CHƯƠNG NHỨT
BƯỚC CHÂN THỨ NHỨT DẢO NGƯỢC TRỞ VỀ SỰ IM LẶNG :
SỰ CHUYỂN ĐỘNG TOÀN DIỆN
CỦA TÂM THỨC TRONG SỰ CÓ MẶT LIÊN TỤC
CỦA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
I. Tôi Có Thực Hay Không ? Vô Tự Tánh Và Vô Thăng Bằng Tánh Trong Tư Tưởng Long Thọ.
II. QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT Là Ai ?
III. QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT Là Vị Ban Phát Sự Không Sợ Hãi (Thí Vô úy)
IV. Sự Sợ Hãi Là Gì ? .
V. Sự Sợ Hãi Là Kiến Trúc Tưởng Tượng Của ý Niệm (Vikalpa) Sự Lập Thức của Freud, Kierke Gaard và Heidegger.
VI. Danh Hiệu QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT Phá Vỡ Tất Cả ý Thức Và Vô Thức Của Con Người. Kinh Nghiệm Hư Vô Của Hemingway.
Chủ đề của chương này thực là dài dòng Tôi đã
cố ý như thế. Mặc ai muốn hiểu gì thì cứ
tha hồ hiểu; tôi chỉ cần
nhấn mạnh thêm
một lần nữa rằng đề tài tôi đề cập không phải chỉ là một đề tài thông thường như bất cứ đề tài quan trọng nào mà
con người có thể
ung dung thảo luận với
kiến thức uyên bác sâu rộng của mình. Người ta có thể tự hào có tài
sử dụng ngôn ngữ hơn và rút gọn
chủ đề dài dòng bằng năm chữ: "Quán Thế Âm Bồ Tát" hoặc mấy chữ có
tính cách thông dụng như "ý Nghĩa Của
Bồ Tát Quán Thế Âm" hay "Khảo Luận về
Quán Thế Âm Bồ Tát”, hoặc đứng trên một bình diện cao hơn và có vẻ triết lý
trừu tượng sâu thẳm như
chủ đề căn bản nhứt và
tiêu biểu nhứt của nhà đại
thần thái Phật học và á Đông học Paul Mus, giáo sư Collège de France và
đại học Yale, đã
một lần đặt ra trong thiên khảo luận nhan đề "Đức
Quán Thế Âm với Ngàn Cánh Tay, Một Sự Huyền Bí hay một
Vấn Đề ?" (Thousand Armed Kannon / A Mystery or a problem ? Joumal of lndian and Buddhist Studies, Vol. XII No. 1, Jan. 1964, trang 470-438).
Chủ đề chương này
thực ra không phải là một
chủ đề và vì thế nó cũng không có đối tượng và cũng không có đề tài;
chủ đề, đối tượng và đề tài kêu gọi một cơ cấu kiến trúc
ý niệm thích đáng với
căn bản lý luận phân tích tổng hợp
thuận theo lý trí hay
trực giác hay
kinh nghiệm tâm linh hay
kinh nghiệm thực tại cụ thể. Đó là đường lối
phương pháp thông thường của mọi
tư tưởng gia,
triết gia,
học giả, nhà
thông thái, mỗi khi họ
cố gắng tìm hiểu bất cứ
hiện tượng nào ở mặt đất này hay ngoài mặt đất
cho đến một
cứ điểm nào đó
ở không gian hay
thời gian.
Thông minh nghiêm túc như Paul Mus,
thành kính cầu đạo như học giả John Blofeld (
tác giả quyển Bodhisattva of Compassion 1978),
uyên bác cần thận
như học giả Stephan Beyer (
tác giả quyển The Cult of Tra, 1978), hầu hết nhân
học giả nghiên cứu về
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT đều
gặp nhau ở một quan điềm:
VẤN ĐỀ Quán Thế Âm. Ngay cả nhan đề và
chủ đề Paul Mus cũng biến
Quán Thế Âm trở thành một
vấn đề, ngay câu hỏi nêu ra (một sự Huyền Bí hay một
Vấn Đề ?) đã
vấn đề hóa sự Huyền Bí và
bình đẳng hóa hai lãnh địa
hoàn toàn khác nhau (hoặc là o hoặc là o? Cái này hay cái kia?), dù Paul Mus có nhắc đến Gabriel Marcel (trang 470) và chữ "horizon” và "ek-sistenca" của Heidegger (trang 463 và 442) : ông cũng chưa thấy được sự khác biệt triết để giữa "sự huyền bí” có
tính cách duy ngã thể luận (égo-ontique) của Gabriel Marcel và thể
căng thẳng dằn co tột đỉnh giữa
kinh nghiệm hố thẳm về
Thể Tính của Heidegger (Expérience abyssale de l'être) và sự Bừng Vỡ
Không Tính của
Phật giáo (nói theo điệu triết Tây thì như một thứ Mé-onto-logie tự phá vỡ trong cõi mù mịt của hố Thẳm (Ab-Grund).
Tôi đã bắt đầu nói dài dòng
lê thê theo điệu triết lý
thông thái ngu xuẩn rất
cần thiết để
đi thẳng ngay vào chương này:
QUÁN THế ÂM BỒ TÁT không phải là một
vấn đề trên tất cả mọi bình diện
quan điểm (triết lý,
tôn giáo, khoa học,
tín ngưỡng,
xã hội học,
nhân chủng học, chính trị học, luận lý học,
đạo đức học,
tâm lý học, phân
tâm học,
thần kinh bệnh học,
ngôn ngữ học,
tôn giáo học tỷ giảo, huyền bí học, tất cả những gì có thể học và có thể gọi là
môn học hay khoa học
thuần túy hay thực nghiệm ở thế kỷ XX này) .
Quán Thế Âm không phải là một
Vấn đề (đối tượng hữu hạn hay vô hạn của sự
hiểu biết hữu hạn
con người); mà
Quán Thế Âm cũng không phải là sự Huyền Bí (Mysterium) hiểu theo nghĩa "một cái gì
hoàn toàn khác hẳn”, “khủng khiếp", “đáng kinh sợ" (tremendum), "đầu
quyến rũ mê hoặc” (fascinans) theo điệu "mysterium tremendum et fascinans" của nhà
thần học Tin Lành Đức
nổi danh Rudolf Otto (The ldea of the Holy, 1917, 1923). Sự Huyền Bí
Thiêng Liêng theo nghĩa của Rudolf Otto chỉ có thể là một khía cạnh nhỏ trong SỰ
TOÀN DIỆN BÍ MẬT (Samantamukha) của
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT (Avalokitesvara), tức là
PHỔ MÔN (theo cách dịch của
Cưu Ma La Thập trong việc chuyển chữ Phạn (Samantamukha thành ra chữ Hán), SỰ HUYỀN BÍ LINH HIỂN
PHỔ MÔN TOÀN DIỆN CỦA ĐẤNG NHÌN THẤY TIẾNG KÊU CỦA
THẾ GIỚI.
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT không phải là một
Vấn Đề trong mọi
ý nghĩa, cũng không phải là sự Huyền Bí
Thiêng Liêng theo nghĩa
tôn giáo như nghĩa
phiến diện của những
nhà tôn giáo học
thông minh ở
Tây Phương (chẳng hạn trước kia như Rudolf Otto và
gần đây hơn như Fredench J.Streng
tác giả Understanding Religious Man, 1969, trang 40-63, và Ways of Being Religious Man, 1973, trang 24-25).
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT là SỰ HUYỀN BÍ CỦA SỰ
TOÀN DIỆN và SỰ
TOÀN DIỆN CỦA SỰ HUYỀN BÍ CỦA
ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI VÀ CỦA CÁI GÌ VƯỢT LÊN TRÊN
CON NGƯỜI VÀ CỦA CÁI GÌ VƯỢT RA KHỎI MẶT ĐẤT VÀ VƯỢT RA KHỎI
KHÔNG GIAN VÔ TẬN VÀ
THỜI GIAN VÔ TẬN VÀ VƯỢT RA NGOÀI CẢ
TƯ TƯỞNG VÔ TẬN CỦA
TRÍ HUỆ TỈNH THỨC (
thể hiện qua sự
cầu đạo của
Vô Tận Ý Bồ Tát Ma ha tát, Bodhisattva Mahàsattva Aksayamati).
Đồng thời sự huyền bí
Toàn Diện của
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT lại
hiện diện một cách cụ thể nhứt trong nhứt cử nhứt động của mọi sự đi đứng nằm ngồi, của mọi
lời nói và
im lặng của mọi
ý tưởng hay
tơ tưởng thoáng nhẹ qua đâu hay qua tim.
Có thể nhiều người muốn đặt rất nhiều câu hỏi về
Quán Thế Âm Bồ Tát, vì chưa hiểu được
rõ ràng những gì tôi muốn
diễn đạt dài dòng ở trên, chằng hạn như những câu hỏi sau đây:
Quán Thế Âm là ai?
Tại sao chỉ cần niệm danh
Quán Thế Âm là
thoát khỏi mọi tai nạn?
Tại sao chỉ cần niệm danh
Quán Thế Âm là hết mọi sự sợ hãi?
Tại sao
Quán Thế Âm có một ngàn cánh tay và một ngàn con mắt ?
Tại sao
Quán Thế Âm có 32
ứng thân,
bố thí 14
công đức vô úy và
hiện ra 4
diệu đức không thể nghĩ bàn ? (theo quyển sáu, đoạn XXVII,
Kinh Thủ Lăng Nghiêm).
