KINH VÔ NGÃ TƯỚNG
(Anattalakkhaṇa Sutta)
Thiền sư Mahasi Sayadaw - Phạm Kim Khánh dịch
Khó thấu hiểu đặc tướng vô ngã
Thấy vô ngã qua đặc tướng vô thường
Thấy vô ngã xuyên qua đặc tướng đau khổ
Thấy vô ngã xuyên qua cả hai đặc tướng, vô thường và khổ
Cuộc thảo luận với Đạo Sĩ Saccaka
Biện luận về một tự ngã độc lập
Đặc tướng vô thường
Hai loại đau khổ
Phát triển tuệ minh sát thấu hiểu đặc tướng khổ
Chấp thủ với tham ái "đây là của tôi"
Chấp thủ với tâm ngã mạn "đây là tôi"
Chấp thủ với tà kiến "đây là tự ngã của tôi" -V-
THẤY VÔ NGÃ
-ooOoo-
Tất cả những
thành phần cấu tạo ngũ uẩn đều
vô ngã. Nhìn
xuyên qua những
đặc tính của các uẩn ta thấy điều nầy
trở thành hiển nhiên. Bản
Chú Giải mô tả những
đặc tính ấy như sau: Không
vâng lời làm theo
ý muốn ta là một
đặc tính của
vô ngã. Trong
kinh Vô Ngã Tướng, Anattalakkhaṇa Sutta,
đặc tính nầy được
diễn tả qua câu, "Ta không thể
sai bảo sắc pháp, 'Thân ta hãy như thế nầy'." Lại nữa trong kinh nầy có câu "... nó có chiều hướng gây
đau khổ ..."
Bản chất gây
đau khổ, làm khó chịu,
áp bức, hay cưỡng chế, phải được xem là một
hình thức khác của đặc tướng
vô ngã. Trong
bài kinh cũng có sự
tìm hiểu, Ṅhận là tự ngã cái gì luôn luôn
biến chuyển thì có
thích nghi không?"
Khi người hành
thiền quan sát những đặc tướng trên mỗi khi nó khởi sanh thì phát triển
trí tuệ nhận thấy rằng cả hai,
sắc uẩn và
danh uẩn, đều không phải là tự ngã mà chỉ là những
hiện tượng không ngừng
sanh diệt. Tuệ nầy được gọi là anattānupassanā ñāṇa,
tuệ giác phát triển do
công phu quán niệm những
đặc tính vô ngã.
Bài kinh (sutta) nầy được gọi là Anattalakkhaṇa,
Vô Ngã Tướng, vì đề cập đến những
đặc tính vô ngã.
Khó Thấu Hiểu Đặc Tướng
Vô Ngã"Đặc tướng
vô thường và khổ có phần
dễ hiểu, nhưng đặc tướng
vô ngã thì khó thông hiểu",
chú giải Sammohavinodanī nói như vậy. Theo
chú giải nầy, những lời than như "Than ôi, thật là
vô thường,
quả thật là phù du tạm bợ" sẵn sàng đến với tâm ta mỗi khi vô tình làm rớt bể một cái hủ. Lại nữa khi bị mụt nhọt, một vết thương hay bị gai đâm chích ta liền than thầm, "Than ôi,
quả thật đau nhức, khó chịu". Bằng cách ấy đặc tướng
vô thường và khổ được
nhận thấy rõ ràng và
dễ hiểu. Nhưng cũng như rất khó mà chỉ cho ai khác tìm một vật nằm trong tối, không thể
hiểu biết dễ dàng đặc tướng
vô ngã.
Đặc tướng
vô thường và khổ được
hiểu biết rộng rãi, ở trong cũng như ở ngoài
giáo lý nhà Phật, nhưng đặc tướng
vô ngã chỉ được đề cập đến trong
Phật Giáo. Những vị ngoài
Phật Giáo như đạo sĩ
ẩn dật Sarabaṅga chỉ có thể
thuyết giảng về
bản chất vô thường và
đau khổ, còn lý
vô ngã thì vượt hẳn ra ngoài tầm
hiểu biết của các Ngài. Nếu các
vị đạo sĩ ấy có thể dạy lý
vô ngã thì những
đệ tử của họ đã có thể
chứng đắc Đạo Tuệ và Quả Tuệ, nhưng vì các Ngài không thể dạy nên không có ai
thành đạt Thánh Đạo và
Thánh Quả.
Phẩm chất và
đặc tính cá biệt đặc thù của một Đấng
Chánh Đẳng Chánh Giác là có
đủ khả năng giảng dạy lý
vô ngã. Những
vị đạo sư ngoài
Phật Giáo không tiến được đến mức
tế nhị và sâu sắc của
giáo lý nầy. Bản
Chú Giải nói rằng
giáo lý vô ngã thâm sâu đến độ chí đến
Đức Thế Tôn cũng phải
dựa trên đặc tướng
vô thường hoặc đặc tướng
đau khổ hoặc cả hai cùng một lúc để
giải thích dễ dàng.
Bản Phụ
Chú Giải giảng rộng thêm: "Trong
tuyên ngôn trên của Bản
Chú Giải, ngoài
Phật Giáo hai đặc tướng anicca và dukkha,
vô thường và khổ, chỉ được hiểu theo nghĩa chế định (
tục đế), nên không thể dùng làm
phương tiện để
chứng ngộ lý
vô ngã. Chỉ có
vô thường và khổ hiểu theo
chân lý cùng tột (
chân đế) mới có thể xử dụng để
giải thích lý
vô ngã." Sư đã dùng Phụ Chú ấy để
mô tả khái niệm chế định (
tục đế) và khái niệm cùng tột (
chân đế) của anicca và dukkha, trong sách Sīlavanta Sutta. Có
thể tham khảo để có thêm
chi tiết.
Thấy
Vô Ngã Qua Đặc Tướng
Vô ThườngTrong kinh Chachakka Sutta, phần Uparipaṇṇāsa của bộ Majjhima Nikāya,
Trung A Hàm, ta thấy đặc tướng
vô thường được dùng làm
phương tiện để
giải thích đặc tướng
vô ngã. Theo
bài Kinh nầy người hành thiền phải hiểu sáu phân hạng của sáu
yếu tố như sau:
1. Sáu
căn môn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý;
2.
Sáu trần cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp;
3. Sáu loại thức:
nhãn thức,
nhĩ thức,
tỷ thức,
thiệt thức,
thân thức và
ý thức;
4. Sáu loại xúc (phassa): sự
tiếp xúc xuyên qua mắt, qua tai, qua mũi, qua lưỡi, qua thân và qua tâm;
5. Sáu loại thọ:
cảm thọ xuyên qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và tâm;
6. Sáu loại
tham vọng: khát khao
ham muốn được thấy hình thể, được nghe
âm thanh, được hửi mùi, được nếm vị, được sờ đụng và cảm kích.
Nơi đây theo Bản
Chú Giải, đoạn "phải hiểu biết" có nghĩa là "phải
hiểu biết xuyên qua công phu quán niệm minh sát, vipassanā,
hiểu biết bằng
trí tuệ của Thánh Đạo". Do đó mỗi khi một vật được thấy, vật ấy phải được
chú tâm ghi nhận (niệm) để mắt và đối tượng được thấy,
nhãn thức, nhãn xúc và thọ cảm
xuyên qua mắt, khởi sanh
hiển hiện rõ ràng cùng lúc trong khi thấy. Và trong lúc thấy nếu có sự
ưa thích hay
ham muốn vật ấy khởi sanh, sự
ưa thích và
ham muốn ấy phải được
ghi nhận, "ưa thích, ưa thích".
Cùng thế ấy, trong khi nghe, khi hửi, nếm, sờ đụng, và suy tư phải
hiểu biết sáu hạng sáu đối tượng ấy. Vị
hành giả mà hay biết
đúng lúc như vậy tự
cá nhân mình sẽ
nhận thức rằng mắt, đối tượng được thấy và sự thấy (
nhãn thức) khởi sanh và
chấm dứt. Vị ấy
chứng nghiệm, "Trước đây ta nghĩ rằng có một
thực thể thường còn, một tự ngã
hằng cửu. Giờ đây, qua sự
chứng nghiệm bằng cách thật
sự quán sát ta
nhận thức rằng chỉ có những
hiện tượng thiên nhiên không ngừng
sanh diệt."
