CHƯƠNG THỨ CHÍN
BƯỚC CHÂN THỨ CHÍN LUI LẠI
TRỞ VỀ SỰ IM LẶNG :
SỰ CHUYỂN ĐỘNG TOÀN DIỆN CỦA TÂM THỨC
TRONG SỰ HIỆN DIỆN THƯỜNG TRỰC
CỦA BỒ TÁT PADMASAMBHAVA,
VỊ TỔ SƯ TRUYỀN ĐẠO PHẬT VÀO TÂY TẠNG.
I. Tôi Nghĩ Gì Về Phật Giáo Tây Tạng ?
II. Tại Sao Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng ?
III. Tôi Đã Học Được Gì Nơi Tổ Sư Padmasambhava.
I. TÔI NGHĨ GÌ VỀ PHẬT GIÁO TÂY TẠNG ?
Nếu ngay giờ phút này có ai hỏi tôi bất ngờ: “nghĩ gì về
Phật Giáo Tây Tạng?” thì
chắc chắn tôi phải
trả lời: “chẳng nghĩ gì cả...”; vì câu hỏi ấy đụng vào cái gì sâu kín nhất,
bí mật nhất của chính
cuộc đời tôi; hỏi như thế không khác gì hỏi tôi: “ông là ai ?”. Nhiều lúc tôi cũng thường tự hỏi như vậy và cũng đành
ú ớ mù tịt dặm khơi: tôi chẳng bao giờ hiểu tôi là ai; tôi chỉ hiểu đôi chút về mình giống
y như người khác tự nhận
hiểu biết đôi chút về cái này về cái nọ. Thường khi cái mọi
loài người gọi là “tôi” lại là cái làm thành những
ngộ nhận bất thường nhất.
Phật Giáo Mật tông Tây Tạng cũng là một trong vài “đối tượng” dễ bị
ngộ nhận nhất hiện nay, và tất cả
giáo lý Mật tông Tây Tạng chỉ nói về một cái
duy nhất: tất cả mọi
ngộ nhận thảm thương chung quanh một
ngộ nhận bao trùm lớn lao
vòi vọi như
Hy Mã Lạp sơn mà
nhân loại gọi là cái “tôi” và gọi những gì tự nhận là “của tôi”, “thuộc về tôi”, cũng như gọi những gì có thể tri nhận là “hữu thể”, “tính thể”, “thực thể”, “thực tại”, “thực tế”, “chân lý”, “sự thực”, “thực tướng”, “bản tính”, “tự tính”, “bản chất”, “thể tính”.
Tuy nhiên, nếu tạm thử đứng trên một vị thế lập ngôn cưỡng ngữ bất thường thì có thể
đánh liều một câu
trả lời có
ý nghĩa nhất về sự
ngộ nhận về một sự
ngộ nhận căn bản: “tôi là tất cả
Tây Tạng trong mọi
ý nghĩa,
nghĩa đen và nghĩa trắng”. Nói như thế thì giống như nói điêu pha lững, nói sã, nói sang đàng. Sự thực thì tôi
hiểu biết về
Tây Tạng lâu hơn nhiều hơn và
hiểu biết về chính
bản thân mình; nói cho
rõ ràng hơn thì nhờ
Phật Giáo Mật tông Tây Tạng mà vào những lúc
đìu hiu cô tịch, tôi thực sự hiểu rằng tôi là ai, tại sao tôi sống ở đây, tôi sẽ đi về đâu, tôi phải làm gì và tôi đi đứng như thế nào trong cái
thế giới hoang liêu
rùng rợn này. Còn đối
Việt Nam thì sao? Tại sao
Tây Tạng mà không
Việt Nam ? Tại sao tôi lại có thể “vong bản” như vậy?
Thực ra phải nhận rằng tôi vốn là kẻ rất “sùng bản”, nếu tạm mượn chữ nhà nho xưa: nhờ
Tây Tạng mà tôi mới hiểu được
tinh túy căn nguyên của
Việt Nam, cái “khu nữu căn để” của
Việt Nam. Tôi sinh ra đời ở Mỹ Tho, bên dòng sông
Cửu Long, và ai cũng biết sông
Cửu Long chảy từ
Tây Tạng. Hồi nhỏ, tôi
thường hay trốn học và bơi giỡn suốt ngày với con nước
Cửu Long; tôi ít học ở nhà trường hơn là học với cơn thủy triều rào rạt của sông nước
Cửu Long. “Sơ ư văn chung /nhập
lưu vong sơ...” (
Thủ Lăng Nghiêm Kinh).
