành giả phân tích Sắc do tâm sinh theo 5
phương diện: (1) tâm; (2) do tâm sinh; (3) do
duyên tâm; (4) do
thực phẩm, có tâm làm duyên; (5) do
thời tiết sinh có tâm làm duyên.
Tiếp đến,
hành giả lại phân tích Sắc do
đoàn thực sinh, căn cứ trên 5
phương diện: (1)
Đoàn thực; (2) do
đoàn thực sinh; (3) do duyên
đoàn thực; (4) do
đoàn thực sinh và do duyên
đoàn thực; (5) do
thời tiết sinh và
đoàn thực làm duyên.
Hành giả lại phân tích Sắc do
thời tiết sinh, căn cứ trên 5
phương diện: (1)
Thời tiết; (2) do
thời tiết sinh; (3) do
thời tiết làm duyên; (4) do
thời tiết sinh và
thời tiết làm duyên; (5) do
đoàn thực sinh có
thời tiết làm duyên.
Không phải dừng ở đây, mà
hành giả còn đi sâu
tìm hiểu sắc về 7
phương diện, đó là: (1) lấy lên, đặt xuống; (2) sự thay đổi theo
thời gian; (3) do
đoàn thực sinh; (4) do thời sinh; (5) do nghiệp sinh; (6) do tâm sinh; (7) do
tự nhiên.
(1) Lấy lên, đặt xuống: lấy lên nghĩa là lúc sinh ra, đặt xuống nghĩa là lúc chết.
(2) Sự thay đổi theo
thời gian:
Hành giả có thể dùng con số ước lệ
một đời người là 100 năm, chia thành 3 giai đoạn, hoặc chia làm 10 thập niên như sau: thập niên
thơ ấu, thập niên thể thao, thập niên thẩm mỹ, thập niên
sức mạnh, thập niên
trí tuệ, thập niên
suy tàn, thập niên cúi xuống, thập niên
còng lưng, thập niên lẩm cẩm, thập niên nằm dài. Hoặc chia thành 4 mùa trong một năm, hoặc chia thành 2 tháng một, hoặc chia từng nửa tháng, hoặc chia thành ngày đêm, hoặc chia mỗi ngày đêm thành 24 giờ, hoặc chia nhỏ thành những động tác. Tất cả các thời phần đều không ra ngoài
vô thường, khổ,
vô ngã, đối với cái
sắc thân của
chúng ta.
(3) Do
đoàn thực sinh: Sắc sẽ
biến đổi khác nhau rõ rệt ở
trạng thái đói và
trạng thái no của
hành giả.
(4) Do thời sinh: Sắc sẽ
biến đổi rõ rệt khi
thời tiết nóng, hoặc khi
thời tiết lạnh.
(5) Do nghiệp sinh: Sắc sẽ khác nhau rõ rệt trong từng
căn môn, vì sắc sinh ở
nhãn căn không giống với sắc ở
nhĩ căn v.v...
(6) Do tâm sinh: Sắc sẽ
hiện lên rõ rệt khi một người gặp cảnh vui hay cảnh buồn, vì tâm thay đổi thì sắc diện cũng thay đổi.
(7) Do
tự nhiên: Mạng sống
con người trải qua bao
thăng trầm, nhưng cũng không
vượt qua 3
tính chất vô thường, khổ và
vô ngã.
Đó là 7 phép quán về
sắc pháp dựa trên 3
tính chất vô thường, khổ và
vô ngã. Bản luận còn đề cập đến 7 phép quán về
vô sắc, đó là: (1) Theo nhóm; (2) theo đôi; (3) theo
sát na; (4) theo loạt; (5) bằng cách
trừ tà kiến; (6) trừ
kiêu mạn; (7) Trừ
chấp thủ.
(1) Theo nhóm: chẳng hạn
hành giả dùng nhóm 5 thứ là xúc,
tác ý, thọ, tưởng, và tư,
kết hợp để
quán tưởng, thì gọi là theo nhóm;
(2) Theo đôi:
Hành giả quán về
sắc pháp có 3
tính chất vô thường, khổ và
vô ngã,
đồng thời thấy cái tâm năng quán cũng bao hàm 3
tính chất trên, đó là quán theo đôi;
(3) Theo
sát na:
Hành giả khởi
sự quán sắc pháp với 3
tính chất, và
kế tiếp tâm thứ 2, thứ 3 v.v..., cũng quán 3
tính chất trên, đó gọi là quán theo
sát na;
(4) Theo loạt:
tiếp theo hành giả quán như trên với tâm thứ tư, và
quán tâm thứ tư bằng tâm thứ 5... Tâm thứ 10 bằng tâm thứ 11, như vậy gọi là quán theo loạt;
(5) Bằng cách
trừ tà kiến;
(6) Trừ
kiêu mạn;
(7) Trừ
chấp thủ: Khi
hành giả không thấy có một
hữu tính nào ở trong sắc và
vô sắc, thì
ngã tưởng được
từ bỏ, do thế, vị ấy không khởi lên
tà kiến, nên gọi là
Trừ tà kiến. Khi
hành giả phân biệt các hành với cái tâm đã trừ
ngã tưởng, thì
kiêu mạn không khởi lên nữa, đó gọi là trừ
kiêu mạn. Khi
hành giả phân biệt các hành với cái tâm đã trừ
kiêu mạn, thì
tham ái không khởi lên nữa, mà
tham ái không khởi, thì
chấp thủ được đoạn trừ, nên gọi là trừ
chấp thủ.
Khi
hành giả đi sâu phân tích các hành thì thấy chúng không có một
quyền năng tự tại để mà
thi thố, do thế chúng là
vô ngã; thấy chúng có đó rồi lại không, do thế, chúng là
vô thường; thấy chúng phải chịu sự
chi phối của sinh và diệt, do thế, chúng là khổ.
Như vậy có sự
từ bỏ tà kiến nơi một người thấy các hành là
vô ngã; có sự
từ bỏ kiêu mạn nơi một người thấy các hành là
vô thường; có sự
từ bỏ chấp thủ nơi một người thấy các hành là khổ.
18
TUỆ QUÁN CHÍNH
Sau khi đã
quen thuộc với các
đề mục thiền sắc và
vô sắc hành giả
dần dần sẽ
thâm nhập một phần trong 18
tuệ quán sau đây:
(1) Quán
vô thường trừ bỏ thường tưởng; (2) Quán khổ
từ bỏ lạc tưởng; (3)
Quán vô ngã từ bỏ ngã tưởng; (4) Quán xả ly
từ bỏ sự
thích thú; (5) Quán
ly tham từ bỏ tham; (6) Quán diệt
từ bỏ sinh; (7) Quán xả
từ bỏ chấp thủ; (8) Quán hoại
từ bỏ tưởng
kiên cố; (9) Quán sự sụp đổ của các hành
từ bỏ sự tích lũy của nghiệp; (10) Quán
biến chuyển từ bỏ tưởng về sự dài lâu; (11) Quán
vô tướng từ bỏ tướng; (12) Quán vô dục
từ bỏ dục; (13)
Quán không từ bỏ được
tà giải; (14)
Quán tuệ từ bỏ tà giải do
chấp thủ một cái lõi; (15) Quán chánh
tri kiến từ bỏ tà giải do mê mờ; (16) Quán nguy hiểm
từ bỏ tà giải do
ỷ lại; (17) Quán
tư duy từ bỏ không
tư duy; (18) Quán yểm ly
từ bỏ tà giải do
chấp trước (PS. I, 32)
TRÍ QUÁN SINH DIỆTSau khi
tác ý về sự
sinh diệt của các pháp,
hành giả thấy sự
xuất sinh của
sắc uẩn như sau:
(1) Cùng với sự
xuất sinh của
vô minh, có sự
xuất sinh của
sắc uẩn; (2) Cùng với sự
xuất sinh của ái, có sự
xuất sinh của
sắc uẩn; (3) cùng với sự
xuất sinh của nghiệp, có sự
xuất sinh của
sắc uẩn; (4) Cùng với sự
xuất sinh của
đoàn thực, có sự
xuất sinh của
sắc uẩn; (5) Ai thấy được
đặc tính của
xuất sinh, sẽ thấy được sự sinh của
sắc uẩn.
