PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Tác gỉa Đòan Trung Còn
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải - Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
PHẨM THỨ III: NGHI VẤN
Một ngày kia, Vi Thứ sử
thiết lập hội trai
cúng dường Sư. Thọ trai xong, Thứ sử thỉnh Sư lên tòa, rồi cùng các
vị quan liêu và sĩ thứ
nghiêm trang lễ bái mà thưa hỏi rằng: “Đệ tử nghe
Hòa thượng thuyết pháp, thật chẳng thể nghĩ bàn. Nay có chút lòng nghi, xin
Hòa thượng đại từ bi vì chúng
đệ tử mà
giảng giải.”
Sư nói: “Có điều nghi cứ hỏi, ta sẽ
giảng thuyết cho.”
Vi công thưa: “Giáo thuyết của
Hòa thượng có phải là
tông chỉ của Đạt-ma
Đại sư chăng?” Sư đáp: “Đúng vậy.”
Vi công nói: “Đệ tử nghe chuyện Đạt-ma thuở xưa
giáo hóa cho
Lương Võ Đế. Vua hỏi: ‘Một đời trẫm cất chùa,
cúng dường tăng,
bố thí, làm chay, có
công đức gì không?’ Đạt-ma đáp: ‘Thật không
công đức gì.’
Đệ tử chưa hiểu lẽ ấy, xin
Hòa thượng giảng giải cho.”
Sư đáp: “Thật không có
công đức. Đừng
nghi ngờ lời của bậc Thánh đời trước. Võ Đế lòng mê, chẳng rõ
pháp chánh. Cất chùa,
cúng dường tăng,
bố thí, làm chay, gọi là cầu phước. Không thể lấy phước ấy mà xem là
công đức.
Công đức ở nơi
Pháp thân, chẳng phải ở sự
tu phước.”
Sư lại nói: “Thấy tánh là công,
bình đẳng là đức. Mỗi niệm tưởng không ngăn ngại, thường thấy
bản tánh,
chân thật diệu dụng, gọi là
công đức. Trong lòng khiêm nhượng là công,
việc làm theo lễ là đức.
Tự tánh sanh ra muôn pháp là công, tâm lìa
vọng niệm là đức. Chẳng rời
tự tánh là công,
ứng dụng mà không đắm nhiễm là đức. Muốn tìm
Pháp thân công đức, cứ nương theo đó mà làm, ấy là
công đức chân thật. Nếu người
tu công đức thì lòng chẳng khinh mạn, thường
cung kính hết thảy. Lòng hay khinh người, tánh tự tôn chẳng dứt là tự mình không có công, tánh
hư vọng chẳng thật là tự mình không có đức. Vì tánh tự
đại tự tôn, nên thường khinh hết thảy.
“Các vị
thiện tri thức!
Chánh niệm không
gián đoạn là công; trong tâm công bình,
chánh trực là đức. Tự
tu tánh mình là công, tự
tu thân là đức.
“Các vị
thiện tri thức!
Công đức nên nhìn từ trong
tự tánh, không phải do
bố thí,
cúng dường mà cầu được. Bởi vậy,
phước đức với
công đức khác nhau. Võ Đế chẳng biết
chân lý, không phải lỗi nơi
Tổ Sư ta.”
Quan Thứ sử lại hỏi: “Đệ tử thường thấy người
xuất gia,
tại gia niệm Phật A-di-đà, cầu sanh
Tây phương. Xin
Hòa thượng vì trừ chỗ
nghi ngờ mà giảng cho việc có được sanh về nơi ấy hay không.”
Sư nói: “Sứ quân hãy lắng nghe
Huệ Năng giảng giải việc ấy.
Đức Thế Tôn nơi thành Xá-vệ thuyết việc sanh về
Tây phương, Kinh nói
rõ ràng đến đó không xa. Nếu theo cách nói về
hình tướng, thì số dặm là qua mười muôn ức cõi, chính là nói
mười điều ác ngăn trở trong thân người, nên nói là xa. Nói xa, là với những kẻ
căn cơ thấp kém. Nói gần, là với những bậc thượng trí.
