8. Vấn đề của thân
Vô thườngThân thể con người rất
mong manh yếu ớt, đụng nhẹ một chút là rách da chảy máu, đụng mạnh thì gãy xương
mất mạng. Bên trong
thân thể ngoài
lục phủ ngũ tạng, gân cốt, máu thịt còn có
vô số tế bào và đủ loại
vi trùng,
vi khuẩn. Chỉ cần một tế bào
biến chứng là có thể ung thư, kháng thể yếu một chút thì
vi khuẩn hoành hành,
vi trùng xâm nhập. Khí hậu nóng lạnh bất thường thì cảm cúm nhức mỏi.
Bản chất của thân là
vô thường,
biến đổi từng giây phút để đi tới tàn hoại. Nhờ
vô thường nên đứa bé mới lớn lên, nhưng cũng vì
vô thường mà
con người trở nên già, bệnh, rồi chết. Nhờ
vô thường nên một trẻ sơ sinh cũng có thể bệnh và chết trước khi thành người lớn.
Do
vô thường nên tất cả
chúng ta đều có ba cái
án treo, đó là:
tai nạn, bệnh tật và cái chết. Ba cái này có thể xảy đến với
chúng ta một cách bất ngờ, không hẹn ngày giờ.
Khổ
Có thân là có khổ! Vì có thân nên ta phải lo cho nó
ăn uống, ngủ nghỉ, tắm rửa, phải đi làm kiếm tiền thuê nhà cho nó ở tránh mưa nắng, mua quần áo cho nó mặc đỡ lạnh. Chưa kể những
phụ nữ phải
bỏ ra hàng giờ trang điểm cho nó trước khi rời khỏi nhà. Khi thân bị bệnh thì
đau đớn khổ sở, người vô phước không có tiền thì đành nằm chịu trận cho cơn đau
hành hạ, người có tiền thì đi
bác sĩ, nhà thương nhưng chưa chắc khỏi bệnh. Có người
sạt nghiệp sau một cơn bệnh nặng. Chẳng cần chờ có bệnh mới khổ, ngay cả khi thân khỏe mạnh cũng khổ, bởi vì có thân là có
cảm thọ: ngồi lâu thì ê, đứng lâu thì mỏi, đi nhiều thì mệt, nằm lâu thì tê, phải luôn luôn thay đổi tư
thế cho đỡ khổ!
Bệnh
Trong ba cái khổ: già, bệnh, chết, thì bệnh là cái mà ta có thể tránh được. Tôi nói "có thể" chứ không chắc, vì bệnh có nhiều loại và nhiều
nguyên nhân. Bệnh là một thân quả tức
nghiệp quả của thân. Nếu đời trước thường
sát sinh, đánh đập,
não hại người khác về thể xác thì đời nay gặp
quả báo bệnh hoạn, ốm yếu, đây là bệnh nghiệp. Tất cả bệnh đều do nghiệp mà thành nhưng có những
nghiệp nhân đã tạo từ đời
quá khứ và
nghiệp nhân được tạo trong kiếp
hiện tại, khi nhân chưa cho ra quả thì còn cơ hội chuyển nghiệp. Khi ta gieo một hạt táo vào lòng đất đâu phải nó mọc ra trái táo ngay! Hạt táo phải nẩy mầm từ từ lớn thành cây rồi vài năm sau mới có trái.
Trong suốt thời gian trồng táo
cần phải có sự bón phân, tưới nước, trừ sâu, nắng mưa điều hòa, những thứ này gọi là
tăng thượng duyên, thì cây táo mới cho ra quả. Nếu gieo hạt táo mà bỏ mặc không chăm sóc, gặp thêm trời hạn hán,
nghịch duyên thì hạt táo sẽ khô hoặc cây táo sẽ chết không thể cho ra quả được. Nhân phải gặp đủ duyên mới cho ra quả, có nhân mà không đủ duyên hoặc
nghịch duyên thì quả không thành.
Chúng ta không thể tự hào mình khỏe mạnh không bao giờ bệnh, bởi vì trong
kiếp luân hồi vô thỉ không nhiều thì ít đều
phạm sát sinh, không giết người thì hại vật nên trước sau gì cũng bị bệnh
trả quả và khi đó uống
thuốc tiên cũng không khỏi. Nhưng khi quả chưa trổ ra bệnh thì ta phải khôn ngoan
tu hành, tạo duyên để hóa giải
nghiệp bệnh như
sám hối, giúp đỡ người già yếu bệnh tật,
giữ gìn vệ sinh, tập luyện cho
thân thể khỏe mạnh,
ăn uống vệ sinh
cẩn thận, không rượu chè hút sách, v.v...
Nghiệp quả có thể
diễn tả theo phương trình toán học như sau: N*D = Q, N là nhân, D là duyên, Q là quả. Khi đã tạo một nhân N, nếu ta cứ sống
bình thường khi gặp đủ duyên D sẽ cho ra quả Q. Nhưng ngày nào chưa ra quả Q thì ta
vẫn có thể
tác động trên duyên như thêm vào một duyên mới D1 thì kết quả sẽ thay đổi: N*D*D1= Q1.
Bệnh đương nhiên là
kết quả của nghiệp, hoặc đời trước hoặc ngay
trong đời này. Có nhiều người nhờ phước lành hoặc bệnh nghiệp chưa chín mùi nên
thân thể khỏe mạnh, ít bệnh tật liền
phung phí sức lực,
ăn uống bậy bạ, uống rượu hút thuốc, chơi bời
lung tung, làm việc
quá sức, đây là đang tạo nhân bệnh trong kiếp
hiện tại, đến khi bệnh nghiệp
quá khứ trổ ra
cộng thêm thân thể suy nhược thì
vô phương cứu chữa.
Anh Hai là
một thể thao gia, hàng ngày thường chạy bộ, chơi quần vợt, không hút thuốc, uống rượu, cờ bạc trai gái, và biết làm phước
bố thí kẻ nghèo. Nhưng bỗng nhiên anh bị ung thư máu (leucémie) phải vào nhà thương và
điều trị hóa học (chimiothérapie). Cách ba ngày
bác sĩ chích thuốc vào tủy của anh, mỗi lần như vậy là một
cực hình,
thân thể anh
đau đớn run lên bần bật nhưng nhờ có một
thân thể khỏe mạnh,
cường tráng nên sau ba tháng anh khỏi bệnh.
Đa số những người bị ung thư, nhất là ung thư máu, đều khó
sống sót khi bị
điều trị hóa học bởi vì cơ
thể không đủ sức chịu đựng sự tàn phá của thuốc. Bệnh ung thư
bộc phát bất ngờ không
dự đoán trước được mặc dù anh là
một thể thao gia, ta có thể gán đó là bệnh nghiệp, nhưng nếu anh vô phước không có tiền vào nhà thương thì anh sẽ chết, nếu được
điều trị mà lúc
bình thường anh
trác táng thân thể suy nhược thì thuốc cũng vật anh chết.
Kết luận, anh Hai tuy phải trả nghiệp nhưng nhờ có phước và trong
hiện tại biết tập luyện
thân thể nên kết quả được thay đổi, anh đã
thoát chết.
Đối với
luật nhân quả có người
hiểu lầm cho rằng bệnh là do nghiệp nên khỏi cần chữa trị, trả hết nghiệp thì bệnh sẽ hết, khỏi cần uống thuốc hay tập luyện
thân thể. Có bệnh mà không chữa là một
nhân duyên đưa đến
chết yểu và
chết oan. Nếu con bạn bị
tai nạn mất máu mà bạn đứng đó nói rằng nó bị
tai nạn như vậy là do nghiệp rồi không
tìm cách cầm máu hoặc chở đi nhà thương thì nó sẽ ra sao? Nếu nghiệp hết thì máu sẽ tự động ngưng chảy, phải vậy chăng? Nếu bạn đã làm
hết sức mình và
bác sĩ cũng làm đủ mọi cách mà không cứu được nó thì lúc đó ta mới có thể đổ tại nghiệp!
Có những người, chắc chưa nếm mùi
bệnh khổ,
đau đớn, rên la, quằn quại, liệt giường liệt chiếu, sống dở chết dở, nên đã ví
Ta Bà là
Tịnh Độ. Đây một là hạng điếc không sợ súng, hai là
bồ tát lớn đã
chứng ngộ không sợ
sinh tử, đau nhức. Sinh ra ở cõi này có thân là có khổ, nhất là
bệnh khổ. Khi
nghe tin Hòa thượng này,
Thượng tọa nọ bị bệnh nặng, nhiều người hỏi ngây thơ: "Quý thầy đó tu cao như
vậy mà còn bị bệnh hả?" Họ tưởng "tu cao" là không còn bệnh, hoặc "tu cao" là có
nội công thâm hậu như trong phim chưởng. Không ai
tránh khỏi bệnh tật, ngay cả
đức Phật và các vị
A La Hán cũng vậy.
Đức Phật đã bị bệnh kiết lỵ trước khi
nhập niết bàn.
Suy tư
1) Ta đã làm gì để gây ra bệnh này?
2) Bệnh này giúp ta hiểu được gì?
3) Bệnh này cho ta bài học gì?
4) Nhờ bị bệnh mà ta làm được
lợi ích gì cho mình và người?
Nghiệp lựcTrong
Phật giáo có danh từ nghiệp (karma). Nghiệp có
nghiệp nhân và
nghiệp quả. Khi làm một hành động tốt sẽ cho ra kết quả lành gọi là
phước nghiệp. Nếu đời trước làm nhiều việc ác qua thân, miệng, ý thì đời nay cái nghiệp đó trổ ra
quả báo hoạn nạn đau khổ, gọi là
tội nghiệp. Thi sĩ Nguyễn Du có nói: "Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa", vì nghiệp là do chính mình tạo nên không thể than trời trách đất đuợc. Trong
ngôn ngữ bình dân, nghiệp mang
hai nghĩa là hành động và
quả báo. Ngoài
nghiệp nhân và
nghiệp quả còn có một loại gọi là
nghiệp lực, tức là
sức mạnh của nghiệp.
Chúng ta trôi lăn trong
sinh tử luân hồi, tạo nhiều điều ác, chịu bao nhiêu
đau khổ mà không
cưỡng lại được cũng vì
nghiệp lực. Khi mới sinh ra ta đâu có biết hút thuốc là gì? Lớn lên
giao du với bạn bè hút sách rồi đâm ra nghiện ngập, mỗi ngày phải hút
ít nhất vài điếu hay vài bao.
Nếu không hút thì có một
động lực nào đó
sai khiến ta phải đi tìm thuốc để hút.
Động lực vô hình này chính là nghiệp lực!
Sau khi chết, cái gì dẫn ta đi
đầu thai chỗ này chỗ kia? Cũng
chính nghiệp lực dẫn ta đi
đầu thai địa ngục hay
thiên đàng. Điều
trớ trêu ở đây là chính ta tạo nghiệp rồi sau đó
trở thành nô lệ cho
nghiệp lực, để nó nắm đầu sai sử.