Nhận thức rằng không có một tự ngã, không có một
thực thể sống, người hành thiền có thể
ngạc nhiên không
biết mình ngồi đây hành thiền cho ai.
Xuyên qua sự
hiểu biết đầy đủ về
bản chất vô thường của
vạn hữu hành giả chứng ngộ rằng không có một tự ngã. Để chỉ dạy
rõ ràng kinh nghiệm thực tiển nầy
Đức Thế Tôn tiếp tục bài kinh Chachakka Sutta như sau:
"Phần nhạy của mắt, là nền tảng của sự thấy (
nhãn thức) khởi sanh và
chấm dứt mỗi khi thấy; do vậy nó không phải thường còn,
không tồn tại vĩnh viễn, không phải là
thực thể hằng cửu vững bền, là tự ngã, như hình như nó là vậy. Nếu ta nói, 'mắt là tự ngã' thì cũng giống như nói rằng tự ngã của ta khởi sanh và
hoại diệt, không ổn định,
không tồn tại vững bền. Do đó ta phải
kết luận rằng phần nhạy của mắt không phải là tự ngã."
Cùng thế ấy ta có thể
kết luận tương tợ đối với hình thể (đối tượng của sự thấy),
nhãn thức, nhãn xúc (tức sự
tiếp xúc giữa mắt và đối tượng của mắt), và sự
ưa thích và
ham muốn của mắt: tất cả đều không phải tự ngã. Đó là
phương cách mà sáu
hiện tượng,
trở thành nổi bật vào lúc nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư, được xem là
vô ngã.
Thấy
Vô Ngã Xuyên Qua Đặc Tướng
Đau KhổChính trong kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng, đặc tướng
vô ngã được
giải thích bằng đặc tướng khổ như sau: "Vì
hình sắc không phải là tự ngã của ta nên có chiều hướng gây
đau khổ cho ta." Cái gì cưỡng chế hay
áp bức ta là đáng cho ta sợ, là
nguyên nhân gây
đau khổ và rất
hiển nhiên là một nguồn
đau khổ, không thể là chính ta, là tự ngã, là
thực thể sống bên trong ta.
Thấy
Vô Ngã Xuyên Qua Cả Hai Đặc Tướng,
Vô Thường Và Khổ
Nhằm
giải thích đặc tướng
vô ngã bằng cả hai,
vô thường (anicca), và khổ (dukkha),
Đức Thế Tôn dạy:
"Thân không thường còn. Cái gì không thường còn là (
nguyên nhân gây)
đau khổ. Cái gì
đau khổ không phải là tự ngã. Cái gì không phải tự ngã phải được
nhận thức với
trí tuệ thích nghi theo đúng
sự thật là, 'Đây không phải là của tôi, cái nầy không phải là tôi, cái nầy không phải là tự ngã của tôi'."
Tóm tắt, cơ thể
vật chất phải
biến đổi và khổ đau, và như vậy không phải là tự ngã. Xem là "của tôi" cái gì thật sự không phải tự ngã thì không
thích nghi;
lầm lạc tự nghĩ "tôi là ..., tôi có thể làm ...", là không
thích nghi; xem đây là "tự ngã của tôi", là "chính tôi" là không
thích nghi. Như thế ấy sắc, hay cơ thể
vật chất, phải được
nhận ra và xem đúng theo
thực tại.
Cùng
một thế ấy, do những đặc tướng
vô thường và khổ, thọ, tưởng, hành và thức cũng phải được xem là không phải tự ngã. Trong phần sau của kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng, ta sẽ thấy
bản chất vô ngã được
mô tả căn cứ trên đặc tướng
vô thường (anicca) và
đau khổ (dukkha).
Những khái
niệm vô thường và khổ, anicca và dukkha, được biết và được
chấp nhận rộng rãi, nhưng lý
vô ngã thì không mấy được
chấp nhận bên ngoài
Phật Giáo. Vào thời của
Đức Phật có một
vị đạo sĩ
ẩn dật tên Saccaka đến gặp
Đức Thế Tôn và
thảo luận về
vấn đề nầy.
Cuộc
Thảo Luận Với
Đạo Sĩ Saccaka
Saccaka là
đạo sư của những hoàng tử ở thành Vesālī. Ông hỏi Đức Assaji, vị sư trẻ tuổi nhất trong nhóm năm
vị đạo sĩ được gọi là năm anh em
Kiều Trần Như, "Đạo Sĩ Gotama (
Cồ Đàm) dạy
đệ tử như thế nào? Những lời dạy của Ngài cốt yếu là gì?" Đức Assaji
trả lời, "'Sắc, thọ, tưởng, hành và thức là
vô thường, không phải tự ngã.' Đó là những lời dạy của
Đức Bổn Sư; đó là điểm
trọng yếu trong
giáo huấn mà Ngài ban truyền."
Đến đây
Đạo Sĩ Saccaka nói, Nầy
Đạo Hữu,
chúng tôi có nghe một
lời nói sai lầm tệ hại, không đúng.
Chúng tôi nghe rằng
Đạo Sĩ Gotama dạy
giáo lý vô ngã. Đối với
chúng tôi như vậy là xấu, sai, không đúng. Một ngày nào tôi sẽ có cơ hội gặp
Đạo Sĩ Gotama và
sửa sai, làm cho ông
từ bỏ giáo lý tệ hại
tội lỗi và
đáng ghét,
quan điểm sai lầm về tự ngã ấy." Đó là một
thí dụ cho thấy người
chấp ngã thường nhìn
giáo lý vô ngã là
thấp kém như thế nào. Đối với họ, nghe đến lý
vô ngã của
Đức Thế Tôn rõ ràng là hiểm nguy
độc hại.
Vị đạo sĩ
du phương còn nói đến
việc làm cho
Đức Thế Tôn từ bỏ "tà kiến" của Ngài. Những người
cuồng tín độc đoán tin vào
tín điều của họ luôn luôn có đầu óc như vậy; họ khư khư ôm giữ
quan điểm của mình và tự cao xem thấp người khác. Dầu là những vị đang dạy đúng theo
kinh điển Pāli họ cũng
phỉ báng, làm hạ thấp
giá trị. Thông thường những người hay lớn tiếng
chỉ trích chê bai như thế lại là những vị kém
hiểu biết kinh điển hoặc không đủ
kinh nghiệm trong
pháp hành.
Saccaka không học đủ những lời dạy của
Đức Phật và không
hiểu biết Giáo Pháp (Dhamma) qua
kinh nghiệm của
pháp hành. Ông chỉ có một
ý niệm sai lầm, xem
Giáo Pháp là
thấp kém và tự phụ,
hãnh diện rằng mình cao hơn nhiều. Do đó ông cố đi gặp
Đức Thế Tôn để
tranh luận. Ông
chắc chắn rằng mình sẽ thắng và, muốn cho
mọi người mục kích sự thắng cuộc
vẻ vang ấy ông mời theo những người trong
hoàng tộc Licchavi của thành Vesālī, khoe khoang rằng khi
tranh luận về
vấn đề giáo lý ông ta sẽ "quây quần
Đức Phật như người to lớn mập mạnh chụp đầu một đứa trẻ và quây vòng." Khi đến
trước mặt Đức Thế Tôn vị đạo sĩ xin phép Ngài được nêu lên những câu hỏi.
Ông hỏi, "Bạch Đức Gotama, các vị
đệ tử của Ngài được dạy như thế nào? Điểm chánh yếu của
giáo huấn ấy là gì?"
Đức Thế Tôn cũng
trả lời y như câu
trả lời của Đức Assaji: "Sắc, thọ, tưởng, hành, và thức là
vô thường,
vô ngã.
Như Lai dạy
đệ tử như vậy. Đó là điểm chánh yếu của
giáo huấn."
Đến đây
Đạo Sĩ Saccaka đưa ra một
thí dụ: "Bạch Đức Gotama, hột giống và mầm non phải
nương nhờ nơi đất, nó phải
tùy thuộc nơi đất để vươn mình mọc lên thành cây con và cây lớn; cùng thế ấy, mỗi hành động được
thực hiện với
nghị lực và
sức mạnh cũng
cần phải có đất để
nâng đỡ,
con người có cơ thể
vật chất như một tự ngã có
thực chất, attā, và phải
tùy thuộc nơi hình thể
vật chất ấy để có những hành động thiện hay
bất thiện. Ta
tùy thuộc nơi thọ, tưởng, hành và thức như một tự ngã có
thực chất và
tùy thuộc nơi thọ, tưởng, hành, và thức để
thực hiện những hành động thiện và
bất thiện."
