THIỀN SƯ VÀ TƯ TƯỞNG GIÁC NGỘ
Như Hùng
Chân Nguyên xuất bản 1987
Thiền Sư
HƯƠNG VÂN ĐẠI ĐẦU ĐÀ
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất nhị tầm thường không quá Xuân.
“Tiếng quyên từng chập vừng trăng sáng
Đâu phải tầm thường qua một xuân”. I. CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA VUA TRẦN NHÂN TÔNGThái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ, để ra đi tìm phương
giải thoát cho chính mình và
chúng sanh. Lối 1332 năm sau
Thái Tử Trần Khâm (1258-1308) cũng giã từ cung vàng tìm đến núi
Yên Tử để xin
xuất gia, mong
trở thành sơn tăng sống
cuộc đời thanh thoát. Nhưng vì vua cha
ép buộc nên phải
trở về để
kế nghiệp trị dân. Ngay từ lúc nhỏ ông dốc
lòng mộ đạo Phật ước muốn được đi tu, năm lên 16 tuổi Trần Khâm đã nhường ngôi vị Đông Cung
Thái Tử cho em, vua cha nài ép mãi ông mới nhận lời. Dù không được đi
xuất gia lúc bấy giờ, nhưng nơi ông đã
thể hiện được
con người siêu việt khác thường.
Mặc dù sống trong lâu đài
hạnh phúc mà tâm lúc nào cũng muốn vượt thoát ra khỏi thành. Trong sách Tam Tổ Thực Lục viết " Một hôm vào lúc nửa đêm, ngài trèo thành trốn đi định vào núi
Yên Tử. Đến chùa tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc, ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp. Vị sư trù trì ở đấy thấy ngài
tướng mạo khác thường liền làm cơm thết đãi. Vua cha
hay tin sai các quan đi
tìm thấy. Ngài bất đắc dĩ phải
trở về."
Thái Tử Trần Khâm
lên ngôi năm 1728 và
trở thành vua
Trần Nhân Tông. Ông là người siêu dị,
phi thường,
thông minh ít thấy
trong lịch sử cổ kim của
nhân loại. Lấy
thí dụ ông dám
từ bỏ ngai vàng để đi
xuất gia chứng tỏ ông
coi thường công danh phú quí. Dầu có được một
sự nghiệp to lớn vĩ đại,
quyền uy chấn động cả sơn hà,
đâu đó rồi bỗng chốc
tiêu tan, chỉ có
sự nghiệp tâm linh thực ngộ mới mong vượt ra khỏi sự
chi phối tàn hại của
vô thường.
Con người thông minh trọn vẹn như
Trần Nhân Tông quả thật ít
tìm thấy. Sự
thông minh nầy ông còn
áp dụng suốt cả quãng đời,
nổi bật nhất là
từ bỏ tất cả để thể nghiệm dấn thân vào một lối đi khác, nhiều
chông gai thử thách,
kiên trì gấp trăm ngàn lần, đối nghịch lại với cái
hiện trạng trái ngược mà ông đang nắm giữ.
Con đường mà ông sẽ phải
chấp nhận đi vào đó là rỗng không, chẳng có một cái gì là của mình, ngay
thân mạng cũng không phải là thực bởi lẽ nó sẽ tàn tạ. Trong khi đó nếu còn là một vị vua, ông có cả giang sơn gấm vóc theo nghĩa có của
quan niệm.
Nếu không là sự
thông minh phi thường ông đã không chọn lối rỗng không nầy. Rỗng không của
nghĩa tương phản lại gò bó, nhốt kín
con người vào những hư
danh giả tạm phù ảo trong lâu đài thành quách, của những nắm bắt chấp lầm có không, điên loạn trôi lăn trong được mất. Ông xứng đáng được để
ca ngợi là
con người phi thường trong lịch sử, sự
thông minh ông có được là nhìn xuyên thủng qua lớp vỏ
thời gian, ở đó ông
tìm ra sự thật đang nấp kín đàng sau những sơn phết, và nó là
chủ lực tạo nên những khủng khiếp
đe dọa triền miên và gây
thống khổ tràn ngập cho
con người. Nhìn để được
xuyên qua và để trông thấy
trọn vẹn những ẩn kín không phải là chuyện ai cũng làm được, hoặc nếu có cũng chỉ là
hàn gắn thêm phương thức khác nhằm lừa dối
ý thức. Lối nhìn nầy
hoàn toàn khác biệt và trái ngược với những
con người thực chứng về
hiện tượng.