Tu hành là
cố gắng vuợt
thoát khỏi sự
chi phối của
nghiệp lực, ta có thể gọi đó là
diệt nghiệp, giải nghiệp hay chuyển nghiệp đều được. Điều đầu tiên là phải
ý thức xem mình có bị
nghiệp lực sai sử hay không? Làm sao biết đuợc? Mỗi khi ta bị một cái gì
thôi thúc, điều khiển mà không
cưỡng lại được đó là dấu hiệu đang bị
nghiệp lực lôi kéo! Tôi không muốn hút thuốc nữa mà nó cứ muốn hút, tôi không muốn ăn nhiều sợ mập nhưng nó cứ thèm ăn hoài, tôi không muốn
nổi giận nữa vì
nổi giận đã làm tôi
mất việc nhưng nó vẫn cứ nổi giận! Nhiều lúc tôi biết không nên hành động như vậy nhưng đụng chuyện thì nó cứ làm tôi hành động như vậy!
Nghiện
Nghiện hay ghiền là một
hình thức của
nghiệp lực. Khi nghiện một cái gì thì ta bị cái đó sai sử, lôi kéo, thu hút. Nghiện có rất nhiều loại vì
lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) có bao nhiêu thứ thì nghiện có bấy nhiêu loại. Có người nghiện ăn, nghiện nói, nghiện ngủ, nghiện hút thuốc, nghiện rượu, nghiện đồ ngọt, nghiện cờ bạc, nghiện máy vi tính (computer), nghiện làm việc (workaholic), v.v... Những thứ nghiện này không được
liệt kê là
phiền não, nhưng
thực tế nghiện (dépendance, addiction) là một loại
phiền não vì nó gây khổ đau.
Trong
ngũ dục, năm thứ
ham muốn, có đề cập đến tiền, sắc đẹp,
danh vọng, ăn, ngủ nhưng đó là nói tổng quát, vì
ham muốn chưa nặng bằng nghiện.
Chúng ta cần
phân biệt rõ giữa: cần (need), thích (desire), và nghiện (addiction). Sống ở đời ai cũng cần tiền, cần
tình dục, cần chức tước, cần
ăn uống, cần ngủ nghỉ, nhưng nếu vượt lên trên
trạng thái của cần một bậc thì
trở thành thích: thích tiền,
thích danh, thích
sắc dục, thích ăn ngủ, v.v... đó là rơi vào
ngũ dục. Khi
ham thích đến mức
lệ thuộc không có không được thì đó là nghiện. Rơi vào
ngũ dục là
phàm phu, rơi vào nghiện thì chẳng khác
thú vật. Người
tu tập sống
thiểu dục nghĩa là ở
trạng thái cần, đói cần ăn, khát cần uống, mệt cần ngủ, v.v... Sinh ra đời
chúng ta đã là kẻ
nô lệ rồi,
nô lệ thể xác,
nô lệ hoàn cảnh,
nô lệ vật chất,
nô lệ tình cảm,
nô lệ vọng tưởng, bởi thế hãy
cố gắng đừng mang thêm nhiều ách
nô lệ khác nữa!
Cảm thọCảm thọ là một uẩn (skandha) trong
năm uẩn cấu tạo con người, vì thế ai cũng có
cảm thọ. Trong
kinh Nhiều Cảm Thọ[23] (Bahuvedaniyasutta)
đức Phật có giảng về nhiều loại
cảm thọ tùy
trường hợp và đối tượng. Nhưng tựu chung ta có thể chia làm hai, ba hoặc năm loại
cảm thọ. Hai loại
cảm thọ là: thân thọ và tâm thọ. Ba loại
cảm thọ là: khổ, lạc, xả. Năm loại
cảm thọ là: khổ, ưu, lạc, hỷ, xả.
Cảm thọ dễ chịu (
lạc thọ), khó chịu (
khổ thọ) thuộc về thân thọ.
Cảm thọ buồn (ưu), vui (hỷ) thuộc về tâm thọ.
Cảm thọ bình thường (
xả thọ) thuộc cả thân lẫn tâm. Thân thọ là
cảm thọ phát xuất từ thân như
đói khát, nóng lạnh, đau nhức, hoặc no đủ, êm ấm, khoái lạc thể xác. Tâm thọ còn được gọi là "tình thọ" vì
cảm thọ này phát xuất qua tình cảm: được ai
yêu thương quý mến thì ta
vui sướng, bị người chê bai, ghét bỏ thì ta buồn khổ.
Có
cảm thọ là có khổ. Đối với
khổ thọ thì ta
sợ hãi tránh né. Đối với
lạc thọ thì ta
thèm khát,
bám víu, đi tìm. Đối với
xả thọ thì ta
nhàm chán đi tìm sự
kích thích.
Trong cuộc sống,
mọi người đều
loanh quanh tránh né
khổ thọ và tìm cầu
lạc thọ. Trong số
lạc thọ, không gì ngoài việc
ăn uống và nhục dục. Dù là triệu phú được ăn cao lương mỹ vị, no nê cách mấy đi nữa, chỉ sau vài giờ là bụng lại đói. Có tiền, giao hoan,
vui đùa xác thịt ngày này sang ngày khác cũng không bao giờ
thỏa mãn, giống như người khát uống nước muối, càng uống càng khát.
Khoa học thường được đề cao như là
cứu tinh của
loài người, nhưng khoa học đem lại gì
nếu không chỉ là
tiện nghi vật chất,
đáp ứng nhu cầu
cảm thọ khoái lạc cho thân xác,
kích thích lòng ham muốn tiêu thụ.
Người
tu hành cần phải tập làm chủ
cảm thọ. Khi gặp
khổ thọ về thân thì
kiên nhẫn chịu đựng,
tâm không lo buồn (ưu). Khi gặp
lạc thọ thì biết
ý thức sự
may mắn hạnh phúc của mình và không
chạy theo bám víu tìm kiếm nữa. Khi có
xả thọ thì biết
quán chiếu để biến
xả thọ thành sự bình an hạnh phúc của
tâm hồn.
Đòi hỏi của thể xác
Thân là chủ của tâm hay tâm là chủ của thân? Có lẽ
đa số sẽ nghĩ tâm là chủ của thân, tâm nghĩ trước và thân làm
theo sau. Nhưng trên
thực tế nhiều khi ngược lại, tâm làm đầy tớ cho thân, khi thân đói quá thì tâm
suy nghĩ trộm cắp để nuôi thân, thân bị nóng lạnh thì tâm phải lo mua quạt, mua sưởi. Thân xác có những đòi hỏi của nó mà ta không thể
cưỡng lại được như
ăn uống, ngủ nghỉ, bài tiết,
tình dục, nóng lạnh, v.v... Khi đó tâm
trở thành đầy tớ
phục vụ cho ông chủ thân! Chẳng cần chờ đến lúc
đói khát, nóng lạnh, hàng ngày
chúng ta phải lo đi làm, kiếm tiền để làm gì? Có phải để nuôi thân không? Ai là chủ, ai là tớ?
Tình dụcVì có thân xác, có
cảm thọ nên người ta mới đi tìm
tình dục.
Tình dục (sexualité) là sự
ham muốn nhục dục hay khoái cảm xác thịt. Loài vật có giống đực và giống cái,
con người có nam và nữ do thể xác và bộ phận
sinh dục khác nhau, nên thu hút và
kích thích lẫn nhau. Đây là điều
bình thường và
tự nhiên của tạo hóa.
Ở đời nguời ta lấy vợ lấy chồng cũng không ngoài
mục đích thỏa mãn tình dục (và tình yêu). Phong tục
xã hội chế ra
hôn nhân cưới gả cũng để
hợp thức hóa tình dục.
Giới cấm tà dâm được chế ra để
bảo vệ hạnh phúc gia đình hay để
hạn chế tình dục bừa bãi? Ở
Việt Nam xưa kia cưới gả không cần tình yêu, chỉ cần
môn đăng hộ đối là đủ. Ở
Tây phương ngày nay,
hôn nhân mà không có
tình dục (mariage non consommé) thì có quyền
ly dị, vì
tình dục quan trọng hơn tình yêu.
Không ăn không uống thì chết, khi
đủ ăn, đủ uống thì người ta nghĩ đến
tình dục. Sự đòi hỏi
tình dục có thể làm người ta mất
nhân phẩm, xuống thấp ngang với
thú vật.
Tình dục không phải là một
vấn đề quan trọng đối với người thường, nhưng nó là một trở ngại lớn cho những ai muốn
thoát khỏi sinh tử luân hồi, vì nó làm
con người trở thành nô lệ cho khoái cảm. Trong đạo
thường dùng chữ
sắc dục chứ không nói về
tình dục.
Sắc dục nghe thanh hơn
tình dục nhưng cả hai gần như đồng nghĩa, vì cái này đưa đến cái kia.
Sắc dục là
ham muốn sắc đẹp, đàn ông
ham muốn đàn bà đẹp, nhưng
ham muốn đàn bà đẹp để làm gì? Để ngắm, để trưng rồi thôi ư? Sắc đẹp của người khác phái là sự
hấp dẫn mạnh nhất,
đức Phật có nói trong phẩm Sắc: "Ta không thấy một sắc nào khác, này các
tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như sắc người đàn bà. Này các
tỳ kheo, sắc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông" ..."Ta không thấy một sắc nào khác xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà như sắc người đàn ông" ... (
Tăng Chi bộ kinh I).
Sinh ra ở đời ai cũng có
tình dục, vì có
chủng tử ái dục trong tâm, có
cảm thọ và bộ phận
sinh dục nơi thân. Muốn
giải thoát sinh tử ta
cần phải siêu việt tình dục, không còn
thèm khát,
ao ước sắc dục.
Vượt qua bằng cách nào? Bằng cách đè nén chăng? (xem chương
Vấn đề tình cảm).
Tu hành không phải đè nén như lấy đá đè cỏ, đè nén gây ra
mâu thuẫn nội tại và nhiều khi sinh bệnh.
Tình dục cần được hiểu và
chuyển hóa để
trở thành một
năng lượng giúp ta thêm
sức mạnh và niềm vui sống. Nguồn gốc của
tình dục nằm nơi tâm, nên phải
từ tâm mà
giải quyết. Ta đã có
quan niệm gì,
ý nghĩ gì về
tình dục, sắc dục? Trong kinh dạy phải coi
sắc dục như
rắn độc, đó là kinh nói nhưng trong
thâm tâm ta nói gì, nghĩ gì, phải
thành thật với chính mình. Vì Ý đã nghĩ như thế nào mới
hiện hành ra nơi Tình và Thân.
Tình dục tuy là một
vấn đề nhưng không nên quan trọng hóa làm nó
trở thành một cái gì ghê gớm,
tội lỗi phải
đề phòng xua đuổi.
