PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Tác gỉa Đòan Trung Còn
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải - Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
PHẨM THỨ IV: ĐỊNH VÀ TUỆ
Sư dạy chúng rằng: “Các vị
thiện tri thức!
Pháp môn này của ta lấy định và tuệ làm gốc.
Đại chúng đừng
mê lầm cho rằng định và tuệ khác nhau. Định và tuệ là
một thể, chẳng hai. Định là
thể tánh của tuệ. Tuệ là chỗ dụng của định. Trong lúc có tuệ thì định ở nơi tuệ, trong lúc có định thì tuệ ở nơi định. Rõ được nghĩa ấy, tức là việc
tu tập định tuệ đều như nhau. Người
học đạo chớ nói có
tu thiền định trước rồi mới phát ra
trí tuệ,
hoặc trước có
trí tuệ rồi sau mới tu được
thiền định, cho là hai thứ khác nhau. Hiểu theo cách đó thì pháp có hai tướng, miệng nói thiện, trong
tâm bất thiện, không có
định tuệ, hoặc
định tuệ chẳng
bình đẳng như nhau. Còn nếu tâm và miệng đều thiện, trong ngoài như một, thì
định tuệ tức thì
bình đẳng như nhau. Tự hiểu đạo mà
tu hành, chẳng ở chỗ
tranh biện. Nếu
tranh biện trước sau Tức là
tranh biện việc định có trước hay tuệ có trước, theo ý như trên. là đồng với người mê, chẳng thể quyết đoán hơn thua, chỉ tăng thêm
ngã chấp,
Ngã chấp:
cố chấp cho rằng có một
bản ngã của riêng mình, từ đó nảy sinh sự
bảo vệ, đề cao
bản ngã không thật đó mà sinh ra đối nghịch với
vạn pháp. chẳng rời khỏi bốn tướng.
Ngã tướng,
nhân tướng,
chúng sanh tướng,
thọ giả tướng.
“Các vị
thiện tri thức! Lấy gì
so sánh tương quan giữa định và tuệ? Có thể
so sánh như
ngọn đèn và ánh sáng vậy. Có đèn thì sáng, không đèn thì tối. Đèn là
thể tánh của sáng, sáng là chỗ dụng của đèn. Tên gọi tuy hai mà thể vốn là một. Nói về
pháp định tuệ cũng giống như vậy.”
Sư dạy chúng rằng: “Các vị
thiện tri thức!
Nhất hạnh Tam-muội nghĩa là bất kỳ ở nơi đâu, đi đứng nằm ngồi đều
thường hành tâm
chuyên nhất chánh trực.
Kinh Tịnh Danh nói: ‘Lòng ngay thẳng là
đạo tràng, lòng ngay thẳng là
Tịnh độ.’ Chớ nên trong lòng
tà vạy mà ngoài miệng nói lời
chánh trực, hoặc miệng nói
Nhất hạnh Tam-muội mà lòng không
chánh trực. Chỉ chuyên giữ một lòng ngay thẳng, đối với các pháp đừng nên
chấp trước. Người
mê chấp trước pháp tướng, chấp cả
Nhất hạnh Tam-muội, nên nói: ‘Ngồi yên chẳng động,
hư vọng chẳng khởi trong tâm là Nhất-hạnh Tam-muội.’ Kẻ hiểu như vậy cũng đồng như vật vô tình, chính là
nguyên do chướng đạo.
“Các vị
thiện tri thức! Đạo nên
lưu thông, vì sao lại ngăn trệ? Tâm chẳng trụ nơi pháp, đạo liền
lưu thông. Tâm trụ nơi pháp, ấy là tự trói lấy mình.
“Nếu nói
ngồi yên chẳng động là đúng, ấy chỉ như Xá-lỵ-phất
ngồi yên trong rừng bị Duy-ma-cật
chê trách.
Kinh Tịnh Danh có ghi chuyện Xá-lỵ-phất
ngồi thiền trong rừng,
cư sĩ Duy-ma-cật đến, nhân đó mà thuyết về
ý nghĩa ngồi thiền của
đại thừa.
“Các vị
thiện tri thức! Lại có người dạy ngồi xem tâm, quán tĩnh, chẳng động, chẳng khởi, coi đó là
công phu. Người mê chẳng hiểu,
thực hành theo mà thành
điên đảo. Nhiều người bắt chước như vậy, rồi truyền dạy nhau, thật là lầm to.”