Trái lại, về
phương diện diệt của
sắc uẩn,
hành giả sẽ thấy rằng: (1) với sự
chấm dứt của
vô minh, có sự
chấm dứt của
sắc uẩn; các pháp còn lại (2) (3) (4) và (5) cũng
tương tự như thế khi
diệt ái, nghiệp,
đoàn thực.
Hành giả tiếp tục tác ý đến 4 uẩn còn lại cũng theo 2
phương diện sinh và diệt như
sắc uẩn vừa nêu. Bấy giờ,
hành giả sẽ thấy rõ sự sinh của các uẩn đi kèm với sự sinh của
vô minh v.v..., và sự diệt của các uẩn khi
vô minh v.v... diệt, đó là
tính chất sinh diệt theo duyên của các uẩn. Do vậy, có thể nói: Các pháp nầy dường như
từ không mà có, sau khi
hiện hữu, chúng lại
trở thành không. Và như vậy, chúng có
một đời sống ngắn ngủi như những giọt Ngàiơng mai dưới
ánh mặt trời, như bọt nổi trên nước, như đường vẽ trên mặt nước, như hạt mè trên mũi dùi, như làn chớp. Và chúng không có lõi như trò
ảo thuật,
như ảo giác, như mộng, như vòng lửa quay, như thành
Càn thát bà (thành của yêu quái), như bọt sủi, như thân cây chuối v.v... Đó là
tính chất hư ảo của các pháp.
NHỮNG
CẤU UẾ CỦA TUỆ
Khi
hành giả mới được
tuệ giác còn
yếu ớt, thường vấp phải 10
chướng ngại, hay 10
cấu uế của tuệ sau đây: (1)
Hào quang; (2)
trí tuệ; (3) hỉ; (4)
Khinh an; (5) lạc; (6)
quyết định; (7)
tinh tấn; (8) vững chải; (9) xả; (10)
ràng buộc.
(1)
Hào quang: khi
hành giả tác ý các hành là
vô thường, ánh sáng sẽ phát sinh, rồi vị ấy cho mình đã
đạt được thánh quả, do đó, tâm bị
chi phối bởi
trạo cử, nên không thấy đúng
chân tướng của các pháp là
vô thường, khổ, và
vô ngã.
Cũng thế các
yếu tố từ (2) đến (10) vốn là những khích lệ khi tuệ vừa mới phát sinh, nhưng nếu tự đắc, tự mãn cho mình đã
đạt được những
thành quả cao cả, mình là bậc thánh, thì thành ra
cấu uế,
chướng ngại trên
con đường thành tựu viên mãn. Do đó, nên gọi những thứ đó là
cấu uế của tuệ.
Nhưng khi thấy
hào quang phát sinh,
hành giả thận trọng quán sát, nhận rõ
hào quang ấy là
vô thường,
hữu vi,
duyên sinh, khả hoại;
hành giả nên xem
hào quang ấy là không phải của ta, không phải là ta, không phải tự ngã của ta. Thấy như vậy
hành giả sẽ không bị
dao động nao núng vì
hào quang. Do đó, trí
hành giả sẽ
trở nên thanh tịnh trong sáng.
Tóm lại, khi
hành giả hiểu biết chính xác cái gì là đạo và cái gì là
phi đạo, thì cái
tri kiến đó được gọi là
Đạo phi đạo
tri kiến thanh tịnh.
BÀI HAI MƯƠI MỐT
CHƯƠNG XXI: ĐẠO
TRI KIẾN THANH TỊNH(Patipadā- Nanadassana-Visuddhi-Niddesa)
Đến đây, tuệ đạt tới tột đỉnh với 8 trí và với trí
thuận thứ là thứ chín, những trí nầy gọi là Đạo
tri kiến thanh tịnh.
Tám trí này được
liệt kê như sau: (1)
Sinh diệt trí; (2)
Diệt trí; (3) Bố úy trí; (4) Quá hoạn trí; (5)
Ly dục trí; (6) Dục thoát trí; (7)
Tư duy trí; (8)
Hành xả trí.
(1)
Sinh diệt trí: Cái
trí quán sự
sinh khởi của các hành gọi là quán sinh, cái
trí quán sự
hoại diệt các hành gọi là quán diệt. Cái trí dùng để quán cả 2 chiều sinh và diệt, gọi là
Sinh diệt trí.
Bản luận nêu ví dụ về
tính chất vô thường, khổ, của các
pháp như sau:
Ví như khi một cái dĩa rớt xuống đất vỡ toang, thì đó là
tính chất của
vô thường. Và khi một ung nhọt
xuất hiện trên cơ thể ta thì đó là
tính chất của Khổ. Nhưng
đặc tính của
vô ngã thì không rõ rệt. Thế nên, dù chư Phật có
xuất hiện hay không, thì các
đặc tính vô thường và khổ vẫn được biết đến, nhưng
nếu không có chư Phật ra đời thì
không có lý vô ngã được
công bố.
(2)
Diệt trí (
trí quán tan rã): Cái
trí quán về sự hủy diệt của các pháp. Khi
hành giả quán
vô thường, sẽ
từ bỏ được thường tưởng; khi quán khổ, sẽ
từ bỏ được
lạc tưởng; khi
quán vô ngã, sẽ
từ bỏ được
ngã tưởng... Do vô dục,
hành giả bỏ sự
ham thích. Làm cho
tham tàn tạ,
hành giả bỏ được tham. Thấy rõ diệt,
hành giả bỏ sự sinh; với
thái độ xả,
hành giả bỏ
chấp thủ.
Bằng kinh nghiệm
thực tế,
hành giả xác định được cái
hiện tại và
suy diễn cái tương lai:
Phạm vi các hành đã tan rã trong
quá khứ, sẽ tan ra ở tương lai, cũng như chúng đang tan rã trong
hiện tại. Vì thế bản luận nêu ví dụ: Như một người mắt sáng đứng trên bờ sông, dưới cơn mưa lớn, sẽ thấy những bọt nước
hiện ra trên mặt sông rồi tan ngay sau đó. Cũng vậy,
hành giả luôn luôn thấy các hành tan hoại.
Khi thấy được
tính chất tan rã của các hành,
hành giả sẽ
đạt được 8
lợi ích như sau: Bỏ được
tà kiến về hữu, bỏ sự
bám víu vào
đời sống, luôn luôn
tinh cần, có mạng sống
thanh tịnh, không còn
lo âu, không
sợ hãi, có được
nhẫn nhục và
từ ái điều phục được
buồn chán và
hoan lạc. Đó là 8 sự
lợi ích của
Diệt trí.