Những lời
quả quyết xác nhận nầy có nghĩa là hột giống và cây phải
tùy thuộc nơi sự
nâng đỡ của đất để mọc lên; cùng thế ấy, tất cả những loại
sinh hoạt cũng
cần phải có
nghị lực và
sức mạnh. Như cây cối cần sự
nâng đỡ của đất, hành động thiện và
bất thiện do những
cá nhân thực hiện cần phải có sắc, thọ, tưởng, hành, và thức
như tự ngã; chính nhờ
tùy thuộc nơi những cái "ta" ấy mà hành động được
thực hiện. Cũng chính những cái "ta" gặt hái
hậu quả (tốt hay xấu) của hành động. Nếu
hình sắc vật chất là
vô ngã, không có tự ngã, thì cái gì
nâng đỡ những hành động tạo thiện hay
bất thiện nghiệp, và ai sẽ gặt quả?
Điều nầy đã vượt khỏi
phạm vi lý trí của những vị
đệ tử. Các vị nầy không
hiểu biết phải
giải thích như thế nào
giáo lý xem tự ngã như đất. Chỉ
Đức Thế Tôn mới có thể nắm vững
vấn đề, Bản
Chú Giải nói như vậy.
Đức Thế Tôn hỏi
vị đạo sĩ, Nầy Saccaka,
phải chăng ông chủ trương rằng sắc là tự ngã, thọ là tự ngã, tưởng là tự ngã, hành là tự ngã, thức là tự ngã?"
"Đúng vậy, Bạch Đức Gotama, tôi chủ trương như vậy, và những người ở đây cũng đều
hiểu biết như vậy."
Đức Thế Tôn nhấn mạnh" "nầy Saccaka, hãy
để yên qua một bên
quan điểm của các vị khác; hãy
để tâm lắng nghe những gì chính ông trình bày."
Ý định của Saccaka là muốn chia sớt
trách nhiệm với những người cùng đi chung nếu ông có nói điều gì đáng bị khiển trách, nhưng
Đức Thế Tôn thúc giục ông nên tự mình nhận lấy trọn
trách nhiệm. Ông buộc lòng phải
chấp nhận rằng chính mình chủ trương, "sắc là tự ngã, thọ là tự ngã, tưởng là tự ngã, hành là tự ngã, thức là tự ngã."
Chừng ấy
Đức Thế Tôn hỏi: "Nầy Saccaka, những người cầm quyền cai trị đất nước như Vua Pasenadi (
Ba Tư Nặc) và Vua Ajātasattu (
A Xà Thế) chẳng hạn, các Ngài có đủ
quyền năng hành hình những ai phải bị hành hình, phạt những ai đáng
bị phạt, đày ải những ai đáng bị đày. Những vị ấy có đủ quyền
thống trị quốc gia của mình, có phải vậy không, Saccaka?"
"Các vì
quốc vương ấy
quả thật là chúa tể trong vương quốc. Các Ngài có đủ quyền
thống trị đất nước: chí như những vị Licchavi, được dân chúng bầu làm chúa, cũng nắm đủ quyền hành quyết, hình phạt, hay đày ải trong xứ mình." Saccaka
trả lời, ông đã
vượt qua giới hạn của câu hỏi, không ngờ
hậu quả của nó
tai hại như thế nào đối với
đức tin của mình.
Đức Thế Tôn bèn hỏi: "Nầy Saccaka, Ông nói rằng sắc là tự ngã, là cái "ta" của Ông, vậy Ông có
trọn quyền kiểm soát,
sai bảo, "Cái 'ta của tôi' hãy như thế nầy, cái 'ta của tôi' hãy không như thế kia" không? Ông có quyền
kiểm soát và
sai khiến nó như thế không?"
Lúc bấy giờ Saccaka kẹt vào thế tấn thối
lưỡng nan.
Giáo lý "chấp ngã" của ông chủ trương rằng ta có quyền
kiểm soát và
sai bảo thân theo
ý muốn.
Chấp thủ sāmi attā mà
chúng ta đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, chấp rằng có thể
kiểm soát, làm cho "cái ta" phải như thế nào theo
ý muốn của mình. Đến đây, vì Saccaka đã
xác nhận rằng các vì vua chúa có
trọn quyền điều khiển và
kiểm soát "vương quốc của mình" thì đương nhiên ông cũng
công nhận rằng cơ thể
vật chất nầy mà ông chấp là "của mình" cũng phải có thể được
kiểm soát và điều khiển
tùy theo ý mình. Nếu ông
chấp nhận như vậy, câu hỏi sắp đến sẽ là ông có thể điều khiển cái thân của ông, bảo nó vẫn
mãi mãi trẻ trung như
thân hình các vị hoàng tử dòng Licchavi kia không? Nếu ông
trả lời rằng mình không thể
sai bảo như thế thì điều nầy có nghĩa là ông
chấp nhận rằng mình không thể
kiểm soát thân, và do đó thân không phải là "ta", hay tự ngã. Tự thấy mình đang ở trong thế kẹt, tới không được mà lui cũng không được Saccaka lặng thinh, không
trả lời.
Đức Thế Tôn lặp lại câu hỏi lần thứ nhì, nhưng Saccaka vẫn giữ
im lặng. Trước khi hỏi lần thứ ba
Đức Phật cảnh cáo: "Nầy Aggivessana [*], Ông nên
trả lời câu hỏi của
Như Lai. Giờ phút nầy không nên giữ
im lặng. Khi được một vị Tathāgata,
Như Lai, hỏi đến lần thứ ba mà không
trả lời ắt đầu sẽ bị bể làm bảy miếng."
[* Aggivessana là
tông phái của Saccaka].
Vào lúc bấy giờ được nói là có một vị
thiên lôi từ cảnh trời tay cầm lưỡi tầm sét bay lượn
quanh quẩn trên đầu Saccaka. Chỉ có
Đức Thế Tôn và Saccaka nhìn thấy. Cũng giống như ngày nay có vài người thấy ma, chỉ có những người ấy, người khác không thấy. Thấy
thiên lôi sẵn sàng để bửa đầu mình Saccaka
kinh hoàng sợ hải; nhưng khi nhìn thấy
mọi người có vẻ
bình thường không lo sợ thì ông
nhận biết rằng những người kia không ai thấy
thiên lôi, chỉ có
một mình ông. Do đó ông không thể nói rằng mình bị
thiên lôi ép buộc phải
trả lời như thế nào. Biết rằng lúc bấy giờ chỉ còn
Đức Thế Tôn là nơi mà ông có thể nương tựa, không ai khác, Saccaka phục tùng
bạch Phật: "Xin
Đức Thế Tôn nêu lên câu hỏi, tôi sẵn sàng
giải đáp."
Đến đây
Đức Thế Tôn hỏi: "Nầy Aggivessana, Ông nghĩ thế nào về điều nầy? Ông nói rằng sắc là tự ngã; vậy Ông có thể
bảo cái tự ngã ấy, 'Thân nầy hãy như thế nầy, thân nầy hãy không như thế kia',
theo như ý Ông muốn được không?"
"Bạch Ngài không, ta không có quyền
kiểm soát nó", Saccaka
trả lời, ngược lại với ý mình. Trước kia ông nói rằng sắc là tự ngã; nếu sắc là tự ngã của ông ắt nó phải phục tùng quyền
kiểm soát của mình. Giờ đây ông nói rằng không thể
kiểm soát sắc, như vậy đương nhiên ông
chấp nhận rằng
sắc không phải là tự ngã.
Khi
Đức Thế Tôn nghe Saccaka nói ngược lại với ý ông như
vậy thì mở lời
cảnh giác: "Nầy Aggivessana, hãy
coi chừng, hãy
cẩn thận với những gì Ông nói. Những gì Ông nói sau nầy không
thích ứng với những gì Ông đã
nói trước. Những gì Ông
nói trước không đúng với những gì Ông nói sau.
"Bây giờ, nầy Aggivessana, Ông nghĩ như thế nào? Ông đã nói rằng thọ là tự ngã của Ông, vậy Ông có thể
sai bảo chăng cái tự ngã ấy, 'Thọ nầy hãy
như vầy, thọ nầy hãy không như thế kia, đúng
theo như ý Ông muốn không?"