Có hai điều làm tâm bị dính mắc, đó là ưa và ghét. Khi ưa cái gì tâm thường nghĩ đến cái đó và khi ghét cái gì tâm cũng nghĩ đến luôn. Tốt nhất là không ưa không ghét, đối cảnh
vắng lặng, "bình thường tâm thị đạo". Giống như chuyện một
chú tiểu đi tu từ nhỏ
chưa bao giờ thấy đàn
bà con gái. Một hôm có việc thầy dẫn chú xuống núi đến một làng nọ. Đi ngang thấy một cô gái đẹp đang giặt đồ bên bờ sông, thầy sợ chú bị
cám dỗ nên nắm tay kéo chú đi nhanh và bảo chú đừng nhìn,
coi chừng đó là "con cọp"
ăn thịt người. Nhưng
chẳng may, chú đã nhìn thấy "con cọp" rồi. Thầy sợ chú bị dính nên căn dặn thêm: "Con cọp đó dễ sợ lắm,
bề ngoài thấy hiền nhưng bên trong đầy
nanh vuốt ăn thịt người lúc nào không hay". Nghe thầy nói vậy nhưng chú lại thấy nó có vẻ
dễ thương làm sao, suốt
dọc đường hình ảnh "con cọp" cứ lởn vởn trong đầu chú. Về đến chùa chú
cố gắng xua đuổi con cọp đó ra khỏi đầu nhưng càng đuổi nó càng hiện và
cuối cùng chú tương tư "con cọp" luôn. Thấy chú biếng ăn, bỏ ngủ,
lơ là tụng kinh niệm Phật, thầy gọi chú vào hỏi
nguyên do thì chú
thú thật là chú nhớ con cọp quá và muốn xuống núi để thấy lại nó!
Câu chuyện tiếp tục ra sao thì để bạn đọc tưởng tượng lấy. Nếu tôi là thầy của chú, tôi sẽ cho chú thấy
sự thật, cho chú đứng lại nhìn cô gái và nói cho chú biết đó là một người nữ, khác phái chứ không phải con cọp. Sau đó cho chú thấy những cô gái khác đẹp hơn để
cuối cùng tự chú
nhận thấy một người con gái không có gì
đặc biệt, cũng
bình thường như bao nhiêu người khác mà thôi.
Tâm không động (
vắng lặng) vì thấy cảnh
bình thường.
Địa ngụcTrong các
tôn giáo đều có nói đến
địa ngục, đó là nơi mà
tội nhân phải đọa vào
sau khi chết để chịu những hình phạt ghê gớm.
Địa ngục có hay không? Nếu có thì ở đâu? Ở dưới lòng đất hay ở một nơi nào trong
không gian vũ trụ?
Trước khi
trả lời những câu trên thì ta cần xác định lại chữ
địa ngục (enfer, hell), vì có những người
vô thần,
vô đạo không tin có
địa ngục. Địa là đất, ngục là ngục tù,
nghĩa đen là ngục tù ở trong lòng đất,
nghĩa bóng là nơi mà ta phải khổ sở đớn đau vì bị
trừng phạt. Nếu nói theo
nghĩa đen thì phải nhờ tới khoa học, nhờ các nhà
bác học địa chất
thám hiểm xem có ngục nào trong lòng đất không? Nhưng nếu đứng trên
nghĩa bóng thì
chúng ta có
địa ngục trần gian, đó là những nhà tù, trại cải tạo và chiến trường, là những nơi người ta đánh đập, chém giết,
tra tấn,
hành hạ lẫn nhau. Do đó ta không
cần phải chết đi mới biết có
địa ngục hay không.
Đạo Phật nói "Tam giới
duy tâm,
vạn pháp duy thức", ngay cả
cảnh giới địa ngục cũng không nằm ngoài tâm. Khi tâm của ta đang
sân hận, giận tức, muốn ăn tươi
nuốt sống kẻ thù, muốn
mắng chửi, đánh đập người làm ta khổ thì đó là ta đang sống trong
địa ngục (vivre l'enfer, go through hell),
hay nói cách khác là
địa ngục đang
hiện hữu ngay nơi ta. Mỗi khi bị
thất tình lục dục,
cảm xúc dày vò,
tâm hồn bứt rứt thì đó cũng là đang sống trong
địa ngục. Khi cơn dày vò nguôi ngoai,
tâm hồn trở lại bình thường,
an ổn thì ta thoát ra khỏi
địa ngục. Ra vào
địa ngục là như thế đó! Những người
may mắn biết thế nào là
đạo đức, biết
học đạo, biết
tu tâm sửa tánh, tập làm chủ
thân tâm, học từ, bi, hỷ, xả, thì những người này mau thoát ra khỏi
địa ngục.
Trong kinh Phật, ngoài
kinh Địa Tạng, có kinh
Trung A Hàm thứ 30[24], phẩm
Địa Ngục cũng tả rõ về
cảnh giới địa ngục. "Trong
địa ngục Đinh Sắt,
ngục tốt đánh
tội nhân văng lên bàn sắt nóng, căng
thân thể tội nhân ra, dùng đinh đóng tay, đóng chân, đóng vào tim.
Toàn thân bị đóng hết thảy 500 cái đinh. Họ
đau đớn vô cùng,
kêu la thảm thiết, nhưng vì
tội lỗi cũ chưa hết, nên
tội nhân không thể chết được", ..."Trong
địa ngục Khát,
ngục tốt bắt
tội nhân nằm lên bàn sắt nóng, căng
thân thể ra dùng móc sắt nóng cạy miệng
tội nhân ra, lấy nước đồng sôi rót vào miệng đốt cháy cả môi lưỡi, từ yết hầu
cho đến bụng, cháy suốt cả thân, không chỗ nào không cháy. Họ
đau đớn vô cùng,
kêu la thảm thiết. Nhưng vì
tội lỗi cũ chưa hết, nên
tội nhân không thể chết được".
Ở trần gian chỉ cần đóng một cái đinh vào tim cũng đủ chết, nhưng ở
địa ngục bị đóng tới 500 cái đinh mà không chết. Thêm nữa
thời gian ở
địa ngục rất lâu, một ngày một đêm ở
địa ngục dài bằng mấy ngàn năm ở trần gian, do đó
tội nhân phải
tiếp tục sống để
cảm thọ sự
đau đớn. Tại sao có thể như vậy được?
Anh
Ba hồi xưa là Trung tá Không quân, sau năm 1975, anh
bị bắt đi cải tạo và
hành hạ đánh đập đủ thứ. Sau này được
vợ con bảo lãnh sang Mỹ, tuy không còn ở trong tù nhưng lâu lâu anh vẫn nằm
chiêm bao thấy mình còn ở trại cải tạo và đang bị
tra tấn dã man.
Đau đớn,
rên siết đến mức
kinh hoàng quá làm anh
thức giấc mồ hôi chảy đầm đìa, tim đập mạnh,
hơi thở hổn hển.
Giả sử những lúc đang bị
ác mộng như
vậy mà anh không
tỉnh dậy nổi thì sao? Thì anh sẽ
tiếp tục "sống" trong
cảnh địa ngục và sống mãi như
thế cho đến khi nào anh được
thức giấc. Khi
thức giấc thì tức khắc anh thoát ra khỏi sự
tra tấn. Làm sao
thức giấc được?
Thức giấc được là vì
thời gian của giấc mơ (
ác mộng) kia có hạn, và vì anh còn cái
thân tứ đại là
mạng căn chính. Nhưng
nếu không còn thân xác nữa thì anh sẽ
vĩnh viễn sống trong cơn
ác mộng cho đến khi nào nó phai nhạt nhường chỗ lại cho một cơn mộng khác thì lúc đó anh mới thoát cảnh
cực hình.
Lâu lâu tôi ngủ trưa và có lúc bị "mặt trời đè", tôi
cảm thấy như mình đã thức rồi mà không thể
mở mắt hay nhúc nhích tay chân gì được hết. Lúc đó tôi muốn kêu to lên nhờ ai
xung quanh đến lay tôi hoặc đập mạnh vào người để tôi
tỉnh dậy nhưng
vô hiệu. Tôi phải
cố gắng vùng vẫy cựa quậy vài phút thì mới bừng tỉnh và
mở mắt ra được. Tôi
mở mắt ra được là nhờ còn thân xác này, nói theo cách khác là tâm hay
thần thức của tôi còn có chỗ nương vào để biểu hiện (manifester). Nhưng một khi chết đi,
thần thức rời khỏi xác thân thì không còn chỗ nương để có cơ hội
thoát khỏi cảnh ác mộng? Và như thế sẽ phải sống trong
ác mộng đó
cho đến khi nào
sức mạnh của nó phai nhạt thì ta mới thoát được.
Sức mạnh của
ác mộng chính là
nghiệp lực, nếu
nghiệp nặng (
tội ác quá nhiều) thì
thời gian sống trong
ác mộng hay
địa ngục sẽ rất dài (mấy ngàn năm), nếu nghiệp nhẹ thì cơn
ác mộng sẽ
chấm dứt sớm hơn.
Có những
trường hợp ngoại lệ là khi ta đang ở trong
ác mộng,
kêu la, hoảng hốt mà bên cạnh có một người nào biết
đánh thức ta dậy hoặc lấy tay tát vào mặt vài cái cho ta
thức giấc thì coi như người đó đã cứu
ta ra khỏi
địa ngục. Cũng vậy, nếu trong lúc sống ta có
nhân duyên với
Phật Pháp, biết
niệm Phật A Di Đà, hoặc
Quan Thế Âm Bồ Tát thì khi lâm vào
cảnh giới trung ấm hay
địa ngục, ta hoảng sợ biết
kêu cứu đến các ngài thì do luật
cảm ứng ta sẽ được
đánh thức ra khỏi
địa ngục. Vì
địa ngục là một
cảnh giới của tâm, trong đó ta không có xác
thân tứ đại như bây giờ mà có một loại "ý sanh thân", tức một cái thân đúc kết
từ tâm ý, giống
y như cái thân của anh Ba đang bị đánh đập trong giấc mơ.
Đặc biệt một điều là
cảm xúc của những loại "ý sanh thân" này rất nhạy, cường độ của nó gấp trăm lần nên khi bị đánh đập thì
đau đớn kinh khủng, và nếu sợ thì sợ
kinh hồn. Đương nhiên khi bị đâm chém thì nó
cảm thấy đau đớn,
sợ hãi nhưng không bao giờ chết, vì đâu phải là xác thịt!
Có cách nào
thoát khỏi chăng? Như vừa nói ở trên,
chúng ta phải tập ăn ở
đạo đức,
tu hành, biết nương tựa
Tam Bảo, chư Phật và
Bồ Tát.
Ngoài ra nên thường suy tư
quán chiếu như trong các Kinh
Viên Giác,
Kim Cang đã dạy, tập nhìn
cuộc đời như
mộng huyễn,
tâm hồn an nhiên, không
bám víu hay dính mắc, không ưa ghét, giận hờn, lo sợ, được như thế thì dù rơi vào
địa ngục cũng còn lối thoát. Vì
con đường ra hay vào
địa ngục không phải bắt đầu
sau khi chết mà đã bắt đầu ngay từ bây giờ. Trong lúc sống nếu ta khổ đau vì thương ghét, buồn giận,
lo âu thì
không có lý do gì
sau khi chết lại được
sung sướng hạnh phúc, bởi vì khổ đau hay
sung sướng bắt nguồn từ trong tâm, còn sống hay chết chỉ là sự tàn hoại thay đổi của thân xác, không
ngăn cản được giòng
tâm thức trôi chảy bất tận.