(3) Bố úy trí: Cái trí thấy được sự
đáng sợ của các hành. Khi
hành giả tu tập về quán diệt
sung mãn, sẽ thấy
tính chất của các hành thật khủng khiếp, chúng chẳng khác gì Ngài tử, cọp beo,
ma quỉ v.v...
xuất hiện trước mắt một người nhát gan, khi y muốn
sống yên ổn.
Bản luận nêu ví dụ: Như bà mẹ của 3 đứa con trai
phạm pháp, chúng bị vua ra lịnh hành quyết, bà đang
chứng kiến đao phủ chặt đầu đứa lớn, bà biết rằng 2 đứa kia cũng bị chặt đầu như thế. Khi thấy như vậy, Bố úy trí
sinh khởi nơi bà.
(4) Quán hoạn trí (
trí quán sự nguy hiểm): Khi
tu tập sung mãn trí bố úy,
hành giả sẽ thấy không một chỗ nào trong 3 cõi là
yên ổn. Ba hữu bấy giờ đối với
hành giả giống như những hố than hừng; 4 đại như
rắn độc đáng sợ; 5 uẩn như những người sát nhân đang tuốt kiếm dơ lên; 6 nội xứ như khu làng trống; 6 ngoại xứ như người cướp đang
xâm nhập vào làng; 7
thức trú và 9
hữu tình cư như khu rừng đang bốc cháy hừng hực; và tất cả các hành như một khối khổng lồ, toàn những thứ nguy hiểm không
khả ý, không
thực chất, như ung nhọt, như bệnh, như mũi tên, như
tai họa, như
sầu não (M. I, 436). Đó là đặc trưng của Quá hoạn trí.
Thiết tưởng ở đây cũng cần
phân biệt giữa trí và tuệ. Trí là nói theo nghĩa cái được biết (
sở tri), còn tuệ là
hành vi hiểu biết (năng tri).
(5) Vô dục trí: Cái trí
nhàm chán, không
ham muốn đối với các hành. Vì khi thấy các hành là nguy hiểm,
hành giả trở nên vô dục đối với tất cả
các loại hành thuộc hữu, thú,
thức trú, và
hữu tình cư. Vị ấy không
thỏa mãn, không hứng thú trong đó. Cũng như con ngỗng vàng yêu mến rừng núi
bao la, không
thích thú nơi ao hồ
tù túng. Đó, gọi là Vô dục trí.
Ba
loại trí Bố úy, quá hoạn, và vô dục, tuy tên gọi khác nhau, nhưng về
ý nghĩa chỉ là một.
(6) Dục thoát trí: Trí mong muốn
giải thoát khỏi các hành. Khi
hành giả không còn nương tựa bất cứ loại hành nào nữa, mà
mong mỏi giải thoát tất cả hành, thì Dục thoát trí
sinh khởi nơi vị ấy. Như con cá đang vướng trong lưới, con chim đang bị nhốt trong lồng v.v..., tất cả chúng đều mong muốn
được giải thoát.
(7)
Tư duy trí: Cái trí
tư duy về các hành. Khi
tư duy sâu về các hành,
hành giả sẽ thấy 4
đặc tính nổi bật của chúng như sau: Các hành là
vô thường, vì chúng không
liên tục, tạm bợ. Các hành là khổ, vì chúng bị
bức bách khó chịu. Các hành là
bất tịnh vì chúng không đáng ưa, ghê tởm. Các hành là
vô ngã, vì chúng trống rỗng, không có quyền
tự chủ.
Ví như một người giăng lưới để bắt cá nhưng khi thấy lưới bị
dao động, anh ta đưa tay xuống lưới định bắt cá, thì vớ phải một con rắn. Bấy giờ anh ta hoảng sợ, chỉ mong
thoát khỏi sự nguy hiểm đang
đe dọa mình. Khi
tư duy trí khởi lên,
hành giả muốn thoát các hành cũng vậy.
(8)
Hành xả trí: Cái trí
dửng dưng đối với tất cả các hành, gọi là
Hành xả trí. Khi
hành giả đã phân tích các hành bằng những
đặc tính kể trên, sẽ thấy chúng trống rỗng,
vô nghĩa, nên không khiếp sợ, cũng không
thích thú, mà trở nên
dửng dưng, không xem chúng là tôi hay của tôi. Do đó, bản luận ví người ấy như một người đã
ly dị vợ.
Ban đầu người ấy rất
yêu thương vợ về nét yêu kiều khả ái của nàng. Nhưng sau một
thời gian sống chung, anh ta thấy rõ những
lỗi lầm của người
phụ nữ ấy, nên chỉ muốn
thoát ly khỏi cô ta, không xem nàng là vật
sở hữu của mình nữa.
TAM GIẢI THOÁT MÔNBa cửa ngõ hướng đến
giải thoát nầy là
vô tướng,
ly dục và không, như bản luận trình bày:
Khi
hành giả có
đức tin hay
quyết tâm lớn,
tác ý hành là
vô thường, sẽ
đạt được Vô tướng giải thoát . Khi
hành giả có
năng lực tịnh chỉ vững chắc,
tác ý các hành là khổ, sẽ
đạt được vô nguyện giải thoát. Khi
hành giả có tuệ
trong sáng,
tác ý các hành là
vô ngã, sẽ
đạt được không giải thoát (Ps. 2, 58)
Danh từ
Vô nguyện giải thoát ở đây nên được xem
đồng nghĩa với Ly dục giải thoát tức
giải thoát khỏi các
dục vọng. Và trong
Ly dục giải thoát thì
yếu tố định
nổi bật, và trong
Không giải thoát thì
yếu tố tuệ
nổi bật.
BẢY HẠNG
HIỀN THÁNHThông thường các
kinh luận liệt kê hiền thánh thành 7 hạng sau đây: (1)
Tùy tín hành; (2)
Tín giải thoát; (3)
Thân chứng; (4)
Câu phần giải thoát; (5)
Tùy pháp hành; (6) Kiến đáo; (7)
Tuệ giải thoát.
Khi
hành giả tác ý các hành là
vô thường, nhờ đó
tín căn tăng thịnh, và
đạt được Dự lưu đạo, đó gọi là bậc
Tín hành giả.
Cũng thế, khi vị ấy
tác ý các hành là
vô thường, do đó
tín căn tăng thịnh,
chứng đắc Dự lưu quả, đây gọi là
Tín giải thoát. Thế rồi, vị ấy
chứng ngộ Niết bàn bằng kinh nghiệm
bản thân, nên gọi là
Thân chứng. Hơn nữa, vị ấy
đạt được Niết bàn nhờ thấy một cách
thấu triệt, nên gọi là Kiến đáo (hay
Kiến chí). Nhưng nếu vị ấy vận dụng
trí tuệ, nương theo pháp
tu hành thành tựu, thì gọi là
Tùy pháp hành. Thế rồi, vị ấy
đạt được giải thoát cả 2
phương diện, bằng
Thiền vô sắc và bằng
Thánh đạo, thì gọi là
Câu phần giải thoát.
Đồng thời sự giải thoát ấy
đạt được nhờ
liễu tri, tức
trí tuệ, do đó gọi là
Tuệ giải thoát. Đó là khái quát về 7 hạng
hiền thánh.
