PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Tác gỉa Đòan Trung Còn
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải - Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
PHẨM THỨ II: BÁT - NHÃ
Hôm sau, Vi sứ quân lại thỉnh
thuyết pháp nữa. Sư lên tòa, bảo
đại chúng: “Mọi người nên
tịnh tâm niệm câu: Ma-ha
Bát-nhã Ba-la-mật-đa.” Đây là một câu phiên âm tiếng Phạn, trong kinh Bát-nhã. Theo Hán dịch là “Đại
trí tuệ đáo bỉ ngạn.” Việt dịch là “Trí tuệ lớn tới được
bờ bên kia.”
Rồi Sư dạy rằng: “Các vị
thiện tri thức!
Thiện tri thức: Bạn tốt, người có
hiểu biết.
Đại thiện tri thức, tiếng tôn xưng người có
trí tuệ và
đức độ lớn. Trí Bát-nhã Bồ-đề, người đời vốn tự có. Chỉ bởi tâm mê, không thể tự thấy, nên phải nhờ bậc
đại thiện tri thức chỉ ra mới thấy tánh. Nên biết rằng, người ngu kẻ trí đều sẵn có tánh Phật, chẳng khác chi nhau. Chỉ bởi mê, ngộ Mê thì Phật là
chúng sanh, ngộ thì
chúng sanh là Phật. chẳng đồng nhau, cho nên mới có người ngu, kẻ trí. Nay ta vì chư vị
giảng pháp Ma-ha
Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho
mọi người đều được
trí tuệ. Hãy
chú tâm nghe cho kỹ!
“Các vị
thiện tri thức! Người đời cả ngày miệng niệm Bát-nhã mà chẳng biết Bát-nhã là
tự tánh của mình. Cũng như chỉ nói ăn, thật chẳng được no. Miệng chỉ nói lẽ không, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, rốt thật chẳng
ích lợi gì.
“Các vị
thiện tri thức! Ma-ha
Bát-nhã Ba-la-mật là tiếng Phạn, nghĩa là
Trí tuệ lớn tới
bờ bên kia. Việc ấy
do nơi thực hành ở tâm, chẳng do miệng niệm. Miệng niệm mà tâm chẳng
thực hành, cũng
như huyễn hóa, như sương móc, điện chớp. Miệng niệm, tâm
thực hành, tất nhiên tâm với miệng hợp nhau;
bản tánh là Phật, lìa tánh ra không có Phật nào khác.
“Sao gọi là Ma-ha? Ma-ha nghĩa là lớn.
Tâm lượng rộng lớn như
hư không, không bờ bến. Cũng không vuông tròn, lớn nhỏ, không xanh vàng đỏ trắng. Cũng không trên dưới, ngắn dài. Cũng không giận, mừng, phải, quấy; không
lành dữ, không đầu đuôi,
cho đến các cõi
thế giới chư Phật đều là
hư không. Tánh
linh diệu của người đời vốn là không, không một pháp nào có thể đắc.
Tự tánh của
chân không, lại cũng như vậy.
“Các vị
thiện tri thức! Cũng đừng nghe ta thuyết không mà liền chấp lấy lẽ không. Đây là điều quan trọng nhất. Nếu lấy
tâm không mà
ngồi thiền, tức
vướng mắc vào chỗ
tâm không không nghĩ nhớ.
“Các vị
thiện tri thức! Cõi
thế giới hư không bao hàm thể sắc,
hình tượng muôn vật:
mặt trời,
mặt trăng,
tinh tú, núi sông, đất đai, suối nguồn, khe rạch, cỏ cây, rừng rậm, kẻ ác, người hiền, pháp lành, pháp dữ,
thiên đường,
địa ngục, hết thảy biển cả, núi non... thảy đều nằm trong
hư không.
Tánh không của người đời lại cũng như vậy.
“Các vị
thiện tri thức!
Tự tánh bao hàm muôn pháp, nên gọi là lớn. Muôn pháp ở trong tánh người. Nếu thấy hết thảy kẻ ác người hiền mà lòng không
vướng mắc, cũng chẳng chê bỏ, cũng chẳng đắm nhiễm, tâm như
hư không, như vậy là lớn, nên nói là Ma-ha.