9.
Con đường chuyển hóaTu hành có nhiều
hình thức và
trình độ, tựu chung người ta thường
phân chia ra hai loại:
tu phước và
tu huệ.
Tu phước là làm phước,
bố thí cúng chùa,
công quả, giúp đỡ
tha nhân.
Tu huệ là
nghiên cứu kinh điển,
học hỏi giáo lý,
thiền định và
quán chiếu. Phước và huệ đều
cần thiết cho người tu nhưng
chúng ta nên nhớ
Đạo Phật là đạo
cứu khổ,
đức Phật chỉ dạy về khổ và
con đường diệt khổ. Do đó nếu tu đúng theo
đạo Phật thì phải hưởng được ít nhiều hương vị
giải thoát, bớt khổ và
hạnh phúc hơn.
Muốn hết khổ
chúng ta cần phải nhận diện và
hiểu rõ tiến trình của
phiền não, của Ý, Tình, Thân hay của
vọng tưởng,
vọng tình, vọng nghiệp, và
tìm cách chuyển hóa chúng.
Trong
kinh Lăng Nghiêm có kể chuyện anh chàng
Diễn Nhã Đạt Đa, một hôm
soi gương thấy mặt mình hiện trong gương, rồi bỗng
suy nghĩ cho là mình mất đầu (
vọng tưởng), đâm ra hốt hoảng (
vọng tình), chạy khắp nơi đi tìm cái đầu (vọng nghiệp).
Anh Ba là người
bạn thân của tôi hồi còn ở Trung Học. Sau khi
lập gia đình,
chúng tôi ít có dịp gặp lại nhau. Một hôm
rảnh rang không đi làm, ngồi nhà
suy nghĩ vẩn vơ, tôi
chợt nhớ đến anh Ba (tưởng), rồi
tự nhiên bao nhiêu kỷ niệm
vui buồn xa xưa trào lên (tình), và tôi
cảm thấy thèm gặp lại người bạn cũ
hết sức, thế là tôi
đứng dậy cầm điện thoại gọi anh Ba tới chơi (nghiệp).
Tiến trình
chuyển hóaTrong quá trình
hành đạo, tôi thấy nhiều
Phật tử đến chùa kể lể nỗi khổ của mình và mong được thầy hay cô chỉ dạy cách tu. Nhưng phần đông những câu
trả lời đều tương tựa như sau:
- ráng về
tụng kinh,
niệm Phật nhiều sẽ hết khổ.
-
chịu khó nhẫn nhục chịu đựng để trả nghiệp.
- tập
ngồi thiền hoặc
trì chú thì sẽ bớt khổ.
- nên
đi chùa công quả làm phước thì nghiệp mau hết.
- v.v...
Và ít có ai
để ý tới
nguyên nhân của khổ, ai cũng đầy
thiện chí đưa ra một viên thuốc trị bá bệnh. Người
Phật tử nghe lời làm theo nhưng không thấy
thuyên giảm:
- con
niệm Phật nhiều nhưng còn buồn giận hoài.
- con siêng năng
tụng kinh nhưng sao cứ nhớ tới người chồng phụ bạc.
- con
ngồi thiền đều đặn nhưng trong tâm vẫn
nơm nớp lo sợ đủ thứ chuyện.
- v.v...
Người
tu pháp môn
Niệm Phật là để cầu về
Cực Lạc chứ đâu nhằm
mục đích chuyển hóa buồn giận.
Đức Phật A Di Đà đâu có nói niệm
danh hiệu của ta thì sẽ hết giận hết buồn mà ngài nói người nào chăm niệm
danh hiệu của ngài thì
lâm chung ngài sẽ đến tiếp độ về
Cực Lạc.
Tụng kinh nhiều mà còn
sân hận là vì người này chỉ lo tu tụng chứ đâu có tu sửa, kinh Phật là để học để hiểu rồi
áp dụng tu tâm sửa tánh,
thoát ly chấp trước sân hận.
Ngồi thiền là
trở về tiếp xúc với
thân tâm mình, thấy được niềm đau nỗi khổ để
chuyển hóa chứ không phải
chạy trốn vào một
cảnh giới khác.
Trong bài sám
Tịnh Độ của
Nghi Thức Tụng Niệm có câu: "chúng con khổ, nguyền xin
cứu khổ, chúng con khổ, nguyền xin tự độ". Theo
Tứ Diệu Đế thì ta phải biết rõ về Khổ, rồi tìm
nguyên nhân của Khổ, sau đó mới nói đến chuyện
cứu khổ hay
diệt khổ.
Sau đây là sáu giai đoạn
chuyển hóa phiền não:
1)
Nhận diện và ghi ra những tánh (xấu) thường gây cho mình khổ đau.
2) Lựa ra tánh (xấu) hay làm phiền mình nhất và
quyết tâm sửa tánh (xấu) này trước.
3) Truy tìm
vọng tưởng (
ý nghĩ) nào đã đưa đến tánh xấu đó.
4) Chuyển Ý: thay thế
tư tưởng sai lầm cũ (
vọng tưởng), bằng
tư tưởng mới.
5) Chuyển Tình: tập phát triển tình cảm, đức tính mới, ngược lại với tánh xấu cũ.
6) Chuyển Thân:
thực hiện những
lời nói,
cử chỉ, hành động
tương ưng với
Ý tưởng mới.
1)
Nhận diện và ghi ra những tánh xấu
Tánh xấu ở đây có nghĩa là những
tư tưởng,
vọng tình,
tập khí làm cho ta
phiền não đau khổ. Muốn
nhận diện được chúng thì
cần phải có
chánh niệm.
Chánh niệm là
tỉnh giác ghi nhận những gì đang xảy ra trong
hiện tại, ngay nơi
thân tâm mình, bây giờ và ở đây.
Chánh niệm (samma-sati) tương đương với
Như thật kiến (yathabhutadassana) tức sự vật như thế nào thì thấy đúng như thế nấy, không phê phán hay
thêm bớt, cách nói
hiện đại theo
Tây Phương là "thấy sự vật như chúng là" (see things as they are, voir les choses comme elles sont).
Thí dụ khi thấy trời mưa thì ta nói trời mưa, đó là
chánh niệm. Còn thấy trời mưa mà nói là trời xấu thì không phải
chánh niệm, vì có sự
phân biệt tốt xấu
xen vào nên không còn là
ghi nhận đúng
như thật nữa.
Thí dụ khác: vào chùa tôi thấy anh Tư đang nói chuyện lớn tiếng với
bà con cô bác. Nếu
ghi nhận anh Tư đang
nói lớn tiếng, đó là
chánh niệm. Còn nếu
ghi nhận anh Tư là người
thô lỗ thì đó là phê phán, không phải
chánh niệm.
Có thấy rõ và
ghi nhận những gì đang xảy ra nơi
thân tâm mình thì mới tu sửa được. Nói tu mà khi sân không
biết mình sân, buồn không
biết mình buồn,
kiêu mạn không
biết mình kiêu mạn, v.v... thì làm sao tu sửa được?
Nếu không có
thời giờ tu tập thiền quán mỗi ngày, ta có thể ghi ra giấy hoặc ghi vào một cuốn sổ tay, ghi như vậy để thấy rõ hơn.
Chúng ta lo ghi chép sổ sách tiền bạc, công
việc làm ăn buôn bán, v.v... nhưng việc
trọng đại hạnh phúc của đời mình thì lại
bỏ quên.
Trong ngày có rất nhiều
tâm tưởng, tánh tình,
tập khí khởi lên không ngừng, cái này chưa đi thì cái kia đã tới. Vừa vui được hai phút thì sau đó lại giận, hết giận đến buồn, hết buồn thì lo, hết lo đến sợ, v.v... Mỗi khi có tâm trạng
buồn phiền, khó chịu, ta phải tập
nhận diện ngay.
Ta không thể ghi chép hết những
vọng tưởng và
vọng tình khởi lên trong ngày, nhưng có thể ghi lại những
tư tưởng hay
vọng tình nào thường khởi lên và làm phiền ta nhiều nhất.
Thí dụ những tánh xấu sau đây thường khởi lên trong tôi:
Tham lam, giận hờn, ganh tị,
kiêu căng, khinh người, thích chê bai kẻ khác, khoe khoang,
ích kỷ,
cố chấp, lười biếng,
độc tài,
nói nhiều, nhút nhát,
cứng đầu, hay lo,
nóng nảy, hay khóc, tủi thân,
đa nghi,
mặc cảm, v.v...
Bài tập:
- Tìm và ghi ra 5 tánh xấu nơi mình. Nếu tìm không ra thì có thể nhờ người quen (như anh em, bạn bè) chỉ giúp.
- Tìm và ghi ra 5 tánh tốt nơi mình. Cái này tập cho ta tìm lại
chủng tử tốt sẵn có của mình để phát triển sau này.
- Ghi ra 5 tánh xấu mà mình ghét nhất nơi kẻ khác. Ghi ra như vậy để tránh đừng phạm vào những lỗi đó chứ không phải để
chỉ trích hoặc tăng lòng thù ghét.
- Ghi ra 5 tánh tốt mà mình thích nhất nơi kẻ khác. Cái này tập cho ta nhìn thấy điều tốt nơi kẻ khác. Và nếu những tánh tốt này mình chưa có thì tập phát triển chúng.
2) Lựa ra một tánh xấu để sửa
Trong những tánh xấu nêu ở trên,
thí dụ cái tánh hay nóng giận làm tôi khó chịu, khổ sở nhất nên tôi muốn sửa nó trước. Vì nó mà tôi
ăn không ngon, ngủ không yên, trong lòng
bức rức, không thích
giao thiệp với ai, vì hễ ai mà nói trái ý là tôi
nổi giận liền. Thấy mặt ai cũng khó ưa và
nghi ngờ người ta
nói xấu tôi, lường gạt tôi, hãm hại tôi, v.v...
Thông thường
chúng ta có nhiều tánh xấu, nhưng tất cả đều
liên quan với nhau vì thế nếu sửa một tánh xấu (cầm đầu, mạnh nhất) thì những tánh xấu kia sẽ
tự nhiên tiêu giảm. Sau khi biết cách
chuyển hóa một tánh rồi thì sẽ dễ tu sửa những tánh khác.