"Bạch Ngài không, ta không có quyền
kiểm soát."
Đức Thế Tôn nêu lên những câu hỏi tương tợ về tưởng, hành, thức và mỗi lần trước khi hỏi Ngài cũng nhắc chừng Saccaka nên
thận trọng không nói ngược với ý mình. Mỗi lần Saccaka
trả lời tương tợ, rằng đối với tất cả
năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, ta không có
quyền năng kiểm soát uẩn nào.
Rồi
Đức Phật hỏi, vậy sắc là thường còn hay
vô thường. "Bạch Ngài, là vô thường". "Cái gì không thường còn, cái đó là khổ hay lạc?" "Bạch Ngài, là khổ", Saccaka
trả lời. "Vậy, cái gì là
vô thường, khổ và phải luôn luôn
biến đổi, có
thích ứng không nếu ta xem đó, 'cái nầy là của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã của tôi'?" "Bạch Ngài, không", ông
trả lời.
Đức Phật nêu lên cùng một câu hỏi về thọ, tưởng, hành, thức, và Saccaka
trả lời tương tợ.
Rồi
Đức Thế Tôn hỏi thêm: "Nầy Aggivessana, Ông nghĩ sau về điều nầy? Người nọ khư khư
chấp thủ những uẩn vốn gây
đau khổ ấy, bám siết vào,
nắm chặt lấy, ôm giữ chắc lại,
tin chắc rằng, 'cái nầy của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã của tôi';
con người có quan kiến như vậy có thế nào
hiểu biết thật sự và thấu đáo
đau khổ là gì và có thể
chấm dứt đau khổ không?" Câu hỏi nầy
quả thật thâm sâu: nếu người kia biết rằng các
sắc uẩn và
danh uẩn ấy là
đau khổ mà vẫn
thỏa thích hưởng thụ trong
sắc pháp và danh pháp phát hiện nơi sáu cửa
giác quan và nghĩ rằng, "đây là tôi, đây là của tôi, đây là tự ngã của tôi". Người ấy có thế nào
chấm dứt đau khổ không? Có thể nào người ấy loại trừ
đau khổ không?
Saccaka
trả lời theo câu hỏi: "Bạch Ngài Gotama, người ấy làm thế nào hiểu được
chân lý về sự
đau khổ hay
chân lý về sự
chấm dứt đau khổ? Bạch Ngài, không thể được."
"Trong
trường hợp nầy,"
Đức Thế Tôn hỏi, "Có phải không ông là người
chấp thủ những uẩn
đau khổ ấy, bám siết vào,
nắm chặt lấy, ôm giữ chắc lại, là người
tin chắc rằng, 'cái nầy của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã của tôi'?" Saccaka
trả lời, "Bạch Ngài, chính tôi là
con người như vậy. Làm sao tôi có thể khác?"
Đạo sĩ Saccaka rất
hãnh diện với
niềm tin chắc vào tự ngã của mình. Ông rất tự đắc và khoe khoang về điểm nầy, nhưng khi
Đức Thế Tôn rọi sáng vấn đề, ông phải
chấp nhận rằng quan kiến của ông là
sai lầm.
Niềm tin vào một cái ta, attavāda, của ông
hoàn toàn tan biến. Để đánh một đòn
cuối cùng vào cái ngã được thổi phồng, tánh
kiêu căng và khoe khoang khoác lác của ông
Đức Thế Tôn kể một
câu chuyện:
"Nầy Aggivessana,
thí dụ như có người kia vào rừng muốn chặt một cây có lỏi cứng. Anh thấy một cội cây loại cây chuối và nghĩ rằng cây ấy có lỏi cứng bên trong nên đốn
ngã xuống. Rồi anh tỉa ngọn, rong nhánh, chặt phần trên của cây và bắt đầu lột vỏ. Hết lớp nầy đến lớp khác anh không
tìm thấy gỗ, nói chi đến lỏi cứng.
"Cùng thế ấy, khi
Như Lai nghiên cứu thuyết hữu ngã của Ông thì thấy nó rỗng không, không có
thể chất bên trong. Giữa đám đông trong thành Vesālī Ông khoe khoang rằng: 'không ai có thể
tranh luận với ta mà không
toát mồ hôi, rung rẩy lập cập; ta chưa từng gặp một
đạo sĩ hay
Bà La Môn hay bất cứ ai đã tự xưng là
A La Hán, bậc
toàn giác mà có thể
chịu đựng nổi với ta trong cuộc
tranh luận, không rung rẩy hay
toát mồ hôi dầm dề. Chí đến một cột trụ
vô tri vô giác, khi
tranh luận với ta cũng phải rung rẩy và
ngã xuống đất, nói chi đến
con người.' Ông có khoe khoang như thế không, Aggivessana! Điều xảy ra là vài giọt mồ hôi từ trên lông nheo Ông đã nhỏ xuống y ngoại và rơi xuống đất. Còn
Như Lai thì không có giọt mồ hôi nào trong mình."
Đức Thế Tôn nói vậy và vén y cho
mọi người thấy một phần thân mình khô ráo không có một giọt mồ hôi.
Đạo sĩ Saccaka không còn gì để
trả lời,
lúng túng và bất ngờ, hai vai sụ xuống và cúi đầu ngồi lặng thinh. Rồi một người trong nhóm
tùy tùng của ông, một hoàng tử dòng Licchavi tên Dummukha
đứng dậy xin
Đức Thế Tôn cho phép ông nêu lên một
thí dụ. Khi được
Đức Phật cho phép, Dummukha, vị Hoàng Tử dòng Licchavi bạch, "Bạch Ngài, gần thành phố có một vũng nước, và trong vũng nước ấy có một con cua đang sống. Trẻ con từ trong thành ra đó đùa nghịch bắt con cua bỏ trên
đất liền. Cua quờ quạng quơ càng que vung vẩy. Mỗi lần con cua dở càng hay que lên thì trẻ con lấy cây đập. Một hồi càng que xơ xác, con cua không thể chạy trở xuống vũng nước. Cùng thế ấy Bạch Ngài, Ngài đã bẻ gảy
gai góc và những mũi nhọn của
tà kiến, đã
tiêu diệt mục trường, bãi cỏ sinh sống và những
tác động của
tà kiến. Giờ đây Saccaka không còn gì để
tranh luận với Ngài."
Trong khi Dummukha, hoàng tử dòng Licchavi trình bày với
Đức Thế Tôn thì các vị khác cũng
nóng lòng chờ đợi tới phiên mình để nói lên về Saccaka với những
câu chuyện thí dụ khác. Thấy
tình hình diễn tiến không mấy
tốt đẹp, người nầy đến người kia sẽ
chồng chất những điều sĩ nhục trên vai ông, Saccaka
quyết định ngăn chận Dummukha lại, không để nói thêm: "Hãy ngưng lại Dummukha,
chúng ta đang
thảo luận với Đức Gotama chớ không phải với Ông." Rồi ông bạch với
Đức Thế Tôn, "Bạch Ngài Gotama, hãy
để yên như vậy, tôi muốn
chấm dứt nơi đây những gì tôi nói và những gì người khác nói. Đó là những
câu chuyện bâng quơ, không
ý nghĩa quan trọng." Rồi ông bạch hỏi
Đức Thế Tôn: Trong
Phật Giáo phải
thực hành thế nào để tiến
đạt đến mức có
thể chế ngự
hoài nghi và có
đức tin vững chắc không lay chuyển.
Đức Thế Tôn dạy ông rằng ta phải hành thiền
cho đến giai đoạn có thể thấy với
tuệ minh sát và Đạo tuệ, rằng
năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức mà người đời thường khái niệm
sai lầm là "của ta", "ta", "tự ngã của ta" trong
thực tế không phải "của ta", "không là ta", "không là tự ngã của ta".
Saccaka cũng muốn biết
thực hành như thế nào để
trở thành một vị Arahat,
A La Hán.
Đức Phật dạy:
"Sau khi
chứng ngộ rằng
sắc uẩn và
danh uẩn không phải "của ta", không phải là "ta", không phải là "tự ngã của ta", ta phải
tiếp tục thực hành cho đến khi
hoàn toàn buông xả, không
mảy may bám níu và
luyến ái."
