PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Tác gỉa Đòan Trung Còn
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải - Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
LƯỢC TỰ
(Nguyên văn chữ Hán của sa môn Thích Pháp Hải đời nhà Đường soạn)
Đại Sư tên
Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là
Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy,
hào quang chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan đầy nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến viếng, nói với người cha rằng: “Khuya nay ông vừa sanh
quý tử,
chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ (), sau là chữ Năng ().” Người cha hỏi: “Vì sao đặt tên là Huệ Năng?” Hai vị tăng đáp: “Huệ, nghĩa là đem Pháp mà
bố thí cho
chúng sanh; Năng, nghĩa là
đủ sức làm nên
Phật sự.”
Hai người nói rồi ra đi, chẳng biết đi đâu.
Sư không dùng sữa mẹ, đêm đêm có
thần nhân nuôi bằng nước cam-lộ.
Khi lớn lên, tuổi vừa hai mươi bốn, Ngài nghe
kinh Kim Cang mà
ngộ đạo, mới đến núi
Hoàng Mai cầu đạo, được
Ngũ Tổ nhận cho là được.
Ngũ Tổ trọng tài của Sư, trao
y bát và
truyền pháp, cho nối ngôi Tổ.
Lúc ấy là năm đầu niên hiệu Long Sóc.
Ngài về phương Nam
ẩn náu trong 16 năm, mang
hình tướng của người
thế tục. Qua năm đầu niên hiệu Nghi Phụng, nhằm ngày mùng tám tháng giêng, Ngài gặp
pháp sư Ấn Tông cùng
luận bàn những
ý nghĩa cao siêu
huyền diệu.
Ấn Tông tỉnh ngộ, hợp với ý Ngài. Ngày rằm tháng ấy,
pháp sư Ấn Tông nhóm họp
bốn chúng, làm lễ xuống tóc cho Ngài. Ngày mùng tám tháng hai,
Pháp sư lại nhóm họp các
vị danh đức, làm
lễ truyền giới cụ túc. Các vị
truyền giới có ngài
Trí Quang Luật sư ở Tây Kinh (
Trường An) làm
Thọ giới sư, ngài
Huệ Tĩnh Luật sư ở Tô Châu làm Yết-ma, ngài Thông Ứng
Luật sư ở
Kinh Châu làm
Giáo Thọ, ngài Kỳ-đa-la
Luật sư ở
Trung Thiên Trúc làm
Thuyết Giới, ngài Mật-đa
Tam Tạng ở nước
Tây Trúc làm Chứng Giới.
Giới đàn này là do ngài
Cầu-na Bạt-đà-la Tam Tạng hồi triều Lưu Tống
sáng lập, có dựng bia đề rằng: “Sau này sẽ có vị Bồ-tát
hiện thân người phàm mà
thọ giới nơi đây”. Lại nữa, năm đầu niên hiệu Thiên Giám nhà Lương,
Trí Dược pháp sư từ nước
Tây Trúc vượt biển sang đây,
mang theo một cây Bồ-đề bên xứ ấy mà trồng kế bên đàn này, cũng có nói rằng: “Về sau, khoảng 170 năm nữa, sẽ có vị Bồ-tát
hiện thân người phàm mà
khai diễn pháp Thượng thừa dưới cội cây này, độ cho
vô số chúng sanh, là vị
Pháp chủ chân truyền tâm ấn của Phật vậy.”
Trong
pháp hội này, Ngài
chính thức cạo bỏ râu tóc,
thọ giới tỳ-kheo, và vì
bốn chúng mà khai thị pháp
Đại thừa Đốn giáo,
mọi việc đều
y như những lời dự báo từ trước.
Mùa xuân năm sau, Ngài từ giã
bốn chúng mà về chùa
Bảo Lâm ở
Tào Khê.
Ấn Tông pháp sư và cả hai giới
tăng tục theo
tiễn chân có tới trên ngàn người, thẳng đến tận
Tào Khê. Khi ấy, Thông Ứng
Luật sư ở
Kinh Châu với vài trăm người
tu học cùng về nương theo Ngài. Ngài đến
Bảo Lâm,
Tào Khê, thấy nhà cửa thấp hẹp, chẳng đủ cho
bốn chúng ăn ở. Muốn
mở rộng ra, Ngài liền đến gặp một người trong làng là Trần Á Tiên mà nói rằng: “Lão tăng muốn đến
thí chủ,
cầu xin một chỗ đất để trải cái
tọa cụ, không biết có được chăng?” Á Tiên hỏi: “Tọa cụ của
Hòa thượng rộng chừng nào?”