Tu sửa không có nghĩa là đè nén (refouler, repress) như
đa số thường làm một cách
vô ý thức, họ cho rằng tu thì không được như thế này, không được như thế kia. Khi tôi
nổi giận, bạn bảo tôi đừng giận nữa! Người tu không nên
nổi giận. Nghe như thế tôi bèn
nén giận, dằn xuống và nuốt vào bên trong. Mỗi khi
nổi giận, tôi không cho
cơn giận hiện ra mặt để bạn khỏi thấy, nhưng cái giận đó vẫn còn và nằm ngay nơi cổ họng làm tôi nghẹn ngào nói không ra lời, hoặc nằm trong lồng ngực làm tôi khó thở. Cứ thế mỗi lần
nổi giận là tôi lại nuốt nó vào trong và bên ngoài thì
giả bộ mỉm cười tỉnh bơ, lâu ngày cái giận đóng thành một cục bên trong gọi là nội kết. Người Pháp mỗi khi
bực mình chuyện gì mà phải nén lại thì họ thường nói: tôi có những cục nghẹn (j'ai les boules). Nghe buồn cười nhưng rất chính xác!
Tu hành hay tu sửa không phải là đè nén,
che đậy, nuốt vào những giận hờn,
lo âu,
buồn phiền, v.v... để nó đóng thành cục bên trong lâu ngày sinh bệnh, mà là làm sao cho cái giận đó tan biến đi và trong tương lai không còn
nổi giận nữa hoặc nếu có thì giận vừa khởi liền tan biến tức khắc.
Trong tất cả
phiền não, nóng giận (sân) là tánh xấu nguy hại nhất, nó thiêu đốt
thân tâm và thiêu đốt luôn bao nhiêu
công đức. Vì không
tự chủ và điều khiển được nóng giận mà người ta chửi mắng nhau, thù ghét nhau rồi chém giết nhau. Bao nhiêu
đau khổ chiến tranh trên đời này đều bắt nguồn từ cái giận. Vì thế người tu phải
cố gắng sửa và
chuyển hóa cái giận.
3) Đi tìm
vọng tưởngXin bạn đọc chú ý, chữ
vọng tưởng được dùng ở đây không phải là những
ý nghĩ khởi lên loạn xạ trong lúc
ngồi thiền như
Thiền tông hay nói tới, mà là sự
tin tưởng sai lầm.
Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong tiến trình tu sửa
phiền não. Một (hay nhiều) tánh xấu không thể
tự nhiên mà có. Nó có là vì những cái tưởng (croyances, belief systems) như
thành kiến,
quan niệm, tập quán, v.v... đúc kết thành một lề lối
suy nghĩ khiến ta khởi ra tình cảm, tánh tình như vậy, đây chính là
vọng tưởng mà tôi đã định nghĩa ở phần trước. Tìm và
nhận ra vọng tưởng (croyance erronée, wrong belief) này không phải dễ, vì nếu dễ thì ta đã không khổ sở
phiền não từ bấy lâu nay.
Ngồi thiền nhìn
ý tưởng,
ý niệm khởi lên
lăng xăng không ngừng tuy
vậy mà còn dễ hơn đi tìm cái
vọng tưởng (
kiên cố) đã cho ra cái tánh xấu (
vọng tình) kia.
Xưa nay ta thường quen sống với những cái tưởng của mình và
tin theo nó. Ta đã để nó nhập vào và
trở thành tập khí, ta là nó, nó là ta, khi nó nghĩ thì ta tưởng mình nghĩ, khi nó suy tư thì ta tưởng mình suy tư, vì thế nên rất khó
nhận ra nó! Mỗi khi có chuyện
buồn phiền, ngồi xuống xét lại ta chỉ thấy mình đúng và kẻ khác sai. Ta quá
quen thuộc với đường lối suy tư (
ngã kiến,
kiến thủ) đó nên dù suốt ngày
suy nghĩ,
cuối cùng ta cũng vẫn thấy mình đúng.
Ở đây cần nói thêm về
tâm lý phức tạp của
con người. Những
ý nghĩ hay
ý tưởng khởi lên trong tâm mà ta có thể biết được, đó chỉ là
một phần nhỏ của
tâm thức.
Tâm thức của ta có thể
ví như một tảng băng nổi (iceberg), phần nhỏ lú trên mặt biển là những
vọng tưởng thô kệch hiện trên mặt
ý thức, còn phần to tướng nằm ngầm phía dưới là những
tập khí vọng tưởng kiên cố. Cái phần trôi ngầm ở dưới vượt ngoài tầm của
Ý Thức (conscience).
Tâm lý học
hiện đại gọi phần ngầm ở dưới là
Vô Thức (l'Inconscient). Cái
vô thức này chứa đựng tất cả những thứ mà ta vô tình
tích lũy như:
vọng tưởng,
quan niệm,
thành kiến, tập quán,
chương trình, nội kết, v.v... nói chung là nghiệp.
Trong đời sống hàng ngày
chúng ta tưởng mình làm chủ được
suy nghĩ, tình cảm và hành động của mình nhưng phần nhiều
chúng ta bị
Vô thức điều khiển mà không hay. Trong lúc
ngồi thiền, có thể ta không có một
ý tưởng (hay
vọng tưởng) nào khởi lên, nhưng đó mới chỉ là trên mặt
ý thức, những nội kết ngủ ngầm ở dưới vẫn còn nguyên chưa được
chuyển hóa. Bởi thế có người
tu thiền lâu năm,
ngồi yên nhập định không
suy nghĩ được một ngày đến vài ngày, nhưng tánh tình không thay đổi, vẫn
kiêu căng,
ngã mạn, sân, si, ái, ố, v.v...
*
Thí dụ: mỗi khi bạn bè họp mặt nói chuyện vui là tôi cứ nhè anh Ba mà
phê bình chỉ trích, dù anh không bao giờ nói một câu
đả động xúc phạm đến tôi.
Thái độ vô lý của tôi đã được bạn bè khuyên nhắc và mỗi lần ra về tôi đều
công nhận là tôi
vô lý vì anh Ba không có lỗi và chính tôi cũng không thù ghét gì anh ấy. Tôi đã
ăn năn hối hận và tự nhủ lần sau
cẩn thận không gây sự với anh Ba nữa. Nhưng sao kỳ quá, mỗi lần thấy anh tôi không
kềm chế nổi, miệng cứ vọt ra lời chỉ trích!!!
Suy nghĩ mãi mà không hiểu tại sao!
Ý thức thấy rõ là
không có lý do gì để
chống báng chỉ trích anh Ba, nhưng tôi biết có một cái gì không ổn nằm ở dưới đáy
tâm thức đã
sai khiến tôi làm chuyện đó, để rồi về đến nhà thì lại ăn năn! Sau khi lắng tâm truy tìm tôi
nhận ra là tôi đã có
thành kiến xấu đối với anh Ba vì anh làm nghề lái buôn và tôi tin rằng người lái buôn là hạng
lưu manh, xảo trá.
*
Thí dụ khác: Cô Hai là người
giàu sang,
hiền hậu,
duyên dáng, có
học thức, được chồng con yêu mến, bạn bè kính nể. Cô có đầy đủ
vật chất tiện nghi và tình cảm nhưng trong tận
đáy lòng cô vẫn
cảm thấy buồn, một
nỗi buồn man mác vô duyên cớ. Có nhiều người mơ ước thèm được như cô là họ
sung sướng lắm, nhưng tại sao chính cô lại
cảm thấy không hạnh phúc?
Ý thức biết rõ
không có lý do gì để buồn khổ, nhưng cô có một niềm u uẩn nào đó nằm sâu trong
tiềm thức[25] thường theo
ám ảnh mà cô không hay biết.
Ở giai đoạn này người tu rất cần sự
trợ lực bên ngoài, đó là thầy lành, bạn tốt. Người ta thường nói: "việc người thì sáng, việc mình thì quáng". Thầy bạn là những người ngoài cuộc, có thể đưa
ý kiến giúp ta vượt thoát đường lối suy tư lẩn quẩn của mình.
Thí dụ về cái giận
Ai nấy trong
chúng ta đều biết thế nào là cái giận.
Bình thường khi
mọi việc êm xuôi thì không ai
nổi giận.
Chúng ta nổi giận khi bị
xúc phạm, trái ý hoặc gặp việc gì không
vừa lòng. Như vậy
nguyên nhân đưa đến cái giận chính là sự trái ý.
Khi ta giận một người nào đó thì có hai
trường hợp:
- người kia
cố ý chọc tức, gây
sự hoặc mắng chửi ta.
- người kia vô tình, không
cố ý chọc tức gây sự mà ta tức giận, bởi vì ta
không chấp nhận hoặc không
hài lòng điều gì đó nơi người kia.
Trường hợp thứ nhất, nếu người kia
cố ý gây sự mà ta
nổi giận thì ta lỗi 50%. Tại sao lại 50%, đúng ra phải là 0% chứ?
Theo quan niệm ngoài đời, khi bị người khác gây sự
kiếm chuyện thì ta có quyền
nổi giận, đó là điều đương nhiên. Nhưng theo đạo thì người kia gây sự nhưng giận hay không là do ta, ta làm chủ, nếu ta
nổi giận tức là ta đã dính mắc,
chấp trước rồi, tôi cho lỗi 50% là còn
khoan dung. Vì theo
luật nhân quả thì ta đã làm gì để khiến người kia gây sự với ta? Không thể
vô duyên vô cớ mà gây sự được.
Trường hợp thứ nhì, người kia không
cố ý chọc tức, gây sự mà ta
nổi giận thì đó là ta lỗi 100%. Vì do
tập khí,
phiền não đã khiến ta
không chấp nhận và
bực mình người kia,
vậy thì ta phải quay trở vào tâm mình mà sửa.
Tâm bình thì
thế giới bình.
* Hai vợ chồng anh Bảy đều theo
đạo Phật, nhưng anh Bảy thích
tu Thiền còn chị Bảy thích
Tịnh Độ. Anh Bảy tánh tình
dễ dãi ai tu cái gì cũng được, miễn có tu là tốt rồi. Nhưng vợ anh lại muốn anh tu
Tịnh Độ vì chị tin rằng thời nay là đời
mạt pháp, chỉ có
Tịnh Độ mới là
con đường duy nhất để
giải thoát. Mỗi khi nói chuyện đạo mà anh Bảy nhắc đến các kinh như Đại
Niệm Xứ (Maha Satipatthana) trong đó
Đức Phật nói hành thiền Tứ Niệm Xứ là
con đường duy nhất dẫn đến
giải thoát thì vợ anh lại
nổi giận khó chịu. Cả hai đều tu theo Phật mà tại sao
phiền não hục hặc nhau hoài?
Vấn đề ở chỗ nào?
Vấn đề nằm ở chỗ tin và chấp vào một điều cho là đúng, là tốt rồi muốn người khác cũng phải
tin theo mình. Đây là một
vọng tưởng (fausse croyance, wrong belief),
nguyên nhân dẫn đến
tranh luận và
bất hòa.
Đúng lý ra anh/chị phải làm như thế này mới đúng. Nếu anh/chị không làm như vậy là sai, tôi
không chấp nhận được nên tôi
nổi giận.
Ta có quyền tin những gì mình tưởng là đúng, nhưng nếu muốn người khác phải
tin theo ta thì đó là một loại tin
sai lầm (
vọng tưởng). Tệ hơn nữa là
cuồng tín, cho rằng giận là phải nếu người khác không làm theo ý của ta.