Sư dạy chúng rằng: “Các vị
thiện tri thức!
Chánh giáo xưa nay vốn không đốn, tiệm. Tánh người tự có
lanh lợi, khờ khạo. Người mê tu theo pháp tiệm, người tỉnh hợp với phép đốn. Tự biết được
bản tâm, thấy được
bản tánh, tức không sai khác chi nhau. Vì thế, lập ra đốn, tiệm chỉ là tên gọi giả tạm.
“Các vị
thiện tri thức!
Pháp môn này
xưa nay trước lập không niệm làm tông,
không tướng làm thể, không trụ làm gốc.
Không tướng là ở nơi tướng mà
lìa tướng. Không niệm là trong chỗ
nghĩ tưởng mà không
nghĩ tưởng. Không trụ là
bản tánh của người đối với những điều
lành dữ, tốt xấu ở
thế gian,
cho đến với kẻ oán, người thân, những lúc nói năng, đụng chạm,
châm chọc, khinh khi,
tranh giành đều
xem như không, chẳng nghĩ chuyện thù hại.
“Trong mỗi niệm tưởng, chẳng
suy nghĩ chuyện qua rồi. Nếu như niệm tưởng đã qua, niệm tưởng bây giờ và niệm tưởng sắp đến cứ nối nhau chẳng dứt, ấy gọi là
trói buộc. Đối với các pháp, niệm tưởng chẳng trụ vào đâu cả, tức là không
trói buộc. Đó là lấy không trụ làm gốc.
“Các vị
thiện tri thức! Lìa hết thảy
hình tướng, gọi là
không tướng. Lìa được
hình tướng,
Pháp thể tất nhiên
thanh tịnh. Đó là lấy
không tướng làm thể.
“Các vị
thiện tri thức! Đối với cảnh
tâm không đắm nhiễm là không niệm. Trong mọi niệm tưởng thường lìa khỏi cảnh, không đối cảnh mà sanh tâm. Nếu chỉ dứt
nghĩ tưởng đến muôn vật, trừ cho tận hết
tư tưởng;
tư tưởng vừa dứt
tức thời mạng dứt, thọ sanh
nơi khác, ấy là lầm to. Kẻ
học đạo nên
suy xét chỗ đó. Nếu chẳng rõ ý pháp, đã tự mình
sai lầm, sau lại còn dắt dẫn người khác. Tự mình ngu mê chẳng thấy, lại chê bai kinh Phật. Đó là lập không niệm làm tông.
“Các vị
thiện tri thức! Vì sao lập không niệm làm tông? Chỉ bởi người mê miệng nói thấy tánh, mà khi đối cảnh liền khởi niệm, từ niệm ấy khởi ra
tà kiến. Hết thảy
trần lao vọng tưởng đều do
vậy mà sanh.
Tự tánh vốn không một pháp có thể đắc. Nếu có chỗ đắc,
hư dối luận chuyện
họa phước, chính là
trần lao tà kiến.
Vì vậy nên lập không niệm làm tông.
“Các vị
thiện tri thức! Nói không đó, là không những gì? Niệm, là niệm việc gì? Không là không có hai tướng, không có
tâm trần lao. Niệm là niệm
bản tánh chân như.
Chân như là thể của niệm. Niệm là dụng của
chân như.
Tự tánh chân như khởi ra niệm, chẳng phải mắt, tai, mũi, lưỡi có thể niệm được.
Chân như có tánh nên khởi ra niệm.
Nếu không có
chân như, thì tai mắt, màu sắc,
âm thanh tức thời hoại mất.
“Các vị
thiện tri thức!
Tự tánh chân như khởi ra niệm. Sáu căn tuy có thấy, nghe,
nhận biết, mà không đắm nhiễm nơi cảnh,
chân tánh thường
tự tại. Cho nên Kinh nói: ‘Khéo biết
phân biệt tất cả các pháp, với
nghĩa chân thật chẳng hề lay động.’” Câu này dẫn Kinh Duy-ma: “Năng thiện
phân biệt chư pháp tướng, ư
đệ nhất nghĩa nhi
bất động.”