Và tất nhiên câu hỏi
quan trọng nhứt mà tất cả
mọi người đều thắc mắc, dù là người tự nhận là
Phật tử thuần thành tin tưởng mãnh liệt nhứt:
Quán Thế Âm có
thực không ?
Quán Thế Âm có phải là một
Thực Tại Hiện Hữu không ? Tất cả những câu hỏi trên đều
rốt ráo đưa đến câu hối này:
Con người là gì ?
Hay nói một cái
cụ thể hơn:
Tôi là ai?
Hay nói một cách
thực tiễn và
cụ thể hơn: "TÔI CÓ THỰC HAY KHÔNG ?".
Chúng ta thấy muốn
trả lời câu hỏi thứ nhứt "Quán Thế Âm là ai ?" thì trước hết
chúng ta phải tự hiểu mình là ai, vì mình tự cho mình là thế nào thì mình sẽ có một
quan niệm nào đó về
Quán Thế Âm tùy thuộc theo
bản chất của mình. Bây giờ
chúng ta hãy bắt đầu với câu hỏi
cuối cùng và đây cũng
đồng thời là câu hỏi đầu tiên mà bất cứ người nào cũng
cần phải ít nhứt
một lần trong đời tự đặt ra cho chính mình nếu mình muốn sống cho ra người dưới cơn lốc tàn bạo của
đời sống.
1. TÔI CÓ THỰC HAY KHÔNG ?
“VÔ TỰ TÍNH" VÀ "VÔ THA TÍNH"
TRONG TƯ TUỞNG LONG THỌ
Hiển nhiên câu hỏi này có vẻ bất thường và không
thực tế. Ai cũng nhận rằng mình có thực, đang
hiện hữu và đang sống rất
cụ thể hữu tình trên mặt đất. Những
lo âu vật lộn hằng ngày với
đời sống vật chất không cho
chúng ta có đủ
thì giờ để tự đặt ra những câu hỏi không
thiết thực và
vô ích đối với việc sinh sống và hành động
tích cực xây dựng gia đình xã hội.
Hiển nhiên người ta vẫn
an nhiên tự mãn cho rằng mình hiểu thế nào là thực và thế nào là không thực
Mọi người đều biết thế nào là sự thực, (nhưng không ai
trả lời được cho đàng hoàng câu hỏi về
bản tính của sự thực) người ta thường cho rằng đó chỉ là
việc làm của những
triết gia, và một
con người bình thường lành mạnh óc não chỉ cần sống là đủ rồi và cũng chẳng cần đặt những câu hỏi
lung tung trừu tượng không
ích lợi gì cho cuộc sống.
Sự thực thì dù không biết gì về triết lý hay
triết học, mỗi một
con người sống trên mặt đất này (vẫn luôn luôn sống theo một cái gì đó trong đầu hay trong tim một cái gì đó có thể là một
ý tưởng hay một
cảm giác hay một tình cảm). Dù biết
suy nghĩ hay không biết
suy nghĩ, người ta cũng phải
bị bắt buộc
suy nghĩ một cái gì đó, dù cảm cái
vô cảm giác, cái
cảm giác lãnh đạm thờ ơ lạnh lùng. Vẫn luôn luôn có một cái gì đó xô đẩy
đời sống mình đi về hướng này hay đi về hướng khác hoặc không đi về hướng nào khác. Một cái gì đó đã
quyết định đời sống mình mà mình
ít khi nhận ra được cái ấy là cái gì. Cái đó thực hơn
cả đời sống của mình cái đó làm ra cái
ý nghĩa hay
cảm giác rằng mình có thực. Nhiều lúc cái mình
cảm thấy thực nhứt lại không thực gì cả, và ngược lại cái
hoàn toàn không thực lại
tác động quyết liệt nhứt trên
vận mệnh mình. Cái
hoàn toàn không thực là cái gì ?. Đó là cái không bao giờ
thể hiện và
thực hiện cụ thể hữu tình trọn vẹn trong đời sống
quá khứ và
hiện tại của ta. Giống như những
giấc mộng đẹp lúc ấu thơ, giống như người yêu
mong đợi từ muôn kiếp không bao giờ gặp được trong
quá khứ và
hiện tại, giống như những hoài bão
hoài vọng của
tuổi trẻ, những
lý tưởng siêu việt của
cuộc đời, niềm
hạnh phúc trọn vẹn, sự
đáp ứng toàn triệt, sự
kiến tánh thành Phật trong giây phứt
hiện tại, sự đạt đạo và nắm lấy
chân lý, sự
tỉnh thức thường xuyên từ một giây phút mới qua và một giây phút đang hiện tới, lòng
yêu thương tràn trề,
trí nhớ trọn vẹn, sự
thông minh tột đỉnh kéo dài
liên tục, cơn xuất thần
liên miên từ giây phút này đến giây phút khác. Tất cả những gì tôi vừa kề qua đều là những cái không bao giờ
thể hiện và
thực hiện cụ thể hữu tình trọn vẹn trong đời sống
quá khứ và
hiện tại của ta; đó là những cái
hoàn toàn không có thực trong
quá khứ và
hiện tại. Và trong tương lai ? Chỉ nhìn lại
quá khứ và
hiện tại thì đã thấy được gần như
trọn vẹn tương lai và ngược lại, tất cả mọi
quan niệm thời gian theo đường thẳng một chiều, nếu ta
đủ khả năng siêu việt lọt vào quĩ đạo của
thời gian vòng tròn theo điệu rắn cắn đuôi rắn thì tương lai xảy ra trước cả
hiện tại và
hiện tại đã xảy ra trước
quá khứ, và
hiện tại của ta chỉ là đứa con của tương lai và là mẹ của
quá khứ. Như thế những cái
hoàn toàn không thực ở
quá khứ và
hiện tại chỉ là những cái
hoàn toàn không thực từ trước ở tương lai cố định. Hiểu tới mức độ này thì tương lai,
quá khứ và
hiện tại cũng là những cái
hoàn toàn không có thực. Những cái
hoàn toàn không có thực ấy chỉ có thực mỗi khi
chúng ta cần nghĩ rằng chúng có thực; chính
ý nghĩ của
chúng ta được
thể hiện và (
thực hiện qua
ngôn ngữ ý niệm tạo ra cái thực và cái không thực.)
Ý nghĩ hữu hạn của ta chỉ tạo ra sự thực hữu hạn. Dù nói theo duy thực và
duy vật, sự thực tạo ra
ý nghĩ thì
sự tạo tác ấy cũng chỉ là
ý nghĩ rằng có cái này tạo ra cái kia, nhưng nếu cái này không thực và cái kia không thực và cả cái gọi là
tác động cũng không thực thì tất cả sự đi tìm
lý do, lý lẽ, nguyên cớ (4
lý do của Aristote) đều mất nền tảng vì không có cái gọi là tự có
bản chất, tự có
thực chất, tự có
thực tính, tự có thực hữu riêng của mình (nói theo
Long Thọ thì không có cái tự có
bản tính thực tính nơi mình. Svabhàva, cũng không có cái có
bản tính thực tính nơi cái khác, Parabhàva) (Nàgàrjuna, Mùlamadhyamaka- kàrikà, kệ 3, chương 1,
Quán nhân duyên, Pratyaya parìksà: "na hi svabhàvo bhàvànàm pratyayàdisu vidyate / avidhyamàne svabhàve parabhàvo na vỉdyate /; dịch nghĩa: "không có cái tự có
thực tính trong những cái có ở trong những
điều kiện liên hệ tương quan /
nếu không có cái tự có
thực tính thì cũng không có cái có
thực tính nơi cái khác").
Tôi tự cho rằng tôi có thực hay đó chỉ là một
ý nghĩ về tôi đo tôi tường nghĩ về tôi hoặc một
ý nghĩ hay một
hình ảnh về tôi do kẻ khác hay những kẻ khác tưởng nghĩ về tôi ? Ngay đến cái gọi là "tôi" chỉ là một
ý nghĩ và
cảm giác liên tục hay cố làm ra về "liên tục" do
ngôn ngữ văn phạm cú pháp tạo thành ? Lúc nào tôi
cảm thấy tôi có thực nhứt ? Lúc
ăn uống, lúc làm
ái tình, lúc yêu đương, lúc thù hận, lúc
đau khổ,
vui sướng, lúc đi đứng nằm ngồi, thở vô
thở ra, lúc lái ô tô, lúc đi làm việc kiếm tiền, lúc đi chợ hay lúc ngó đồng hồ và nhứt là lúc
trải qua tám cơn gió đời như: ĐƯỢC và THUA (chữ Pàli gọi là “làbha" và "alàbha"),
DANH THƠM và
TIẾNG XẤU (yasa và ayasa),
CA TỤNG và KHIỂN TRÁCH (pasamsà và nindà),
HẠNH PHÚC và
ĐAU KHổ (sukha và dukkha).