* Tôi đến thăm chị Ba, thấy chị đang
giận dữ quát tháo thằng Tí:
- Tôi giận quá là giận!
- Tại sao vậy?
- Vì tôi nói nó không
nghe lời.
- Chị nói nó không
nghe lời thì sao?
- Thì đó là chọc giận tôi chứ sao!
Ở đây chị Ba
tin tưởng hai điều:
- những gì chị nói là đúng.
- việc chị giận thằng con cũng đúng luôn.
Vì thấy giận như thế là đúng nên chị
nổi giận đều đều, giận
thường xuyên.
Ban đầu giận thằng con không
nghe lời mẹ, sau tới giận chồng không
nghe lời vợ, kế đến giận
bà con bạn bè không
nghe lời chị, v.v...
Niềm tin sai lầm (
vọng tưởng) của chị Ba là: tất cả những gì chị nghĩ, nói, làm đều là đúng. Hễ ai trái ý chị là chị phải giận, có quyền giận, và giận như vậy là đúng.
Thông thường điều làm cho ta dễ
nổi giận là
cố chấp cho mình đúng và đòi hỏi người khác phải
thuận theo mình, không được chống
trái lại mình,
đạo Phật gọi đó là
ngã kiến hay
ngã kiến thủ.
Thí dụ về cái sợ
Chị Ba có tật hay sợ, sợ bị
chỉ trích phê bình. Mỗi khi chị đang nói chuyện mà có ai
chau mày, nhíu mắt,
mỉm cười, nhếch môi, đùa giỡn, v.v... là chị
cảm thấy mắc cở, lo sợ nghĩ rằng chị đã
lỡ lời hay làm điều gì sai quấy không ổn và người kia sẽ đi
rêu rao nói xấu chị. Sau buổi nói chuyện chị về nhà
tâm hồn bất an,
hối hận và lần sau
sợ hãi và tránh né người hôm nọ đã
chau mày nhíu mắt.
Tâm trạng sợ (bị
chỉ trích phê bình) của chị Ba đối với
đạo Phật trên
lý thuyết không có gì hại và không nằm trong 10
phiền não chính, nhưng thật ra nó là một
phiền não. Vì
phiền não có nghĩa là
não hại và làm mình
buồn phiền.
Chị Ba có đến gặp tôi và bày tỏ nỗi sợ "vô duyên" của chị. Tôi
dẫn giải cho chị hiểu cái làm cho chị hay sợ không phải là sự
chau mày, nhíu mắt,
mỉm cười, nhếch môi, của những người kia, mà là cái
ý nghĩ: "Tôi không muốn bị
phê bình chỉ trích! Nếu họ
chau mày, nhíu mắt, đùa giỡn tức là họ khinh thường tôi, coi tôi không ra gì và sẽ đi
nói xấu tôi với người khác." Chị Ba đã đóng khung cái
ý nghĩ này và
ghi khắc nó vào trong tâm. Từ đó
ý nghĩ này
trở thành một
sự thật đối với chị, nhưng chị quên mất đâu phải ai
chau mày, nhíu mắt đều có nghĩa là khinh chị hay
chống báng chị, nhiều khi họ bị nắng chói phải
chau mày, nhíu mắt, hoặc bị bụi bám vào mắt, v.v... Khi chị nói mà họ
mỉm cười có thể là họ
đồng ý, hoặc gợi cho họ một chuyện vui nào đó chứ đâu phải
chế nhạo chị.
Trên đây chỉ là một
thí dụ về cái sợ. Sợ là một
tâm sở, người nào cũng có sợ, không sợ nhiều thì sợ ít, không sợ cái này thì sợ cái kia. Đối tượng của sợ có nhiều loại: sợ ma, sợ chuột, sợ rắn, sợ mèo, sợ bóng đêm, sợ
ăn trộm, sợ xe đụng, sợ
tai nạn, sợ thất nghiệp, sợ vợ hay chồng bỏ, sợ bệnh,
sợ chết, sợ
cô đơn, sợ đám đông, sợ cảnh sát, sợ chiến tranh, sợ
thiên tai bão lụt, v.v...
Trong những cái sợ nêu trên, ta có thể chia ra hai loại: cái sợ hữu lý và cái sợ
vô lý. Cái sợ hữu lý là cái sợ
cần thiết cho cuộc sống, được
mọi người công nhận như: sợ
ăn trộm, sợ xe đụng, sợ
tai nạn, sợ thất nghiệp, sợ cảnh sát, sợ
thiên tai. Vì sợ xe đụng nên ta không dám băng qua đường ẩu, nhờ vậy bảo toàn tánh mạng cho mình và kẻ khác. Vì sợ
ăn trộm nên mỗi khi đi vắng ta khóa cửa nhà
cẩn thận. Vì sợ thất nghiệp nên ta
cố gắng đi làm đúng giờ, làm việc đàng hoàng không
cẩu thả. Vì sợ cảnh sát nên ta không dám
vi phạm luật lệ, nhờ
vậy mà xã hội được
an ninh. Sợ bão lụt nên ta đắp đê đào mương, v.v...
Cái sợ
vô lý là cái sợ bắt nguồn từ sự khủng hoảng
tinh thần (trauma), yếu bóng vía, và đối tượng của cái sợ không gây nguy hiểm đến tánh mạng như: sợ ma, sợ chuột, sợ bóng đêm. Ma không thể bóp cổ hay giết người được, từ xưa tới nay không hề thấy có
chuyện ma giết người mà chỉ có người mới giết người được. Con chuột hình thù ghê tởm nhưng nó không thể
ăn thịt ta được. Bóng đêm dù bao phủ lên người cũng không thể làm hại ta được.
Cái sợ dù
vô lý hay hữu lý, nếu nó làm phiền và
ảnh hưởng quá nhiều đến
đời sống hàng ngày thì ta
cần phải tu tập để
chuyển hóa.
Thí dụ về cái lo
Chị Hai có tật hay lo. Mỗi khi anh Hai hoặc hai đứa con trai đi đâu về trễ, ở nhà chị rất lo, đi ra
đi vào đứng
ngồi không yên, đầu óc
suy nghĩ, tưởng tượng đủ chuyện không may bất trắc xảy ra cho chồng và con. Đến khi chồng con về thì chị mới yên tâm nhưng lại
buồn bực,
la mắng, trách móc tại sao đi đâu về trễ mà không báo cho chị hay.
Nguyên nhân lo của chị là cái tưởng: "đi đâu về trễ tức là bị tai nạn". Chị không thể nào nghĩ khác hơn là
tai nạn. Vì nghĩ và tin là
tai nạn nên chị đâm lo.
Tóm lại trong đời sống hàng ngày, mỗi khi
cảm thấy buồn phiền,
bực tức, khó chịu,
bất an,
lo âu,
sợ hãi, v.v... đó là lúc ta cần xét lại và tìm cho ra những
vọng tưởng,
ý nghĩ,
thành kiến nào đã khiến cho ta
phản ứng (
vọng tình) như vậy.
* Mỗi khi có việc cần sự giúp đỡ, tôi đi hỏi những người quen và nếu họ từ chối thì tôi
cảm thấy xấu hổ,
chán đời và
chán ghét tất cả
mọi người. Lúc này tôi cần ngồi xuống để
nhận diện:
- Tôi đã
nhận thức thế nào về sự việc trên?
Ghi nhận đúng
như thật hay đã nhìn qua lăng kính vọng tưởng?
- Tôi đã có
ý nghĩ gì trước khi đi nhờ vả người khác?
- Khi bị từ chối thì tôi đã nghĩ gì để
cảm thấy xấu hổ?
-
Ý nghĩ của tôi có chắc là đúng không?
- Nếu chỉ bị vài người từ chối mà cho tất cả
mọi người trên
thế gian này đều xấu, rồi sinh ra
chán đời. Sự suy tư phán xét như vậy có
hợp lý (logic) không?
- Một
ý nghĩ đưa đến khổ đau có đáng cho ta tin và
chấp nhận không?
4) Chuyển Ý
a-
Vấn đề nhận thức hay sự
lợi hại của
ý nghĩTrước hết ta cần hiểu và nhớ rõ: Làm cho ta
đau khổ phiền não không phải là sự vật bên ngoài mà là sự
nhận thức của ta đối với nó.
Nhận thức (perception) là cái thấy,
suy nghĩ và cảm nhận.
Đức Phật trên đường đi
khất thực bị một người
Bà la môn theo sau mắng chửi thậm tệ, nhưng Ngài vẫn
thản nhiên ung dung tự tại. Trong khi đó chỉ cần
ngồi yên hồi tưởng lại một chuyện trái ý là ta
buồn bực tức giận. Thế nghĩa là sao? Nếu nói bị người bên ngoài
mắng chửi là khổ thì tại sao
Đức Phật không buồn giận? Trong khi đó
hiện tại bây giờ và ở đây không có ai đang
mắng chửi hay làm gì ta nhưng tại sao ta lại buồn bực? Chính những
ý tưởng về sự việc trái ý
quá khứ hiện lên trong tâm làm cho ta khổ sở buồn giận.
Tôn giả Phú Lâu Na (Purna) khi
tình nguyện đi
hoằng pháp ở xứ Du Lô Na (Sronaparanta) đã được
đức Phật hỏi nếu dân xứ đó
mắng chửi ông thì sao? Ngài
Phú Lâu Na trả lời: con nghĩ họ hãy còn tốt vì chưa dùng gậy gộc đánh con.
Đức Phật hỏi nếu họ dùng gậy gộc đánh ông thì sao? Ngài
Phú Lâu Na đáp: con nghĩ họ hãy còn tốt vì chưa dùng đến dao kiếm đâm con
bị thương nặng.
Đức Phật lại hỏi: nếu họ dùng dao kiếm đâm ông
bị thương nặng thì sao? Ngài
Phú Lâu Na đáp: con nghĩ họ vẫn còn tốt vì chưa giết con.
Đức Phật hỏi tiếp nếu họ giết ông thì sao? Ngài
Phú Lâu Na bình thản
trả lời: đó là họ giúp con
từ bỏ cái
thân tứ đại khổ đau này để sớm
nhập Niết Bàn. Nhờ
suy nghĩ như vậy nên
Phú Lâu Na không
sợ hãi và đã
giáo hóa được dân xứ Du Lô Na.
Trong kinh Thủy Dụ[26], ngài
Xá Lợi Phất có nói về năm cách
suy nghĩ để
chuyển hóa phiền não khi
tiếp xúc với người
xung quanh tùy theo thân, khẩu, ý của họ.
1/ Đối với người có hành động không
dễ thương[27] và
tốt lành, nhưng
lời nói lại
dễ thương thì ta không nên nhớ nghĩ về hành động của họ mà chỉ nên nghĩ về
lời nói của họ.
2/ Đối với người có
lời nói không
dễ thương, nhưng hành động
dễ thương thì ta không nên nhớ nghĩ về
lời nói của họ mà chỉ nên nghĩ về hành động của họ.