Trước hết với những
con người nầy là không bao giờ gắn thêm định nghĩa nào về đối tượng, không bao giờ tạo thêm
quan niệm sai biệt nào khi nhãn quan bắt gặp
trần cảnh. Đặt nguyên ở
vị trí là nguyên lý cơ bản quan trọng nhất trong việc truy lùng nguyên thể của chính nó, nếu
xê dịch nó sẽ
biến dạng và tạo thêm sự lừa dối khác cho tâm ý. Tìm đến nó với lối nhìn
phong tỏa mọi ngõ ngách mà nó có thể lừa dối thêm
một lần nữa, bao phủ và phong kín xong ta mới nhìn thật sâu xuyên thủng qua lớp vỏ dù cứng đến bao nhiêu
nếu không thủng thì không thể
tìm ra được bộ mặt tươi mát hoặc khủng khiếp của nó. Nếu được
xuất hiện với tươi mát hay khủng khiếp chưa hẳn đó là sự
khám phá đúng mức mà ta muốn truy quật. Đó cũng chỉ là lớp vỏ thứ hai.
Nếu không khéo ta lại rơi vào những trá hình khác. Lối xử dụng và
đạt đến vẫn tùy vào mỗi
chúng ta.
Nếu không thể nhập thực sự vào lớp vỏ thứ hai, thì muôn kiếp vẫn phải chìm lặng trong
tử sinh.
Dĩ nhiên nếu không có được bản ý của thực ngộ thì làm sao
chúng ta có thể nhìn
xuyên qua chứ chưa nói đến nhìn được lớp vỏ thứ hai,
y cứ vào thực ngộ để
đạt được thực chứng, chặng đường nầy mới thật sự là
đi vào ngôi nhà của rỗng không tròn đầy.
Trần Nhân Tông đã
tìm ra được lý lẽ nầy “Con người Ngài rất
thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở,
thông suốt nội điển (kinh) và
ngoại điển (thế học). Những khi
nhàn rỗi Ngài mời các
Thiền khách bàn giải về
Tâm tông (Thiền)
tham học Thiền với
Tuệ Trung Thượng Sĩ thâm đắc đến chỗ
Thiền Tủy. Đối với Thượng Sỹ ngài
kính lễ làm thầy.”
Ngoài
sự nghiệp tâm linh, ta còn thấy được cung cách vĩ đại của một ông vua trong
công nghiệp trị quốc. Khi vừa
lên ngôi Trần Nhân Tông đã phải
đối đầu với sự
thử thách khủng khiếp mạnh như giông bão. Đó là cuộc xâm lăng lần thứ hai và thứ ba của Đế quốc
Mông Cổ, một đế quốc đã từng
chinh phục 40 vương quốc ở khắp cả hai lục địa Á, Âu, đã từng làm
run sợ những
quốc gia lớn mạnh.
Mông Cổ được kể
như đạo quân bách chiến bách thắng lúc bấy giờ. Nhưng đã thất bại nhục nhã dưới tay
Trần Nhân Tông và Dân Việt.
Nhờ
kết hợp được
tinh thần sắt son qua
hội nghị Diên Hồng,
thể hiện tinh thần dân chủ đoàn kết giữa quân dân, và cũng nhờ sự
tác động tinh thần Bi Trí Dũng trong
Phật Giáo mới có thể tạo nên những
vẻ vang hy hữu đó. Sử gia Ngô Sỹ Liên viết về
con người độc dị ấy như sau: “Vua được
tinh anh của
thánh nhân, đạo mạo
thuần túy,
nhan sắc như vàng,
thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là
Kim Tiên Đồng Tử (hay
Kim Phật) ở vai bên tả có nốt ruồi đen cho nên có thể
cáng đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm,
xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi băng ở am Ngọa Vân núi
Yên Tử.
Hòa nhã, cố kết lòng dân
sự nghiệp phục hưng làm
vẻ vang đời trước, thực là vua hiền của nhà Trần. Nhân Tông trên thờ Từ Cung tỏ đạo hiếu, dưới dùng người hiền lập nên võ công,
nếu không phải bậc
nhân minh anh vũ thì sao được như vậy ?”
Nhân Tông còn là một vị vua
nhân từ thương yêu dân
vô cùng. Vào một buổi chiều đông giá rét đi dạo ngoài thành thấy dân co ro trong lạnh lẽo và bên vệ đường một ông lão đang run rẩy, vua cởi áo ngự bào đắp cho ông lão, rồi quay lại bảo với
tả hữu một câu nói
trở thành bất hủ, phát xuất tận
đáy lòng “Trong
nhân gian có người còn đói khổ, thì trẫm vẫn không được yên lòng”.
Vua
Trần Nhân Tông xuất gia vào năm 1299 ở núi
Yên Tử ngài
chuyên tu khổ hạnh, lấy hiệu là Hương Vân Đại
Đầu Đà, và là
sơ tổ phái
Trúc Lâm.
II. TRÚC LÂM NGƯỜI XÂY DỰNG NỀN PHẬT GIÁO THỐNG NHẤT VÀ NHẬP THẾTrong lịch sử Thiền Tông Việt Nam người có được
sự nghiệp lẫy lừng nhất trong hai
phương diện chính trị và
đạo pháp, ta phải kể đến vua
Trần Nhân Tông. Khi còn là một vị vua ông đã có được
sự nghiệp dựng nước và giữ nước
phi thường,
kết hợp tinh thần sinh động thuần nhất và thống hợp
phương châm Từ Bi,
Trí Tuệ trong
Phật Giáo. Vì thế trên những
căn bản tôn trọng quyền thống hợp đó, ông mở ra
hội nghị Diên Hồng lấy
quyết định của Dân làm
quyết định số phận đất nước, nhờ vào
tinh thần quyết chí đó, ông đã hai lần
đánh đuổi quân Nguyên ra khỏi bờ cõi.