“Các vị
thiện tri thức! Người mê chỉ nói miệng, người
trí tâm thực hành. Lại có người mê giữ
tâm không mà
ngồi thiền, đối với trăm việc đều không nghĩ đến, tự xưng là lớn. Những người như thế, chẳng thể cùng
luận bàn, vì họ đã rơi vào
tà kiến.
“Các vị
thiện tri thức!
Tâm lượng rộng lớn, biến khắp
Pháp giới. Dùng đến thì rành rẽ
phân minh,
ứng dụng liền biết hết thảy. Hết thảy là một, một là hết thảy. Đến đi
tự do.
Tâm không ngăn ngại, tức là Bát-nhã.
“Các vị
thiện tri thức! Hết thảy trí Bát-nhã đều do
tự tánh sanh ra, chẳng từ ngoài vào, chớ nên hiểu sai. Như vậy gọi là tự
ứng dụng chân tánh. Một lẽ
chân thật, hết thảy mọi lẽ đều
chân thật.
Tâm lượng rộng lớn chẳng làm việc nhỏ nhen. Đừng nên suốt ngày miệng nói lẽ không mà trong tâm chẳng tu hạnh này, khác nào dân thường tự xưng mình là vua, rốt cùng chẳng thể được. Người như vậy chẳng phải
đệ tử ta.
“Các vị
thiện tri thức! Sao gọi là Bát-nhã? Bát-nhã nghĩa là
trí tuệ. Ở
mọi nơi, mọi lúc, trong mọi niệm tưởng đều chẳng ngu mê, thường
sáng trí tuệ, tức là hạnh Bát-nhã. Một niệm ngu mê thì Bát-nhã dứt mất, một niệm
trí tuệ tức Bát-nhã sanh. Người đời ngu mê, chẳng hiểu Bát-nhã. Miệng nói Bát-nhã mà trong tâm thường ngu mê. Miệng thường nói: “Ta tu Bát-nhã.” Mỗi niệm đều nói lẽ không, mà chẳng thật hiểu
chân không. Bát-nhã không có
hình tướng, chính là
tâm trí tuệ. Nếu hiểu được như vậy tức là trí Bát-nhã.
“Sao gọi là Ba-la-mật? Đó là tiếng Phạn, nghĩa là
đến bờ bên kia, phải nên hiểu là lìa khỏi
sanh diệt. Tâm
vướng mắc nơi cảnh thì
sanh diệt khởi, như nước cuộn nổi sóng, tức là bờ bên này. Tâm lìa khỏi cảnh thì không
sanh diệt, như nước thường chảy thông, tức là
bờ bên kia, nên gọi là Ba-la-mật.
“Các vị
thiện tri thức! Người mê miệng niệm, mà ngay trong lúc niệm
vẫn có điều
hư vọng,
sai trái. Mỗi niệm đều
thực hành, gọi là
chân tánh. Người ngộ được pháp này chính là pháp Bát-nhã, người tu theo hạnh này, chính là hạnh Bát-nhã. Chẳng tu tức là kẻ phàm, một niệm
tu hành liền tự mình không
thua kém Phật.
“Các vị
thiện tri thức!
Phàm phu chính là Phật,
phiền não chính là Bồ-đề.
Niệm trước còn mê là
phàm phu, niệm sau
thức tỉnh là Phật.
Niệm trước còn
vướng mắc nơi cảnh là
phiền não, niệm sau lìa cảnh là Bồ-đề.
“Này
thiện tri thức!
• Ma-ha
Bát-nhã Ba-la-mật,
• Cao nhất, quý nhất,
pháp đệ nhất.
• Không trụ, không qua cũng không lại,
•
Ba đời chư Phật từ đó sanh.
“Phải dùng
trí tuệ sáng suốt mà phá vỡ khối
phiền não trần lao năm uẩn.
Tu hành như vậy
chắc chắn thành Phật.
Chuyển hóa ba độc Ba độc là: tham, sân, si. thành Giới, Định, Tuệ.
“Các vị
thiện tri thức!
Pháp môn này từ một Bát-nhã sanh ra tám muôn bốn ngàn
trí tuệ. Vì sao vậy? Vì người đời có tám muôn bốn ngàn
trần lao.