Phật giáo nguyên thủy gọi là "Tám Pháp Thế Gian" (Attha-loka-dhamma) (Hán: "Bát Phong”). Tôi
cảm thấy rằng tôi có thực vì tám điều trên, nhưng
thực ra vì tôi
hoàn toàn không có thực, vì tôi đang chết
trong đời sống và cái chết là cái có thực nhứt có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Chính cái chết
chuyển hóa tất cả sự thực thành ra không thực, và ngay đến cái chết chỉ có thực khi tôi còn đeo sự sống, dù là một sự sống rất
mong manh. Mỗi khi tôi thực sự chết, chết
hoàn toàn thì chính cái chết cũng không có thực. Nơi đây cũng nên nhắc lại câu
tuyệt vời của nhà
thần bí Đức Abraham a Santa Clara: "Kẻ nào chết, trước khi hắn chết, hắn không chết, lúc hắn chết" (Wer stirbt, che er stirbt, der stirbt nicht, wenn er stirbt) (cf. Heidegger, Ueber Abraham a santa Clara, Gesprochen beim Messkircher Schultreffen am 2 Mai 1964 im Martinsaal). Chỉ khi nào tôi mất hết mọi
hy vọng trong đời sống này mà vẫn không
bi quan, chỉ khi nào tôi không còn
mong đợi gì nữa trong tương lai mà không phải
cay đắng, chỉ khi nào tôi thấy rằng mình
hoàn toàn không có thực, chỉ
lúc ấy cái chết
sáng tạo sẽ
chuyển hóa hết mọi sự
hữu tình. Tại sao gọi là cái chết
sáng tạo ? Cái chết
sáng tạo không phải chỉ là chết thôi rồi không có gì hết (Đó là
chủ nghĩa hư vô): cái chết
sáng tạo là chết cái sống và sống cái chết, chết trong sự sống và sống trong sự chết; cái chết
sáng tạo chuyển hớa
hữu hình thành vô hình và
chuyển hóa vô hình thành
hữu hình,
chuyển hóa cái này ra mọi cái,
chuyển hóa mọi cái ra cái này,
chuyển hóa mọi cái này ra mọi cái khác và không còn cái nào tự biệt lập ra một cái
độc lập không
dính líu gì với cái khác: tất cả đều
trở thành liên hệ mật thiết với nhau, những gì
mâu thuẫn nhứt kêu gọi lẫn nhau như người tình kêu gọi người tình, cái không thực nhứt
trở thành sự thực và sự thực lại không có thực. Tôi không có thực vì tôi
chuyển hóa không ngừng
thực ra không phải tôi
chuyển hóa mà tôi là sự
chuyển hóa; tôi là tất cả mọi sự
chuyển hóa ở không gian
thời gian vô tận; tôi là tất cả mọi
chuyển hóa của
vô tận ý tướng và của
vô tận vô tưởng. Vì tất cả mọi sự đều
chuyển hóa trùng trùng duyên khởi trong
sự sự vô ngại pháp giới, cho nên tôi không còn là tôi nữa mà là
hóa thân vô hạn của vô hạn
vũ trụ sinh thành hoại diệt; tôi không phải là
Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT lại chính là
Thể Tính Toàn Diện (Samantamukha) của tôi. Tôi không thấy quán Thề Âm
Bồ Tát, vì
chưa bao giờ thấy được
Thể Tính Toàn Diện của tôi. Muốn thấy được sự
Toàn Diện ấy, tôi phải
vứt bỏ cái tôi. Tôi không thể tự
vứt bỏ tôi được, vì
thực ra không có cái gì gọi là tự mình mình có và cũng không có cái gì gọi là cái khác.
Quán Thế Âm Bồ Tát là SỰ
TỈNH THỨC TOÀN DIỆN CỦA
TÌNH THƯƠNG VÔ HẠN.
Sức mạnh vĩ đại nhứt trên tất cả mọi
sức mạnh, đó là
Tình Thương không chủ thể và không đối tượng.
Tình thương là một
Tiếng Gọi,
tiếng gọi tiếng thành ra Tiếng,
âm thanh gọi
âm thanh thành ra
âm Thanh.
Danh Hiệu QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT chính là
Quán Thế Âm Bồ Tát, vì
chính Quán Thế Âm là
Đại Âm Thanh của tất cả những
âm thanh vũ trụ và ngoài
vũ trụ.
Quán Thế Âm không phải là
biểu tượng một cái gì khác;
Quán Thế Âm là
Thực Tại của tất cả mọi
thực tại và
đồng thời Quán Thế Âm cũng là
Biểu Tượng vì
Tình Thương vô hạn
chuyển hóa mọi
biểu tượng thường tình thành ra
thực tại.
Bây giờ
chúng ta hãy
trở lại câu hỏi thứ nhứt "Quán Thế Âm là ai".
ứng đáp lại câu hỏi thứ nhứt này cũng là đồng lúc
trả lời hết mọi câu hỏi về
Quán Thế Âm.
2. QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT LÀ AI ?
Tôi không bao giờ tự đặt câu hỏi này cho chính tôi, cũng như tôi không bao giờ ngó lên trời rồi đặt câu hỏi: "Trời là cái gì ?”. Tôi có thể
trả lời rằng
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT là như thế này hay là như thế kia (một cách rất
uyên bác và một cách rất triết lý
thượng đẳng), những
việc làm ấy
hoàn toàn khôi hài. Tôi cũng không muốn bắt buộc người ta hãy tin như tôi. Riêng tôi, tôi tin vào
Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi tin rằng
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT có thực hơn chính tôi hay có thực hơn bất cứ người nào tôi đã gặp hay sẽ gặp trên mặt đất này.
Quán Thế Âm Bồ Tát gần tôi hơn cả chính tôi đối với tôi và
xa lạ hẳn đối với tôi như mỗi khi tôi
bạo động nổi giận,
căm thù ác độc ngu xuẩn ghen tỵ,
trả thù,
sát hại người khác và dù ngay những lúc như thế, (sự
vắng mặt của
Quán Thế Âm cũng là một sự có mặt kín đáo nào đó trong tận
hơi thở tôi.) Như nét mặt hung dữ của Mahàkàla. (
Hiện thân khác của
Quán Thế Âm) mà
chúng ta thường thấy nơi những chùa
Tây Tạng. Người ta có thể cho rằng tôi
mê tín dị đoan. Tôi không sợ
mê tín dị đoan và lại cho rằng sự tôn thờ khoa học và sự
tin tưởng vào
lý trí là điều
mê tín dị đoan ngu xuẩn và
đáng thương hại hơn hết. Tôi không chống khoa học và không chống
lý trí,
dĩ nhiên tất cả mọi sự đều
cần thiết, nhưng điều tôi
quan tâm chính là điều
quyết định nền tảng của khoa học và nền tảng của
lý trí. Đó là sự không nền tảng của chính nền tảng (theo nghĩa tĩnh từ "grundlos" của Schopenhauer hay danh từ "Abgrund" của Nietzsche và của Heidegger và Hoelderlin). Đây là
vấn đề quan trọng nhất của
tư tưởng hiện đại.
Tuy nhiên,
Quán Thế Âm không phải là một
vấn đề mà là sự huyền bí
toàn diện của
đời sống và cái chết;
Quán Thế Âm là tên gọi một cái gì không tên nằm tận sâu thẳm nơi tâm điểm của
thể tính con người;
Quán Thế Âm là sự bừng vỡ
Không Tính, sự
đột nhập của
Không Tính ngay giữa trái tim
đau khổ sợ hãi của
con người trên mặt đất.
Quán Thế Âm là sự
chuyển hóa tan vỡ của
Ngũ Uẩn thành Không,
chuyển hóa toàn diện Sắc thành
toàn diện Không,
chuyển hóa toàn diện Không thành
toàn diện Sắc (Sự
chuyển hóa toàn diện của Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức).
Quán Thế Âm là sự
Chuyển Hóa Toàn Diện của cả thể xác và
tinh thần con người, đẩy xô
con người nhảy thẳng vào Hố Thẳm không thể nghĩ bàn được của cái "không sinh, không diệt, chẳng sạch, chẳng dơ, chẳng thêm, chẳng bớt",
trạng thái huyền diệu mà tất cả
sợ hãi đều phải tan vỡ (Abhaya).
Trong kinh Saddhamla-Pundarìka (
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh)
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT còn có tên là Kẻ
Ban Tặng cho sự
An Toàn An Ninh, Trú Ẩn,
Ẩn Náu (Abhayamdada) cho bất cứ ai đang
lo âu sợ hãi (theo bản chữ Phạn) tức là Kẻ
Ban Tặng cho Sự Không
Sợ Hãi,
Thí Vô Úy (theo bản dịch chữ Hán; "Thị
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ma ha tát, ư bố úy cấp nạn chi trung, năng
thí vô úy,
thị cố thử
Ta bà thế giới, giai hiệu chi vi:
Thí vô úy giả). Trong
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Sùrangama Sùtra)
Quán Thế Âm Bồ Tát ban bố cho
loài người 14 thứ không
sợ hãi (14
công đức vô úy), đo lòng bi ngưỡng đối với
loài người, và từ
sức mạnh của
lòng từ thiện ra 32
ứng thân để
thuyết pháp mà khiến cho mọi loài
được giải thoát thành tựu.
