CHƯƠNG TƯ
BƯỚC CHÂN THỨ TƯ LÊN ĐƯỜNG THỰC HIỆN
VIỆC TRỞ VỀ SỰ IM LẶNG:
SỰ CHUYỂN ĐỘNG TOÀN DIỆN CỦA TÂM
TRONG ĐỆ NHẤT KHỔ ĐẾ
I. Một Trăm Mười ý Nghĩa Về Khổ Thánh Đế Tại Mười Thế Giới Khác ở Mười Phương Của Cõi Ta Bà.
II. Khổ Thánh Đế Trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi-maga) của Phật Âm (Buddhaghosa)
I. MỘT TRĂM MƯỜI Ý NGHĨA VỀ KHỔ THÁNH ĐẾ TẠI MƯỜI THẾ GIỚI KHÁC Ở MƯỜI PHƯƠNG CỦA CÕI TA BÀ.
Thế giới thì
vô lượng, nhưng nói về mười
thế giới chỉ là nói
thu gọn lại trong số mười
viên dung một thế giớí chỉ có
bốn thánh đế, nhưng
ý nghĩa của mỗi
thánh đế thì
vô lượng;
kinh Hoa Nghiêm chỉ nói mười nghĩa về mỗi một
thánh đế, nhưng đó chỉ là nói gọn lại trong
giới hạn của
ngôn từ.
Mười phương của
cõi Ta Bà là: Đông, Nam, Tây, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Hạ Phương và
Thượng Phương.
Mười
thế giới ở mườí phương của
cõi Ta Bà là:
1. Mật Huấn 2.
Tối Thắng3.
Ly Cấu 4. Phong Dật
5.
Nhiếp Thủ 6.
Nhiêu ích7. Tiển Thiểu 8.
Hoan Hỷ9. Quan Thược 10. Chấn âm
Đây là tên mười
thế giới tuần tự phương hướng dựa theo phẩm VIII của
kinh Hoa Nghiêm (Phẩm
Tứ Thánh Đế); về tên của mười
thế giới này có sự khác nhau đôi chút gỉữa Phẩm VIII và Phẩm VII (Phẩm
Như Lai Danh Hiệu); nơi Phẩm VII,
thế giới Tốí Thắng có tên là Phong Dật, và
thế giới Phong Dật ở Phẩm VIII có tên là Phong Dật ở Phẩm VII, còn tất cả những tên khác còn lại thì đều giống nhau giữa hai Phẩm (riêng Phẩm VIII thì chỉ
liệt kê tên mười
thế giới và không nói rõ
phương hướng như Phẩm VII) . Sau đây, xin trình bày lại 100
ý nghĩa viên dung về
Khổ Thánh Đế,
gồm có 10 nghĩa của mỗi
Khổ Thánh Đế ở mỗi
thế giới trong mỗi phương.
KHỔ THÁNH ĐẾ1.
Thế Giới Mật Huấn : 1.
Căn thức cầu cạnh
tìm kiếm; 2.
Không giải thoát; 3. Gốc rễ
nô lệ trói buộc; 4. Làm điều không phải; 5.
Tranh giành đấu tố khắp mọi
hoàn cảnh; 6. Mất hẳn khả năng phân tích; 7. Phải chịu
tùy thuộc nương tựa vào cái gì đó; 8. Khổ đau
cực điểm; 9. Động đậy
lăng xăng; 10. Những sự vật có hình trạng.
2.
Thế Giới Tối Thắng : 1 .
Sợ hãi khủng bố, 2 .
Đoạn diệt từng phần; 3. Chán ngấy
chán ghét; 4. Điều
cần phải làm; 5. Thay đổi khác; 6.
Thù địch cạm bẫy; 7.
Tranh đoạt; 8. Khó làm việc
với nhau; 9.
Phân biệt sai lầm; 10. Có
thế lực quyền hành.
3.
Thế Giới Ly Cấu : 1. Tiếc nuối tiếc hận; 2.
Tùy thuộc phụ thuộc vào cái gì đó; 3.
Trầm trọng nguy ngập thêm lên; 4. Ở trong những bức tường 5. Chỉ có một
mùi vị thôi; 6. Sự
giả dối, bất chính, không thực; 7. Ở nhà, ở trong
gia đình; 8. Nơi ở mà mình quyền luyến, kẹt dính
sai lầm; 9.