Tổ Sư đưa
tọa cụ ra cho xem. Á Tiên
đồng ý.
Tổ Sư lấy
tọa cụ giũ ra một cái, tỏa rộng phủ hết cả vùng
Tào Khê, có bốn vị
thiên vương hiện thân ngồi nơi bốn góc. Ngày nay, ở cảnh chùa ấy có núi
Thiên Vương, là nhân chuyện này mà đặt tên. Á Tiên nhìn thấy liền nói: “Nay tôi được biết
pháp lực của
hòa thượng thật là rộng lớn; có điều, mồ mả
tổ tiên nhà tôi từ trước
đến nay đều ở tại đất này. Nếu về sau có cất chùa dựng tháp, xin đừng hủy hoại, còn
ngoài ra xin
cúng dường cả để
mãi mãi dùng làm ngôi
Tam Bảo. Nhưng đất này là mạch đến của sanh long,
bạch tượng, chỉ có thể làm bằng bên trên, chứ không nên làm bằng phía dưới.” Theo lời Á Tiên, mọi sự
kiến thiết,
xây dựng về sau đều
tuân thủ như vậy.
Một hôm,
Tổ Sư đi dạo chơi đến một chỗ cảnh vật tốt tươi, có suối nước, non cao, liền dừng nghỉ lại đó, bèn thành một nơi lan-nhã, có cả thảy 13 cảnh như vậy, ngày nay gọi là
Hoa Quả Viện. Còn tên gọi
đạo tràng Bảo Lâm là do trước đây ngài
Trí Dược Tam Tạng nước
Tây Trúc, khi từ Nam hải qua cửa
Tào Khê, lấy tay vốc nước mà uống thấy thơm và ngon, lấy làm lạ mà bảo
môn đồ của mình rằng: “Nước này với nước bên
Tây Thiên không khác gì. Trên nguồn suối này ắt có thắng địa, cất chùa lên rất tốt”. Liền
lần theo dòng suối mà
đi lên nguồn, thấy bốn bề non nước
quanh co, đèo động tốt lạ, khen rằng: “Thật không khác gì núi
Bảo Lâm bên Tây Thiên!” Liền nói với cư dân thôn Tào Hầu rằng: “Nơi đây nên cất một ngôi chùa. Sau này chừng một trăm bảy chục năm nữa, sẽ có
pháp bảo vô thượng được diễn giảng ở đây, kẻ
đắc đạo nhiều
vô kể, nên đặt hiệu là
Bảo Lâm.”
Quan Mục Thiều Châu
thuở ấy là Hầu Kính Trung đem lời ấy soạn tờ biểu tâu lên triều đình, nhà vua chuẩn lời xin,
ban cho tấm biển đề là
Bảo Lâm, bởi đó mà thành một ngôi chùa to lớn. Việc ấy bắt đầu từ năm thứ 3 niên hiệu Thiên Giám.
Trước chùa có một cái hồ lớn,
thường có một con rồng nổi lên,
thân hình to lớn quấn quanh, làm hại cây cối trong rừng. Một ngày kia, nó
hiện hình rất lớn, quẫy đạp sóng dậy tràn lên, mây mưa mù mịt, khiến
tăng chúng đều
sợ hãi.
Tổ Sư ra nạt con rồng rằng: “Ngươi chỉ hiện được hình lớn, chẳng hiện được hình nhỏ. Nếu là rồng
thần biến hóa được, lẽ ra nên từ nhỏ thành lớn, từ lớn thành nhỏ được mới phải.” Ngài nói xong, con rồng ấy liền lặn ngay xuống, giây lâu
hiện lên thân hình rất nhỏ bé,
nhảy nhót trên mặt hồ.
Tổ Sư mở
bình bát ra, hỏi rằng: “Ngươi có dám nhảy vào cái bát của lão tăng đây không?”
Con rồng bèn lượn quanh, rồi chập chờn đến trước
Tổ Sư, Ngài lấy cái bát úp lại, con rồng chẳng cựa quậy gì được nữa. Sư liền mang bát trở lên chùa,
thuyết pháp với rồng. Rồng bèn thoát xác mà đi, bỏ
lại bộ xương dài chừng bảy tấc; đầu, đuôi, sừng, chân đều đủ cả, tương truyền là vẫn để ở cửa chùa. Sau này,
Tổ Sư sai lấy đất đá lấp cái hồ ấy, ngày nay ở trước đền, phía bên trái có cây tháp sắt, tức là chỗ đó vậy.