Bắt nguồn từ những
căn bản độc đáo riêng biệt đó ông
xây dựng được một dân tộc Việt hưng thịnh, huy hoàng, mà
ảnh hưởng tồn tại mãi với núi sông.
Trần Nhân Tông kết hợp và thống nhất được
sinh mệnh Quốc Gia và
Đạo Pháp. Guồng máy
điều hành chính
trị quốc gia là kinh thành Thăng Long nơi mà Trần Anh Tông trị vì, và núi
Yên Tử thủ đô
tâm linh, và
linh hồn của Dân Việt
do Thái Thượng Hoàng
Trần Nhân Tông chủ động. Ngài đã
đào tạo ươm
hạt giống phát huy
chánh pháp vào người con là vua Anh Tông, sau nầy
trở thành vị vua
kết hợp chánh pháp trong việc
trị quốc của mình.
Đóng góp to lớn vĩ đại của
Trúc Lâm là
xây dựng nền
Phật Giáo thống nhất và
nhập thế. Trước đó
Thiền Tông là một
tông phái lớn mạnh, đa diện trên mọi
lãnh vực, hầu hết những
Thiền Sư xuất thân từ Thiền Phái:
Tỳ Ni Đa Lưu Chi,
Vô Ngôn Thông,
Thảo Đường đã đóng góp
tích cực trong mọi
lãnh vực Văn Hóa, Nghệ Thuật,
Thi Ca v.v… Nhờ sự
tác động chỉ đạo của Thiền, tạo nên
nội tâm siêu việt độc đáo, nên những
Thiền Sư là người trực tiếp mang ánh sáng
tâm linh và
văn hóa trợ giúp
quần chúng, điển hình đã có những
Thiền Sư làm
Quốc Sư lỗi lạc, cũng như
cố vấn chính trị cho những
triều đại đời Lý, Trần v.v…
Về khía cạnh
Văn Hóa đã được lưu lại, những
Thiền Sư trác việt, thừa khả năng và vượt hẳn trong nhiều lần
tiếp xúc thơ văn với những nhà ngoại giao
Trung Quốc khiến họ phải bái phục.
Sau đó những Thiền Phái nầy
suy vi, như chính cái đổi thay của dòng đời, của sự hưng thịnh, mãi về sau
Thiền Sư Thường Chiếu là người gạch nối và tổng hợp cả ba thiền phái, và
Trúc Lâm là người độc đáo phát huy sự tổng hợp nầy, tạo nên những sắc thái riêng biệt cho Thiền Phái
Trúc Lâm Yên Tử,
vì vậy những đóng góp của Ngài được kể như quan trọng, trong việc thống hợp và tạo dựng
cương lĩnh nhập thế tích cực nầy.
Chủ trương của Thiền
Việt Nam là góp phần vào
sự nghiệp phát huy Dân Tộc và
Đạo Pháp, có khuynh hướng
nhập thế cứu dân giúp đời, gần gũi với
quần chúng, có mặt
thiết thực trong sự
thăng trầm vinh nhục của Dân Tộc. Sự hưng thịnh của Dân Tộc cũng chính là sự hưng thịnh của
Đạo Pháp, bởi lẽ sự
hiện hữu của
Đạo Phật là vì
cuộc đời, vì sự
thống khổ của
chúng sanh, thì làm sao có thể tách rời
con người để hưng khởi? Vì điều đó, sự có mặt của
Phật Giáo được kể như gắn liền trong tất cả những
sinh hoạt để từ đó
xoa dịu và góp phần trong việc thay đổi
tâm linh hướng về
chân thiện mỹ. Những
Thiền Sư Việt Nam cực lực, phát huy và hưng khởi
đại nguyện đi vào cuộc đời để đón nhận và
chia xẻ những
thống khổ đang bao phủ. Ta có thể
tìm thấy những
thiền sư nầy như:
Pháp Hiền,
Huệ Nghiêm,
Thanh Biện,
Long Tuyền,
Định Không, Thông Thiện,
La Quý An,
Pháp Thuận,
Thiền Ông,
Sùng Phạm,
Vạn Hạnh,
Minh Không v.v… của Thiền Phái
Tỳ Ni Đa Lưu Chi.