Trên đây vừa trình bày về 3 cửa hướng đến
giải thoát, và 7 bậc
hiền thánh, cả 2
phạm trù nầy đều thuộc về
Hành xả trí.
Ba
loại trí sau cùng trong 8 trí kể trên, về nghĩa giống nhau, nhưng
tùy theo diễn tiến của nó mà có các tên khác nhau.
Lúc đầu, nó có tên Dục thoát trí, ở chặng giữa nó có tên là
Tư duy trí và ở chặng cuối, nó được gọi là
Hành xả trí. Như vậy, ở giai đoạn một, nó là ước muốn
giải thoát khỏi sanh, v.v... nơi một người đã
ly dục, ước muốn ấy gọi là Dục thoát trí. Tiến sang giai đoạn hai, trí
tư duy để tìm phương
giải thoát, thì gọi là
Tư duy trí. Bước đến
giai đoạn cuối cùng, trí ấy
đạt được giải thoát nhưng không
vướng mắc vào những gì đã
giải thoát nên gọi là
Hành xả trí.
TRÍ
THUẬN THỨKhi
hành giả tu tập, làm cho
sung mãn trí
hành xả, thì
tín lực vị ấy trở nên
quyết định hơn, tấn lực điêu luyện hơn,
định lực an trú hơn,
tâm định tĩnh hơn, còn
hành xả thì
tinh tế hơn. Đó là giai đoạn chuẩn bị. Kế đến, một
tốc hành tâm thứ hai khởi lên, cũng lấy các hành làm đối tượng như thế, đó gọi là Trí
thuận thứ. Trí này cũng có thể gọi là tập hành, chuẩn bị hay cận hành đều được cả.
Đến đây, ta có thể
tóm tắt ý nghĩa của 8 trí như sau:
Sinh diệt trí là trí thấy được sự sinh và diệt của những pháp có
sinh diệt.
Diệt trí hay hoại trí là trí thấy được sự tan rã của các pháp phải bị tan rã. Bố úy trí là trí thấy được
tính chất đáng sợ của các pháp. Quá hoạn trí là trí thấy được sự nguy hiểm của những gì được xem là nguy hiểm.
Ly dục trí là trí thấy được
tính chất của các hành là khổ,
cần phải viễn ly. Dục thoát trí là trí
ước mong giải thoát khỏi những gì
cần phải giải thoát.
Tư duy trí là trí
suy nghĩ về những gì
cần phải suy nghĩ.
Hành xả trí là trí
dửng dưng không
vướng mắc đối với những gì
cần phải xả bỏ.
Ví như một ông vua công chánh ngồi ở pháp đình để nghe những lời
phán quyết của quan tòa, vừa để
trừ khử sự
thiên vị, và giữ
thái độ vô tư. Nhà vua vừa
thuận theo sự
phán quyết của họ, vừa theo
luật pháp đã
quy định. Ở đây trí
thuận thứ ví như nhà vua, 8
loại trí ví như 8 quan tòa và 37 phẩm
trợ đạo ví như luật pháp của
quốc gia.
BÀI HAI MƯƠI HAI
CHƯƠNG XXII:
TRI KIẾN THANH TỊNH(Nanadassana-visuddhi-Niddesa)
Sau phần trình bày về Đạo
tri kiến thanh tịnh, giờ đây đề cập đến
Tri kiến thanh tịnh.
Tri kiến thanh tịnh này sẽ được trình bày qua 2 phần, phần đầu
mô tả khái quát về 4 đạo và 4 quả, phần hai nói đến những pháp
tương ưng với các đạo lộ.
I. BỐN ĐẠO VÀ BỐN QUẢ
1.
Dự lưu đạo (
Dự lưu hướng,
Tu đà hoàn hướng)
Kế tiếp Trí
Thuận Thứ là Trí Chuyển Tánh, trí này
sinh khởi nơi
hành giả, khiến vị ấy ra khỏi
lãnh vực phàm phu,
đi vào dòng Thánh, nghĩa là rời khỏi, sinh, già, bệnh, chết v.v...,
đi vào tịch diệt,
Niết bàn, nên gọi là chuyển tánh. Bản luận
cho biết, Trí
Thuận Thứ có thể xua tan mây mù
phiền não che lấp sự thật nhưng không thể làm cho
Niết bàn hiển lộ.
Trái lại, Trí Chuyển Tánh thì chỉ có thể làm cho
Niết bàn hiển lộ mà lại không thể xua tan mây mù
phiền não che lấp chân lý. Trí Chuyển Tánh nầy thuộc
phạm vi Dựu lưu đạo (hay
Dự lưu hướng). Khi
hành giả đi vào Dự lưu đạo nầy sẽ
từ bỏ được 5 Hạ phần
kiết sử là:
thân kiến, nghi,
giới cấm thủ,
dục tham và sân. Hai
yếu tố sau, chỉ
từ bỏ phương diện thô, nhưng về mặt
vi tế vẫn còn.
Để làm rõ giai đoạn Chuyển Tánh từ phàm đến thánh, bản luận nêu ví dụ: Như một người có mắt ban đêm ra ngoài, ngước lên bầu trời nhìn trăng nhưng không thấy được trăng vì bị mây che phủ. Rồi một ngọn gió nổi lên, thổi tan
đám mây dày, một ngọn khác thổi tan
đám mây mỏng hơn, và một ngon khác nữa làm tan cả những sợi mây
mong manh còn lại. Bấy giờ, người kia mới thấy rõ
mặt trăng ở trên bầu trời không mây. Trong ví dụ trên, 3 loại mây dày, mỏng và mấy sợi
mong manh là ví cho 3 loại
cấu uế dày, trung bình và mỏng
che lấp sự thật. Ba ngọn gió là chỉ cho 3 loại tâm
thuận thứ, và
mặt trăng dụ cho
Niết bàn. Những ngọn gió
tuần tự thổi tan các
đám mây là
ví như các loại tâm
Thuận thứ lần lượt xua tan bóng tối
che lấp chân lý. Thế nhưng, 3 ngọn gió chỉ có thể thổi tan mây
che khuất mặt trăng mà không thể thấy
mặt trăng.
Trái lại, người kia chỉ có thể thấy
mặt trăng mà không thể thổi tan những
đám mây.
Cũng thế, Trí chuyển tánh chỉ có thể thấy
Niết bàn mà không thể dẹp tan
phiền não.
2.
Dự lưu quả (
Tu đà hoàn quả)
Kế tiếp ngay Trí Chuyển Tánh, sẽ khởi lên hai hoặc ba quả tâm. Bấy giờ
hành giả quán sát đạo lộ như sau: "Đây là Đạo lộ ta đã gặp". Tiếp đến,
hành giả quán sát quả như sau: "Đây là sự
an lạc ta đã được". Rồi
quán sát tiếp: "Đây là những
cấu uế ta đã từ bỏ". Lại
tiếp tục quán sát: "Đây là các
cấu uế còn lại trong ta". Và
cuối cùng,
hành giả quán sát Niết bàn bất tử như sau: "Đây là pháp đã được ta thâm nhập". Như vậy, là 5 thứ
quán sát của một bậc thánh đã
đạt được Quả
Dự lưu. Đến đây, vị thánh nầy chỉ còn qua lại
trong vòng sinh tử ở
cõi trời và
cõi người đến 7 lần nữa là tối đa. Thế nên, vị nầy còn được gọi là vị Thất lai.