Có thể nói một cách
văn chương hiu hắt thì sông
Cửu Long là “sư phụ” của tôi. Suối nguồn
Tây Tạng không ngừng
ám ảnh tôi suốt
thời gian trẻ tuổi man rợ, và ngay đến bây giở sống gần nửa thế kỷ trên mặt đất và
lưu lạc tha phương gần khắp địa cầu, tôi vẫn đinh ninh cho rằng tôi đã trãi qua rất nhiều
tiền kiếp ở những hang động núi non
Tây Tạng; nhiều người có thể cho rằng tôi là kẻ “lập dị”, “dị đoan mê tín” hay “gàn dỡ điên cuồng”, nhưng đối với tôi thì những gì tôi nghĩ về
tiền kiếp của tôi thì
cụ thể rõ ràng và thực hơn cả cái việc mà tôi đang ngồi tại đây và đang viết những dòng chữ này: chính những
ý nghĩ lan man về
tiền kiếp và hậu kiếp đã tạo ra
hiện kiếp của cái “tôi” bây giờ. Tại sao tôi đang ở đây mà không ở
nơi khác ? Tại sao tôi viết về
Phật Giáo Tây Tạng mà không viết về cái khác ? Tất cả những gì đang xảy ra trong khoảnh khắc đều
xuất phát từ một quá trình
nhất định của
tâm thức; chính những sự “huân tập”
liên tục ở
quá khứ đã tạo ra những gì tôi đang “thể hiện” hôm nay; tôi chỉ lắng lòng
tĩnh lự tinh sát nhìn thấy cái
hiện tại “nhãn tiền” thì biết rõ được
quá khứ và
tiền kiếp, cũng như sống
trọn vẹn khoảnh khắc
hiện tại một cách
trong sáng tỉnh thức toàn triệt thì nhìn thấy trước tương lai,
hậu thân và hậu kiếp. Những
con đường quá khứ nào đó đã đưa dẫn tôi đến : “hiện thể” hôm nay ? Trong
tinh thần Phật Giáo Mật tông Tây Tạng thì tất cả đều bắt đầu với
sư phụ; sự truy nhận
sư phụ đã được đề cập qua
hình ảnh lộng lẫy thơ mộng của
thời trẻ dại; dòng sông
Cửu Long linh hiển chạy từ đỉnh cao
Tây Tạng;
Tây Tạng là thể, vì có
Phật Giáo làm cơ sở
tinh thần.
Phật Giáo Mật tông Tây Tạng là gì ? Tại sao lại phải nói về
Phật Giáo Tây Tạng ? Tôi nghĩ gì về
Phật Giáo Tây Tạng ? Hay có thể đặt câu hỏi một cách ngược dòng “nghịch lưu”' một cách “truy nguyên”, “sùng bản” thì:
Phật Giáo Mật tông Tây Tạng nghĩ gì về cái gọi là “nghĩ về” và cái gọi là “tôi” ? tại sao phải
tìm hiểu Phật Giáo ? Và tại sao phải cần
tìm hiểu Phật Giáo Tây Tạng ?
II. TẠI SAO PHẬT GIÁO MẬT TÔNG TÂY TẠNG ?
Từng bước đi thầm lặng ngược dòng
thời gian, tôi nhìn thấy lại
con người trẻ dại lúc mười sáu tuổi;
thời gian đó, tôi ở Mỹ Tho và Nha Trang. Từ sông
Cửu Long tôi leo lên đồi
Hải Đức của
Phật học viện Nha Trang để được “điểm hóa nhập đạo” với một “sư phụ” khác là biển Nam Hải. Đứng trên đồi cao, những đêm ngày đầy gió bão, tôi ngó xuống dưới kia là
mênh mông biển trời, chim bay và
thời gian bất động Vài năm sau đó, một hôm, tôi bỗng
ngạc nhiên thấy mình “nhập thất”
tham thiền trên tận đỉnh đồi và quên hết biển và sông Mỹ Tho và Nha Trang biến mất; tất cả đều
trở thành hang động
Tây Tạng.
Tây Tạng không còn là một địa danh và
trở thành một
giả danh để gọi một
tâm thức viễn ly,
cách biệt: tuy
viễn ly cách biệt mà vẫn nằm giữa trái tim
linh hoạt nhất của
đời sống thường nhật.