Và thiền phái
Vô Ngôn Thông có những
Thiền sư tài
ba lỗi lạc trong
lãnh vực Văn Hóa và Chính Trị như:
Thiền Sư Cẩm Thành, Thiên Hội,
Vân Phong,
Khuông Việt, Đạo Bảo,
Định Hương,
Thiền Lão,
Viên Chiếu, Lý Thái Tông,
Thông Biện,
Mãn Giác, Ngô Ấn,
Đạo Huệ,
Thường Chiếu,
Thần Nghi, Ẩn Không, Tiêu Diêu,
Nhất Tông v.v…
Cũng như Thiền Phái
Thảo Đường có nhiều
đệ tử đã
lãnh đạo quốc gia như: vua Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông,
Lý Cao Tông v.v…
ảnh hưởng của Thiền Phái nầy trong giới vua quan và
trí thức,
nổi bật về mặt
học thuật,
tư tưởng,
thi ca.
Trúc Lâm đã khéo léo
dung hòa, tổng hợp những thiền phái nầy để trở nên
một thể duy nhất trong việc
nhập thế và
giải thoát tâm linh.
Ảnh hưởng mà Ngài đã
xây dựng,
tác động mạnh mẽ trên những
lãnh vực:
Văn Hóa,
Xã hội,
Học thuật v.v… lấy
tinh thần tổng hợp của Thiền
Việt Nam làm
yếu tố tiên quyết trong việc
chỉ đạo những
lãnh vực trên.
Đồng thời trên
căn bản tâm linh, lấy sự
siêu thoát giải phóng của mình song song với việc hưng phục
xã hội và
tâm linh của
con người.
III. QUAN NIỆM VỀ THIỀN CỦA HƯƠNG VÂN ĐẦU ĐÀ Trần Nhân Tông đạt được tinh yếu của Thiền với Tuệ Trung Thượng Sỹ khi còn làm vua. Sau khi đi tu, ngài
chuyên cần tu tập theo
hạnh đầu đà (
khổ hạnh) và lập chùa tiếp
độ tăng chúng.
Một hôm ngài đến chùa Sùng Nghiêm ở núi
Linh Sơn,
truyền bá Thiền Tông, ngài nói “Thích
Ca Văn Phật vì một
đại sự mà
xuất hiện giữa cõi đời này, suốt 49 năm chuyển động đôi môi, mà chưa từng
nói một lời. Nay ta vì các ngươi lên ngồi tòa nầy biết nói chuyện gì đây ?”
Ngồi giây lâu ngài ngâm:
Đỗ Quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất thị tầm thường không quá xuân.
Dịch:
“Tiếng quyên từng chập vừng trăng sáng
Đâu phải tầm thường qua một Xuân.”
Ngài vỗ bàn một cái nói:
Không có gì sao? Ra đây !Ra đây!
Đức Phật đã minh định trong
kinh Kim Cang suốt 49 năm
thuyết pháp ngài không
nói một lời.
Tinh thần vô chấp của
kinh Kim Cang đã hất tung tất cả những
ràng buộc trở ngại trong việc
đạt được thực chứng.
Trúc Lâm mở đầu
tuyên ngôn nầy là cũng
hé mở chân trời
buông bỏ mọi nắm bắt tương quan trong việc khơi dậy chặng đường bùng lên
giác ngộ trong mỗi
tâm linh .
Có lần
Pháp Loa hỏi :
Nói huyền nói diệu, luận cổ bàn kim, đều thuộc thứ nói đùa, một
câu không kẹt trong
ngôn ngữ làm sao nói được?
Ngài đáp:
Gió đông
dìu dịu ngàn hoa nở
Lách cách vành xe một
tiếng vang.
Pháp Loa toan mở miệng nói Ngài liền bảo:
Chim hót máu tuôn vẫn
vô dụngNon tây như trước phủ mây chiều.
Cổ nhân rất
ít khi sử dụng đến
ngôn từ và nếu có dùng đến cũng chỉ là
diệu dụng tùy nghi. Trong Thiền lối khai
quật nội tâm đều chú trọng vào những thuật dụng như la, hét, đánh…Vì vậy, những câu nói nếu được nói ra thì trở nên lửng lơ, như chính câu nói bất hủ của
Thiền Sư Chân Nguyên “Nói ra là bị kẹt”chỉ có im lìm nhìn
trạng huống trôi qua, cảm nhận không thể nào dệt nên
ngôn từ sợ nó bay mất, hoặc chính nó bất lực trước những
diễn tả về
nội tâm thâm sâu. Nhưng “không nói cũng chẳng xong”nếu không nói mà kẻ
đối diện có thể
lãnh hội trọn vẹn những gì mà mình mong muốn thì tuyệt hay biết mấy, nhưng khổ một nỗi đàng nào cũng thấy vương vướng một chút gì ngằn ngặn ở trong. Đây không phải là không tìm được
ngữ ngôn để trao gởi, nhưng sợ
lời nói tạo nên những
chấp trước cho kẻ khác. Thôi đành phải
mặc nhiên trong tất cả những
diệu dụng ấy. Có bao giờ nói mà không nói lại bị kẹt đâu?
Có một vị hỏi :
Thế nào là
gia phong Phật quá khứ?
Ngài đáp:
Vườn rừng vắng vẻ ai xem sóc
Lý trắng đào hồng hoa
tự nhiên.
Thế nào là
gia phong Phật hiện tại?