Quán Thế Âm Bồ Tát đã đắc được 4
vô tác diệu đức không thể nghĩ bàn cho nên theo
cơ cảm một là "có
thể hiện ra rất nhiều
hình dung nhiệm mầu, nói ra
vô số thần chú bí mật. Trong đó, hoặc
hiện ra một đầu, 3 đầu , 7 đầu, 9 đầu, 11 đầu như
thế cho đến 108 đầu, 1000 đầu, 10 000 đầu, 84.000 đầu, đầy đủ các tướng hoặc
hiện ra 2 tay, 4 tay, 6 tay, 12 tay, 14, 16, 18, 20, 24, như
thế cho đến 108 tay, 1.000 tay, 10.000 tay, 84.000 cái tay bắt ấn; hoặc
hiện ra 2 mắt, 3 mắt. 4 mắt, 9 mắt, như
thế cho đến 108 mắt, 1.000 mắt, 84.000 con mắt báu
thanh tịnh; hoặc khi thì từ, hoặc khi thì oai, hoặc khi thì định, hoặc khi thì tuệ, cứu giúp
chúng sanh được rất tự tại". Đó là đo
Quán Thế Âm Bồ Tát đã được Đạo
tu chứng viên thông vô thượng, cho nên được
vô tác diệu đức thứ nhứt không thể nghĩ bàn: "Chứng được tính nghe chí diệu, nơi
tâm tính không còn có tướng năng vân, các sự thấy nghe, hay, biết không còn
cách biệt và đều thành một bảo
giác viên dung
thanh tịnh."
Diệu đức vô tác thứ hai của
Quán Thế Âm là có "diệu dụng
hiện ra mỗi hình, tụng ra mỗi chú, hình đó, và chú đó có thể đem
sức mạnh không
sợ hãi mà
ban tặng cho các chúng sinh";
diệu đức vô tác thứ ba của
Quán Thế Âm là "đi qua bất cứ
thế giới nào cũng đều khiến cho
chúng sinh hy sinh thân thể mình và
hy sinh trân bảo để
cầu xin lòng từ bi Của
Quán Thế Âm”;
diệu đức vô tác thứ tư của
Quán Thế Âm là "có thể đem các thứ
quý báu cúng dường các bậc
Như Lai ở khắp
mười phương và có thể
ứng đáp lòng mong cầu của
chúng sinh lục đạo trong
pháp giới, ai cầu vợ thì được vợ, ai cầu con thì được con, cầu samàdhi (
tam muội) thì được samàdhi, cầu được
sống dai thì được
sống dai, và ngay đến cầu cho được
Đại Niết Bàn (parinirvàna) thì được Đại Niết Bàn".
Trước khi đi sâu vào
chi tiết những gì
cần thiết về
Quán Thế Âm Bồ Tát,
chúng ta cũng nên
giới hạn và
đào sâu danh hiệu "VÔ ÚY THÍ" (Abhayamdada).
3. QUÁN THẾ ÂM LÀ VỊ BAN TẶNG SỰ KHÔNG SỢ HÃI
(THÍ VÔ ÚY) THÂM MẬT DANH HIỆU TRONG
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có
nhấn mạnh hai lần rằng
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT là Vị
Bồ Tát hay đem sự không
sợ hãi ban tặng cho
chúng sinh (Thị
Bồ Tát năng dĩ
Vô úy Thí ư
chúng sinh) , hay
ban cho sự không
sợ hãi (Năng
Thí Vô úy). Trong bản chữ Phạn thì có sự khác biệt quan trọng lúc hô lên
danh hiệu; thay vì "NAM MÔ
QUÁN THẾ BỒ TÁT" như trong bản dịch chữ Hán của
Cưu Ma La Thập, trong bản chữ Phạn thì
danh hiệu lại được
nhấn mạnh thêm với chữ "KẺ
BAN TẶNG SỰ
AN TOÀN, SỰ KHÔNG SỢ HÃI" (Abhayamdada); tức là thay vì hô
danh hiệu "NAM MÔ
QUÁN THẾ BỒ TÁT" (theo cách dịch thiếu trong bản chữ Hán,
chúng ta phải gọi cho đúng theo bản chính chữ Phạn là: "NAM MÔ
VÔ ÚY THÍ QUÁN THẾ BỒ TÁT MA HA TÁT” như nguyên ngữ chữ Phạn:
NAMO NAMAS TASMAI ABHAYAM
DADÀYÀVALOKITESVARAYA BODHI
SATTVÀYA MAHÀSATTVÀETI!
hay là:
NAMO NAMAS TASMAI ABHAYAM
DADA AVALOKITESVARÀYA BODHI
SATTVÀYA MAHÀSATTVÀYA!
có nghĩa là:
Xin cúi lạy, cúi lạy
qui ngưỡng tôn kính trước ĐẤNG
BAN CHO SỰ
AN TOÀN, SỰ
NƯƠNG NÁU, SỰ TRÚ ẨN, SỰ KHÔNG
SỢ HÃI, trước ĐẤNG NHÌN THẤY TIẾNG KÊU CỦA TRẦN GIAN, ĐẤNG
BỒ TÁT BỪNG TỈNH, ĐẤNG TÔN QÚI VĨ ĐẠI!
Chúng ta thấy rằng dù
xưng danh hiệu tắt "NAM MÔ
QUÁN THẾ BỒ TÁT" (theo Hán dịch) hay
xưng danh hiệu đầy đủ theo nguyên bản Phạn (NAMO NAMAS TASMAI ABHAYAMDADÀYÀVALOKITESVARÀYA BODHISATTVÀYA MAHÀSATTVÀYATI), sự
XƯNG DANH HIỆU này là tất cả nội dung
bí mật sâu thẳm của
toàn thể phẩm Phổ Môn của
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Chỉ cần
xưng danh QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT với tất cả
trọn vẹn tâm hồn hợp nhứt (
nhứt tâm xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát) thì mình sẽ tức thì được đẩy thẳng vào
trung tâm điểm
SỨC MẠNH HUYỀN BÍ CỦA
TÌNH THƯƠNG TOÀN DIỆN, SỰ GỌI TÊN (
XƯNG DANH) là một cái gì huyền bí nhứt trong
thể tính con người; mỗi khi
con người gọi tên người yêu của mình thì
tự nhiên bất ngờ tất cả mọi sự thơ mộng nhứt, cao đẹp nhứt đời mình bỗng bừng sống đậy. Huống chi ở đây là SỰ GỌI TÊN một cái gì là Suối Nguồn
VÔ Tận của tất cả
TÌNH THƯƠNG TÌNH YÊU của cả
tam thiên đại thế giới. Chỉ cần gọi tên
Quán Thế Âm là
đánh thức dậy tất cả cơn Bừng Vỡ vô hạn của
Tinh Túy TỪ LỰC và BI LỰC
huyền diệu khả dĩ phá vỡ tất cả mọi
tai nạn, mọi
nghịch cảnh, mọi
mâu thuẫn, mọi
tranh chấp, mọi
đau khổ phiền lụy và tất cả mọi sự sỡ hãi thể xác và
tinh thần của
con người trên mặt đất. Trong
Kinh Thủ Lăng Nghiêm,
chúng ta thấy
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT cũng đều được "những cõi nước
mười phương gọi là Vị
Thí Vô Úy (Vị
Ban Cho Sự KHÔNG
SỢ HÃI) và được
Văn Thù Sư Lỵ
Pháp vương tử ca ngợi trong
bài kệ: "được
sức mạnh tự tại vĩ đại và ban bố Sự Không
Sợ Hãi cho tất cả mọi chúng sinh".
4. SỰ SỢ HÃI LÀ GÌ ?
Khi đặt câu hỏi: "Sự
Sợ Hãi là gì ?" thì người ta đang ở trong
trạng thái không
sợ hãi. Người đang
sợ hãi thì không bao giờ hỏi: "Sợ Hãi là gì ?”. Khi
sợ hãi thực sự thì ta không còn biết gì cả: tất cả câu hỏi đều bị tắt nghẽn đi
lập tức. Khi
sợ hãi, ta chỉ
ú ớ,
ngôn ngữ dứt bặt Còn có một cái khác "đáng sợ" HƠN SỰ
SỢ HÃI; ĐÓ LÀ:
SỢ HÃI SỰ
SỢ HÃI. Không sợ sự
sợ hãi thì có nghĩa là lúc thấy sợ thì cứ sợ và lúc không thấy sợ thì không sợ. Nhiều khi sợ
trọn vẹn đẩy ta thoát ra khỏi cái hàn ngã ta hơn không có
cảm giác gì hết. Sợ cũng có thể là bước
cuối cùng đẩy ta đến sự Bừng Tình
Giác Ngộ. Tất cả những cơn
ác mộng đều là điều
báo hiệu sự
tỉnh thức.
Nói một cách
mâu thuẫn thơ mộng
cuộc đời càng có nhiều
ác mộng thì càng mau
tỉnh mộng giải thoát; càng nhiều gian khổ, càng nhiều
đau đớn thì lại càng
đến gần cơn khoái lạc tột đỉnh: càng chết thì càng sống, càng trống rỗng thì càng
tràn trề, càng
vô minh thì càng sớm
chánh đẳng chánh giác.
Long Thọ đã dạy đời bằng đôi câu kệ
vô cùng giản dị: "Luân hồi
thực ra không hề khác gì
Niết Bàn /
Niết Bàn không hề có gì khác Luân Hồi" (
Trung luận của
Long Thọ: "na samsàrasya nirvànàtkim cidasti visesanam / na nirvànasya samsàràtkim cidasti visesanam") . Đó là mức độ cao nhứt qua
trí tuệ vượt
trí tuệ, nhưng
chúng ta hãy
trở lại mặt đất và đặt câu hỏi
bình thường: “sự
Sợ Hãi là gì ?” .