3.
Nhất lai đạo (
Nhất lai hướng,
Tư đa hàm hướng)
Sau khi
quán sát như trên, vị nầy làm tê liệt (muội lược)
dục tham và
sân nhuế,
đạt đến đạo lộ thứ hai, tức
Nhất lai đạo hay
Nhất lai hướng.
4.
Nhất lai quả (
Tư đà hàm quả)
Sau khi
thành tựu đạo lộ như trên, vị nầy
đạt được quả
Nhất lai và chỉ còn
tái sinh một lần nữa trong
nhân gian mà thôi.
5.
Bất hoàn đạo (
Bất hoàn hướng,
A na hàm hướng)
Tiếp tục quán sát như trên, đến đây vị nầy đoạn tận cả tham (thuộc
Dục giới) và sân, làm cho chúng không còn dư tàn nữa,
đạt được đạo lộ
bất hoàn, tức
Bất hoàn đạo, và cái trí
tương ưng với đạo lộ ấy gọi là
Bất hoàn đạo trí.
6.
Bất hoàn quả (
A na hàm quả)
Các quả tâm theo liền sau trí nầy như đã nói ở trên. Vị nầy sau khi
mệnh chung sẽ
nhập Niết bàn, hay còn lưu cư ở
cõi Tịnh cư thiên, chứ không bao giờ
trở lại cõi
thế gian nầy nữa, và đây là quả
Bất hoàn hay quả
A na hàm.
7.
A la hán đạo (
A la hán hướng)
Đến đây, vị nầy vận dụng
trí tuệ quán sát để đoạn trừ 5 Thượng phần
kiết sử là: Sắc tham,
Vô sắc tham, mạn,
trạo cử và
vô minh, làm cho chúng không còn một chút dư tàn nào nữa,
đạt được A la hán đạo. Vì trí nầy
tương ưng với đạo lộ hướng đến
A la hán, nên gọi là
A la hán đạo trí.
8.
A la hán quả (
Vô sanh quả)
Các quả tâm theo liền
đạo trí vừa nói, và vị nầy
trở thành một bậc thánh đã đoạn tận các
lậu hoặc, thân của vị nầy là thân sau rốt,
gánh nặng đã đặt xuống,
việc làm đã
hoàn tất, đã phá sạch hữu
kiết sử,
đạt được giải thoát viên mãn, xứng đáng nhận được sự
cúng dường tối thượng của
thế gian và
chư thiên. Và
quả vị nầy gọi là quả
A la hán, hay
quả Vô sanh.
Nói chung, các luận thường gọi
đạo quả nầy là
tứ song bát bối (4 đôi, 8 chúng) tức là:
Tu đà hoàn đạo,
Tu đà hoàn quả,
Tư đà hàm đạo,
Tư đà hàm quả,
A na hàm đạo,
A na hàm quả,
A la hán đạo và
A la hán quả.
II. CÁC PHÁP
TƯƠNG ƯNG VỚI ĐẠO LỘ
Bây giờ, để
thẩm định giá trị của
tri kiến thanh tịnh nầy đối với 4
loại trí của nó, có những
vấn đề cần trình bày sau đây: (1) Sự
viên mãn các
bồ đề phần; (2) sự xuất khởi; (3) sự song hành các lực; (4) các pháp cần
từ bỏ; (5)
hành vi từ bỏ chúng; (6) các
nhiệm vụ liễu tri; (7) các
chức năng riêng biệt.
(1) Sự
viên mãn các
bồ đề phần: ở đây, các
bồ đề phần gồm có 37 pháp, đó là: 4
niệm xứ; 4
chánh cần; 4
thần túc; 5 căn; 5 lực; 7
giác chi; và 8
Thánh đạo. Những pháp nầy trợ giúp hay
dự phần vào sự
giác ngộ, nên gọi là
Bồ đề phần.
Trước hết, đề cập đến 4
niệm xứ hay 4 Niệm trú: Trú (patthàna) tức là
an trú, bằng cách
thâm nhập vào những đối tượng nầy hay đối tượng khác. Sự
an trú chính là niệm, nên gọi là niệm trú hay
niệm xứ. Nó
gồm có 4 phương thức
quán niệm là:
quán thân bất tịnh quán thọ là khổ,
quán tâm vô thường và
quán pháp vô ngã.
Hành giả dùng nó làm động cơ để
nỗ lực một cách
chánh đáng, nên gọi là
Chánh cần,
chánh cần cũng tức là
nghị lực. Nó
hoàn tất 4
nhiệm vụ:
Trừ khử những
bất thiện pháp đã sinh;
ngăn ngừa sự
sinh khởi của những pháp
bất thiện; làm
phát khởi những
thiện pháp chưa sinh và
duy trì các
thiện pháp đã sinh.
Bốn
thần túc hay
bốn như ý túc được kể là:
Dục như ý túc;
tinh tấn như ý túc;
nhất tâm (hay niệm)
như ý túc, và
trạch pháp như ý túc. Những
yếu tố này là
tiền đạo trợ giúp
hành giả đạt đến thắng trí, là
căn bản của sự
thành tựu.
Năm căn: Căn là nói theo nghĩa tăng thịnh, hay thắng lướt các pháp
cấu uế như
bất tín,
giải đãi,
thất niệm,
tán loạn và
bất chánh tri. Nó
gồm có 5 thứ là:
tín căn,
tấn căn,
niệm căn,
định căn và
tuệ căn.
Năm lực Tín lực, tấn lực,
niệm lực,
định lực, và
tuệ lực. Căn là nói theo nghĩa làm cơ sở và lực là nói theo nghĩa
tác dụng. Nghĩa là nhờ các căn đó làm chỗ nương tựa mà phát huy được những
hiệu quả hữu ích.
Bảy giác chi: Niệm,
trạch pháp,
tinh tấn, hỉ,
khinh an, định và
hành xả. Chúng được gọi là
Giác chi vì chúng là những
yếu tố giúp cho
hành giả tiến đến
giác ngộ, nên gọi là
giác chi.
Tám thánh đạo hay
Chánh đạo:
Chánh kiến,
Chánh tư duy,
Chánh ngữ,
Chánh nghiệp,
Chánh mạng,
Chánh tinh tấn,
Chánh niệm và
Chánh định. Chúng mang
ý nghĩa: một ngõ ra hay một lối thoát.
Như vậy, các pháp
dự phần vào sự
giác ngộ được kể là 37 pháp, và chúng được xếp theo
phương diện Thần túc, Tín, Định, Tuệ, Niệm và
Tinh tấn như sau: Về
Thần túc gồm có 9: Dục,
nhất tâm, hỉ,
khinh an, xả,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng. Về Tín
gồm có 2 thứ: căn và lực. Về Định gồm 4 thứ: Căn, lực,
giác chi, và
đạo chi. Về Tuệ gồm 5 thứ: tức là 4 thứ trên kèm thêm
như ý túc. Về Niệm gồm 8 thứ: tức 4
niệm xứ, một căn, một lực, một
giác chi và một
đạo chi. Về
Tinh tấn gồm 9 thứ: tức 4
chánh cần, một
như ý túc, một căn, một lực, một
giác chi và
đạo chi.