Cái câu khẳng định bất thường và gần như
vô nghĩa “tôi là tất cả
Tây Tạng trong mọi
ý nghĩa,
nghĩa đen và nghĩa trắng” chỉ là một cách nói cưỡng ngôn theo điệu “phương tiện thiện xảo”: xô đẩy cái “tôi” tầm thường của
đời sống dung ngôn đi vào trong một
lãnh vực “cảnh giới” khác gần như “hý ngôn”; hoặc “vô ngôn”, nói một cách khác
dung dị hơn thì phải nói
dứt khoát rằng tôi chỉ thực sự là tôi khi tôi không còn là tôi nữa: mà là cái gì khác, và cái gì khác ấy có thể gọi là “viễn ly, cách biệt” mà
biểu tượng phong phú nhất là
Tây Tạng như một “ý
niệm giới hạn” được sử đụng để mở ra những khả tính
tối thượng và
tối hậu của
nhân tính và
Phật tính. Tại sao
Phật Giáo Tây Tạng ? Vì Phật Gỉáo
Tây Tạng là
thể hiện tất cả những
yếu chỉ của
Phật Giáo nguyên thủy,
Tiểu thừa và
Đại thừa;
Phật Giáo Tây Tạng là
thể hiện tuyệt vời tất cả những nguyên tắc của tất cả
tông phái Phật Giáo từ
Câu Xá tông cho đến Thiền Tông và
Tịnh Độ Tông. Tất cả
tinh túy của
Phật Giáo đều được
thực hiện trong
Phật Giáo Tây Tạng.
Còn
Phật Giáo Việt Nam thì sao ?
Chúng ta chưa
đủ khả năng tâm linh và
tâm thức để nhìn thấy được
tinh thần ẩn mặt của
Phật Giáo Việt Nam. Những
triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần là cơ sở
tinh thần của cái gọi là “Việt Nam tính”, “dân tộc tính”, “quốc hồn”, “quốc túy”, và cái cơ sở
tinh thần ấy
xuất phát từ
Phật Giáo Việt Nam. Căn nguyên của
Phật Giáo Việt Nam trong những
thời đại quyết định ấy là
Thiền tông và
Mật tông mà nền tảng
tư tưởng đạo lý là dòng kinh
Bát Nhã,
Lăng Già và
Hoa Nghiêm. Dòng chủ lưu điều động hàm dưỡng
Việt Nam Tính và
Phật Giáo Việt Nam suốt quá trình, tiến trình và biến trình của
lịch sử của dân tộc chính là
đạo lý Bát Nhã.
Hiện nay, cái
tinh thần “vô tướng” của
Bát Nhã đã được “ẩn tàng” một cách
bí mật trong
sinh hoạt hữu hình của
Phật Giáo Việt Nam mà vẫn còn được
thể hiện một cách cụ thể linh động trong
sinh hoạt “diệu tướng” của
Phật Giáo Tây Tạng từ thế kỷ thứ bảy
cho đến hôm nay, nhờ
tính cách “viễn ly, cách biệt” của
Tây Tạng chẳng những về mặt địa lý
mà cả về mặt
sinh hoạt văn minh kỷ thuật
Tây phương ở thế kỷ XX. Nền
văn hóa học thuật của
Tây phương (mà
hậu quả tiêu cực là những trận chiến tranh tàn khốc) đã làm sụp đổ tất cả
truyền thống Vỉệt Nam và hiện đang bắt đầu đục khoét
truyền thống Tây Tạng.
Chủ Nghĩa Cộng Sản chỉ là đứa con đẻ tất nhiên của
chủ nghĩa hư vô (Nihilism)
thoát thai từ Platon đến Hegel và Karl Max, sản phẩm “tập đại thành”,
thành tựu khuynh hướng
cực đoan về “vật luận” (Ontic) trong
tư tưởng Tây phương. Hiện nay, cái mà
chúng ta gọi là “tinh thần dân tộc”
thực ra chỉ là một mớ
ý niệm mất gốc rễ bị
ảnh hưởng hệ thống ý niệm Tây phương (ngay lúc
chúng ta chủ trương “về nguồn” đi nữa thì
ý niệm “nguồn” ,vẫn kẹt vào tính thể luận
Tây phương).
Trở về Phật Giáo Tây Tạng là tìm lại cái
tâm thức “viễn ly, cách biệt” để làm một bước lùi
cần thiết khả dĩ giúp mình mường tượng lại
sinh hoạt tâm linh của
tổ tiên trong suốt thời gian mà
ý niệm Tây phương chưa chuyển
nhập tâm thức dân tộc. Cái
tinh thần “tiêu diệt mọi ý niệm” của
Bát Nhã đã
nuôi dưỡng hun đúc những
thời đại trầm hùng của
Lịch Sử Việt Nam, chỉ còn
truyền thống Phật Giáo Tây Tạng là còn giữ được “diệu tướng vô tướng” của
Bát Nhã một cách
linh động hữu hình nhất.