“Người có hai loại,
pháp không hai đường. Mê, ngộ khác nhau, chỗ
hiểu biết có mau, chậm. Người mê
niệm Phật cầu sanh
Tây phương, người ngộ chỉ tự làm tâm tịnh. Cho nên Phật nói: ‘Tùy tâm mình tịnh, tức
cõi Phật tịnh.’ Sứ quân! Người phương Đông, chỉ cần tâm tịnh tức là không có tội. Dù là người phương
Tây Phương Đông là chỉ cõi Ta-bà này, phương Tây là chỉ cõi
Cực Lạc của Phật A-di-đà. mà tâm chẳng tịnh cũng có lỗi. Người phương Đông tạo tội,
niệm Phật cầu sanh phương Tây. Người phương Tây tạo tội, biết
niệm Phật cầu sanh cõi nào? Người ngu chẳng hiểu
tự tánh, không biết có
cõi Tịnh độ trong thân, mới nguyện Đông, nguyện Tây. Người ngộ dù ở đâu cũng vậy. Cho nên Phật nói: ‘Tùy chỗ mình ở mà thường an vui.’ Sứ quân! Chỉ cần tâm thiện thì
Tây phương chẳng xa. Nếu giữ hoài
tâm bất thiện,
niệm Phật cũng khó
vãng sanh.
“Nay khuyên các vị
thiện tri thức: Trước trừ
mười điều ác, tức là qua được mười muôn cõi nước, trừ được mười sự ác chướng ngăn che. Mỗi niệm thường thấy tánh, thường làm chuyện
công bằng,
chánh trực, thì đến nơi như búng móng tay, liền thấy Phật Di-đà. Sứ quân! Chỉ cần làm
mười điều lành, cần gì phải nguyện vãng sanh? Nếu tâm chẳng dứt
mười điều ác, Phật nào đến rước? Nếu ngộ pháp
Vô sanh Đốn giáo, thì thấy
Tây phương ngay trong giây lát. Chẳng ngộ,
niệm Phật cầu sanh, đường xa làm sao mà đến?
Huệ Năng sẽ vì chư vị, dời
Tây phương về
trước mắt trong giây lát.
Mọi người muốn thấy hay chăng?”
Mọi người đều
đảnh lễ, bạch rằng: “Nếu tại đây được thấy, cần chi phải nguyện
vãng sanh. Xin
Hòa thượng từ bi hiện cõi
Tây phương cho
chúng tôi được thấy.”
Sư nói: “Này đại chúng! Người đời,
sắc thân là thành quách, mắt, tai, mũi, lưỡi đều là cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi đất, tánh là vua. Vua ở trên đất tâm. Tánh còn thì vua còn, tánh đi thì vua mất. Tánh còn thì
thân tâm còn, tánh đi thì
thân tâm hoại. Phật do trong tánh khởi lên, đừng cầu tìm ở bên ngoài.
“Tự tánh ngu mê là
chúng sanh,
tự tánh giác ngộ là Phật.
Từ bi là
Quán Âm.
Hỷ xả là
Thế Chí. Thường tịnh tức Thích-ca. Bình trực là Di-đà. Tâm
chấp ngã là núi Tu-di, tâm tà là biển cả.
Phiền não là sóng cuộn.
Độc hại là rồng dữ.
Hư vọng là
quỉ thần.
Trần lao là cá trạnh. Tham sân là
địa ngục,
ngu si là
súc sanh.
“Các vị
thiện tri thức! Thường làm
mười điều lành thì
thiên đường tự đến. Trừ tâm
chấp ngã thì làm đổ núi Tu-di. Bỏ tâm tà thì biển cả khô cạn.