(2) Sự xuất khởi: Ngoi lên khỏi tướng,
từ bỏ tướng của các hành, làm cho
Niết bàn hiện hữu. Hay, sau khi rời khỏi sinh, nó
đi vào vô sinh, nên gọi là xuất khởi hay chuyển tánh.
(3) Sự song hành các lực: Vào
sát na thâm nhập thánh đạo,
định tuệ song hành, không cái nào thắng lướt cái nào, tức là ở giai đoạn nầy,
chỉ và quán hợp nhất tạo cái thế
quân bình.
(4) Các pháp cần
từ bỏ:
Kiết sử,
phiền não,
tà kiến,
thế gian pháp, tham,
điên đảo,
trói buộc,
tà hạnh,
lậu hoặc,
bộc lưu,
hệ phược,
triền cái,
tà giải,
chấp thủ,
tùy miên,
cấu uế,
bất thiện nghiệp,
tác ý bất thiện.
Kiết sử: Gọi là
Kiết sử, vì chúng
trói buộc các uẩn
trong đời nầy với các uẩn đời
kế tiếp, hay
trói buộc nghiệp với quả, hoặc
trói buộc hữu tình vào
đau khổ, nên gọi là
kiết sử.
Kiết sử gồm có 2 loại là 5 thượng phần
kiết sử: sắc tham,
vô sắc tham, mạn,
trạo cử và
vô minh; và 5 hạ phần
kiết sử:
Thân kiến, nghi,
giới cấm thủ,
dục tham (tham thuộc
dục giới) và sân.
Phiền não: vì
bản thân chúng là
ô nhiễm mà còn làm
ô nhiễm các pháp
tương ưng với chúng nên gọi là
phiền não. Loại này gồm 10 thứ: Tham, sân, si, mạn,
tà kiến, nghi,
hôn trầm,
trạo cử,
vô tàm, vô quí.
Tà kiến: Thấy biết một cách
sai lầm, nên gọi là
tà kiến,
gồm có 8 thứ:
tà tư duy,
tà ngữ,
tà nghiệp,
tà mạng, tà
tinh tấn, tà niệm và
tà định; hoặc là 10 thứ, nếu thêm
tà trí và
tà giải thoát. Chẳng hạn cho rằng
giải thoát là đi đến chỗ tận cùng của
thế giới, đó gọi là
tà giải thoát.
Thế gian pháp: 8 thứ: được, thua, vinh, nhục, vui, khổ, khen, chê, gọi là pháp
thế gian, vì chúng
cứ theo nhau
tiếp diễn khi
thế giới còn
tồn tại.
Tham: Không chịu san sẻ quyền bính,
lợi lộc v.v.. với người khác, gọi là tham. Loại này được kể thành 5 thứ: chỗ ở,
quyến thuộc,
lợi lộc, pháp và tiếng khen.
Điên đảo:
Vô thường cho là thường, khổ cho là vui,
vô ngã cho là ngã,
bất tịnh cho là tịnh, như vậy là
điên đảo,
gồm có 3 thứ:
Tưởng điên đảo, tâm
điên đảo và
kiến điên đảo.
Trói buộc: Vì chúng buộc
tâm lý vào với cái thân
vật lý, nên gọi là
trói buộc,
gồm có 4 thứ: Tham, sân,
giới cấm thủ và
tà giải.
Tà hạnh: Làm những điều lẽ ra không nên làm, và không làm những điều lẽ ra phải làm nên gọi là
tà hạnh,
gồm có 4: tham, sân, si và
sợ hãi.
Lậu hoặc: Vì những
cấu uế nầy
sinh khởi từ các
căn môn không được phòng hộ, như nước từ bình rỉ ra, nên gọi là
lậu hoặc,
gồm có 4 thứ:
Dục tham,
hữu tham,
tà kiến và
vô minh.
Bộc lưu: Nghĩa là cuốn trôi, lùa vào biển
sinh tử, và khó
vượt qua, nên gọi là là
bộc lưu.
Hệ phược: Vì chúng không
cho phép gỡ ra khỏi một đối tượng, hay nỗi
đau khổ, nên gọi là
hệ phược.
Bộc lưu và
hệ phược đều cùng nghĩa với
lậu hoặc.
Triền cái: Chúng làm
chướng ngại và che mờ
tâm thức đối với
thực tại, nên gọi là
triền cái,
gồm có 5 thứ: Tham, sân,
hôn trầm,
trạo cử và nghi.
Tà giải: Vì nó thấy một
tự tính không thực, trái ngược với
tự tính đích thực của các pháp, nên gọi là
tà giải. Nó cùng nghĩa với
tà kiến.
Chấp thủ:
Dục thủ v.v... đã nói đầy đủ trong phần
mô tả về
duyên khởi, chương XVII
Tùy miên: Chúng
tiềm ẩn một cách ngấm ngầm, nên gọi là
tùy miên,
gồm có 7 thứ:
Dục tham, sân, mạn,
tà kiến, nghi,
hữu tham, và
vô minh.
Cấu uế: Vì
bản thân chúng đã
dơ bẩn mà còn làm
dơ bẩn những thứ khác, nên gọi là
cấu uế,
gồm có 3 thứ: Tham, sân và si.
Bất thiện nghiệp: Vì
bản thân chúng là những
việc làm bất thiện, mà chúng còn tạo
điều kiện để dẫn đến
ác thú, nên gọi là
bất thiện nghiệp,
gồm có 10 thứ:
Sát sinh,
trộm cắp,
tà dâm,
ác khẩu,
lưỡng thiệt,
vọng ngôn,
ỷ ngữ, tham, sân và
tà kiến.
Tác ý bất thiện:
Gồm có 12 thứ, 8 tâm gốc ở tham, 2 ở sân và 2 ở si, đã nói ở chương XIV.
(5)
Hành vi từ bỏ: Khi thấy sự nguy hiểm của
cấu uế,
hành giả tìm cách đoạn trừ
tình trạng tập khởi của chúng,
tình trạng ấy là cái nhân của khổ. Khi cái nhân đã
chấm dứt thì quả - tức là nỗi khổ - sẽ
chấm dứt. Đó là phương thức
từ bỏ hay đoạn trừ
nguyên nhân của khổ đau.
(6) Các
nhiệm vụ liễu tri:
Thấu triệt, đoạn trừ,
chứng ngộ và
tu tập.
Cổ đức nêu ví dụ: "Cũng như
ngọn đèn làm 4
nhiệm vụ cùng lúc, là: Đốt cháy tim, xua tan bóng tối, làm
xuất hiện ánh sáng, và
tiêu thụ dầu". Cũng vậy,
đạo trí thể nhập 4
chân lý đồng thời trong một
sát na duy nhất bằng cách:
Thâm nhập khổ đế bằng
thấu triệt,
thâm nhập nguồn gốc của khổ bằng cách đoạn trừ,
thâm nhập đạo bằng sự
tu tập và
thâm nhập diệt bằng
chứng ngộ.
Tóm lại,
đạo trí thấu triệt khổ,
ví như ngọn đèn đốt cháy tim.
Đạo trí đoạn trừ nguồn gốc của khổ,
ví như ánh đèn xua tan bóng tối.
Đạo trí tu tập đạo lộ
ví như cây đèn làm ánh sáng
xuất hiện.