Cuộc
biện luận giữa Saccaka và
Đức Thế Tôn cho thấy loại
tà kiến chủ trương rằng tất cả
năm uẩn là tự ngã và những người
chấp thủ thuyết hữu ngã lúc nào cũng
xem thường những người tin lý
vô ngã mà họ xem là
thấp kém.
Một loại
tà kiến khác chủ trương rằng chỉ có một uẩn là tự ngã.
Hiển nhiên đó là
trường hợp chấp thủ tự ngã của Sāti, được trình bày ở chương IV và cũng là
chấp thủ vedaka attā và
chấp thủ kāraka attā.
Biện Luận Về Một Tự Ngã
Độc LậpTrong thời
hiện đại còn có
xuất hiện một thứ
chấp ngã khác, bám níu vào một cái ta. Như đã được đề cập đến trong các sách
Triết Học Ấn Độ, loại
chấp thủ tự ngã mới mẻ nầy không nhắc đến
năm uẩn và khẳng định rằng có tự ngã
hiện hữu hoàn toàn ngoài
năm uẩn.
Đây chỉ là một
ý kiến, và
ý kiến nầy nên được
loại bỏ bởi vì không có
năm uẩn ắt không thể có tự ngã. Hãy bình tâm
suy nghĩ:
nếu không có
sắc pháp ta không thể
kinh nghiệm tự ngã dưới một hình thể hay
thể chất nào. Nếu danh pháp vẫn
hiện hữu, có thể có sự bám níu vào danh pháp ấy giống như người
thế gian (puthujjana, người chưa
giác ngộ)
luyến ái cảnh giới vô sắc. Nhưng không có danh pháp thì không có gì để chấp là tự ngã.
Nếu không có thọ ắt không có
chấp thủ thọ lạc hay thọ khổ. Trong
trường hợp không có tưởng, ắt không thể có
luyến ái khởi sanh
nhận ra hay hồi nhớ. Không có thức, không thể hay biết gì, và
nếu không có hành
như ý muốn làm (
tác ý), ắt tự
ngã không thể hành động gì được. Do đó một tự ngã như thế đó chỉ
hiện hữu trong
danh nghĩa, không thể có
tác dụng và ta cũng không thể
mô tả. Vậy,
mặc dầu họ khẳng định rằng cái ta của họ
hiện hữu ngoài
năm uẩn nhưng
hiển nhiên họ vẫn
chấp thủ vào một, hay tất cả
năm uẩn. Không thể chấp vào một cái ta riêng rẽ
hiện hữu ngoài
năm uẩn.
Như vậy trong kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng, ta thấy những chữ, "sắc không phải tự ngã; thọ không phải tự ngã; tưởng không phải tự ngã;
hành không phải tự ngã; thức không phải tự ngã"
hoàn toàn loại bỏ và
biện bác tất cả mọi
hình thức chấp ngã, dầu xem cái ngã ấy nằm ngoài
năm uẩn hay nằm bên trong một, hai, ba, bốn hay tất cả
năm uẩn.
Nếu chấp
sắc uẩn là tự ngã thì bốn uẩn còn lại là những
thành phần, là
đặc tính và sự
nâng đỡ của cái ngã ấy và như vậy cũng là
chấp ngã. Nếu chấp một trong bốn uẩn kia, như
thọ uẩn chẳng hạn, là tự ngã, thì bốn uẩn còn lại cũng được
xem như thành phần, là
đặc tính và sự
nâng đỡ của cái ngã ấy.
Tuyên ngôn "sắc
pháp không phải là tự ngã"
biện bác loại trừ tất cả những loại
chấp ngã ấy.
Đức Thế Tôn đã
giải thích đầy đủ về lý
vô ngã nhưng để giải rõ thêm, Ngài
dựa trên hai đặc tướng
vô thường, khổ, và dạy:
Taṁ kiṁ maññatha bhikkhave rūpaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vāti. Aniccaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukhaṁ vā taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāma dhammaṁ kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama eso hamasmi eso me attāti. No h'etam Bhante.
"Nầy chư Tỳ Khưu, các con nghĩ thế nào?
Hình sắc là thường còn hay vô thường?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, là
vô thường."
Đức Thế Tôn hỏi Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu
hình sắc có là thường còn hay không? Bạch Ngài, "Nó không thường còn". Câu
trả lời nầy có thể được nói lên do một người thường, người có
kiến thức nhờ nghe ai khác dạy, nhưng
Đức Thế Tôn muốn một câu
trả lời dựa trên tuệ giác mà chính người
trả lời đã
chứng nghiệm, và trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, tất cả đều đã
chứng ngộ Đạo Quả Tu Đà Huờn, tức đã tự mình
chứng nghiệm chân lý. Câu
trả lời của các vị nầy
dựa trên tuệ giác của chính
bản thân mình. Đó là
ý muốn của
Đức Phật.
Quý vị
hành giả trong
thiền viện đây cũng có thể
trả lời câu hỏi nầy
dựa trên kiến thức bản thân của mình. Khi niệm "phồng",
hành giả nhận thức rõ ràng hiện tượng giãn ra, ép lên, và
di chuyển của bụng. Những
hiện tượng giãn ra, ép lên và
cử động là sự biểu hiện của
nguyên tố gió (vāyo dhātu). Trước đó không có những
hiện tượng ấy; nó trở nên
hiển hiện khi bụng bắt đầu phồng lên. Như vậy đó là sự
sanh khởi, rồi
trở thành, của
hiện tượng.
Di động phồng lên của bụng là sự bắt đầu
sanh khởi của
hiện tượng được
hành giả thận trọng quán sát và
ghi nhận. Khi
di động phồng lên
chấm dứt, những
hiện tượng giãn ra, ép lên và
di động của bụng không còn nữa. Ta nói là nó ngưng lại, tan biến,
chấm dứt, diệt. Như vậy khi
quán niệm di động phồng lên của bụng người hành thiền cũng
nhận thức trạng thái sanh khởi rồi
hoại diệt, tan biến.
Hiện tượng tan biến tiếp liền theo sự
sanh khởi và
trở thành nầy
chắc chắn là đặc tướng của
vô thường: sanh, trụ, diệt.
Chứng nghiệm đặc tướng
vô thường trong khi niệm phồng xẹp ở bụng là thật sự
minh sát bản chất vô thường aniccānupassanā ñāṇa.
Tuệ giác hiểu biết đặc tướng
vô thường phát sanh do
quán niệm trạng thái khởi sanh và
hoại diệt là sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, mức đầu của một loạt mười
tuệ giác phát triển do
thiền Minh Sát. Sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, chỉ
nhận thức trạng thái khởi sanh và
hoại diệt của những
hiện tượng tâm
vật lý mà chưa
tri giác đầy đủ những
chi tiết vi tế ở khoảng giữa. Đây chỉ là
kiến thức thâu thập nhờ thấy được
hiện tượng trở thành và tan biến của những tiến trình
liên tục tiếp diễn, ngay vào lúc nó khởi sanh.
Khi niệm phồng lên ở bụng,
hành giả nhận thấy bụng bắt đầu phồng lên và
chấm dứt.
Hiểu biết sự khởi sanh của
trạng thái phồng lên là
hiểu biết sự
trở thành,
hiểu biết sự
chấm dứt của
trạng thái phồng lên là
hiểu biết sự tan biến. Thấy rõ
trạng thái trụ và diệt của mỗi
di động phồng lên không thể có khái niệm
lầm lạc rằng đó là thường còn.
Khi niệm bụng xẹp,
hành giả nhận thấy rõ ràng trạng thái thâu rút
xẹp xuống của bụng. Đó là sự
di động của
nguyên tố gió (vāyo dhātu). Thấy
trạng thái khởi đầu và
chấm dứt của
di động xẹp xuống ở bụng là thấy
nguyên tố gió. Khi bụng phồng lên thì không có
di động xẹp xuống của bụng; chỉ đến lúc
di động phồng lên
chấm dứt hình sắc xẹp xuống của bụng mới bắt đầu hiện khởi. Rồi
cuối cùng hình sắc xẹp xuống cũng tan biến. Đó cũng là
vô thường.