Đi vào Phật Giáo Tây Tạng cũng là
gián tiếp trở về cái
tâm thức “viễn ly” của
Phật Giáo Việt Nam cách đây khoảng trên một ngàn năm.
Tinh thần Bát Nhã không sở trụ ở đâu cả, không thuộc
Ấn Độ, cũng không thuộc
Tây Tạng hay
Việt Nam. Gọi là
Phật Giáo Tây Tạng hay
Phật Giáo Việt Nam chỉ là gọi tên cái “phương tiện thiện xảo” mà “chân lý của tính viễn ly” (
Thuật ngữ Phật chữ Phạn là “Vivikta-dharma”), tức là
thể tính “vô tự tính” của
Trí Tuệ Bát Nhã,
hóa hiện đây đó
tùy thời,
tùy căn cơ nghiệp cảm, tùy tổng nghiệp hay
biệt nghiệp, để
chuyển hóa Tính Mệnh Nhân Loại. Chỉ khi nào
toàn thể nhân loại chuyển tính, “chuyển y”
trở lại “viễn ly pháp” của
Trí Tuệ Bát Nhã thì
Tây Tạng mới
xuất hiện một cách “như thực” như là
phương sở linh địa của
Quán Thế Âm Bồ Tát, và
Việt Nam là trường sở phương Nam của
Văn Thù Sư Lợi,
Phổ Hiền và
Di Lặc:
Việt Nam, trong
ý nghĩa bí mật “viễn ly”, chính là chỗ
cưu mang khả tính
tối hậu của việc
liên tục “vượt về phương Nam” mà
Thiện Tài Đồng tử đã
thực hiện lúc
cầu đạo và được
Di Lặc Bồ Tát khai mở cho mười ẩn nghĩa về
nơi sinh đẻ, nơi quê hương thực thụ của kẻ
thể nhập Việt tính vào trong
Pháp Giới. Nói theo nghĩa địa lý
bí mật vô hình thì
Tây Tạng là
Việt Nam ở Bắc phương, còn
Việt Nam là
Tây Tạng ở
Nam phương, nhưng trong thực nghĩa “viễn ly” thì mọi phương đều “vô phương”.
Nơi sinh đẻ, quê hương đích thực của cái gọi là “tôi”, có thể ở một nơi nào đó, chưa hẳn
rõ ràng hữu hình như địa danh ghi trong giấy khai sanh căn cước: một nơi nào khác
vô danh và tạm dùng
giả danh gọi là “viễn ly”,
xa cách trùng điệp như
Tây Tạng, cao ngút trời như
Hy Mã Lạp sơn mà vẫn gần gũi thiết thân với mình như đất mình đang đứng, như nhịp đập tim, như
hơi thở, chỉ là
hơi thở, tất cả là
hơi thở, tất cả, tất cả.
III. TÔI ĐÃ HỌC ĐƯỢC GÌ NƠI TỔ SƯ PADMASAMBHAVA NGƯỜI TRUYỀN ĐẠO PHẬT VÀO TÂY TẠNG Ở THẾ KỶ THỨ VIII.
Hơi thở, tất cả, tất cả
hơi thở là
diệu dụng của tâm, là diệu tác của
tâm thức, bao trùm cả sum la vạn tượng, chuyển vận thoáng nhẹ trong chim non mới đẻ, mắp máy
dịu dàng trong trái tim
viễn ly của người tu kín.
Cuộc đời con người chỉ thực sự có
ý nghĩa khi
hơi thở mình trở nên thơm ngát như mùi sen nở.
Hơi thở đến với mình vào lúc mình đậu trong lòng mẹ, thai tạng
hữu hình trong Thai Tạng vô hình; thai tạng
tinh khiết trong sạch thì được gọi là bông sen; trong
ngôn ngữ Mật tông thì chỗ kín của đàn bà, con gái, hay của
tiên nữ cũng gọi là “padma” (chữ Phạn có nghĩa là: bông sen). Padmasambhava, tên chữ Phạn, có nghĩa: “sinh từ bông sen” (vì thế người Tàu mới dịch Padmasambhava là “Liên hoa sinh”).