Phiền não không còn thì sóng cuộn phải yên,
độc hại quên đi thì cá, rồng phải diệt. Tự trong
tâm địa là tánh
giác Như Lai, phóng ánh
đại quang minh, chiếu ra sáu cửa đều
thanh tịnh, phá được các
cõi trời Lục dục.
Lục dục chư thiên:
Sáu cảnh trời thuộc trong
cõi Dục giới:
Tứ thiên vương thiên, Đao-lỵ thiên (cũng gọi là
Tam thập tam thiên), Dạ-ma thiên,
Đâu-suất thiên,
Lạc biến hóa thiên,
Tha hóa tự tại thiên.
Tự tánh soi chiếu bên trong,
ba độc Ba độc: tham, sân, si. liền trừ, các tội
địa ngục đồng thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng rỡ chẳng khác
Tây phương. Còn
nếu không tu hành như vậy, làm sao tới được nơi đó?”
Đại chúng nghe
giảng thuyết,
rõ ràng thấy tánh, cùng nhau
lễ bái,
xưng tán, nguyện rằng: “Lành thay! Nguyện cho hết thảy
chúng sanh nghe được pháp này đều
tức thời tỏ ngộ.”
Sư nói: “Các vị
thiện tri thức! Nếu muốn
tu hành,
tại gia cũng tu được, không
nhất thiết phải đến ở chùa.
Tại gia thường
tu hành, như người phương Đông mà tâm thiện. Ở chùa chẳng
tu hành, như người phương Tây mà tâm ác. Chỉ giữ
tâm thanh tịnh, tức là
tự tánh Tây phương.”
Vi công lại hỏi: “Tại gia
tu hành như thế nào? Xin
Đại sư chỉ dạy
cho biết.”
Sư đáp: “Ta thuyết với
đại chúng bài tụng ‘Vô tướng’. Chỉ theo đó mà tu, như thường ở bên ta. Nếu chẳng theo đó mà tu, dầu
cạo tóc xuất gia, có ích gì cho đạo?”
Tụng rằng:
•
Tâm bình đẳng cần chi trì giới?
• Hạnh chánh trực há đợi tu thiền?
• Ân thời hiếu dưỡng mẹ cha,
• Nghĩa thời kính trên, nhường dưới.
•
• Nhường nhịn, trên dưới thuận hòa,
• Nhẫn nhục, chuyện dữ lắng yên.
• Nếu biết lấy lửa ở cây, Muốn lấy lửa ở cây thì phải cọ hai khúc cây một cách mạnh mẽ, không ngừng nghỉ, cho tới chừng được lửa mới thôi. Tu hành cũng như thế, phải tinh tấn mãi mà diệt các sở dục thì mới đắc quả.
• Bùn nhơ nở đóa sen hồng. Sen tuy từ dưới bùn sình mà mọc lên, nhưng không ô nhiễm; người tu thành đạo cũng từ trong cõi ác trược mà thoát ra.
• Đắng miệng mới là thuốc tốt,
• Lời ngay ắt phải chướng tai.
• Sửa lỗi, trí tuệ tất sanh,
• Điều xấu giấu che chẳng tốt.
• Hằng ngày làm việc lợi ích,
• Đạo thành chẳng do thí tiền.
• Bồ-đề chỉ tự trong tâm,
• Nhọc chi hướng ngoại cầu tìm?
• Nghe thuyết, y vậy tu hành,
• Thiên đường hiện ngay trước mắt.Sư lại nói: “Các vị
thiện tri thức!
Mọi người nên
y theo kệ ấy mà tu, sẽ thấy được
tự tánh, thẳng đến quả Phật. Các pháp chẳng chờ đợi nhau. Các ngươi nên giải tán đi, ta về
Tào Khê. Nếu có
điều chi nghi ngờ, cứ đến đó hỏi.”
Khi ấy, Thứ sử và quan liêu,
thiện nam,
tín nữ tại hội đều được
khai ngộ, tin
lãnh giáo thuyết, kính cẩn theo đó
thực hành.