Đặc Tướng
Vô ThườngAnicca khayaṭṭhena: một
điều kiện là
vô thường bởi vì
bản chất của nó là đi đến
chấm dứt. Theo định nghĩa nầy,
trạng thái xẹp xuống của bụng, biểu hiện qua
di động thâu rút
xẹp xuống đến cùng,
chấm dứt không xuống nữa. Như vậy
di động ấy là
vô thường. Một
Chú Giải khác định nghĩa hutvā abhāvato anicca: trước đó không
hiện hữu, nó
trở thành hiện hữu và rồi tan biến, như vậy là
vô thường.
Trong khi niệm, "xẹp, xẹp" và hay biết
di động xẹp xuống của bụng từ
lúc đầu đến lúc
chấm dứt,
hành giả chứng nghiệm bản chất vô thường của nó. Đó là thật sự thấu hiểu
bản chất vô thường (aniccānupassanā ñāṇa) ở mức độ sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt,
nhận thấy trạng thái khởi sanh và
chấm dứt của những tiến trình
liên tục, ngay vào lúc nó xảy diễn. Đến mức độ udayabbaya ñāṇa, tuệ
sanh diệt,
hành giả có thể
phân biệt rõ ràng ba, bốn hay năm chặng khởi sanh và
chấm dứt của
hiện tượng trong khoảng thời gian bụng phồng lên và
xẹp xuống. Khi tiến
đạt đến giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt,
hành giả có thể
phân biệt nhiều chặng
chấm dứt rất nhanh chóng trong một
di động phồng lên và
xẹp xuống.
Sắc pháp phồng lên và
xẹp xuống của bụng ở trong
trạng thái chấm dứt quả thật là
vô thường.
Khi co tay vào hay duỗi tay ra,
thận trọng quán niệm, "co vào, co vào" hay "duỗi ra, duỗi ra" và
rõ ràng nhận thấy mỗi
cử động từ lúc bắt đầu đến lúc
chấm dứt. Thấy được như vậy là nhờ tiến trình
di động được
thận trọng ghi nhận. Người thiếu niệm ắt không thể hay biết
cử động co tay vào hay duỗi tay ra của mình. Hay dù có hay biết đi nữa người ấy không
phân biệt rõ ràng lúc bắt đầu
cử động đến lúc
chấm dứt. Người ấy sẽ có
cảm tưởng rằng cái tay ở đó trước khi co vào hay duỗi ra sẽ còn đó sau khi
cử động. Khi co tay vào hay duỗi tay ra
hành giả thấy có
di động chậm chạp của tay mình từ khoảnh khắc nầy đến khoảnh khắc
kế tiếp. Trong mỗi
trường hợp co vào hay duỗi ra, lúc bắt đầu duỗi ra và
di động là bắt đầu có sự
hiện hữu của
nguyên tố gió (vāyo dhātu), và khi
chấm dứt cử động duỗi ra và
di động là sự
chấm dứt của
nguyên tố gió (vāyo). Khi niệm co vào,
hiểu biết sự khởi đầu và sự
chấm dứt của
nguyên tố gió (vāyo). Cùng thế ấy, khi niệm duỗi ra và
hiểu biết rõ ràng sự bắt đầu và sự
chấm dứt của mỗi
cử động duỗi ra là
hiểu biết sự phát sanh và
chấm dứt của
nguyên tố gió (vāyo).
Trong khoảng thời gian của một
cử động co vào hay duỗi ra,
hiểu biết những
di động chậm chạp khác nhau từ khoảnh khắc nầy đến khoảnh khắc khác cũng là
hiểu biết sự phát sanh và
hoại diệt của
nguyên tố gió (vāyo), có
đặc tính là giãn ra và
di động. Sự
di động từ từ của cánh tay
biểu lộ hiển nhiên bản chất vô thường.
Tuy nhiên, không thể
chứng nghiệm chân lý nầy
nếu không thận trọng quán niệm.
Trong khi đi,
hành giả niệm "mặt, trái",
hiểu biết lúc khởi đầu và lúc
chấm dứt của mỗi bước. Đó là
hiểu biết sự khởi sanh và sự
chấm dứt của
nguyên tố gió (vāyo) vốn có
đặc tính làm duỗi chân ra và
di động bước tới. Cùng thế ấy
hành giả quán niệm cử động của chân lúc dở lên,
đưa tới và đạp xuống,
hiểu biết rành rẽ lúc
tác động bước tới bắt đầu và lúc
chấm dứt. Đó cũng là
hiểu biết sự phát sanh và
hoại diệt của
nguyên tố gió (vāyo).
Hiểu biết di động từ từ của chân trong mỗi bước cũng là
hiểu biết trạng thái sanh và diệt của
nguyên tố gió (vāyo). Như vậy
nguyên tố gió, vốn có
nhiệm vụ đưa cái chân
bước tới, cũng khởi phát và
chấm dứt trong mỗi bước và do đó, là
vô thường.
Khi niệm
cảm giác (thọ) xúc chạm ở bất luận nơi đâu trong thân,
hiểu biết sự khởi sanh và
chấm dứt của
cảm giác đụng là
hiểu biết sự khởi sanh và
hoại diệt của
sắc pháp trong
xúc giác.
Hiểu biết sự khởi sanh và
hoại diệt của
sắc pháp trong chính thân mình và vật mình chạm đến.
Hành giả chứng nghiệm rằng
cảm giác đụng chạm của cơ thể
vật chất cũng không ổn định mà
vô thường, bởi vì luôn luôn
sanh diệt trong mỗi niệm.
Khi niệm "nghe, nghe"
hành giả ghi nhận rằng
tiếng động vừa khởi sanh đã nhanh chóng tan biến. Đó là
hiểu biết trạng thái sanh diệt của
âm thanh. Như vậy mỗi
tiếng động đều là
vô thường. Cùng với
sắc pháp của
tiếng động,
sắc pháp (phần nhạy) của lỗ tai mà
tiếng động chạm đến cũng
sanh khởi và nhanh chóng
hoại diệt. Như vậy có thể nói rằng một khi
nhận ra sự khởi sanh và
hoại diệt của
âm thanh cũng
hiểu biết sự khởi sanh và
hoại diệt của
sắc pháp (phần nhạy) trong lỗ tai. Như vậy
hành giả cũng
hiểu biết bản chất vô thường của tai.
Tiếng hú của nhà máy xay lúa hay tiếng sủa của con chó, ta thường nghĩ là kéo dài, nhưng đối với vị
hành giả mà
tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) đã phát triển mạnh mẽ, những
âm thanh ấy phát hiện từng loạt những khoảnh khắc
vi tế, từng chặng, từng giai đoạn, tiếng nầy rồi đến tiếng kia.
Hành giả chứng nghiệm rằng
sắc pháp của
âm thanh cũng
phát khởi và
hoại diệt rất nhanh chóng.
Cùng thế ấy trong khi niệm "thấy, thấy", nếu
tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) đã phát triển đến mức cao độ, vị
hành giả cũng
chứng nghiệm rằng
nhãn thức và sự thấy cũng nhanh chóng khởi sanh và tan biến.
Hình sắc được thấy, vốn khởi sanh và
hoại diệt, cũng không thường còn.
Sắc pháp (phần nhạy) của mắt, vốn
đồng thời phát sanh và
hoại diệt với
hình sắc được thấy cũng là
vô thường.
Trong khi ăn,
hành giả ghi nhận vị của
thức ăn và
hiểu biết khi vị ấy tan biến. Vị vừa khởi sanh đã nhanh chóng
chấm dứt,
quả thật là
vô thường.
Bản chất vô thường của vị rất
rõ ràng. Vị ngon ngọt của
thức ăn chỉ lưu lại ở lưỡi trong một
thời gian ngắn và mau lẹ biến tan. Cùng với vị,
sắc pháp, hay phần nhạy của lưỡi
cùng lúc cũng tan biến. Như vậy khi vị được
nhận ra là
vô thường,
sắc pháp, hay phần nhạy của lưỡi cũng được
nhận thức là
vô thường.
Vị
hành giả liên tục quán niệm mùi hương
hiểu biết rằng mùi
liên tục khởi phát và tan biến, tự đổi mới trong từng khoảnh khắc. Mùi khởi sanh và nhanh chóng tan biến,
quả thật là
vô thường, và phần nhạy của mũi cũng
đồng thời nhanh chóng phát sanh và
hoại diệt.
Trong lúc niệm phồng xẹp ở bụng có những
tư tưởng hiện khởi,
hành giả phải
thận trọng ghi nhận, và sẽ
nhận thấy rằng
vừa lúc niệm đến là suy tư ấy nhanh chóng biến tan. Mỗi khi suy tư tan biến thì
sắc pháp (
ý căn) làm nền tảng cho suy tư ấy cũng tan biến.