3/ Đối với người có hành động và
lời nói không
dễ thương, nhưng tâm ý có chút
dễ thương thì ta chỉ nên nhớ nghĩ đến tâm ý của người đó.
4/ Đối với người có hành động,
lời nói và tâm ý không
dễ thương thì ta nên nghĩ như sau: "người này cả
ba nghiệp đều không
thanh tịnh,
tốt lành, khi chết sẽ đọa vào cảnh khổ, rất đáng thương. Nếu người này gặp được bạn tốt thì
ba nghiệp sẽ
trở nên thanh tịnh,
sau khi chết sẽ sinh lên cõi lành". Nhờ nghĩ như vậy ta sẽ
phát khởi lòng từ bi.
5/ Đối với người có hành động,
lời nói và tâm ý
tốt lành,
dễ thương thì ta nên thường nghĩ về hành động,
lời nói và tâm ý của người đó. Nhờ vậy tâm ta được
hoan hỷ.
Chúng ta hay
đổ lỗi cho người và sự vật bên ngoài làm ta
đau khổ mà không biết khổ đau hay
hạnh phúc là do sự
nhận thức và lề lối
suy nghĩ của mình.
*
Thí dụ: Chồng tôi hôm nay đi làm về trễ hơn mọi ngày, ở nhà tôi làm cơm dọn sẵn và
nóng lòng ngồi chờ. Về đến nhà anh chỉ nói ngắn ngọn là hôm nay công việc nhiều và trên đường về bị kẹt xe, rồi ngồi vào bàn ăn ngay. Qua việc này tôi có nhiều cách
nhận thức:
1/ Tôi nghĩ là anh
nói dối.
2/ Tôi nghĩ là anh
che dấu tôi một điều gì, vì tại sao không kể cho tôi nghe rõ hơn
chi tiết công việc, kẹt xe ở khu nào, v.v...
3/ Tôi tin anh
nói thật, nhưng anh không biết chú ý và cám ơn sự
lo lắng săn sóc của tôi.
4/ Tôi tin anh
nói thật và nghĩ chắc anh đói và mệt lắm.
Nếu tôi
nhận thức sự việc theo kiểu a), b), c) thì
chắc chắn tôi sẽ
cảm thấy khó chịu,
buồn bực. Nhưng nếu tôi
nhận thức theo kiểu d) thì tôi sẽ thương và
tội nghiệp chồng mình. Thương hay ghét là tùy sự
nhận thức (
suy nghĩ) của tôi chứ không phải tại anh
nói dối hay nói thật, vì thực sự anh có
nói dối hay không, có mệt hay đói, điều này tôi không thể biết được.
Có nhiều người gặp
hoạn nạn hay vài chuyện
bất như ý liền nghĩ mình là người
đau khổ nhất trên đời rồi chán nản,
tuyệt vọng và nghĩ đến tự tử.
Bình thường ít có ai tự tử vì
đói khát hay vì thiếu ăn thiếu mặc, mà họ tự tử vì
khổ tâm,
thất tình,
thất vọng, chán chường,
quẩn trí. Trong tâm của họ không còn lối thoát, cách
suy nghĩ của họ đã đưa họ đến đường cùng và nghĩ rằng tự tử là
con đường duy nhất để thoát khổ.
Dưới đây là vài lối
suy nghĩ một chiều, rất nguy hiểm:
- Tôi là người khổ nhất trên đời.
- Hắn là người xấu nhất.
- Tất cả
mọi người đều thế này thế nọ ...
- Thầy X,Y là người giỏi nhất, hay nhất...
- Tôi là người (giàu, nghèo, đẹp, xấu, giỏi, ngu, v.v...) nhất.
- Người kia là (ác, tốt, dễ ghét,
dễ thương, v.v...) nhất.
- Tôi (tin)
chắc chắn người đó, việc đó là như vậy.
- Tất cả
mọi người hay sự vật là ... như vậy.
Nếu tôi cứ nghĩ mình là người khổ nhất trên đời thì thế nào tôi cũng tự tử.
Nếu hắn là người xấu nhất thì tôi phải ghét hắn.
Nếu Thầy X,Y là người hay nhất, giỏi nhất thì đương nhiên tôi phải kính phục và
coi thường những thầy khác.
Nếu tất cả
mọi người đều
ích kỷ, bần tiện thì tôi không thèm chơi với ai hết.
Vì
suy nghĩ,
quan niệm như vậy nên
phản ứng của tôi
trở thành tuyệt đối và
chủ quan. Nó sẽ gây cho tôi nhiều
phiền muộn khổ đau.
b- Thay thế
vọng tưởngXưa nay chúng ta khổ vì quen
suy nghĩ,
tư duy theo kiểu
chấp ngã,
ích kỷ đầy
thành kiến sai lầm (
tà kiến) thì nay phải tập thay thế bằng những
tư tưởng mới và
chương trình mới (new programs). Những
tư tưởng mới và
chương trình mới này
cần phải gần với
thực tại, đó gọi
chánh tư duy. Muốn có
chánh tư duy thì phải có
chánh kiến, tức là sự thấy và
hiểu biết đúng. Và muốn có
chánh kiến thì
cần phải học.
Dưới đây là những
quan niệm căn bản của
đạo Phật mà ta cần học để làm nền tảng cho mọi sự suy tư của mình:
-
Lý nhân duyên: Tất cả sự vật trên
thế gian này đều do
nhân duyên hợp thành, không phải
tự nhiên mà có.
-
Tam Pháp Ấn:
vô thường, khổ,
vô ngã.
- Lý
duy tâm sở hiện hay
Vạn pháp duy thức: Mọi sự vật đều không có
tự tánh, chúng
ảnh hiện tùy theo sự
nhận thức của ta.
-
Lòng từ bi: Suy tư,
nghĩ tưởng trên sự
thương yêu và
thông cảm, không
độc đoán, không nghĩ xấu và làm hại kẻ khác.
-
Nhân duyênSống ở đời ai cũng mong muốn cái này, cái kia, muốn sự vật theo ý mình, nhưng sự vật xảy ra theo luật
nhân duyên chứ không phải theo ý ta. Vì không biết như thế nên khi gặp chuyện trái ý thì ta
buồn bực,
thất vọng,
bất mãn. Nói vậy không có nghĩa là ta không mong cầu gì hết,
ngồi yên phó mặc
cuộc đời. Khi mong muốn điều gì ta phải
cố gắng tạo đủ
nhân duyên. Nếu đủ duyên, đủ phước thì điều mong cầu sẽ
thành tựu, thiếu duyên thiếu phước thì việc không thành.
Có người
phát tâm muốn
xuất gia nhưng còn kẹt
gia đình níu kéo. Đến khi được
gia đình và
chư Tăng chấp thuận thì lại ngã bệnh nặng không
xuất gia được. Đây là phước
xuất gia không đủ.
Có những người
tự nhiên đến
quấy nhiễu mắng chửi ta mặc dù ta chưa hề làm gì họ. Nếu hiểu
luật nhân quả ba đời (
quá khứ,
hiện tại,
vị lai) thì biết đó là những
oan gia từ nhiều đời trước.
Làm ăn buôn bán ai cũng muốn
giàu sang phát đạt, nhưng thị trường kinh tế lên xuống bất thường. Nếu gặp thời gặp thế được
giàu sang thì đó là
may mắn, ngược lại là xui xẻo. Nhưng nếu
gặp may thì đó cũng là do phước duyên.
Hiểu được
lý nhân duyên thì khi
dự định làm công việc gì ta hãy
cố gắng hết sức mình, nhưng việc thành hay không điều đó không còn
tùy thuộc vào ta nữa. Ngoài đời có câu: "Mưu sự tại nhân,
thành sự tại thiên" (tính toán do người, nhưng việc thành do trời).
Đi đôi với
nhân duyên là
nghiệp quả. Khi tạo
nhân duyên lành thì sẽ được
quả báo tốt, gọi là
thiện nghiệp. Khi tạo
nhân duyên xấu thì sẽ gặp
quả báo xấu, gọi là
ác nghiệp. Người có
thiện nghiệp là người có phước nên làm gì cũng
may mắn,
thuận lợi,
như ý. Người tạo nhiều
nghiệp ác trong
quá khứ thì hiện đời thường gặp
rủi ro,
buồn phiền, trái ý.
Thành sự tại thiên, việc thành do trời, trời ở đây không là gì khác ngoài
luật nhân quả nghiệp báo.
-
Tam Pháp Ấn (
vô thường, khổ,
vô ngã) là nền tảng của
đạo Phật.
Vô thường (anicca): Tất cả sự vật trên
thế gian này đều
vô thường, luôn luôn thay đổi. Không những sự vật luôn đổi thay mà chính ta cũng thay đổi trong từng giây phút, thân ta nay khỏe mai bệnh, tình ta nay đẹp mai tàn, ý ta lúc vui lúc buồn. Ta không thể làm chủ được mình và sự vật bên ngoài. Nhưng
chúng ta lại muốn sự vật đừng đổi thay, ta muốn trẻ mãi không già, khỏe mãi không bệnh, giàu hoài không nghèo, sống mãi không chết, v.v...
Khổ (dukkha): Chữ dukkha thường được dịch là khổ, nhưng dukkha mang nhiều
ý nghĩa hơn thế nữa. Những khi khổ sở,
đau đớn,
bất an,
đói khát,
thất vọng, giận tức,
buồn rầu,
lo âu,
sợ hãi, v.v... đương nhiên là khổ, nhưng ngay cả những lúc
vui vẻ,
sung sướng,
hài lòng, no đủ,
giàu sang cũng vẫn nằm trong dukkha, vì tất cả những cái đó đều
vô thường. Trong
Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhanasutta)
đức Phật nói những gì
vô thường là khổ.
Vô ngã[28] (anatta): Không có gì trên đời này là ta (ngã) hay của ta (
ngã sở). "Ta" chỉ là một cái tên (danh từ) đặt ra
dựa trên năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
Chúng ta thường cho cái thân là ta nhưng xác thân này do bao nhiêu thứ hợp thành như: xương, thịt, gân, máu, tim, gan, thận, phổi, đờm, dãi, v.v...
Chúng ta thường cho cái tâm
suy nghĩ,
lo âu, tưởng tượng, tính toán, v.v... là Ta, nhưng những cái đó cũng đâu phải là Ta. Những thứ "của ta" như vợ ta, con ta, nhà của ta, xe của ta,
tiền của ta, v.v... cũng đâu phải là của ta. Hôm nay còn thương còn yêu thì là vợ của ta, ngày mai hết thương ra tòa
ly dị thì là vợ của ai? Con của ta nuôi nấng
săn sóc từng ly từng tí hồi nhỏ, lớn lên nó bỏ đi lấy chồng lấy vợ sống riêng đời của nó, đâu còn
liên quan gì đến ta, đó là chưa kể những đứa đốt tiền phá của làm
cha mẹ khổ sở
điêu đứng. Còn tiền thì nhà, xe hôm nay là của ta, ngày mai hết tiền thì nó thuộc về ai? Hôm nay còn việc thì còn tiền, ngày mai hết việc (thất nghiệp) thì tiền còn là của Ta nữa hay không?