Quan điểm,
ý kiến sai lầm; 10.
Vô số, số không thể đếm được.
4.
Thế Giới Phong Dật : 1. Nơi chốn kẹt dính yêu thích; 2- Gốc rễ nguy hiềm
tác hại; 3. Phần biển
sinh hữu ô trọc; 4. Được
tác thành bằng sự
chất chứa tích lũy chồng chất; 5. Cảm thức
phân biệt,
biện biệt; 6. Nặng nề nguy ngập thêm lên; 7.
Sinh khởi và
tiêu diệt ; 8. Ngăn chặn,
chướng ngại; 9. Cơ sở của những lưỡi dao gươm; 10. Cái gì thì cũng bị làm thành ra bộ, số loại
5.
Thế Giới Nhiếp Thủ : 1. Cướp đoạt; 2. Không phải là một người bạn tốt; 3. Đầy dẫy
sợ hãi; 4. Lải nhải,
ba hoa, ngớ ngẩn; 5.
Tính cách địa ngục; 6. Phản sự thực; 7.
Sinh khởi và
tiêu diệt; 8. Gốc rễ
trầm trọng nặng nề, sâu đậm; 9. Thay đổi thất thường theo cảm huống tâm trạng ; 10.
Căn bản rỗng tuếch,
hư ảo.
6.
Thế Giới Nhiêu ích : 1. Gánh quá nặng 2 . Bất thường định, chẳng cố định; 3. Như tên
trộm cắp, giặc cướp, 4. Già và chết, 5. Được làm thành bởi yêu đương
thèm khát; 6.
Trôi nổi luân hồi; 7.
Mệt mỏi; 8. Trạng tướng xấu ác; 9. Phát triển,: sanh trưởng ; 10. Lưỡi dao bén nhọn.
7.
Thế Giới Tiển Thiểu : 1. Lòng
thèm khát dâm dật nguy hại; 2. Nơi
trói buộc ràng rịt; 3. Hành động
tà vạy; 4. Nhận lãnh,
thụ động ; 5. Không biết
hổ thẹn; 6. Bắt gốc rễ nơi lòng
tham dục; 7. Con sông ehảy mãi; 8. Tàn hoại
thường xuyên, 9. Có
tính cách lửa đuốc; 10. Đầy dãy những nỗi đay nghiến,
phiền muộn lo lắng.
8.
Thế Giới Hoan Hỉ : 1.
Trôi nổi không ngừng; 2. Sinh ra đời; 3. Đánh
mất lợi lộc; 4.
Thường hay đắm đuối kẹt dính; 5.
Gánh nặng nề; 6.
Phân biệt sự khác nhau; 7. Sự nguy hiểm nằm bên trong 8. Hội họp đình đám; 9. Chỗ ở xấu ác; 10. Có
tính cách khổ não.
9.
Thế Giới Quan Thược : 1.
Hình tướng hư đốn
bại hoại; 2. Như đồ bể nát; 3. Tạo phẩm của
bản ngã; 4.
Hiện thân của những khuynh hướng 5. Nhiều
lề thói hàng ngày; 6. Cổng mở ra quá nhiều điều xấu,
ác tật; 7. Khổ có sẵn, có sẵn tính khổ; 8. Điều
cần phải nên bỏ; 9. Không
có mùi vị gì ; 10. Tới và đi.
10.
Thế Giới Chấn âm : 1.
Bệnh hoạn giấu kín, giấu lỗi; 2. Có
tính cách thế tục; 3. Nơi chốn nương tựa, chỗ ở; 4.
Kiêu ngạo, ngạo mạn; 5. Có
tính cách thường hay tham đắm, kẹt dính; 6. Nước lũ chảy xiết, 7. Kông thể hưởng thụ được; 8.
Giả đạo đức; 9. Phù du, mau tan biến; 10. Khó cai trị, khó điều khiển,
kiểm soát.
Chỉ riêng về
Khổ Đế thôi,
chúng ta đã thấy 100
ý nghĩa khác nhau trong mười
thế giới ở
mười phương của
cõi Ta Bà; riêng về
cõi Ta Bà; (nghĩa là cõi
chịu đựng nhẫn nhục) cũng có mười nghĩa về
Khổ Đế:
1.Làm điều quấy,
tội lỗi; 2.