Khi
hơi thở trở nên thơm ngát thì đó là lúc
viễn ly tính bắt đầu
thấp thoáng như mùi sen nở, và cái “tôi” bắt đầu bỏ đi mất để chỗ trống cho sự hoạt hiện
vi diệu của những
thế lực vô hình. Padmasambhava là cái tên để gợi và để gọi một
hơi thở liên tục phi thường phát sinh từ bông sen tâm chuyển; Padmasambhava là cái tên thu liễm, hội tụ, thu phối, tập trung lại tất cả
thế lực mãnh liệt nhất của
thần trí: chỉ cần gọi tên Padmasambhava
liên tục,
ít nhất một trăm ngàn lần hay năm trăm ngàn lần, thì
hơi thở trở nên thơm phức như mùi sen nở.
Thực ra, tất cả đều xảy ra đồng lúc và không có
thời gian kế tiếp; mặc dù, Padmasambhava
xuất hiện ở
Tây Tạng vào thế kỷ thứ tám Tây lịch, nhưng đứng về mặt hoạt hiện
linh diệu của những
thế lực vô hình thì Padmasambhava
xuất hiện đồng thời với tên gọi,
đồng thời với
tâm thức mình,
đồng thời với
hơi thở,
đồng thời với bông sen nở,
đồng thời với giây phút khoảnh khắc
hiện tại này. Mỗi giây phút
hiện tại đều là “sư phụ” của mình, “đạo sư” của mình. Mỗi ngày phút
hiện tại xuất hiện một cách
sung mãn trọn vẹn thì chính Padmasambhava
thị hiện trên đỉnh đầu mình. Cái tên Padmasambhava đốt cháy
không gian và
thời gian thành tro bụi, và trong một
mảy may tro bụi thì
xuất hiện tam thiên đại thiên thế giới, trong một
mảy may tro bụi lại
xuất hiện hằng hà sa số chư Phật đang ngồi
đạo tràng nhập định và phóng
vô lượng quang minh thuyết pháp. Đây không phải là “mỹ từ pháp” mà là “vỉễn ly pháp”; đây không phải là chuyện “thần thoại hoang đường” mà là “như thực ngữ”, và “như thực ngữ” nhiều khi được ẩn giấu
bí mật qua những gì mà người ta cho là “thần thoại hoang đường”. Có một sự thực khác ngoài sự thực
lịch sử, có một sự thực nào đó bên ngoài tất cả mọi sự thực, đó là sự thực về sự
cô độc cùng cực mà
thuật ngữ Lăng Già và
Bát Nhã gọi là “viviktadharma”, “viễn ly pháp” (chữ Phạn “vivikta” có nghĩa là “cô độc, biệt lập,
xa cách, tách rời”). “Viễn ly pháp” cũng là cái tên khác của
Không Tính mà Padmasambhava là
Ứng thân,
Hóa thân,
Ứng hóa thân; và chính Padmasambhava
xuất phát từ
Báo thân là Phật
A Di Đà (Phật
Vô lượng quang cũng gọi là:
Vô biên quang, Vô xưng quang,
Vô đối quang,
Vô ngại quang,
Bất đoạn quang,
Hoan hỷ quang,
Nan tư quang,
Siêu nhật nguyệt quang,
Vô lượng thọ.). Trong một cái tên Padmasambhava đồng lúc
thể hiện Tam thân:
Pháp thân (
Không tính viễn ly,
tịch tĩnh),
Báo thân (Phật
A Di Đà) và
Ứng hóa thân hiện tại (chính là
tâm thức chuyển ly,
tâm thức viễn ly,
tâm thức lộng lẫy rực ngời, trống rỗng mà rực ngời “hơn cả mặt trời”, vì
nếu không xuất hiện cái
tâm thức trống rỗng rực ngời thì chẳng có
mặt trời nào mọc lên được ở
ngoại giới).