Có hai kinh Phật Pàli nói về sự
Sợ Hãi (Bnaya), kinh Bhayabherava Sutta (kinh thứ 4 trong Majjhima Nikàya (M.I, trang 16-24) và loại kinh Bhaya Sutta (nhiều kinh về sự
sợ hãi bhaya như Anguttara Nikàya, I trang 178-80; 11, tr. 123; li, tr. 310). Theo kinh Bhayabherava, sự
sợ hãi phát sinh từ sự
ngã chấp, sự nhìn thấy
sai lầm rằng có một
cá thể,
cá nhân riêng biệt, một
bản ngã, bản vị, thành ra đeo níu vào một
ngã kiến (sakkayà-ditthi).
Đức Phật có kể lại rằng trước khi Ngài
giác ngộ, Ngài cũng thường
trải qua trạng thái sợ hãi này, và Ngài đã nhìn thẳng vào sự
sợ hãi này và không
tìm cách trốn tránh; theo lời Ngài: "Ta
trực nhận đêm tối như là đêm tối và ban ngày như là ban ngày” (Majjhima Nikàya, I, trang 21) và
khám phá ra rằng chính vọng tưỏng về cái ngã
bất an phát ra sự
sợ hãi, là gốc rễ của sự
sợ hãi. Kinh Bhayabherava Sutta (M. I, trang 16-24) có đưa ra những
lý do cắt nghĩa tại sao có những vị ẩn tu sống
một mình tại những nơi hẻo lánh
thường hay phải
trải qua nhiều cơn
sợ hãi, vì họ không được
hoàn toàn trong sạch ở thân, hoặc ở ý tướng hoặc ở
ngôn ngữ, vì họ vẫn còn
dục vọng thèm khát, còn đầy
tham sân si, lười biếng
giải đãi,
tâm tính bất thăng bằng, đầy
hoài nghi xao xuyến, tự
ca tụng mình và
phỉ báng người khác
đua đòi theo đuổi tiền
tài danh vọng và tâm ý thác loạn,
tư tưởng lỏng lẻo và phân tán,
thần trí què quặt. Vì những
lý do như vậy, sự
sợ hãi mới
phát khởi trong
tâm thức đảo điên và phải
trải qua cái
cảm giác bất an bấp bênh (akkhema matthena veditabha) (Majjhima nikàya Atthakathà, I, trang 114).
Niết Bàn chính là nơi trú ẩn
an toàn nhứt (khem) vì
hoàn toàn dứt mất hết mọi
sợ hãi. Kinh Samyutta Nikàya, IV, trang 175: "Bờ bến bên kia,
an ninh và thoát ra ngoài những sự
sợ hãi, chính là tên của Nibbàna (
Niết Bàn)". Kinh Bhayabherava Sutta cho ta thấy rằng
căn bản tâm lý của sự
sợ hãi là cảm thức về nỗi
bất an trùng điệp của
đời sống, gây ra sự đề cao cái
bản ngã một cách
lộ liễu hay kín đáo
tế nhị,
ước vọng cố gắng tranh giành quyền lợi ảo vọng của một cái "tôi" không thực và đầy chú ý lường gạt tráo trở, chính
vọng tưởng về cái
cá nhân tính biệt lập của mình đã nằm ở nơi cội rễ của mọi truy cầu
mong đợi đáp ứng của mọi thù hận, mọi ghen tương đố ky, mọi
tham lam tranh giành. Vì không thể tìm được sự
an toàn vững bền trong sự đổi thay dâu biển của
đời sống bấp bênh, vì luôn luôn bị mất đất đứng, bị hụt chân và mất hết mọi nương tựa
vững chắc giữa lòng đời thác lũ, cho nên ta càng đeo níu vào một cái gì
hoàn toàn không có thực, đó là
kiến chấp về cái ngã của mình. Sự
sợ hãi trở thành nguyên
động lực của tất cả mọi
phản ứng của ta trước mọi thách thức bất ngờ xảy ra mỗi ngày mỗi đêm, khiến ta
chạy trốn thoát ly tạm bợ trong những
tiêu khiển. Những
giải đáp rẻ tiền để trấn an những
căng thẳng tội độ của
tâm thức. Cái ngã càng lúc càng được cũng cố như một
lý tưởng cố định và sự
sợ hãi đánh mất
lý tưởng này là
lý do khiến ta không còn
nhận ra lý vô thường (anicca) của mọi sự.
Hiển nhiên cũng có những nỗi "sợ hãi thiêng liêng" như sự
sợ hãi về nỗi nguy hiểm lúc
tham luyến đeo níu những gì không thường định
trong đời sống. Sợ cái không
đáng sợ, và không sợ cái phải
đáng sợ, cả hai đều nguy hiểm và khiến ta nổi lặn hụp mãi
trong vòng luân hồi khổ lụy. Trong kinh Anguttara Nikàya, III, tr. 310, sự
sợ hãi là
đồng nghĩa với sự
say đắm nhục dục. Kẻ nào say mê thèm đói
dục lạc, khoái yêu
dâm dục thì không bao giờ
thoát khỏi sự
sợ hãi trong kiếp này hoặc trong
kiếp sau. Trong kinh Anguttara Nikàya, I, tr. 178-80,
chúng ta thấy rằng chỉ có sự
thực hành tu chứng Bát Chính Đạo (Ariya-atthangika-magga) là mới có thể
tiêu diệt hết tất cả mọi sự
sợ hãi.
5. SỰ SỢ HÃI LÀ KIẾN TRÚC TƯỞNC TƯỢNG
CỦA Ý NIỆM (VIKALA) VÀ SỰ LẬP THỨC
CỦA FREUD, KIERKEGAARD VÀ HEIDEGGER
Thế nào là kiến trúc tưởng tượng của
ý niệm ? Tôi xin đưa ra một
thí dụ khôi hài trích từ
tác phẩm của nhà đại
thông thái, đại
sáng lập viên của Phân
Tâm Học nhân loại Sigmund Freud, trong quyển Jenseits der Lustprinzips (
Vượt qua nguyên lý khoái lạc) (x.b. Wien. 1920. G.S. vi, 189-257), đã
chịu khó phân biệt những
ý nghĩa dị biệt trong cái gọi là "sợ hãi": "sự hoảng sợ hốt hoảng, sự
sợ hãi, sự
xao xuyến băn khoăn thường bị dùng một cách
sai lầm như những
từ ngữ đồng nghĩa: đối với sự nguy hiểm
đe dọa,
nhân từ ngữ này đều có sự tinh nghĩa
dứt khoát rõ ràng. Sự e sợ,
xao xuyến, bồn chồn, băn khoăn, khắc khoải, thảng thốt,
khổ não,
áy náy, âu lo,
lo lắng, xót xa,
bồi hồi (nói gọn lại trong một chữ Đức là "Angst"
ám chỉ một
điều kiện tâm tư nào đó, như khi mình
mong đợi sự nguy hiểm sắp xảy tới và chuẩn bị sẵn sàng đón nhận sự nguy hiểm ấy, dù sự nguy hiểm ấy hãy còn
xa lạ và không được biết tới: sự
sợ hãi (Furcht) đòi hỏi một đối tượng xác định mà mình đang sợ; còn sự luống cuống hốt hoảng
giựt mình điếng hồn điếng vía hoảng sợ khiếp đảm
kinh khủng khủng khiếp
ghê sợ ghê gớm (nói gọn lại trong một chữ Đức là “Schreck”) là danh tử để gọi cái
trạng huống một mình bị rơi, bị kẹt lối, bắt buộc phải đương đầu với một cơn nguy biến mà mình không kịp chuẩn bị
đối phó; danh từ này
nhấn mạnh tíinh cách đột ngột bất ngờ kinh ngạc”.
Tôi thấy tức cười lúc đọc lại những dòng biền biệt trên của Frend. Xin đọc tiếp một đoạn khác của Freud trong khoa giảng mở đầu về Phân
Tâm Học: "Sự
xao xuyến bồn chồn
áy náy (Angst) thì có
liên hệ với
trạng thái tâm thần thôi và không
dính líu gì với đối tượng,
trái lại sự
sợ hãi (Furcht) điều động tất cả sự
chú tâm của nó xoay hướng
đặc biệt về đối tượng (Freud, Introductory Lectures on Psychoanalysis, ch. 25, Lon don, 1929). Đó là kiểu mẫu của sự
thông minh Tây phương và nói lên tất cả
ngu xuẩn của Phân
Tâm Học:
xây dựng kiến thiết một
hệ thống ý niệm đồ sộ để vồ chụp lấy những
hiện tượng được tạo ra do chính
hệ thống ý niệm tưởng tượng theo điệu
lý luận vòng tròn như vậy: "sự
sợ hãi là có đối tượng; đối tượng của sự
sợ hãi là chính đối tượng còn sự
xao xuyến không có đối tượng của chính đối tượng của nó là
tâm thức có đối tượng là
trạng thái tâm thức của
chính tâm thức". Tôi đã đùa chơi với
chữ nghĩa thông thái rẻ tiền Freud đã dùng một
ý niệm triết lý
cận đại Tây phương "đối tượng (Gegenstanđ, Objekt, objectum) với tất cả ngây ngô
triết học, cơ hồ như Kant chưa
xuất hiện trong
quyết định trầm trọng của sử tính tính luận
Tây phương. Kant đã đẩy sự kiến trúc đối tượng của
ý niệm cho đến cùng tận để lùi bước "kinh sợ" trước sự tưởng tượng
cụ thể, trước “Hố Thẳm Siêu Hình Học” (Abgrund der Metaphysik), còn Freud thì lại cứ lẩn quẩn bị kẹt vào một mớ
ý niệm cặn bã xây dựng trên sự phân tích duy lý và duy nghiệm và chẳng hề biết tới chính nền tảng của sự
suy luận của mình, chẳng hạn như "điều kiện khá tính" của chính "kinh nghiệm" (Erfahrung) về "Đối tượng tính" (Gegenstaendlichkeit) .