Đáp:
Gia phong sóng bạc mê yến sớm
Tiên uyển đào hồng say gió xuân.
Thế nào là
gia phong Phật vị lại?
Đáp:
Bãi biển chờ triều trời đợi nguyệt
Xóm chài nghe sáo khách nhớ nhà.
Gia phong Hòa Thượng thế nào?
Ngài đáp:
Áo rách che mây sáng ăn cháo
Bình xưa rưới nguyệt tối uống trà.
Tìm hiểu về
gia phong là muốn tìm đến cái cung cách xử dụng, nhưng ở đây là
sự nghiệp tâm linh. Có thể đây là cách lối còn rơi vào
quá khứ,
hiện tại và
vị lai. Nhưng nếu
quá khứ,
hiện tại và
vị lai bất khả thuyết thì
gia phong có ích gì?
Nếu không tự mình
đạt được chiều sâu
tâm linh ngay trong
hiện tại thì
quá khứ bỗng
trở thành ngăn lối, đàng trước
mờ mịt, đàng sau chập chùng muôn vạn nẽo.
Lối
trả lời của ngài cho
chúng ta thấy được cách bỏ công chỉ biết mong đi tìm những lý lẽ không
thực tiễn. Nếu từ những
truy cứu đó bổ sung vào
tâm thức để có cơ may bùng lên
giác ngộ, thì đó là
phương tiện nhưng nếu truy tìm với nghĩa của truy tìm mặc yên thì không giúp được gì, đúng như ngài đã nói “vườn rừng vắng vẻ ai xem sóc” hay “Bãi biển chờ triều trời đợi nguyệt”
Quan niệm của Hương Vân là không để kẻ
đối diện kẹt vào
ngữ ngôn dù đó là những lời Thiền ngữ. Ngài đã
hé mở quan niệm này ngay lúc đăng
bảo tọa mà đoạn trước
chúng ta đã có dịp đọc qua. Việc Ngài phải
hé mở ngữ ngôn là việc chẳng đặng đừng “không nói cũng chẳng xong” Nhưng dùng đến xảo dụng chấm phá lửng lơ thì may ra
con người mới không rơi vào thế kẹt đó.
Điều này
hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ
thẩm định tâm tư của
cá nhân ấy, có những lúc ở những thế kẹt để rồi
vẫy vùng trong đó may ra thoát đươc, nhưng không có nghĩa thoát ra, quá trình nầy chắc hẳn không còn bị kẹt trong khi
dụng công. Chỉ có thể bị kẹt ở
lúc đầu nhưng khi
hạ thủ công phu thì buông rơi tất cả. Và nếu kẹt ở
lúc đầu thì làm sao
tìm ra được
nguyên tố cơ bản
để hạ thủ? Cũng có thể kẹt nhưng mà không, xử dụng không khéo trở nên
nghịch lý và
mâu thuẫn lại chính ta. Hễ con thấy kẹt thì phải thấy có cái không kẹt nhưng chính cái không kẹt có thể là kẹt thì sao?
Truy lùng cái thế kẹt và không thì suốt cả
cuộc đời chúng ta cũng không
tìm ra được lý lẽ này. Đàng nào
giá trị chỉ được
xuất hiện một khi
ý thức không còn nằm trong hạn cuộc ngay khi trực diện với mọi tương quan, may ra ta mới
vỡ tung ra khỏi những thế bí này. Cần nhất sống với những gì mà ta đã
một lần tuyệt diệu bắt gặp trong ngõ ngách của
tâm linh, sống với nhưng không có nghĩa lầm chấp đó là
cứu cánh, phải
thong dong trên lối về tắm mát dòng sông
giải thoát, không
cưu mang tất cả để không vướng bận đôi vai trần trụi.
Điều mà Hương Vân
mong mỏi là chặng đường tìm đến phải
thanh thản như chính cái “Bình xưa rưới nguyệt tối uống trà”.
IV. SỨ GIẢ CỦA TÌNH THƯƠNG VÀ HÒA BÌNHNgoài phong thái và
tâm linh thực ngộ của một
Thiền Sư, Hương Vân Đại
Đầu Đà còn là
sứ giả của tình yêu thýõng, gieo rắt
lòng từ đến tận muôn phương. Một thân mình chống gậy để khuyên dân hướng đến nẻo thiện,
quả thật Ngài xứng đáng là kẻ đem khả năng
tâm linh châm ngòi cho
quần chúng.
Đặc biệt nhất, những
Thiền Sư Việt Nam không những lo
giải thoát cho riêng mình mà còn
đi vào cuộc đời để
chuyển hóa những khắc khỏi
trầm luân mà
con người đang đối nhận. Khác hẳn với
Thiền Sư Trung Hoa, chỉ tách khỏi
cuộc đời lặng mình trong thực ngộ.
Thể nhập vào
cuộc đời của Thiền
Việt Nam đã tạo nên những
ảnh hưởng sâu đậm trong mọi tầng lớp
quần chúng mà Hương Vân
Thiền Sư đã tổng hợp và tạo dựng
tông phái một cách rõ rệt.