“Nếu
không trần lao,
trí tuệ thường
hiển hiện, chẳng lìa
tự tánh. Người ngộ Pháp này, tức không niệm tưởng, không nghĩ nhớ, không
vướng mắc. Chẳng
khởi tâm lầm lẫn,
hư vọng,
ứng dụng tự tánh chân như. Dùng
trí tuệ quán xét các pháp, chẳng lấy, chẳng bỏ, tức là thấy tánh,
thành Phật đạo.
“Các vị
thiện tri thức! Nếu người nào muốn vào sâu tận cội nguồn
Pháp giới, cùng là Bát-nhã Tam-muội, thì nên tu hạnh Bát-nhã. Trì
tụng Kinh Kim Cang Bát-nhã, tất sẽ thấy tánh. Phải biết rằng
công đức của Kinh này
vô lượng vô biên. Trong Kinh có
tán thán rõ ràng, thật chẳng thể nói hết.
Pháp môn này là
Tối thượng thừa, vì người
đại trí mà thuyết, vì người
thượng căn mà thuyết. Người trí thô, căn thấp nghe rồi sanh lòng
nghi ngờ. Vì sao vậy? Như khi mưa lũ lớn, thành ấp, xóm làng đều trôi dạt hết, như lá táo trôi. Nhưng nếu mưa xuống biển cả, thì nước ở đó chẳng thêm chẳng bớt. Bậc
đại thừa,
tối thượng thừa nghe
giảng Kinh Kim Cang, tâm liền
khai ngộ,
hiểu rõ rằng
bản tánh tự có trí Bát-nhã, nhờ tự dùng
trí tuệ thường quán xét, chẳng do
văn tự.
“Ví như nước mưa, chẳng phải
tự nhiên mà có, chính là để làm cho hết thảy cỏ cây, giống
hữu tình, giống vô tình đều được
thấm nhuần. Trăm sông, muôn dòng đều chảy vào biển cả, hợp làm
một thể. Trí Bát-nhã của
tự tánh chúng sanh lại cũng như vậy.
“Các vị
thiện tri thức! Những người
căn cơ thấp,
nghe pháp đốn ngộ này, cũng như cỏ cây nhỏ bé ít rễ, nếu bị mưa lớn đều nghiêng ngã hết, không thể lớn lên. Nhưng người
căn cơ dù thấp, vốn cũng có trí Bát-nhã như bậc
đại trí không khác; vậy vì sao
nghe pháp lại chẳng tự khai ngộ? Đó là do
tà kiến nặng nề
che lấp, gốc
phiền não sâu. Như
đám mây lớn
che khuất mặt trời,
nếu không có cơn gió mạnh thổi tan đi, ánh sáng
mặt trời tất không
hiện ra được. Trí Bát-nhã lại cũng không có lớn nhỏ sai khác, chỉ vì tất cả
chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng. Tâm mê hướng chỗ thấy biết ra bên ngoài mà
tu hành cầu tìm Phật, chưa thấy được
tự tánh, tức là hàng
căn cơ thấp. Nếu ngộ rõ pháp
Đốn giáo này, chẳng
vướng mắc việc
tu hành ngoài tâm, chỉ tự trong tâm thường khởi thấy biết chân chánh,
phiền não trần lao chẳng thể làm cho
ô nhiễm, đó tức là thấy tánh.
“Các vị
thiện tri thức! Trong ngoài chẳng trụ, qua lại
tự do, trừ được tâm
chấp trước,
thông đạt không ngại, tu được hạnh ấy, so với Kinh Bát-nhã không sai khác gì nhau.
“Các vị
thiện tri thức! Hết thảy kinh sách,
văn tự hai thừa Đại, Tiểu,
mười hai bộ kinh đều do trí người đặt ra,
nhân tánh trí tuệ mà
kiến lập.
Nếu không có người đời, hết thảy muôn pháp vốn tự chẳng có. Cho nên biết rằng muôn pháp vốn do người mà khởi lên, hết thảy kinh sách vốn do người thuyết mà có. Bởi người có ngu, có trí, nên kẻ ngu làm thân
thấp hèn, người trí làm bậc cao quý. Kẻ ngu hỏi nơi người trí; người trí
thuyết pháp với kẻ ngu. Kẻ ngu chợt ngộ,
hiểu rõ,
tâm trí khai mở liền không khác gì người trí.