Đàn áp, bức ngặt; 3. Thay đổi khác; 4. Đeo níu vào sự vật; 5.
Chồng chất,
tích lũy, chứa nhóm; 6. Gái dâm; 7.
Nô lệ,
tùy thuộc vào
căn thức,
giác quan; 8.
Lừa đảo, dối gạt; 9. Chỗ ung thư ghẻ lở; 10. Hành động
ngu si.
Chúng ta thấy rằng mười
thế giới thì có 110 thứ khổ. Điều đáng
lưu ý là trong kinh Rohitassa Sutta (trong Samyutta Nikàya,
Tương Ưng Bộ Kinh) ,
Đức Phật đã
đồng hóa chữ “thế giới” (loka) với chữ “khổ” (dukkha) :
“Trong cái thân xác dài khoảng trên một thước tám này cùng với nhtững
nhận thức và
tư tưởng của nó, ta
tuyên thuyết thế giới, nguồn gốc của
thế giới, sự tận diệt
thế giới và
con đường dẫn đến sự tận diệt
thế giới.”
Một trăm mười thứ khổ ở trên chỉ là khai triển ba thứ khổ quan trọng nhất trong
phật Giáo Nguyên Thủy là
Khổ Khổ,
Hoại Khổ và
Hành Khổ; còn muốn phô diễn
chi tiết hơn nữa thì
gồm có tám thứ khổ: 1.
Sinh Khổ; 2.
Lão Khổ; 3.
Bệnh Khổ; 4.
Tử Khổ; 5.
Ái Biệt Ly Khổ; 6.
Cầu Bất Đắc Khổ; 7.
Oán Tắng Hội Khổ; 8.
Ngũ ấm Xí Thạnh khổ.
Để hiểu tất cả sự khai triển
đặc biệt của
Kinh Hoa Nghiêm về
Khổ Thánh Đế chúng ta cũng nên
trở lại tìm hiểu tất cả
ý nghĩa về
Khổ Thánh Đế trong
Phật Giáo Nguyên Thủy. Sau đây
chúng ta hãy
tham khảo bộ Visuddhi Magga (
Thanh Tịnh Đạo).
II. KHỔ THÁNH ĐẾ TRONG THANH TỊNH ĐẠO (VISUDDHI-MAGGA) CỦA PHẬT ÂM (BUDDHAGHOSA)
Bộ Visuddhimaga gồm trên 800 trang, đây là một bộ luận quan trọng vào bậc nhất của
Phật Giáo Nam Tông Nguyên Thủy,
tác giả là
Tổ Sư Buddhaghosa, mà Tàu dịch là
Phật Âm.
Ngài Buddhaghosa sinh vào thế kỷ thứ năm tại miền Bắc
Ấn Độ, ngài được coi là
luận sư uyên bác và
nổi tiếng nhất của Phật Ciáo
Nguyên Thủy,
vị trí của ngài Buddhaghosa trong
Phật Giáo Nguyên Thủy cũng quan trọng
tương tự như
Mã Minh,
Long Thọ hay
Vô Trước và
Thế Thân trong
Phật Giáo Đại Thừa. Dưới đây,
chúng tôi xin trình bày phần
giải thích cặn kẽ của Buddhaglosa về
Khổ Thánh Đế trong bộ Visuddhimagga (Phần III, chương XVI, tiết mục 16- 60);
chúng ta cần ghi nhớ những trọng điểm sau đây:
– Tiết mục 15 (chương XVI, phần III, của bộ Visuddhimaglga) :
Khổ (dukkha)
gồm có 4 nghĩa:
1.
Áp bức (
đàn áp, đè bẹp, bức ngặt)
2. Được
tác thành, hợp thành (hình thành):
3. Đốt cháy
4. Thay đổi
– Tiết mục 16 (XVI, III) :
Chữ dukkha (khổ)
gồm có chữ du (xấu) cùng
đi theo nghĩa kucchita (hèn hạ, đê tiện), như gọi “một đứa con nít hèn hạ, đê tiện” là “duputta” (đứa con nít xấu)
Chữ Kham (trong dukkha) để chỉ
tính cách đi theo nghĩa tuccha (
rỗng tuếch, trống rỗng) , như gọi “Không gian trống rỗng” là “kham”. Đệ Nhất
Thánh Đế,
Khổ Thánh Đế, sự thực về
đau khổ là sự thực về sự hèn hạ, đê tiện, vì đó có nghĩa là nơi chứa nhóm
vãng lai nhiều mối hiểm họa nguy hiểm, và đó cũng là trống rỗng vì không có
tính cách trường cửu, không có sự
đẹp đẽ,
hoan lạc và
tự tại (không có
thường lạc, ngã, tịnh). Gọi là Khổ (dukkham) vì
tính cách đê tiện, hèn hạ,
rỗng tuếch.