Đi xuống bình nguyên tầm thường của sử liệu thì có thể
giả định rằng
Đạo Phật đã đến
Tây Tạng vào thế kỷ thứ III hay trước đó nữa; còn theo “chính sử” thì
đạo sư Santarakshita (hay Santaraksita) mới thực sự là người
truyền Đạo Phật vào
Tây Tạng vào thế kỷ thứ VIII;
tuy nhiên, theo
truyền thống mật sử
Tây Tạng thì chính Padmasambhava mới thực sự là kẻ truyền
Mật tông Phật Giáo vào
Tây Tạng đồng thời với santaraksita (chính Santarakshita
yêu cầu vua
Tây Tạng thỉnh mời Padmasambhava qua
truyền đạo, vì chỉ có
giáo lý mật sự của Padmasambhava mới
chuyển hóa tâm thức con người một cách quyết liệt hơn). Đối với dân
Tây Tạng thì chỉ có Padmasambhava mới thực sự
chính thức là vị
Tổ sư đầu tiên truyền
Phật Pháp vào
Tây Tạng và được coi như “Đức Phật thứ hai” (nhiều khi được coi như “vĩ đại hơn cả Phật
Thích Ca Mâu Ni” theo điệu nói cưỡng ngôn
mật nghĩa của
Mật tông Tây Tạng). Padmasambhava chẳng những là
Ứng thân của Phật
A Di Đà, mà cũng là
Hóa thân của
Quan Thế Âm Bồ Tát, và cũng giống như
Quan Thế âm Bồ Tát, Padmasambhava
thường hay hóa hiện qua nhiều tướng trạng khác nhau để
giải cứu chúng sinh.
Theo
truyền thống mật sử
Tây Tạng (Padma-bkahi-thang-yig) thì Padmasambhava có thể
hóa hiện qua những
hình tướng dị biệt như sau để dạy đạo,
tiêu diệt gian ác vô minh và
cứu độ tất cả:
- Padmasambhava có thể
hóa hiện làm
kẻ ăn mày đói rách;
- Có lúc thì Padmasambhava
hóa hiện làm đứa con trai khoảng tám tuổi;
- Có lúc thì
hóa hiện làm tia chớp lóe sáng bừng lên giữa trời;
- Có khi thì
hóa hiện làm gió thoảng nhẹ qua nhẹ nhàng trên mặt đất;
- Có lúc thì
hóa hiện làm một thanh niên đẹp trai đùa giỡn ve vãn với đàn bà;
- Có lần lại
hóa hiện làm một giai nhân
tuyệt trần yêu đương đàn ông;
- Có khi thì
hóa hiện làm một con chim đậu cành hoa, bay chuyền hay bay bổng thơ mộng hoặc hót ca líu lo;
- Có lúc thì
hóa hiện làm một con
thú vật hay một con sâu hay một con kiến;
- Có lần thì
hóa hiện làm một
lương y hay một kẻ
bố thí giàu sang;
- Lần khác
hóa hiện làm một chiếc tàu, thuyền bè hay cơn gió thuận chiều để cứu vớt người trên biển cả;
- Lúc thì biến làm nước lạnh
dập tắt lửa;
- Có lúc hoạt hiện làm thầy dạy kẻ ngu đần,
đánh thức kẻ lười biếng
chế ngự mọi ghen tuông bằng những hành động oanh liệt khác thường ;
- Khi cần
tiêu trừ thói lười biếng
uể oải,
cơn giận dữ và lòng
thèm khát dâm dật nơi
loài người thì
hóa hiện làm
Quan Thế Âm,
Văn Thù Sư Lợi và
Kim Cương Thủ (hay
Kim Cương Mật Tích,
Kim Cương Thần,
Kim Cương Lực Sĩ);
- Lúc phải đập tan sự ngạo mạn
kiêu căng thì
hóa thân chuyển hiện
thể nhập Thân, Khẩu và Ý của
đức Phật, tức là
Pháp Thân,
Báo Thân và
Ứng Thân của Phật;
- Có lúc cần chiến thắng
nghi pháp hay mối
ngờ vực hồ nghi, một trong
ngũ ác hay
ngũ cái, tức là năm cái nấp
che đậy bưng bít tạo gây
phiền não:
tham dục sân nhuế (giận hờn),
thụy miên (biếng lười ưa ngủ),
trạo hối (lay động, tiếc nuối,
xao xuyến),
nghi pháp (
nghi hoặc chính pháp thì Padmasambhava tự
chuyển hóa thành Ngữ Phật Như Lai:
Đại Nhật Phật hay
Tỳ Lô Giá Na Phật (Vairochana),
Kim Cang Tát Trụy (Vajrasattva),
Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava),
A Di Đà Phật (Amitabha),
Bất Không Thành Tựu Phật (Amoghasiddhi).