“Các vị
thiện tri thức! Không ngộ thì Phật là
chúng sanh, một niệm ngộ rồi
chúng sanh là Phật. Cho nên biết rằng muôn pháp đều ở nơi
tự tâm. Vậy sao chẳng tự trong tâm mình
trực nhận ra
bản tánh chân như? Bồ-tát
Giới Kinh nói: ‘Tự tánh của ta vốn tự
thanh tịnh. Nếu biết
tự tâm, thấy
bản tánh, hết thảy đều
thành Phật đạo.’
Tịnh Danh Kinh Tịnh Danh Kinh: tên khác của
Duy-ma-cật Sở thuyết Kinh, hay gọi tắt là Duy-ma Kinh. nói: ‘Hoát nhiên chợt nhận lại được
bản tâm.’
“Các vị
thiện tri thức! Ta ở nơi
Hòa thượng Hoằng Nhẫn, vừa
nghe pháp liền ngộ, nhìn thẳng ra
bản tánh chân như. Bởi vậy nên mang
giáo pháp này
lưu hành, giúp cho kẻ
học đạo trực nhận Bồ-đề.
Mọi người nên
tự quán xét tâm, tự thấy
bản tánh. Nếu tự mình chẳng ngộ, nên tìm cầu bậc
đại thiện tri thức giảng pháp Tối thượng thừa,
chỉ thẳng đường ngay cho. Phải là bậc
thiện tri thức có
nhân duyên lớn, dạy dỗ, dắt dẫn, khiến cho được thấy tánh. Tất cả pháp lành nhờ nơi
thiện tri thức mà
phát khởi. Chư Phật
ba đời,
mười hai bộ kinh, vốn sẵn có đủ trong tánh người.
Nếu không tự ngộ được, nên cầu
thiện tri thức chỉ ra cho thấy. Nếu
tự ngộ được, chẳng cần tìm cầu bên ngoài. Nếu cứ
cố chấp rằng không người
khai ngộ thì
không giải thoát,
thật không đúng lẽ. Vì sao vậy? Tự trong tâm có
tri thức tự ngộ. Nếu khởi tà mê,
vọng niệm điên đảo, dù có
thiện tri thức bên ngoài dạy dỗ, cũng chẳng cứu được. Nếu khởi trí Bát-nhã chân chánh quán xét,
tức thời các
vọng niệm đều diệt mất. Nếu biết
tự tánh, một khi ngộ rồi liền đến ngay
cõi Phật.
“Các vị
thiện tri thức!
Trí tuệ quán xét, trong ngoài sáng rõ, biết tự
bản tâm. Nếu biết
bản tâm tức là gốc
giải thoát. Nếu
được giải thoát, tức là Bát-nhã Tam-muội. Bát-nhã Tam-muội, tức là không niệm.
“Sao gọi là không niệm? Nếu thấy tất cả các pháp mà
tâm không đắm nhiễm, đó là không niệm.
Ứng dụng liền biến khắp hết
mọi nơi, cũng chẳng
vướng mắc hết thảy
mọi nơi. Chỉ giữ
tâm thanh tịnh, khiến sáu thức
Nhãn thức,
nhĩ thức,
tỷ thức,
thiệt thức,
thân thức,
ý thức (sự thấy, sự nghe, sự ngửi, sự nếm, sự biết về
xúc động, sự biết về tâm ý). ra khỏi sáu cửa, Năm cửa ngoài là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; một cửa trong là ý. ở giữa
sáu trần Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. mà không nhiễm tạp. Đến đi
tự tại,
ứng dụng lưu thông không ngăn ngại, tức là Bát-nhã Tam-muội.
Tự tại giải thoát, gọi là hạnh không niệm. Nếu trăm việc đều thôi không nghĩ đến, dứt mọi
tâm niệm, tức bị pháp
trói buộc, gọi là
kiến giải sai lệch.
“Các vị
thiện tri thức! Người ngộ
pháp không niệm, muôn pháp đều
thông hiểu, nhìn thấy
cảnh giới chư Phật, đến được
địa vị của Phật.