Thay vì
lý luận dài dòng tràng giang
đại hải về sự
sợ hãi hay sự
áy náy xao xuyến, tôi muốn nói gọn lại ở đây cho
dễ hiểu rằng sự
sợ hãi và sự
xao xuyến chỉ là tiến trình và diễn trình kiến trúc tưởng tượng của
ý niệm, nói theo danh từ
Phật học chữ Phạn là "vikalpa", và sự kiến trúc
ý niệm tưởng tượng (vikalpa) chỉ là con đẻ của "sự
vận hành ngôn hóa ngữ hiện của
tâm thức ý khởi niệm hiện ngôn diễn", nói gọn lại vikalpa là con đẻ của prapanca. Cũng nên nhắc lại câu kệ dạy đời hiển đạo của
Long Thọ (Nagàrjuna) trong
Trung luận:
Karmaklesa-ksayànmoksah karmaklesa vikalpatah//
Te prspancàt prapancastu sùnyatàyàm nirudhyate//
(Mũlamadhyamakàkarikà. xvii.i, 5)
Chỉ có hai câu chữ Phạn ngắn gọn
súc tích mà đã đúc kết được tất cả
sức mạnh Tư tưởng mãnh liệt của
trí tuệ con người. Hiểu được hai dòng chữ trên thì hiểu được tất cả nhiệm mầu của việc
xưng danh hiệu
Quán Thế Âm Bồ Tát là nhứt niệm diệu nhứt huyền bí khả dĩ
tiêu diệt tất cả kiến trúc
ý niệm ngôn từ và
chuyển hóa toàn triệt
con người và xô đẩy
con người nhảy thẳng vào
Không Tính (sùnyatà). Tôi xin tạm dịch dài dòng hai câu chữ Phạn trên của
Long Thọ (Nàgàrjuna):
"Sự
giải thoát được
thực hiện nhờ sự phá vỡ những hành động
tác ý ô uế gây ra bởi sự kiến trúc
ý niệm tưởng tượng (vikalpa) và những sự kiến trúc
vọng tưởng này
phát khởi tử sự
vận hành ngôn hóa / ngữ động / (prapanca), chỉ lúc nào sự vận tác
ngôn ngữ /
lý luận này
chấm dứt thì
Không tính mới bừng dậy"
Không Tính (sùnyatà)
hiển nhiên không có nghĩa “hư vô” theo nghĩa của Keirkegaard khi Keirkegaard xác định sự khác nhau giữa "sự sợ hãi" (Furcht) và sự
áy náy xao xuyến" (Angst): “Sự
sợ hãi luôn luôn là sự
sợ hãi một cái gì xác định
rõ ràng còn sự
áy náy xao xuyến (Angst) là
thực tại của
tự do được coi như là một khả thể, trước khi khả thể này được
thể hiện; đó là sự nghịch cảm đồng cảm là một sự đồng cảm nghịch cảm, và đối tượng của nó là một cái gì đó mà
thực ra chỉ là
hư vô, không có cái gì cả" (Keirkegaard, The Concept of Dread). Điều đánh buồn ở đây là
con người xao xuyến hãi hùng thường trực như Keirkegaard mà cũng không thể nào định nghĩa về sự
sợ hãi xao xuyến áy náy cho đàng hoàng được, vì Keirkegaard vẫn bị
nô lệ vào sự
vận hành kiến trúc
ý niệm theo điệu "ác cảm có
tính cách thiện cầm" và "thiện cảm có
tính cách ác cảm" theo kiểu
thu nạp thành tựu nguyên lý
mâu thuẫn của Hegel, vì thế “hư vô” của Keirkegaard chỉ là chuyển niệm khái quát
rỗng tuếch theo điệu chuyển hành
biện chứng từ "tính thể" (Sein) của Hegel sang “vô thể”, “hư vô” cũng của Hegel. Đó cũng là
lý do cắt nghĩa tại sao trong quyển "Hoặc là / Hoặc là" (Either /Or), Keirkegaard đã định nghĩa sự
áy náy xao xuyến là một phản nghĩ, một phản tưởng một phản hồi niệm "Fot anxiety is a reflection. That anxiety is determined by reffection is shown by our use of words; for I always say: to be anxious about something by which I separate the anxiety from that about which I am anxious, and I can never use anxiety in an objective sense" (Either / Or, Princeton University Press, 1959, tr. 152-153).
Mặc dù bị
ảnh hưởng Hegel khi
quan niệm sự
áy náy xao xuyến như một 'phản hồi ý niệm" (reflection), mặc đù "hư vô" của Keirkegaard trái ngược lại nghĩa "Không Tính" của
Phật giáo, định nghĩa của Keirkegaard về sự
lo âu áy náy xao xuyến cũng gần đi đến “vikalpa”, CHỈ CÓ MỘT ĐIỀU LÀ chữ "reflection" của Keirkegaard
hoàn toàn có
nghĩa tích cực theo sự
vận hành biện chứng pháp. Trong
tư tưởng Tây phương hiện đại chỉ có Heidegger là đã khai mở
rõ ràng ý nghĩa tính luận nền tảng của sự
sợ hãi (Furcht) và
ý nghĩ siêu tính luận của sự
xao xuyến áy náy (Angst), nhứt là qua
kinh nghiệm triệt để của Angst thì đột hiện sự
hiện diện huyền hoặc của "Vô Tính" (Nichts), một cái gì mà không là cái gì cả và rất gần
Không Tính của
Phật giáo, nhưng chưa
triệt để vô căn để
như Không Tính. Tôi không muốn
nói nhiều về Hieidegger (Ai muốn
đào sâu về Heidegger, xin đọc Sein und Zeit, tr. 130-140, 180-191, và nhứt là Was ist Metaphysik ?
Đặc biệt về “Angst” và “Nichts”.
Trạng thái cảm thức hố thẳm “Angst” của Heidegger không còn là một tâm thái
tâm lý như nghĩa
xao xuyến áy náy bồn chồn mà là một sự động đất
tâm linh toàn diện, sự sụp đổ của tất cả mọi
lý luận và
vận hành ý niệm óc não và sự
xuất hiện rùng rợn mê ly
huyền diệu của "Vô Tính" (Das Nichts) như sự "che giấu
bí mật của Thể Tính" (der Schleier des Seins). Chỉ lúc nào
chúng ta “được” rơi vào cảm thức động đất
toàn diện trong
ý nghĩa "Angst" của Heidegger thì
chúng ta mới sống trong cái chết và chết trong cái sống, chỉ
lúc ấy tất cả mọi vikalpa bị lung lay và tất cả mọi pranpanca bị tắt nghẹn, và chỉ
lúc ấy ngôn ngữ đột nhiên trở thành im lặng bất ngờ, và đùng một cái như
tiếng sấm sét
bùng nổ dậy tiếng hô tên “NAM MÔ
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT” mới vụt thoát ra như một bông sen trắng chổi dậy vượt lên trên tất cả mọi
vọng tưởng điên đảo.
Lúc ấy tiếng gọi QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT không còn là tiếng nói thường tình của
loài người mà chính lại là sự tập trung tất cả
tinh lực âm thanh vũ trụ suối nguồn của tất cả
âm thanh,
năng lực huyền bí của NHỨT ÂM, NHỨT NIỆM, NHỨT TỰ,
như Tự Mẫu
linh thiêng A của
Phạn ngữ, sự cô đọng cùng tột của tất cả
Bát Nhã Ba La mật, của
Trí Huệ Bừng Tỉnh
Toàn Diện.
6. DANH HIỆU QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHÁ VỠ TẤT CẢ
Ý THỨC VÀ VÔ THỨC CỦA CON NGƯỜI VÀ
KINH NGHỆM HƯ VÔ CỦA VĂN HÀO HEMINGWAY
Trước khi
tiếp tục từ
chuyển hóa và bên trong sự
linh ứng thần diệu của việc
xưng danh Quán Thế âm Bồ Tát,
chúng ta hãy đi sâu thêm một tý nữa về sự
sợ hãi,
kinh khủng kinh hoàng,
xao xuyến, và
kinh nghiệm về
hư vô,
vô thể,
vô tính. Từ đó
chúng ta mới đủ chuẩn bị
thần trí để
đi vào cảnh giới lạ lùng linh hiển của
danh hiệu Quán Thế âm Bồ Tát. Xin
trở lại lãnh địa
tư tưởng Tây phương về sự
sợ hãi,
xao xuyến và
hư vô. Từ Platon,
vấn đề hư vô đã được đặt ra một cách quyết liệt trong những
tác phẩm vĩ đại của
triết học Tây phương như Sophiste và Parménide, nhưng
hư vô vẫn bị
chà đạp và ném vào vị thế
phụ thuộc, chỉ đến Schopenhauer thì có cái gì bắt đầu động đậy trong lời chú thích khiêm tốn kín đáo ở cuối cuốn sách thứ 4 cửa quyển Le Monde comme Volonté et comme Représentation (1818, lời chú thích do chính Schopenhaưer thêm nào lúc tái bản), mà
cho đến nay trên 150 năm sau vẫn chưa có một
triết gia Tây phương nào
để ý, mặc dù lời chú thích ấy đã
chuyển hóa toàn thể tác phẩm cửa Schopẻnhauer dưới một luồng ánh sáng
kinh dị, lời chú thích ấy tự
biện minh bằng
viện dẫn Không Tính của
Kinh Bát Nhã Ba la mật của
Phật Giáo. Cả Nietzsche cũng đã hiểu
sai lầm Schopenhauer,
tuy nhiên tính mệnh của Nietzsche đã xô đẩy Nietzsche phải
cưu mang tất cả
hậu quả tàn khốc nhứt của
kinh nghiệm hư vô mà ít có người có khả năng
tư tưởng để
chịu đựng nổi trên đời này.