Padmasambhava là bậc Đại Chủ về mọi
thần thông biến hóa;
tùy cơ nghiệp cảm của
chúng sanh mà Padmasambhava
hóa thân trong sáu cõi (thiên,
a tu la, người,
địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sinh) để
hóa độ. Ngoài những sự
hóa hiện bất thường kể trên
vì lợi ích chúng sanh. Padmasambhava thường khi
xuất hiện liên tục qua tám
Hóa thân thông thường mà tất cả dân
Tây Tạng đều quen thờ lạy trong những
tu viện, đền chùa hay
bàn thờ ở nhà:
I. Guru Padma Jungna: Bậc
Đạo sư được sinh từ bông sen,
vì lợi ích cho
tam giới (
dục giới,
sắc giới,
vô sắc giới);
II. Guru Padmasambhava: Bậc
Đạo sư được sinh ra từ bông sen,
pháp vương. Cứu đời bằng
giáo pháp;
III. Guru Padma Gyelpo: Bậc
Đạo sư Chính Vị Vương về
Tam tạng kinh điển (kinh, luật, luận);
IV. Guru Dogje Dolo: Bậc
đạo sư Kim Cương ủy lạo an ủi, phủ uy
vỗ về tất cả
chúng sinh trong mọi
nghịch cảnh bi đát;
V. Guru Nima Odzer: Bậc
Đạo sư Mặt Trời chiếu rực
soi sáng đẩy lui đêm tối
vô minh khổ nạn khắp nơi;
VI. Guru Sakya Senge Bậc
Đạo sư dòng họ Thích Ca,
Sư Tử,
thể hiện tám
hóa thân trong độc nhất
hiện thân;
VII. Guru Genge Dadola: Bậc
đạo sư truyền đạo trong sáu cõi với tiếng rống oanh liệt của
sư tử rừng thiêng;
VIII. Guru Loten Chog Se: Bậc
Đạo sư trao truyền
Trí Tuệ cho tất cả mọi
thế giới trong mọi
thái dương hệ và
thái âm hệ ở khắp
vũ trụ.
Chúng ta đã nhìn thấy gì trong những
hóa thân đa hình đa tướng trên ? Chỉ nội một cái tên Padmasambhava thôi cũng đã gợi
cho biết bao nhiêu
liên tưởng vô hạn trong
tâm thức của những kẻ được
nuôi dưỡng trong
truyền thống Tây Tạng. Đó cũng là nghĩa
linh nghiệm của
danh hiệu Đạo sư như trong mọi
cảnh giới trong một câu
thần chú linh thiêng rất
quen thuộc ở
Tây Tạng gọi
sư phụ thần chú: OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM.
Chúng ta sẽ có nhiều dịp
trở lại ý nghĩa sâu rộng của câu
thần chú này.
Tôi đã học những gì nơi Padmasambhava ?
Không thể kể ra hết được, vì những gì tôi đã học được nơi Padmasambhava quả thực là bất tư nghì và vô hạn.
Tuy nhiên, cũng tạm nêu ra mười điều rất ư giản ước sau đây để châm lửa cho cơn chuyển động
toàn diện của
tâm thức đồng điệu:
- Bài học thứ nhất:
Tất cả mọi sự xảy ra
trong đời đều phát sinh từ những hí lộng
liên tục dị thường của
tâm thức;
- Bài học thứ hai:
Những biến hiện của
tâm thức chính là những hoạt hiện
kỳ diệu của Padmasambhava,
- Bài học thứ ba:
Padmasambhava không phải là cái tên một nhân vật
lịch sử mà chính là cái tên để gọi
bản tính vô tự tính:
thể tính đích thực của
tâm thức viễn ly,
lặng lẽ,
trong sạch,
siêu việt, trống rỗng và rực sáng.
- Bài học thứ tư:
Tất cả những gì xảy ra đều là sự
xuất hiện ẩn mật của Padmasambhava: nói một cách khác, những gì xảy ra trong mỗi giây phút của đời mình niềm vui hay nỗi khổ,
thuận cảnh hay
nghịch cảnh, đều là thầy của mình: tất cả
hoàn cảnh đều là
sư phụ của mình.