Đạo trí chứng diệt
ví như ngọn đèn tiêu thụ dầu
cho đến hết.
Hành giả quán sát, thấy rõ
nghĩa chân thực của bốn
chân lý qua 16 khía cạnh, tức mỗi đế gồm bốn thứ.
Khổ đế có 4 nghĩa:
bức bách,
hữu vi, đốt cháy và
biến đổi.
Tập đế có 4 nghĩa:
tích lũy, nguồn gốc,
trói buộc và
chướng ngại.
Diệt đế có 4 nghĩa: vượt thoát,
viễn ly,
vô vi và
bất tử.
Đạo đế có 4 nghĩa: lối ra,
nguyên nhân, thấy và
siêu việt.
(7) Các
chức năng riêng biệt: Bản luận nêu ra 18 pháp quán dùng để
đối trị trong khi
tu tập như sau: 1. Quán
vô thường để đoạn trừ thường tưởng. 2. Quán khổ để đoạn trừ
lạc tưởng. 3.
Quán vô ngã để đoạn trừ
ngã tưởng. 4. Quán
ly dục để đoạn trừ
dục tưởng. 5. Quán
ly tham để đoạn trừ
tham trước. 6. Quán diệt để đoạn trừ sinh. 7. Quán
từ bỏ để đoạn trừ
chấp thủ. 8. Quán tan hoại để đoạn trừ cái tưởng nguyên vẹn 9. Quán tiêu vong để đoạn trừ
tích lũy. 10. Quán
biến đổi để đoạn trừ cái tưởng bền chắc. 11. Quán
vô tướng để đoạn trừ các tướng. 12. Quán vô
dục để trừ
dục vọng. 13.
Quán không để đoạn
trừ tà giải. 14. Quán
tăng thượng tuệ để đoạn
trừ tà giải do
chấp thủ. 15. Quán
chánh kiến để đoạn
trừ tà giải do mê mờ. 16. Quán các hành là nguy hiểm để đoạn
trừ tà giải do
bám víu. 17. Quán
tư duy để đoạn
trừ phi tư duy. 18. Quán xả ly để đoạn
trừ tà giải do
trói buộc.
BÀI HAI MƯƠI BA
CHƯƠNG XXIII - NHỮNG
LỢI ÍCH CỦA SỰ TU TUỆ
(Pannābhāvanànisamsa-Niddesa)
Tu tập về Tuệ sẽ
đạt được nhiều
lợi ích, nhưng
tóm tắt có mấy điểm sau: (1) Tẩy trừ các
phiền não; (2) Nếm vị ngọt của
thánh quả; (3) Có khả năng
chứng đắc Diệt tận định; (4) Xứng đáng được
cúng dường.
(1) Tẩy
trừ phiền não: Một trong những
lợi ích của
tu tập tuệ thuộc
thế gian là tẩy trừ các
phiền não, mà khởi đầu là
thân kiến, như
bài kệ sau đây
mô tả:
"Như sét đánh tan tảng đá
Như gió tạt lửa cháy rừng
Như
mặt trời xua bóng tối
Cũng vậy, tuệ được
tu tậpSẽ đoạn tận
rừng phiền nãoLà nguồn gốc mọi khổ sầu".
(2) Nếm vị ngọt của
thánh quả: Tuệ được
tu tập còn có
lợi ích là hưởng được vị ngọt của
thánh quả. Vị ngọt nầy được nếm khi tuệ
sinh khởi trong lộ trình
đạo tâm và quả tâm. Quả nầy vượt ra ngoài tầm của
phàm phu, chỉ có bậc thánh mới
chứng đắc. Mỗi vị thánh đều có quả riêng
tùy theo công hạnh của mình. Cũng như vị vua
thưởng thức sự
hoan lạc của bậc đế vương,
chư thiên thưởng thức thiên lạc, còn các bậc thánh thì
thưởng thức thánh lạc
siêu thế. Thánh lạc nầy
đạt được bằng cách: Không
tác ý một đối tượng nào ngoài
Niết bàn mà chỉ
tác ý đến
Niết bàn. Một
bài kệ mô tả:
"Người trí
tu tập tuệ
Sẽ nếm được thánh lạc
Niềm phước lạc
vô songDo
thánh quả đem lại."
(3) Có thể
chứng đắc Diệt tận định:
Lợi ích của sự
tu tập tuệ không những hưởng được hương vị của
thánh quả, mà còn có thể chứng
diệt thọ tưởng định.
Có mấy
vấn đề cần
giải thích sau đây: a. Chứng diệt là gì? b. Ai chứng? c. Ai không chứng?. d. Ở đâu có thể chứng diệt? đ. Tại sao chứng? e. Sự
chứng đắc phát sanh như thế nào? g. Làm thế nào để kéo dài nó? h. Sự
xuất định xảy ra như thế nào? i. Tâm của người xuất
diệt định hướng về cái gì? k. Người chứng
Diệt định và người chết khác nhau thế nào? l.
Diệt định là
hữu vi hay vô vi?
a. Chứng diệt là gì? Là sự
chấm dứt,
không sinh khởi nữa của tâm và
tâm sở.
b. Ai chứng Diệt định? Những bậc
Bất hoàn và những vị đã đoạn tận các
lậu hoặc.
c. Ai không chứng? Những người
phàm phu không thể chứng được.
d. Ở đâu có thể chứng Diệt? Ở hữu 5 uẩn có thể chứng Diệt, vì cần có sự
chứng đắc liên tục các
thiền chứng.
đ. Tại sao chứng?
Tại vì thấm mệt với sự sinh và diệt của các hành, nên những vị ấy
đạt đến Diệt định.
e. Sự
chứng đắc xảy ra như thế nào?
Hành giả nỗ lực tinh cần cả 2
phương diện chỉ và quán, tức định và tuệ, sẽ làm cho
chấm dứt tâm
Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và đắc
Diệt định.
Một
hành giả khi đã đắc
Diệt định, nếu
khởi tâm như sau: "Trong
phạm vi 7 ngày hãy để cho những vật kia không bị lửa cháy, nước trôi v.v..." thì
trong vòng 7 ngày, những vật ấy
hoàn toàn không bị
phương hại tí nào. Hoặc vị ấy muốn
nhập định trong một
thời gian nào đó, rồi sẽ
xuất định, thì sau khi đã
quyết định và
ngồi kiết già nhập định, vị ấy sẽ
xuất định đúng
thời gian mình đã
dự kiến.
g. Làm thế nào để kéo dài Diệt định? -
Hành giả muốn kéo dài
thời gian bao lâu thì phải lấy
quyết định trước khi
thiền tọa.
h. Sự
xuất định xảy ra như thế nào? Sự
xuất định xảy ra theo 2 cách: nhờ
chứng quả Bất hoàn trong
trường hợp một vị
Bất hoàn; hoặc nhờ
chứng quả A la hán, trong
trường hợp vị
A la hán.
i. Tâm của người xuất
Diệt định hướng về cái gì? Tâm của vị nầy hướng về
Niết bàn.
k. Người chứng
Diệt định và người chết khác nhau thế nào? - "Khi một Tỳ khưu chết thì
thân hành hoàn toàn chấm dứt,
tịnh chỉ; ngữ hành và ý hành
cũng thế, mạng sống
kết thúc, các căn hư hoại.