Cuộc đời của Hương
Vân Đầu Đà được kể như
hoạt động tích cực trong công cuộc
nhập thế và
xuất thế. Sự
giác ngộ được khai quật từ trong
cuộc đời, trong những tương quan của mọi
trạng huống, từ đó cho ta những
ý lực kinh nghiệm thẩm định những gì
trôi qua trước mắt. Bởi lẽ
tử sinh phiền não không phải là
thực thể có từ bên ngoài hay
yếu tố phi ngoại. Không có sự phát động ở nội tại thì điều đó không có cơ hội bùng lên. Và nếu đây là điều hẳn nhiên thì
cuộc đời chính là môi năng tạo nên những hưng khởi mạnh nhất.
Từ
căn bản đó, nếu tách ra khỏi
cuộc đời thì sự
giác ngộ không có
giá trị thực tiễn, trong việc đem lại
hạnh phúc cho muôn loài và không có sự
giác ngộ nào có thể tách rời
cuộc đời mà
đạt được.
Cuộc đời ở đây được hiểu theo nghĩa những tương quan từ nội và ngoại tại.
Yếu tố trong và ngoài đó tạo nên
tương hợp với ta và
tha nhân. Và
giác ngộ lại càng không có nghĩa
truy tầm với chính ta mà
đạt được nếu không có những tương duyên về đối tượng và
con người.
Vì vậy muốn
đạt được thực chứng phải
đi vào cuộc đời, sống với
cuộc đời để từ đó quật tung những nguyên lý tìm ẩn. Hẳn nhiên điều
tiên quyết nhất để
đạt được là phải
chuyển hoán tâm thức để không bị
ô nhiễm. Nương vào nhưng không có nghĩa bị
lệ thuộc và sai sử bởi những dòng
ý thức tạp nhiễm, nếu trong ta không
liên tục duy trì trí tuệ toàn triệt.
Hành trang
đi vào phải được bao bọc bằng chính
ý lực vượt thoát trong mỗi
ý niệm hưng dậy, trực diện với những
trạng huống phải như gió thoảng mây bay, như một cánh chim thoáng qua trên mặt nước, bóng chim nước chẳng bao giờ muốn lưu giữ. Tất cả chỉ mênh mang
thấp thoáng như chính cái
luân lưu đi qua của dòng sông,
đâu đó sóng nước chập chùng xô đẩy
thân phận chiếc thuyền đi về nơi mà chỉ có nước và thuyền mới biết sẽ về đâu.
Chưa một ai có thể
mô tả phỏng đoán được bộ mặt muôn đời của nó,
nếu không thể nghiệm nó từ trong
cuộc đời,
chứng nghiệm nó từ trong
tâm linh của chính mình. Điều này nếu được có thể giản dị như sáng mai
thức dậy nhìn chiếc lá vàng rơi trong chơ vơ. Ngược lại có thể khủng khiếp như
thân phận muôn đời của con rùa tìm bộng cây trôi giữa
đại dương.
Tất cả không phải là điều lo sợ nếu có được một
tâm linh vững chải trước những giông tố của dòng đời.
Trúc Lâm Hương Vân Đại
Đầu Đà đã khơi dậy và
chứng minh tâm linh thực ngộ ấy trong cả quảng đời
đi vào trần gian để
chuyển hóa mà ta có thể
tìm thấy qua cung cách của một
Thiền Sư mang
trọng trách là
sứ giả của
tình thương và hòa bình.
Tình thương và hòa bình ở đây còn có một nghĩa nữa. Thương như thương chính
thân phận của mình và
chúng sanh trước những khổ đau
chồng chất và hòa bình ở đây là không tạo sự đối địch ở trong nội và ngoại tại.
Điều mà
Trúc Lâm thực hiện được
thể hiện qua cung cách mà ông đã truyền trao. Trong sách Tam Tổ Thực Lục ghi rằng "
Điều ngự (
Trúc Lâm) đi khắp mọi nẻo thôn quê khuyên dân phá bỏ các
dâm từ(miếu thờ không
chánh đáng)
thực hành giáo lý Thập Thiện. "
Trước hết truy tìm về hành động này ta thấy
Trúc Lâm đã sống gần gũi với
mọi người để tạo sự
cảm thông giữa một vị vua trước đó với một người dân
bình thường, giữa một
Thiền Sư đạt được đời sống tâm linh,với những
con người còn vướng
bụi trần. Hành động nầy cho ta khái niệm vững chải là ngoài
lòng từ và
trách nhiệm của một vị
thiền sư,
Trúc Lâm còn là
môi giới giữa hai
tâm linh khác nhau. Ngài muốn tạo lại
căn bản cho
tâm linh mà không có sự ngự trị sai sử của những
tác động không
chính đáng do sự
phong tỏa của
vô minh. Phải thắp sáng
giáo lý Thập Thiện là nền tảng toàn hảo trong nền
luân lý của
Phật Giáo, nhằm
hoán chuyển nhân tố để
đi vào ngôi nhà
giải thoát.