Ý căn cùng khởi sanh và tan biến với mỗi suy tư
không tồn tại lâu dài, cũng là
vô thường.
Những
sắc pháp được đề cập ở phần trên,
chính hành giả tự
bản thân chứng nghiệm là
vô thường, bằng cách
liên tục ghi nhận những
hiện tượng của
ngũ uẩn. Những
sắc pháp ấy
liên hệ đến
toàn thể châu thân, luôn luôn sanh rồi diệt, tự đổi mới trong từng khoảnh khắc, khi thấy, khi nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư. Giống như
sắc pháp bên trong thân mình,
sắc pháp trong thân những người khác cũng vậy, cũng
đồng thời khởi sanh và tan biến.
Thí dụ như khi
ghi nhận âm thanh, "nghe, nghe",
sắc pháp, hay phần nhạy của tai, cũng tức thì
hoại diệt.
Sắc pháp của những người khác trên
thế giới cũng
sanh diệt cùng thế ấy.
Do đó
Đức Thế Tôn hỏi, "hình sắc là thường còn hay vô thường?" Nhóm Năm vị Tỳ Khưu đã tự
bản thân chứng nghiệm bản chất vô thường của
sắc uẩn trả lời, "Bạch Ngài, sắc là vô thường".
Đó là những câu hỏi về đặc tướng
vô thường. Khi thấu hiểu tận tường đặc tướng
vô thường thì cũng
hiểu biết dễ dàng hai đặc tướng khổ và
vô ngã.
Vô thường có nghĩa là không thường còn,
không tồn tại lâu dài. Bản
Chú Giải định nghĩa là hutvā abhāvato anicca: trước đó không
hiện hữu, nó
trở thành, rồi liền
chấm dứt. Đó là những
đặc tính của
vô thường.
Mọi người đều có trông thấy tia chớp khi trời
sấm sét. Trước đó không
hiện hữu, bỗng nhiên nhoáng lên
trở thành, rồi tức khắc tan biến.
Hiện tượng tia chớp có đủ tất cả những
đặc tính của
lý vô thường. Cái gì không
hiện hữu bỗng nhiên khởi phát rồi nhanh chóng tan biến là có những
đặc tính của
trạng thái vô thường.
Vị
hành giả đã
liên tục quán sát tiến trình hay biết, trông thấy sự vật khởi sanh và
chấm dứt. Chỉ khi nào vị ấy thấu đạt
tuệ giác, chính tự mình
hiểu biết đặc tướng
vô thường aniccānupassanā ñāṇa,
tuệ minh sát thật sự mới phát triển. Trông thấy
trạng thái tan biến, vị
hành giả hiểu biết rằng đó là
vô thường. Sự
hiểu biết nầy là aniccānupassanā ñāṇa,
tuệ minh sát thấu hiểu đặc tướng
vô thường. Nhằm giúp phát triển
tuệ giác nầy
Đức Thế Tôn hỏi, "Sắc pháp là thường còn hay vô thường?"
Sư đã đề cập đến
vấn đề vô thường một cách đầy đủ, giờ đây Sư giảng qua đặc tướng
đau khổ.
"Cái gì là
vô thường, cái ấy là bất
toại nguyện hay vừa lòng?"
Đức Thế Tôn nêu lên câu hỏi.
Năm vị tỳ khưu
trả lời, "Bạch Ngài, là bất
toại nguyện."
Hai Loại
Đau Khổ (Dukkha)
Có hai loại dukkha,
đau khổ. Loại đầu tiên là
trạng thái khó
chịu đựng,
đau khổ. Loại nầy là dukkha,
đau khổ, bởi vì nó có tánh cách
áp bức, ray rứt.
Trạng thái luôn luôn
chuyển biến, không ngừng
sanh diệt, không phải là loại
đau khổ nầy, mà thuộc về loại
đau khổ thứ nhì, đúng theo định nghĩa của Bản
Chú Giải: "Là
đau khổ bởi vì nó đáng sợ".
Hiện tượng không ngừng
sanh diệt quả thật khủng khiếp, thật đáng kinh sợ, hay để dùng một danh từ của người Miến Điện, nó "không tốt". Câu hỏi, "Cái gì
vô thường là
đau khổ hay
hạnh phúc, dukkha hay sukha?" cũng giống như hỏi "là xấu hay tốt?" Nhóm Năm vị Tỳ Khưu
trả lời, "Là
đau khổ, dukkha". Hay trong
ngôn ngữ của người Miến, đó là "không tốt".
Lý do nó là dukkha, không tốt, là vì luôn luôn sanh và diệt, và như vậy là đáng kinh sợ. Người ta tưởng tượng sự vật là sukha, tốt, vì sự vật có vẽ như
tồn tại lâu dài và ổn định. Khi
nhận ra rằng trong
thực tế sự vật
không tồn tại lâu dài mà chỉ trong khoảnh khắc và không ngừng tan biến, thì không còn thấy gì sukha, tốt, trong đó.
Để sống,
chúng ta tùy thuộc nơi
ngũ uẩn, mà
ngũ uẩn lúc nào cũng không ngừng tan biến. Nếu vào một khoảnh khắc nào mà
ngũ uẩn không
biến chuyển đổi mới, ắt
chúng ta chết. Đó là điều đáng kinh sợ. Cũng giống như ta đang sống trong một ngôi nhà quá cũ, đã hư nát và có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.
Trường hợp một ngôi nhà cũ thì còn có thể
hy vọng nó kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng hay nhiều năm mới sập, nhưng
danh uẩn và
sắc uẩn bên trong thân ta thì không thể
tồn tại, dầu trong một giây. Nó không ngừng tan biến và như thế
quả thật khủng khiếp, thật đáng kinh sợ hơn là ở trong nhà cũ.
Do đó ta nói rằng nó là dukkha,
đau khổ.
Đặc tính của dukkha là gì? Theo Bản
Chú Giải, abhiṇha sampaṭipīḷanakara dukkha lakkhaṇaṁ: Luôn luôn,
áp bức, không ngừng cưỡng chế, là dấu hiệu của dukkha. Nơi đây luôn luôn
áp bức, không ngừng cưỡng chế, hàm ý là
trạng thái luôn luôn sanh và diệt của
danh uẩn và
sắc uẩn. Như vậy, tất cả
danh uẩn và
sắc uẩn đều được xem là dukkha, những sự vật "không tốt".
Tự
bản thân mình
kinh nghiệm, thấy dấu hiệu của dukkha và
nhận thức rằng sự vật là
đáng sợ,
đau khổ, "không tốt", không
đáng tin cậy, là thật sự
minh sát đặc tướng bất
toại nguyện của sự vật, dukkhānupassanā ñāṇa.
Phát Triển
Tuệ Minh Sát Thấu Hiểu Đặc Tướng Khổ
Trong khi
quán niệm danh pháp và
sắc pháp,
hành giả nhận thấy hiện tượng sanh diệt liên tục diễn tiến trong
di động phồng lên và
xẹp xuống ở bụng, trong
tác động co vào, duỗi ra của tay, hay dở lên,
bước tới và đạp xuống của chân.
Hành giả cũng thấy
trạng thái khởi sanh và tan biến
liên tục diễn tiến mỗi khi niệm đụng, nghe, thấy và nếm. Vị ấy bắt đầu cảm nhận sự
áp bức khó chịu trong những tiến trình sanh và diệt
liên tục, và thấy cái chết có thể xảy đến bất luận lúc nào, thấy mình luôn luôn bị
áp bức khó chịu, như vậy là đáng kinh sợ. Đó thật sự là
tuệ minh sát về đặc tướng khổ của sự vật dukkhānupassanā ñāṇa.
Nhằm giúp phát triển
tuệ giác nầy,
Đức Thế Tôn hỏi, "Cái gì
vô thường là khổ hay lạc, dukkha hay sukha?" Trong đoạn
tuyên ngôn, "Sắc,
tức thân nầy, không phải là tự ngã" cũng
rõ ràng ghi nhận, "Vì
sắc không phải tự ngã nên sắc có chiều hướng gây
đau khổ." Do vậy ta thấy
rõ ràng rằng sắc là khổ, và năm vị tỳ khưu
trả lời, "Bạch Ngài, là khổ, Dukkha."