Trái lại, khi một Tỳ khưu
nhập diệt định, dù
thân hành, ngữ hành và ý hành
hoàn toàn chấm dứt,
tịnh chỉ, nhưng
thọ mạng chưa tận,
hơi thở chưa dứt và các căn còn nguyên vẹn." (M. I, 296). Một đoạn kinh khác trình bày thêm: Nơi một người đắc
nhị thiền, ngữ hành là tầm và tứ được
hoàn toàn tịnh chỉ. Nơi một người đắc
tứ thiền,
thân hành là
hơi thở vô
hơi thở ra được
hoàn toàn tịnh chỉ. Nơi một vị đắc Diệt thọ tưởng, ý hành là thọ (
cảm giác) và tưởng (
tri giác) được làm cho
hoàn toàn tịnh chỉ.
l.
Diệt định là
hữu vi hay vô vi? Không thể xếp loại nó là
hữu vi hay
vô vi,
thế gian hay
xuất thế gian, vì nó không có
tự tánh.
(4) Xứng đáng được
cúng dường:
Lợi ích của sự
tu tập tuệ không những có khả năng chứng
Diệt tận định mà còn là
ruộng phước của
thế gian, xứng đáng được
nhân loại và
chư thiên cúng dường.
Ở đây, cần nói thêm về
tình trạng của 4
đạo quả. Khi
hành giả đạt được đạo lộ thứ nhất, tức
Tu đà hoàn thì chỉ còn
tái sinh tối đa 7 lần nữa trong
thế gian mà thôi. Nhưng nếu vị ấy có nhiều
thiện duyên, được sinh vào một
gia đình thánh thiện, thì có thể
tái sinh 3 hay 2 lần nữa. Hoặc vị ấy có tuệ sắc bén, cũng có thể
tái sinh một lần nữa trong
nhân gian, rồi
chấm dứt khổ đau.
Trường hợp đạo lộ thứ hai, tức bậc
Nhất lai thì chỉ
trở lại thế gian này
một lần nữa và
chấm dứt khổ đau.
Trường hợp đạo lộ thứ ba, tức
Bất hoàn, nghĩa là vị này không còn
trở lại thế gian nữa. Nhưng vị này sau khi sinh lên
cõi Tịnh cư thiên, có 5
trường hợp xảy ra: (1)
Nhập Niết bàn ngay khi vừa mới sinh lên; (2)
Nhập Niết bàn khi đã
trải qua nửa
cuộc đời; (3) Nhờ có
thiện hữu tri thức nhắc nhở mới
nhập Niết bàn; (4) Hoặc
nhập Niết bàn không cần ai nhắc nhở; (5) Hoặc
tuần tự đi đến cõi thứ 5
cuối cùng của
Tịnh cư thiên, rồi đạt
Niết bàn tại đây.
Trường hợp tu tập đạo lộ thứ tư, tức bậc
A la hán: Vị này
trở thành một bậc
Tín giải thoát,
Tuệ giải thoát,
Câu phần giải thoát,
đạt được ba minh, sáu thông, đoạn
tận lậu hoặc, đắc
vô ngại giải, xứng đáng hưởng sự
cúng dường của trời và người.
KẾT LUẬNBộ
Thanh Tịnh Đạo Luận gồm 3 quyển, do vị
cao tăng Phật Âm (Buddhaghosa) người
Ấn Độ trước tác khoảng giữa thế kỷ thứ 5, và được đưa vào
Đại tạng kinh thuộc
Nguyên Thủy, quyển 62-64. Đây là một bộ luận
trọng yếu thuộc
Phật giáo Nguyên Thủy.
Gần đây, nó được
Thủy Dã Hoằng Nguyên người
Nhật bản dịch ra Nhật văn (1937- 1940), Diệp Quân (
Liễu Tham) dịch ra Hán văn và xuất bản năm 1987.
Đồng thời,
Trưởng lão Nànamoli cũng đã dịch ra Anh văn và xuất bản tại Colombo Ceylon, năm 1956.
Trọn bộ luận gồm 23 chương, nhằm
giải thích giáo nghĩa của
Trưởng lão bộ phái, thứ tự tổ chức và nội dung
tương tự như
Giải thoát Đạo luận (do Upatissa soạn khoảng thế kỷ thứ III), nhưng bên trong có xen những lời luận biện về
kiến giải của sách ấy. Bản luận trình bày theo thứ tự Giới, Định và Tuệ. Chương 1 và 2 luận về Giới. Từ chương 3 đến 13 luận về Định, trình bày khúc chiết các
phương pháp tu tập một cách có
hệ thống. Chương 14 đến 23 luận về Tuệ. Trong đây, từ chương 14 đến 17 chủ yếu
mô tả về 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, 24 duyên, 5 .
Ngoài ra, còn bàn tổng quát về 3 tướng
vô thường, khổ, và
vô ngã. Các chương còn lại luận về các
tuệ quán thanh tịnh một cách rất tinh mật. Trước và sau sách, có bài tự thuật về
nhân duyên tạo luận và dùng 3
vô lậu học Giới Định Tuệ như
con đường đạt đến Niết bàn làm lời
kết luận.
Quyển sách này là một luận thư có
quyền uy tối cao đối với
phật giáo Nguyên Thủy. Nội dung của nó
ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể
so sánh ngang với bộ
Đại Tỳ Bà Sa luận của
Thượng Toạ Hữu bộ. Nhà
Phật học Ái Đức Hoa
nhận xét: "Thanh
Tịnh Đạo luận là một
tác phẩm kinh điển vĩ đại nhất về
phương diện tâm linh của
nhân loại.
Tính chất trọng yếu của nó có thể
xem như một mô hình
văn học tiêu biểu để cho các nhà
học giả quốc tế dùng làm cơ sở."
Tóm lại, bộ luận này dùng ba
vô lậu học làm nhân tố để
tu tập quán chiếu về
tính chất vô thường, khổ,
vô ngã của
vạn pháp, hầu
đạt đến kiến thanh tịnh và
tâm thanh tịnh, tức
Niết bàn tịch diệt.
KINH SÁCH
THAM KHẢO 1. The Path of Purification, Bhikkhu Nànamoli dịch, xb. tại Colombo Ceylon, 1956.
2.
Thanh Tịnh Đạo,
Thích Nữ Trí Hải dịch từ Anh sang Việt, xb. tại Hoa kỳ 1991.
3. Kinh:
Trường Bộ,
Trung Bộ,
Tăng Chi Bộ,
Tương ưng Bộ,
Pháp Cú.
4.
Thanh Tịnh Đạo,
Ngộ Đạo dịch (Phần Giới và Tuệ)
[1] Ở
vào khoảng 10 cây số về hướng Nam của thành phố Gaya
hiện đại ngày nay trong vùng Biharu.
[2] Kinh
Phệ đà, là cỗi gốc của giới
Bà La Môn và là suối nguồn của nền
văn minh Ấn Độ. Veda có nghĩa là "tri thức". Trong kinh có những bản tụng ca để
ca ngợi các vị thần, như thần lửa, thần núi, thần sông... Phần lớn
ca tụng những vẻ đẹp huy hoàng, tưng bừng và
mầu nhiệm của cuộc sống trong
vũ trụ.
[3]Thức-xoa-ma-na
[4]
Tiểu bộ kinh, Đạt thông đạo, 31-64.
[5]
Trường bộ kinh, giới uẩn, 9-55.