Trúc Lâm đã
thành công trong việc tạo dựng một nền chính trị theo
chánh pháp. Và
thành công tạo nên
xã hội từ bi,
giải thoát trong
Phật giáo.
Năm 1301 ,
Trúc Lâm đã
vân du đến
quốc gia láng giềng đó là Chiêm Thành để
xây dựng quan hệ
thân hữu và nền Hòa Bình giữa hai Dân Tộc.
Công chúa Huyền Trân được
Trúc Lâm hứa gả cho vua Chiêm là
yếu tố quan trọng
thắt chặt được quan hệ
giá trị thiết yếu nầy.
Trúc Lâm ý thức mãnh liệt sự tương quan thân tình giữa hai Dân Tộc, như vậy sẽ bớt đi những
xung đột và không tạo cảnh chinh chiến khổ đau cho nhau.
Trúc Lâm đã
hy sinh người con gái
yêu thương của mình, để tạo nên sự
yêu thương rộng lớn cho hai Dân Tộc,
việc làm nầy là những
con người độc đáo
phi thường .
Cái thế “môi hở răng lạnh” cái thế “bà con xa không bằng láng giềng” chưa đủ để
Trúc Lâm phải gả con gái của mình. Nếu muốn tấn công
tiêu diệt Chiêm Thành, lúc nầy quá dễ với Dân Việt, vì quân
Mông Cổ lẫy lừng còn phải bị bại huống gì nước Chiêm nhỏ bé, nhưng
Trúc Lâm đã không chủ trương điều nầy.
Bảo vệ và
duy trì tình
yêu thương, chung sống trong Hòa Bình là
lý tưởng tuyệt hảo mà ngài đã chọn lựa. Điều đó
thể hiện được
tinh thần Từ Bi trong
Phật giáo mà ngài là người
thực hiện rõ nét .
Điều đáng
ca ngợi nhất là
Trúc Lâm đã
xây dựng nền
Phật giáo nhập thế,
ảnh hưởng mãnh liệt trên những bình diện:
Văn hóa, Chính trị,
Xã hội, Nghệ thuât v.v….Ở đó ta thấy sự có mặt của những quân vương
Bồ Tát cai trị
nhân dân trên
căn bản Từ Bi,
Trí Tuệ.
Xây dựng được một
xã hội thuần túy, lấy
ý nguyện của dân làm
ý nguyện của mình, và lấy
tinh thần trác việt của Thiền, làm
tông chỉ trong việc xử thế. Và lấy tinh yếu
giải phóng con người ra khỏi khổ đau của
Phật giáo, làm nền tảng để tạo sự
quân bình trong
quốc gia.
Trúc Lâm được kể như một
sứ giả thành công trên hai bình diện ở trên. Và đã lưu lại
hình ảnh cao quí cho những vị vua sau đó .
V. NHỮNG SÁNG TÁC CỦA TRÚC LÂM .Cuộc đời và
hình ảnh của Hương Vân Đại
Đầu Đà đã là một
tác phẩm vĩ đại, dù không được dệt nên bằng
ngôn từ nhưng
giá trị vô cùng thiết yếu trong việc
hoán chuyển nội tâm kẻ khác bằng biểu hành . Ngoài những
biểu tượng cao quí đó Ngài còn
sáng tác những
tác phẩm như sau:
-
Thiền Lâm Thiết Chủy
Ngữ Lục.
-
Đại Hương Hải Ấn Thi Tập
-
Tăng Già Toái Sự
- Thạch Thất Mỵ Ngữ, do
Pháp Loa soạn lại lời của Ngài.
Chúng ta thử
thưởng thức một vài
sáng tác, như bài Đăng
Bảo Đài Sơn của
Trúc Lâm.
Thời lai thu vị thâm .
Vân sơn tương
viễn cậnHoa kình báo
tình thâmVạn sự thủy
lưu thủyBách niên tâm ngữ tâm
Ỷ lan hoành ngọc địch
Minh nguyệt mãn hung khâm.
Dịch:
Đất vắng đài thêm cổ
Ngày qua xuân chưa nồng
Gần xa mây núi ngất
Nắng rợp ngõ hoa thông
Muôn việc nước trôi nước
Trăm năm lòng như lòng
Tựa lan nâng ống sáo
Đầy ngực ánh trăng lồng.
(Ngô Tất Tố)
Đất vắng không lưu lại chân người
nếu không có lầy lội từ những cơn mưa, đài đã phủ rêu phong trơ gan cùng trời đất,
đâu đó xuân như vẫn hững hờ đến đi thoáng chốc, chỉ còn rêu phong trơ trụi
không điểm tô cho đài đã
uổng công chờ đợi.