Trước Triết Lý
Tây phương,
kinh nghiệm về
Hư Vô đã vồ chụp lấy
thi hào bi kịch Hy Lạp Sophocle, trong nhưng
bi kịch hùng tránh như Oedipe roi, Antigone và Oedipe à Colone,
chúng ta giựt mình run rẩy lạc vào
một thế giới
hãi hùng nhứt và
bi tráng nhứt của
kiếp người, sự
va chạm nẩy lửa giữa
thần thánh và
giới hạn tất mệnh của
con người. Lời choeur trong vở Antigone bắt đầu với chữ "deinon" (cái gì kinh khiếp,
kinh dị hãi hùng lạ lùng) đã đưa ta
đi thẳng vào
thể tính bí mật của
con người, mà từ
Thượng Cổ Hy Lạp
cho đến thế kỷ XX, chưa có
triết gia Tây phương nào có thể
tư tưởng cho
tới nơi được (có thể chỉ
trừ ra nỗ lực phi thường của Heidegger trong Einfuehrung in die Metaphysik). Trong nền
văn học hiện đại,
gần đây có Samuel Beckett và trước đây có Ernest Hemingway, một nhà văn đã bị
hiểu lầm rất nhiều vì
chẳng may quá
nổi tiếng Hemingway đã viết một truyện ngắn khủng khiếp chỉ
gồm có 8 trang mà cô đọng lại tất cả
kinh nghiệm sáng tạo cực điểm về sự
sợ hãi,
xao xuyến, và
hư vô. Truyện nhắn nhan đề là "A Clean, Well-lighted Place" (Một nơi nào đó sáng đèn và sạch sẽ) truyện đã in trong quyển Winner Take Nothing (x b. 1933).
Chúng ta hãy lắng nghe độc thoại
nội tâm của nhân vật chính trong truyện, một người bồi bàn
cô độc đầy
xao xuyến bàng hoàng nơi quán rượu về khuya ở một nơi nào đó tại đất Tây Ban Nha:
"Tắt đèn điện xong rồi, hắn cứ
tiếp tục nói chuyện
một mình cho
một mình hắn nghe,
phải chăng hắn đã
sợ hãi ?
Thực ra chẳng phải sự
sợ hãi nào cả hay cũng chẳng phải sự
áy náy bồn chồn
xao xuyến nào cả. Đó chỉ là một cái
hư vô mà hắn đã quá
quen biết. Tất cả đều là một cái
hư vô và
con người cũng là
hư vô. Chỉ có thế và ánh sáng quả thực
cần thiết vậy và một sự sạch sẽ nào đó và một
trật tự nào đó. Có người đã sống trong
hư vô và chẳng bao giờ
cảm thấy hư vô, nhưng hắn biết rõ nó, ồ tất cả là
hư vô, ồ thế chỉ là
hư vô nada y pues nada y nada pues nada. Cái nada của chúng con, lạy nada của chúng con, ở trên nada, nguyện danh nada cả nada nước nada trị đến xin dâng nada trên nada bằng nada vậy. Xin nada cho chúng con ngày
hằng ngày nada và nada chúng con như chúng con nada nhưng nada của chúng con, lạy cho nada trong nada và chữa chúng con cho khỏi nada; pues nada.
Kính mừng
hư vô, đầy
hư vô,
hư vô ở cùng người…”
Đoạn văn trên chiếu rực lên một làn ánh sáng huyền hoặc, một thứ ánh sáng
trong suốt trong sự trống rỗng
mênh mông của cả
vũ trụ. Hai
bài kinh quen thuộc của Công giáo (Kinh lạy Cha và kinh Kính mừng Maria)
trở thành kinh
cầu nguyện hư vô:
Thượng đế và Đức Mẹ và tất cả mọi sự
trở thành hư vô (
sắc tức thị không). Tất cả quán cà phê,
ánh đèn điện
rực rỡ, những
hình dáng con người, những bàn những ghế, tất cả
trở thành hư vô.
Triết gia Wỉlliam Banett đã trích dẫn đoạn văn trên trong một buổi nói chuyện ở Hội
Triết Học Mỹ (American Philosophical Association) vào ngày 29-12-1957 và có nhắc đến
Không Tính của
Phật giáo “gợi lên
lòng từ bi bao quát tất cả mọi chúng sinh” (cf. Irrational Man, 284-285). Chữ Tây Ban Nha “nada” có nghĩa là
hư vô và giọng văn của Hemingway ở trên tuôn chảy
một mạch như
diệu Tâm Kinh
Bát Nhã. “Thị
chư pháp không tướng,
bất sanh bất diệt, bất cấu
bất tịnh,
bất tăng bất giảm.
Thị cố không trung
vô sắc,
vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý;
vô sắc, thanh, hơng vị, xúc, pháp...”
Khi tất cả những gì ta tưởng như có thực bỗng
trở thành hư vô và ngay cả
Thượng Đế cũng là
hư vô thì chính
hư vô cũng không còn là
hư vô nữa, và như thế
chúng ta sẽ không bị rơi vào
chủ nghĩa hư vô (nihilisme).
Sắc tức thị không nhưng
đồng thời không tức thị sắc. Chính
lúc ấy,
danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát trỗi dậy như
Diệu Sắc,
Diệu Hữu,
Diệu Thể, Diệu Tính, và
chuyển hóa cứu độ giải thoát chúng sinh khỏi mọi
khổ ách, mọi
đau khổ, mọi
tai nạn; mọi
sợ hãi, vì tất cả đã được xoay tròn nhập thẳng vào
sự sự vô ngại pháp giới.
Diệu sắc,
Diệu Hữu,
Diệu Thể, Diệu Tính ở đây chính là
Diệu Âm trong
phẩm Phổ Môn của
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh:
DIỆU ÂM QUÁN THẾ ÂMPHẠM ÂM HẢI TRIỀU ÂMTHẮNG BỈ
THẾ GIAN ÂM
THỊ CỐ TU
THƯỜNG NIỆMXin dịch lại:
Tiếng
huyền diệu của sự nhìn thấy tiêng kêu của
thế giới.
Tiếng từ tận đỉnh trời cao nổ ầm lên với tiếng thủy triều của
đại dương.
Tiếng bay vút lên cao làm nó
vỡ tung những tiếng kêu, những
âm thanh của
vũ trụ.
Cho nên
cần phải luôn luôn tưởng nhớ.
Theo nguyên văn chữ Phạn thì có thể dịch lại
như vầy:
Tiếng của Quán Thê Âm là
tiếng động của tất cả mây bay
trên trời.
Tiếng trống, tiếng mưa rào, tiếng thanh cao của
phạm Thiên,
Tiếng vượt
xuyên qua tận cùng
toàn bộ âm thanh của
vũ trụCần nên tưởng nhớ tới Quán Thê Âm.
Tất cả những gì thuộc về
ý Thức và cả
Tiềm Thức, Hạ Thức, Thượng Thức,
Vô Thức của con ngời đã bị phá vỡ bởi luồng ánh sáng
trong sạch từ
Mặt Trời Trí Tuệ của
Quán Thế Âm. Một đoạn kệ thơ mộng nhứt trong phần kệ của
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh:
Chơn quán
thanh tịnh quán
Quảng đại trí tuệ quánBi quán cập
từ quánThường nguyệt thường
chiêm ngưỡngKhi dịch ra Việt văn,
Hòa Thượng Thích
Trí Tịnh đã
để yên chữ Hán, vì quá
súc tích thơ mộng. Tôi xin dịch lại dài dòng theo
văn chương Việt hiện nay
như vầy:
Ồ, cái nhìn
chân thực, cái nhìn
trong sạch,
thanh thản,
trầm lặngCái nhìn
sáng suốt tỉnh thức sâu rộng bao laCái nhìn đầy
tình thương, cái nhìn
hiền lành yêu dấuMà mình thường
hoài vọng ao ước, thường ngó nhìn mơ tưởng.
Theo bản chữ Phạn thì có thể dịch
như vầy:
Ồ, hỡi Người có đôi mắt
trong trẻo, đôi mắt
hiền lành nổi bật lóe sáng lên
Trí Tuệ và sự
Hiểu Biết, đôi mắt
tràn trề tình thương và
rộng lượng nhân từ;
Người sao
tuyệt đẹp,
dung nhan tuyệt sắt và đôi mắt quá diễm kỉều!
Ở đây
chúng ta thấy
Sắc Uẩn (Rùpa-skandha) đã bị phá vỡ và
chuyển hóa thành
Diễm Sắc và
Diệu Sắc, nghĩa là
sắc uẩn không còn bị
giới hạn nơi
thân thể, thân xác sỉnh lý và
vật lý, khi “không tức thị Sắc” thì Sắc đó là cả
toàn diện vũ trụ linh động rực ngời
phản chiếu trong suốt im lặng như mặt gương đài. Sắc
chuyển hóa thành “Đại Viên Cảnh Trí” (mahàdarsa-Jinàna), tất cả sắc
đẹp tuyệt vời của
thiên nhiên trời đất
vạn vật, tất cả vẻ đẹp “sắc nước hương trời” của những nàng tiên đẹp nhứt cũng
trở thành cát bụi
trước Mặt Gương tròn sáng
trong suốt tỏa ra từ dôi mắt (hay ngàn mắt) của
Quán Thế Âm.