Khi đã chỉ rõ rằng sắc là
vô thường và khổ
Đức Thế Tôn tiếp tục khuyến khích năm vị tỳ khưu không nên xem thân nầy là "của ta", là "chính ta", là "tự ngã của ta".
"Cái gì là
vô thường, khổ và luôn luôn
biến chuyển thì có
thích nghi hay
hợp lý không khi xem đó là 'cái nầy của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã của tôi'?"
Năm vị tỳ khưu
trả lời, "Bạch Ngài, không
thích nghi."
Chấp Thủ Với
Tham ái, "Đây Là Của Tôi"
Trong ba
hình thức chấp ngã, chấp rằng "cái nầy của tôi" là
chấp thủ với lòng
tham ái, chấp "đây là tôi" là
chấp thủ với tâm
ngã mạn, và chấp "đây là tự ngã của tôi" là
chấp thủ với
tà kiến.
Khi ta cảm nghe
thích thú với một vật, dầu vật ấy không phải của mình, thì đó là lòng
tham ái. Như đi chợ, ta thấy một vật đẹp,
phát tâm thỏa thích dường như đã làm chủ vật ấy. Thấy một cái áo, hay một cái quần
vừa ý, ta tưởng tượng như mặc nó vào mình, thấy một đôi giày giống
như ý mình muốn, ta cũng tưởng tượng như mang nó vào chân.
Chúng ta ưa thích đủ chuyện nếu
vừa lòng đẹp dạ dầu là vật
vô tri giác hay hữu giác hữu tri trong trí tưởng tượng ta
xem như đã là của mình.
Vì lẽ ấy Đức Bổn Sư hỏi rằng
chấp thủ sự vật
vô thường, khổ, phải luôn luôn
biến đổi và
thỏa thích trong đó, xem đó là "của ta", như
vậy thì có
sáng suốt không? Nói cách khác,
thích thú trong
đau khổ thì có đúng không?
Những
sắc pháp trong thân ta vừa khởi sanh đã liền tan biến, không ngừng
sanh diệt. Nếu ta thấy sự vật đúng
như thật sự nó là
vậy thì quả thật là
kinh hoàng, thật
đáng sợ, giống như đang sống trong một ngôi nhà quá cũ kỷ, rách nát, không biết sụp đổ lúc nào. Trong khoảnh khắc
hiện tại có thể ta cảm nghe
an toàn, nhưng bất cứ lúc nào trong tương lai,
tùy thuộc nơi
điều kiện và
hoàn cảnh, hiểm họa có thể bất ngờ xảy đến. Một khi
nhận thức rằng thân nầy rất mỏng manh, không ổn định, không thể
tồn tại đến một giây mà không
biến đổi, và như vậy là một nguồn
đau khổ, thì làm thế nào ta có thể
hoan hỷ thỏa thích với nó? Có ai
vui lòng chọn một người bạn đời sắp bị tàn phế hoặc sắp chết trong vài giờ hay trong vài ngày không? Không ai thật sự
hiểu biết điều gì sắp xảy diễn mà
hoan hỷ thỏa thích trong đó. Cùng thế ấy, vị
hành giả đã thấy tiến trình nhanh chóng
sanh diệt của
ngũ uẩn chỉ thấy
kinh hoàng đau khổ trong đó. Cảm nhận như vậy người ấy sẽ không có
ý muốn chấp thủ thân nầy là chính ta. Do đó Nhóm Năm vị Tỳ Khưu
trả lời rằng xem thân nầy là "của ta" thì
thật không thích nghi.
Chấp Thủ Với Tâm
Ngã Mạn, "Đây là Ta"
Thấy
sắc pháp và nghĩ rằng, "đây là Ta" là
chấp thủ với tâm
ngã mạn. Khi có mắt sáng,
tai thính, ta thấy và nghe
rõ ràng và lấy làm
hãnh diện, "Tôi có mắt và tai tốt, tôi
xinh đẹp, tôi có giọng nói êm dịu
dễ thương, tôi có
sức khỏe, tôi mạnh mẽ v.v..."
Chấp thủ thân nầy như thế ấy có
thích nghi không? Nghĩ rằng những gì của mình sẽ
tồn tại lâu dài và thường còn là khái niệm
lầm lạc có chiều hướng
tăng trưởng tính ngã mạn. Khi những
sắc pháp của mắt, tai và
hình sắc, những đối tượng của sự thấy, được
hiểu biết sai lầm là thường còn thì lòng tự mãn càng tăng cao. Cũng giống như người kia có nhiều
vàng bạc và
của cải được dấu kín ở một nơi: người ấy rất
hãnh diện với
tài sản dồi dào phong phú của mình, nhưng nếu biết rằng bao nhiêu vòng vàng đều bị trộm, bao nhiêu
tiền của đều mất, thì cái
bong bóng ngã mạn ấy sẽ nổ bụp,
xẹp lép. Cùng thế ấy, khi
chấp thủ những
sắc pháp hiển hiện trước mắt, và được nghe nói đến
rõ ràng, thì người ta nghĩ rằng nó vẫn
tồn tại, và rất
hãnh diện với những
sắc pháp ấy. Vị
hành giả chuyên cần và nhiệt thành
quán niệm sẽ
hiểu biết rằng những
sắc pháp ấy chỉ khởi sanh để rồi tan biến trong chốc lát thì
không có lý do gì để
hãnh diện với
ý nghĩ, "Tôi có mắt sáng", "Tôi xinh đẹp". Nhóm Năm vị Tỳ Khưu được hỏi, Ṅghĩ đến thân nầy 'đây là ta' thì có
thích nghi không?" Câu
trả lời là, "Bạch Ngài, không". Bằng cách nêu lên câu hỏi để được
trả lời,
Đức Thế Tôn muốn
rọi sáng cho năm vị tỳ khưu thấy rõ là khi có
quan niệm rằng sự vật là thường còn
bất hoại thì
tính ngã mạn sẽ
phát khởi, nếu
hiểu biết rằng
vạn pháp là
vô thường thì
ngã mạn không khởi sanh.
Chấp Thủ Với
Tà Kiến, "Đây Là Tự Ngã Của Tôi"
Chấp thủ niềm tin "Đây là tự ngã của tôi" là
chấp thủ với
tà kiến.
Tà kiến nầy được chấp chứa dưỡng nuôi khi có
niềm tin rằng các
sắc pháp bên trong một người
tồn tại lâu dài và
con người có thể
kiểm soát và điều khiển. Khi có sự
hiểu biết rằng những
sắc pháp ấy không ổn định thường còn mà luôn luôn
sanh diệt và
đau khổ vì phải luôn luôn
biến chuyển, không thể
tồn tại, ắt
không có lý do
vững chắc nào để bám níu vào thân nầy, xem đó là "ta", là một
thực thể sống. Khi người hành thiền
hiểu biết rằng ta không thể
kiểm soát thân nầy, không thể điều khiển,
sai bảo, "Hãy làm phát sanh tất cả những gì
tốt đẹp, đáng được
ưa thích, hãy không để xảy ra những gì
xấu xa, không đáng được
ưa thích, hãy để cho những
sắc pháp tốt thường còn" thì không có gì cho vị ấy bám níu,
chấp thủ là "ta". Do đó, để
trả lời câu hỏi, "Xem thân nầy là tự ngã thì có
thích nghi không?" năm vị tỳ khưu đáp, "Bạch Ngài không." Với câu hỏi nầy
Đức Thế Tôn rọi sáng rằng khi không
thông hiểu rằng
sắc pháp nầy
sanh diệt trong từng khoảnh khắc thì có
chấp thủ xem đó là tự ngã của mình. Khi đã biết
trạng thái vô thường của nó thì không còn
chấp ngã. Theo vậy, "trạng thái
biến đổi trong từng khoảnh khắc" cũng phải được xem là một đặc tướng của lý
vô ngã.
Trong phần đầu bài giảng hôm nay
chúng ta đã đề cập đến những
đặc tính của
vô thường; phần sau giảng qua tất cả ba đặc tướng được đề cập đến trong
Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhāṇa Sutta) dưới
hình thức vấn đáp.
Bài giảng về
sắc uẩn đã được trình bày khá đầy đủ.
Tiếp theo,
chúng ta sẽ đề cập đến những câu
vấn đáp liên quan đến các uẩn kia.