Nắng đã đi rồi, ngõ hoa từ
ẩn mình trong đêm
cô quạnh, nhưng ánh trăng chênh vênh trên từng phiếm lá, sóng sõi trên ngọn liễu, mang hương dịu huyền nhè nhẹ chiếu sáng quả tim ấp ủ ánh trăng
lồng lộng. Chỉ có quả tim vĩ đại mới mang cả sơn hà
đại địa trong sự bé nhỏ của mình, nếu ánh trăng không đem lại thanh khí
tuyệt vời, thì làm sao tìm được
giá trị của những đêm trăng với núi đồi? Phải để ánh trăng chiếu sáng quả tim, vốn ngàn năm tạo những nhịp đập không hài hòa tương quan với đất trời, nhưng nếu quả tim, được
thấm nhuần dòng máu
giải thoát, thì ánh trăng là ánh sáng của
tâm linh.
Tương quan của đất trời, của lòng người với ánh trăng, nếu trong
tâm thức tìm được
điểm tựa vững vàng, thì nó thơ mộng như chính cái thơ mộng của
con người vô tư, tựa lan can nâng ống sáo khi
hoàng hôn trở về. Ngày lại ngày qua, năm lại năm đến, thầm nhủ với lòng thôi nhé ta giã
từ tử sinh, để lại
một lần thôi không
rong chơi, để
một lần tạm biệt và rồi sau đó cũng để
một lần vì
đại nguyện đi vào trần gian tìm lại ánh trăng huyền nhiệm năm xưa chiếu rọi với đất trời.
Và đây là một bài thơ nữa của
Trúc Lâm.
Xuân Vãn
Niên thiếu hà tằng liễu
sắc khôngNhất xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim
khám phá đông hoàng diện
Thiền bản đồ đoàn khan trụy hồng.
Dịch:
Thuở bé chưa từng rõ
sắc khôngXuân về hoa nở rộn trong lòng
Chúa Xuân nay bị ta
khám pháChiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng.
(
Thượng Toạ Thích Thanh Từ)
Lúc còn là một Đông cung
Thái Tử chưa
thấm nhuần đạo lý, ngài đã
diễn tả nội tâm của mình qua hai câu thơ trên, mỗi độ xuân về nơi vườn Thượng Uyển, trăm ngàn đoá hoa thi nhau phơi sắc giữa
ánh nắng hồng của
mùa Xuân, cảnh vật tưng bừng, tâm ngài theo đó mà vui. Nhưng để rồi
mai kia gió xuân thôi không còn
mang theo hương lạ nữa, trăm hoa từ từ rơi rụng, còn
nỗi buồn nào hơn. Sắc đến rồi không cũng đến, thay nhau tạo nên những
triền miên sầu đau buồn nhớ, cảnh bây giờ
tiêu hoang lòng người không còn nở rộn khi xuân đi qua tự bao giờ.
Nhưng không, kể từ khi
thấm nhuần được dòng suối
vi diệu tâm linh mà Tuệ Trung Thượng Sỹ đã truyền trao, Hương Vân vén mở bộ mặt nghìn đời của Chúa Xuân
sắc không bỗng chốc
tiêu tan, còn lại
một thể duy nhất vượt ra ngoài
thời gian. Bộ mặt đó như vậy, không còn duyên theo sự vật để khởi lên
nội tâm lệ thuộc cảnh, biến
tâm thức trở nên
tinh luyện bình thản trước những đổi thay biến hiện; đó là cái giá tất hữu của những gì không bị
chi phối bởi
thời gian, một khi
dòng tâm tách ra khỏi thế đứng đổ vỡ, thì
thời gian không đành phải chào thua hay sao?
Ở đó còn lại sự
thanh thoát,
bình tĩnh,
ung dung tự tại, đem chiếu ra trải dưới cành
hoa hồng đang tỏa hương, ngắm trăng đang len lõi qua cành trúc và đôi tay từ nâng nhẹ ly trà thắm đượm trên đôi môi. Cảnh đó và
thời gian ấy
tuyệt diệu vô cùng, những gì đã từng làm
run sợ, bây giờ trở nên bạn hữu như đóa hồng của đêm trăng ngồi uống trà, không một bâng khuâng
tư lự.
Rồi sau đó giờ Tý của tháng mười một, đêm nay trời trong sao sáng,
mọi vật đang yên lặng không dám khuấy động giấc ngủ
thể nhập trong
vô cùng, ngài nhắm mắt giã từ trần gian, sau khi
đệ tử Bảo Sát hỏi “Tôn Đức đi đến chỗ nào? ” Ngài nói kệ đáp:
Nhất thiết pháp bất sanhNhất thiết pháp bất diệtNhược năng
như thị giải
Chư Phật thường
hiện tiềnHà khứ lai chi hữu giả.
Dịch:
Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường
hiện tiềnNào có đến đi ấy vậy.
(
Thượng Tọa Thích Thanh Từ )
Sau khi ngài qua đời thọ 51 tuổi, vua Trần Anh Tông dâng
tôn hiệu là: “Đại
Thánh Thần Triều
Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật”.
Tất cả các
pháp không sanh không diệt, như chính cái không sanh và không diệt mà
cuộc đời của Hương Vân Đại
Đầu Đà đã đến đi.