– Tiết mục 23 (XVI, UI) :
Khổ Đế có
đặc tính là
phiền não,
tác dụng của nó là bốc cháy, đó là một hiện tính
xuất hiện trong tiến trình
sinh hữu của
con người.
– Tiết mục 29 (XVI, III) :
Khổ Đế được đặt
đứng đầu, vì
dễ hiểu tính cách trắng trợn,
thô bạo của
sự thật này, sự thực chung cho cả
chúng sanh.
– Tiết mục 30 (XVI, III) :
Tuyên thuyết Khổ Đế đầu tiên hết là để
đánh thức tính cách khẩn cấp, khẩn trương trong lòng
chúng sinh đang
vướng mắc chìm đắm trong nỗi
dục lạc sinh hữu luân hồi.
– Tiết mục 31 (XVI, III) :
12 thứ khổ:
1. Sinh là khổ;
2. Già là khổ;
3. Chết là khổ;
4.
Buồn rầu là khổ;
5. Than khóc,
than vãn là khổ;
6.
Đau đớn, khó nhọc là khổ;
7. Sầu tiếc,
thương tiếc là khổ;
8.
Thất vọng là khổ;
9. Sống gần vớí người, vật mình không
thương yêu là khổ;
10.
Xa lìa người, vật mình
thương yêu là khổ;
11. Không được những gì mình muốn là khổ.
12.
Ngũ uẩn đeo níu là khổ (Thủ
ngũ uẩn).
Chúng ta chú ý ở đây Buddhaghosa không nhắc đến
bệnh khổ, vì
bệnh khổ thuộc về
đau đớn và cũng có những
trường hợp mà không có người bệnh, như
tôn giả Bakkula (theo kinh Majjhima Nikàya 124, không bao giờ bệnh). Trong kinh Dìgha Nikàya (
Trường Bộ Kinh) (ii, 305) cũng không có nhắc đến
bệnh khổ.
Từ tiết mục 32
cho đến 43, Buddhagshosa phân tích tỉ mỉ về
sinh khổ, trong phần này có nói đến
khổ khổ (dukkha-dukkha),
hoại khổ (viparinama-dukkha, cái khổ trong sự thay đổi),
hành khổ (sankhara- dukkha) và sự khổ giấu kín, khổ
bộc lộ, khổ
gián tiếp và khổ trực tiếp, từ tiết mục 44
cho đến 60, Buddhaghosa phân tích
cặn kẽ những nỗi khổ khác còn lại (từ
lão khổ cho đến ngũ uẩn xí thanh khổ).
Quan trọng nhất là tiết mục 59 và 60 (XVI, III), nơi đoạn cuối, Buddhaghosa đúc kết lại rằng tất cả những nỗi khổ đều
xuất phát từ
ngũ uẩn: “không thể nào kể hết mọi sự
đau khổ dù có
trải qua bao nhiêu kiếp cũng không nói đủ được, vì thế
đấng Thế Tôn mới nói gọn rằng
ngũ uẩn đeo níu (thủ
ngũ uẩn) là khổ, ngài nói
thu gọn như thế để
tỏ bày cho ta thấy tựu chung rằng tất cả nỗi khổ đều
hiện diện trong mỗi một uẩn trong
ngũ uẩn, giống như
mùi vị của nước biển trong
toàn thể đại dương có đủ
trọn vẹn trong một giọt nước biển thôi.”
Chúng ta đã thấy rằng tất cả nỗi khổ đều nằm trong
ngũ uẩn; do đó, 110 thứ khổ trong
kinh Hoa Nghiêm cũng nằm gọn trong
ít nhất một trong
ngũ uẩn,
nếu không muốn nói là trọn cả
ngũ uẩn đồng lúc.