Danh hiệu Quán Thế Âm là sự
chuyển hóa toàn diện CỦA
NGŨ UẨN.
Thọ Uẩn (Vedanà-skandha) được
chuyển hóa thành “Bình Đẳng Tính Trí” (Samatà-jnàna), do đó
tình thương của
Quán Thế Âm không còn là
tình thương hữu hạn
vị ngã, đó là
tình thương thuần túy không đối tượng,
vô nhân,
vô ngã, vô
chúng sinh,
vô thọ giả,
tình thương không phân hai, không
phân biệt,
tình thương của tất cả đối với một, của một đối với tất cả, của một đối với một, của tất cả đối với tất cả. Một
Danh hiệu quán Thế Âm được
xưng hô lên thì tất cả
danh hiệu của
vũ trụ được
xưng hô lên đồng lúc,
danh hiệu của cái gì nhỏ nhứt như
hạt bụi hay như hạt
nhân nguyên tử cũng là đanh hiệu của cái gì cao lớn như
danh hiệu "Phạm Thiên" của
Do Thái Giáo ("TA LÀ CÁI TA LÀ"; EGO SUM QUI SUM,
danh hiệu Phạm Thiên khai thị cho Moi se) (Exodus 3:14,
danh hiệu của MỘT LÀ TẤT CẢ (Hen Panta) của Héraclite, và TẤT CẢ LÀ MỘT (Parménide).
Tưởng Uẩn (Samjnà-skandha) được
chuyển hóa thành “Diệu
Quan Sát Trí” (pratyaveksana-jnàna) và từ đó
Quán Thế âm Bồ Tát ứng hiện ra 32
ứng thân hay trăm ngàn
hóa thân, từ Phật
cho đến Phạm Thiên, từ mọi
hình tướng như
chủ tể của
chư thiên và những
chư thiên của mọi
tôn giáo khác.
Thượng Đế và Đức Mẹ, từ nam thân đến nữ thân từ Avalokitesvara
cho đến Phật Bà
Quan Âm của Trung Hoa,
Việt Nam,
Nhật Bản,
Đại Hàn,
cho đến công chúa Diệu Thiện,
Quan Âm Nam Hải (với
Long nữ và
Thiện Tài)
cho đến Quan Âm Thị Kính của
truyền thống dân tộc, từ cái gì cao nhứt
cho đến cái gì thấp nhứt và
cho đến cả loài
phi nhân. Khi nào con ngời có một
ý tưởng tình thương thoáng hiện qua trái tim mình thì
lúc ấy Quán Thế Âm đang
ứng hiện vào ngay chính ý tớng
mong manh ấy.
Hành uẩn (Samskàra-skandha) được
chuyển hóa thành “Thành
Sở Tác Trí” (krtyànusthàna-jnàna) và
hành vi tác động không còn vướng nghiệp và không có chủ động năng tác: tất cả mọi
cử chỉ động tác trớ thành “diệu đức vô tác” và “hiệu dụng”
thị hiện thần thông biến hóa đi dạo chơi lang thang khắp
mọi nơi để
độ thoát chúng sinh (Thị
Quán Thế Âm Bồ Tát,
thành tựu như thị công đức, dĩ
chủng chủng hình du chư
quốc độ độ thoát chúng sinh), nhờ
sức mạnh thiêng liêng tự tại (
tự tại thần lực),
Quán Thế Âm đi dạo chơi khắp
cõi Ta Bà thế giới (
Quán Thế Âm Bồ Tát, hữu
như thị tự tại thần lực, du ư
Ta Bà thế giới).
Thức uẩn (Vijnàna-skandha) được
chuyển hóa thành “Pháp Giới Trí” (dharme-dhàtu-jnàna) tất cả
Ý Thức và
Vô Thức của
con người bị phá
vỡ tung ra, xoay tròn trôn ốc mất hút trong
trùng trùng duyên khởi của
toàn thể sự sự vô ngại pháp giới, một giây phút kéo dài cả tỷ triệu kiếp, một bước đi là cả trăm tỷ dặm, một cái nhìn thì
thiên thu bừng dậy, một tiếng kêu thì
chấn động cả tỷ triệu ngàn sao, một tiếng la làm lạnh cả đỉnh trời (trường khiếu nhất thanh hàn
thái hư của
thiền sư Không Lộ),
không gian là
thời gian, mặt đất là bầu trời, một người chết là tôi đang chết ("Cái chết của bất cứ ai cũng đều
giảm bớt tôi, vì tôi
dính líu với toàn
nhân loại, vì thế đừng bao giờ
tìm hiểu hồi chuông báo tử đang rung cho ai đó; hồi chuông báo tử ấy đang rung cho chính mi". Hemingway đã trích câu này của John Donne để làm đề từ cho quyển tiểu thuyết For whom the Bell tolls). Ở nơi
sự sự vô ngại pháp giới này,
chúng ta sống với
Trí Huệ tâm chứng Đương Xứ, mà Suzuki đã làm
sáng tỏ một cách thơ mộng bằng hai câu trích dẫn sau đây:
“Chúng ta chia lìa từ nhiều ngàn
kiếp trước mà vẫn chưa hề
xa lìa nhau dù trong một khoảnh khắc.
Chúng ta nhìn mặt nhau suốt cả ngày, thế mà vẫn
chưa bao giờ được gặp thấy nhau.” (The Essence of Buddhism, trang 27)
“Anh đang gặp mặt
trò chuyện với em ngay khoảnh khắc này, thế mà anh vẫn
chưa bao giờ gặp gỡ em từ
thiên thu vạn đại”. “Tôi đang nhập thiền ở đây mà đang
rong chơi ra ngoài ngàn dặm thiên lý” (The Essence of Buddhism, trang 61)
Tôi xin tạm ngưng chương này nơi đây, và để
thành tựu đại bi tâm, xin
hồi hướng công đức cho tất cả
chúng sinh với
thần chú Đại Bi bằng chữ Phạn cùng với hai chú linh hiện nhất của
Quán Thế Âm và của
hóa thân của Ngài là Tàrà, hai chú đã được trì tụng từ bao nhiêu thế kỷ ở
Tây Tạng và đã vang động
bí mật khắp vùng
Hy Mã Lạp Sơn, đỉnh núi cao nhứt của
toàn thể Ý Thức nhân loại và của cả
Chuyển Thức trên mặt đất.
Chú Đại Bi:
NAMO RATNA-TRAYÀYA NAMAH ÀRYA AVALOKITESVARÀYA BODHISATTVÀYA MAHA SATTVÀYA MAHÀKARU-NIKÀYYA OM SABALA-VATI SUDHANATASYA LAMAS-KRIVANINAM ÀRYA AVALOKTTESVARA LAMTABHA NAMO NÌLAKANTHA SRÌMAHAPATASAMI SARVA-TODHU-SUPHEMASIYUM SARVASADA NAMA BHAGA MABHATETU TADYATHÀ OM ÀVALOKI LOKATE KALATI ESILI MAHÀBODHISATTVA SABHO SABHO MARA MARA MASI MASI RIDHAYUM GURU GURU GANAM TURU TURU BHASIYATI MAHÀ BHASIYATI DHARA DHARA DHIRINI SVARAYA JALA JALA MAMA BHA-MARA MUDHILI EDHYEHI SINA SINA ALASIM BHALASARI BHASA BHASIMl BHARA SAYA HULU HULU PRA HULU HULU SRÌ SARA SARA SIRI SIRI SURU SURU BUDHI BUDHI BUDHAYA BUDHAYA MAITRIYE NÌLAKANTHA TRISA-RANA BHAYAMANA SVÀHÀ SITAYA SVÀHÀ MAHÀ SITAYA SVÀHA SITAYAYE SVARAYA SVÀHÀ NÌLAKANTHA SVÀHÀ PRANILA SVÀHÀ SRÌ SIDHA MUKHAYA SVÀHÀ SARVA MAHÀ ASTAYA SVÀHÀ CAKRA ASTAYA SVÀHÀ PADMA KESAYA SVÀHÀ NÌLANKANTHE PANTA LAYA SVÀHÀ MOBHOLISANKARAYE SVÀHÀ NAMO RATNA-TRAYÀYA NAMAH ÀRVA AVALOKITA ÌSVARAYA SVÀHA OM SIDHYAN-TU MANTRA PATAYE SVÀHÀ!
Và sau đây là câu chú đại linh mật
thông dụng nhứt và nhắn gọn nhứt của
Quán Thế Âm:
OM MANI PADME HÙM!
(Án
Ma Ni Bát Di Hồng!)
Và đây, câu chú linh hiển
thông dụng nhứt và ngắn gọn nhứt của Phật Bà Tàrà,
ứng Thân của
Quán Thế Âm:
OM TÀRE TUTTÀRE TURE SVÀHà!
Chương này đã được tôi giảng tại chùa Việt Nam ở Los Angeles thứ Bảy ngày 22 tháng 10 năm 1983 dương lịch, nhân dịp ngày vía Quán Thế Âm Bồ Tát.