“Các vị
thiện tri thức! Về sau có ai hiểu được pháp
Đốn giáo này, lại cùng với người đồng
kiến giải,
đạo hạnh phát nguyện thọ trì như
phụng thờ Phật, người ấy
suốt đời chẳng còn
thối chuyển, quyết chứng
thánh quả. Vậy nên
cần phải truyền trao nối tiếp
pháp giáo xưa nay, chẳng được giấu giếm
chánh pháp. Nếu gặp người chẳng đồng
kiến giải,
đạo hạnh, riêng pháp này chẳng được truyền trao, chỉ làm
tổn hại, rốt cùng
vô ích. Vì e rằng kẻ ngu chẳng hiểu, chê bai
pháp môn này, rồi trăm kiếp ngàn đời phải đoạn dứt
hạt giống tánh Phật.
“Các vị
thiện tri thức! Ta có một bài tụng
Vô tướng,
mọi người đều nên tụng. Người
tại gia,
xuất gia cũng chỉ cần
y theo đây mà tu. Nếu chẳng tự tu, chỉ nhớ lời ta nói cũng chẳng ích gì. Hãy nghe bài tụng đây:
Thuyết thông tâm cũng thông,
Như mặt nhật trên không.
Chỉ
truyền pháp thấy Tánh,
Ra đời phá tà tông.
Pháp vốn không đốn, tiệm,
Mê ngộ có chậm, mau.
Chỉ pháp thấy Tánh này,
Người ngu không thể hiểu.
Giảng thuyết tuy muôn đường,
Lý
hợp lại thành một.
Trong nhà tối
phiền não,
Mặt trời tuệ nên soi.
Tà đến,
phiền não đến,
Chánh khởi,
phiền não trừ.
Chánh, tà đều chẳng dụng.
Thanh tịnh đếnVô dư.
Bồ-đề vốn
tự tánh,
Khởi tâm tức là vọng.
Tâm tịnh trong chỗ vọng,
Chân chánh, trừ
ba chướng.
Người đời nếu
tu đạo,
Hết thảy chẳng gây hại.
Thường tự xét lỗi mình,
Là với đạo hợp nhau.
Sắc loài tự có đạo,
Chớ làm
não hại nhau.
Lìa đạo, riêng tìm đạo,
Trọn đời chẳng thấy đạo.
Lao đao trọn
một đời,
Rốt cùng vẫn phiền não!
Muốn thấy
Đạo chân chánh,
Làm việc đúng, là Đạo.
Tự mình
không tâm Đạo,
Ám muội, sao thấy Đạo?
Nếu người thật
tu hành,
Chẳng nói lỗi
thế gian,
Nếu bàn lỗi người khác,
Tự mình lỗi, không khác.
Người quấy, ta không quấy,
Ta quấy, lỗi tại ta.
Chỉ tự trừ tâm quấy,
Trừ sạch, hết
phiền não.
Ghét, yêu chẳng bận lòng,
Duỗi chân dài
thanh thản.
Lòng muốn độ kẻ khác,
Nên tự biết
phương tiện.
Khéo trừ sạch
nghi ngờ,
Tự tánh tự
hiển hiện.
Pháp Phật từ cõi thế,
Không lìa thế
tỉnh giác.
Bỏ thế tìm Bồ-đề,
Như kẻ tìm sừng thỏ!
Chánh kiến là thoát tục,
Tà kiến là
thế gian.
Chánh, tà đều dứt sạch,
Tánh Bồ-đề
hiển lộ.
Tụng này là
Đốn giáo,
Cũng gọi:
Đại Pháp Thuyền. Con thuyền Pháp lớn, ý nói
cứu độ được nhiều người.
Mê nghe Kinh nhiều kiếp,
Ngộ chỉ sát-na thành.”
Sư lại nói: “Nay tại chùa
Đại Phạm giảng pháp Đốn giáo này, nguyện cho tất cả
chúng sanh vừa nghe liền được thấy Tánh,
thành Phật.”
Khi ấy, Vi Sứ quân cùng các
vị quan liêu và người đạo, kẻ tục
nghe lời thuyết giảng của Sư rồi, hết thảy đều
tỉnh ngộ,
đồng thời làm lễ,
xưng tán rằng: “Hay thay! Ngờ đâu xứ Lãnh Nam này có Phật ra đời!”