- Bài học thứ năm:
Cái mà mình tưởng có thực như cái “tôi” là cái không có thực: đó chỉ là cái vang bóng của
tâm thức suy liệt,
tinh túy khó tế nhận của cái “tôi” ấy chính là
hơi thở thuần khiết trong sạch thơm phức như bông sen; mọi sự sẽ được nhìn thấy khác hẳn
hoàn toàn mỗi khi
hơi thở mình trở nên thơm ngát mùi sen nở giữa thanh thiên bạch nhật, giữa đống phân của
đời sống thường nhật;
- Bài học thứ sáu:
Cái thân giả hình của mình, phù du
vô thường, từ thai mình
hiện thế trăm năm bèo bọt ở đời, phải được chuyển động
trọn vẹn thành ra Huyễn Mộng Thân hóa phát từ bông sen, tức là sự Trống Rỗng
tràn trề rực ngời của
Trí Tuệ Bát Nhã;
- Bài học thứ bảy:
Ngũ Ác hay
Ngũ Cái (
tham dục,
giận dữ, lười biếng,
xao động,
nghi hoặc) chỉ là những phát hiện
tiêu cực của
tâm thức hằng ngày, chỉ cần
xê dịch và chuyển động qua diệu tính
viễn ly thì
Ngũ Ác (
Ngũ Cái)
trở thành Ngũ Phật Như Lai (Tỳ
Lô Giá Na,
Kim Cương Tác Trụy,
Bảo Sinh,
A Di Đà,
Bất Không Thành Tựu);
- Bài học thứ tám:
Không có hai
thực thể phản nghĩa đối nghịch nhau mà mọi sự đều là tương nhiếp
viên dung vô ngại, Padmasambhava là
hiện thân của tính
Bất Nhị (không hai) của tất cả:
bất nhị giữa hiễn giáo và
mật giáo,
bất nhị giữa
niết bàn và
luân hồi, giữa Phật và mình, giữa
Giáo lý và mình, giữa
Sư phụ thánh Tăng và mình, và
bất nhị giữa Padmasambhava và
bản thân mình;
- Bài học thứ chín:
Tất cả những sở học từ bài học thứ nhất đến bài học thứ tám đều là những bước đi
cần thiết, nhưng vẫn còn
thiên chấp một cách
gián tiếp hay trực tiếp vào
tứ cú phân biệt (cái lối
suy diễn lý luận phân hai thành bốn, điệu suy tư khuôn rập theo hai
cực đoan, gọi là “nhị biên”, “lưỡng biên”); tất cả những sở học đều là những bước chuẩn bị để nhảy vào Hố Thẳm
không đáy của
Không Tính mà Padmasambhava chính là
hiện thân; bài học
vô niệm chính là
Vô học và
Vô hành, cái gọi là “tâm thức” không có
tự tính và tất cả đều là “mộng huyễn, bào, ảnh, lộ, điện”. Padmasambbava là một Đại Huyễn Mộng, Đại
Huyễn Thân khả dĩ
chuyển hóa tiêu trừ tất cả những giả thân
phù phiếm. “viễn ly tất cả
điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn”;
- Bài học thứ mười:
Padmasambhava chính là “bản lai diện mục” của chính mình mỗi khi mình tự chiến thắng mình, mỗi khi mình tự
vượt qua cái “tôi”, cái “của tôi” và cái “thuộc về tôi” của mình, mỗi khi mình sống mà không
cảm thấy rằng “mình” sống; chỉ còn lại cái gì khác sống
tràn trề bất tận, niềm vui lớn,
lòng từ bi
bao la và cáì nhìn sâu
trí tuệ xuyên thấu đại mộng trần gian. Khi mình tế nhận được như thế thì không còn phải
dụng công, lao
tâm khổ trí
học hành tìm kiếm gì nữa, mỗi
hơi thở là mỗi bài học vĩ đại nhất, mỗi một
hơi thở là sự
thị hiện của một
Bồ Tát xuất sinh từ bông sen, mỗi một
hơi thở là chủ động
quyết định tất cả mọi
thần thông biến hóa, mỗi một
hơi thở là padmasambhava ra đời chuyển nghiệp. Vì thế chỉ cần
nhất tâm tín thành
xưng danh hiệu Padmasambhava thì tất cả
điên đảo mộng tưởng đều được giải biến; tất cả
sức mạnh bí mật mầu nhiệm của
hơi thở nhịp nhàng đã được hội tụ thành ra
năng lực tinh thần siêu việt ẩn tàng trong câu
thần chú Sư phụ Liên hoa sinh: OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHl HUM.
Hơi thở thiêng liêng trong sạch, thơm nức mùi sen nở cô đọng lại trong mười hai vần trong câu
thần chú. Theo
truyền thống Mật tông Tây Tạng thì mỗi lúc mình có
đức tin, có
tín tâm thì Padmasambhava sẽ ngồi ngay cửa nhà mình lúc mình ngủ. Có
tín tâm thì
trì chú Sư phụ trên tất nhiên thân, khẩu và ý của mình sẽ được tự
động chuyển hóa thành Thân, Khẩu và Ý của
Sư phụ Padmasambhava,
Hóa thân hiện hoặc của Chư Phật
quá khứ,
hiện tại, tương lai.