Trong suốt cuộc đời,
chúng ta nai lưng ra tạo nghiệp
phục vụ cho cái "Ta" và những cái "của Ta" để rồi tắt
thở ra đi không
mang theo được một chút gì, ngay cả cái quý nhất là thân xác cũng phải bỏ lại.
Sau khi
hiểu rõ Tam Pháp Ấn, ta phải đem ra
áp dụng vào
đời sống hàng ngày, nghĩa là tập
suy nghĩ,
tư duy mọi sự trên nền tảng của
Tam Pháp Ấn, nhìn
cuộc đời qua lăng kính
Tam Pháp Ấn. Nhờ đó ta sẽ không còn
bám víu vào sự vật, không
ăn thua đủ với người khác, và biết sống "thiểu
dục tri túc".
*
Thí dụ: Vợ chồng chung sống
với nhau 10 năm, 20 năm rồi có chuyện
gây gỗ ra tòa
ly dị.
Nếu không biết đạo thì sẽ
ăn thua đủ dành giựt
với nhau từng cái bàn, cái ghế, cái ly, cái chén. Nhưng nếu hiểu
lý nhân duyên và
Tam Pháp Ấn, biết vợ chồng là do
nhân duyên ái luyến hợp thành, ngày nay
ái luyến không còn thì tan, có chi phải khổ đau luyến tiếc? Nhà cửa, đồ đạc là vật
vô tri vô giác, dù được bày bán ở tiệm hay ngay trong nhà mình đi nữa cũng đâu phải là của ta, vì không có cái gì trên đời này là thực sự của ta hết (
vô ngã).
Suy nghĩ như
vậy thì đâu còn muốn tranh dành
với nhau.
Làm ăn buôn bán lúc được lúc mất, người đời lúc được thì
vui mừng hớn hở, lúc mất thì
buồn rầu chán đời. Người hiểu lẽ
vô thường thì
thản nhiên, được thì tốt mà mất cũng chẳng sao.
Mỗi khi gặp chuyện khổ đau, trái ý, ta biết
bản chất của chúng là khổ, ngay cả cõi này tên của nó là
Ta Bà (Saha) có nghĩa là
Kham Nhẫn (khó chịu). Đâu phải chỉ riêng ta khổ mà có biết bao nhiêu người khác cũng khổ và có lẽ còn khổ hơn ta nữa.
-
Duy tâm sở hiện hay
Vạn pháp duy thức:
Không nên
hiểu lầm chữ
duy tâm nghĩa là muốn nghĩ gì thì nghĩ và cảnh bên ngoài sẽ
hiện ra như thế.
Thí dụ như đời là khổ mà cứ nghĩ sướng thì ta sẽ sướng, bệnh ung thư
gần chết mà cứ nghĩ mình khỏe thì sẽ khỏe, đau răng mà nghĩ không đau thì răng sẽ hết đau. Trời đang mưa mà cứ nghĩ là trời nắng rồi
thản nhiên đi ra ngoài thì sẽ bị ướt rồi cảm lạnh.
Duy Tâm sở
hiện có nghĩa là
mọi vật đều phát xuất
ảnh hiện từ tâm.
Vạn pháp duy thức, nghĩa là mọi sự vật đều
ảnh hiện qua sự
nhận thức của ta. Đây là nền tảng của
học phái Duy Thức.
Ta không thể nào chối bỏ những cái khổ từ bên ngoài đưa đến như thất nghiệp, vợ bỏ,
cha mẹ chết, bệnh tật,
già nua,
tai nạn,
đói khát, chiến tranh,
thiên tai, v.v... những cái này đúng là cảnh khổ. Nhưng nếu biết thay đổi cái nhìn hay sự
nhận thức của mình thì sẽ thấy cảnh vật đổi khác. Ta xem đó là những thất bại xui xẻo của
cuộc đời, nhưng khổ hay không, đó là việc của
nội tâm.
Thay thế
tư tưởngThay thế
tư tưởng không phải là một
phương pháp mới mẻ gì vì nó đã được
đức Phật giảng nói trong
kinh Đoạn Giảm[29] (Sallekhasutta) với
phương pháp khởi tâm suy nghĩ đối trị và trong
kinh An Trú Tầm[30] (Vitakkasanthanasutta) cũng nói, "ví như một người thợ mộc
thiện xảo dùng một cái nêm nhỏ đánh bật ra, đánh tung ra, đánh văng ra một cái nêm khác.
Tỳ kheo cũng vậy, khi
tác ý một tướng nào
liên hệ đến dục, sân, si thì
cần phải tác ý một tướng khác
liên hệ đến thiện[31]". Nói cách khác đó là
phương pháp thay chốt hay thay thế
tư tưởng cũ bằng một
tư tưởng mới
tốt lành hơn.
Tất cả kinh Phật đều nhằm
mục đích dạy cho ta
chánh kiến để ta thay đổi cái thấy và cách
suy nghĩ của mình.
Phương pháp Ngũ Đình Tâm Quán (
sổ tức,
bất tịnh,
từ bi,
nhân duyên, giới
phân biệt) cũng là một cách thay thế
vọng tưởng bằng chánh quán hay
chánh tư duy.
*
Thí dụ về cái giận:
Hai vợ chồng anh Bảy giận nhau vì chồng thích Thiền còn vợ thích
Tịnh Độ.
Quan niệm sai lầm đưa đến
tranh chấp là: "pháp môn của tôi đúng, còn những
pháp môn khác đều sai". Muốn hết giận hờn
tranh chấp thì phải thoát ra khỏi
quan niệm độc tôn này bằng cái nhìn
rộng rãi, suy tư dưới nhiều khía cạnh.
Thí dụ như:
- điều tôi cho là đúng thì chỉ đúng với tôi thôi, chứ nó không hẳn là đúng với người khác.
-
pháp môn nào cũng do
đức Phật dạy,
tùy căn cơ và bệnh của
chúng sinh, vì thế không có
pháp môn nào đúng nhất, hay nhất. Đúng là đúng với ai? Đúng với tôi đâu có nghĩa là đúng với tất cả
mọi người.
-
pháp môn Thiền hợp với
sở thích của tôi nên tôi thấy hay. Chỉ có
pháp môn thích hợp chứ không có
pháp môn đúng nhất.
Khi
anh chị Bảy có thể ngồi xuống nói chuyện
trao đổi ý kiến như trên thì sẽ
thông cảm và biết
tôn trọng pháp môn tu của nhau, không còn xem nhau là kẻ địch nữa mà là
bạn đồng tu, cùng tu theo Phật.
*
Thí dụ về cái sợ:
Chị Ba có cái tật hay sợ, sợ bị
chỉ trích phê bình.
Vọng tưởng là
ý nghĩ sai lầm: "Tôi không muốn bị
phê bình chỉ trích! Ai
chau mày nhíu mắt, đùa giỡn tức là khinh thường tôi và sẽ đi
nói xấu tôi với người khác". Để
thoát khỏi cái sợ, chị Ba có thể
suy nghĩ như sau:
- đâu phải ai
chau mày, nhíu mắt đùa giỡn đều là khinh chê tôi.
- ở đời ai mà chẳng bị
phê bình chỉ trích, đâu phải chỉ có riêng mình tôi.
- ai
phê bình chỉ trích đúng thì đó người đó vô tình giúp tôi
sửa tánh xấu.
- người nào đi
nói xấu tôi thì họ là người xấu
trước tiên, tạo
khẩu nghiệp và sẽ bị
quả báo. Họ
vô minh không sợ thì sao tôi lại sợ?
Mỗi khi
ý nghĩ sợ bị
chỉ trích khởi lên thì chị
Ba phải nhanh chóng thay thế nó bằng những
ý tưởng trên, nhờ vậy chị sẽ
chuyển hóa được nỗi sợ kia.
c-
Thiền tập để có
định lực và khoảng cách
Có
trí huệ mà thiếu
định lực thì khó chuyển nghiệp. Muốn có
định lực phải
tu tập thiền định.
Thiền định ở đây không phải để
kiến tánh thành Phật hay
đắc đạo thành
Bồ Tát,
A La hán. Trong giới
Phật tử có những người hay chia rẽ
chống báng nhau. Người
tu Thiền thì không thích
Tịnh Độ, người theo
Tịnh Độ thì không ưa Thiền. Đây là một
tâm lượng hẹp hòi,
cố chấp và
độc tôn mà người
Phật tử chân chính không nên có. Bởi vì Thiền, Tịnh, Mật hay bất cứ
pháp môn nào cũng đều là
Phật Pháp, là
phương tiện thiện xảo giúp người thoát khổ.
Muốn
chuyển hóa tâm ý
cần phải có
chánh niệm, tức là
tỉnh giác nhận diện những gì đang xảy ra nơi thân và tâm, và
chánh định tức là khả năng làm cho
tập khí vọng tưởng dừng lại.
Đi vào rừng ban đêm, tôi phải cầm theo một cây đuốc để soi đường nhưng gió thổi
tới tấp làm ngọn đuốc lập lòe muốn tắt, như vậy làm sao tôi
ghi nhận được lối đi hay bảng chỉ đường? Muốn nhìn rõ đường đi nước bước thì gió phải ngừng để ánh sáng cây đuốc chiếu soi
rõ ràng. Cây đuốc
tượng trưng cho
chánh niệm, gió
ví như vọng tưởng. Làm cho gió ngưng lại để nhìn rõ sự vật là khả năng của
chánh định.
Thiền tập ở đây là một sự "lắng lòng để nhìn" hay một sự lắng tâm chứ không phải để
kiến tánh hay
chứng ngộ điều chi. Bạn
đừng sợ tu Thiền điên.
Tu Thiền mà điên là những người
tham lam vọng cầu muốn
đắc đạo thành Phật thành Tổ nên dễ bị tẩu hỏa nhập ma hoặc bị tà sư
ngoại đạo quyến rũ.
Phương phápSau đây tôi xin
giới thiệu ba
phương pháp thiền tập đơn giản:
quán hơi thở,
niệm Phật, và niệm chú.
1/
Quán hơi thởQuán hơi thở gồm có hai phần:
Sổ tức và Tùy tức.
Sổ tức là đếm
hơi thở. Bạn có thể
ngồi kiết già, bán già hay trên ghế, miễn sao giữ lưng cho thẳng là được. Trước khi đếm, bạn
hít vào thở ra vài hơi thật sâu, thật dài để tống trược khí ra ngoài. Sau đó bắt đầu đếm
hơi thở,
hít vào thở ra đếm một,
hít vào thở ra đếm hai, và
tuần tự đếm như
thế cho tới mười. Khi đếm tới mười thì
trở lại từ đầu. Trong lúc đếm như vậy bạn
cố gắng đừng cho những
ý tưởng khác nhảy vào, nếu nghĩ tới chuyện khác hoặc đếm lộn thì phải đếm
trở lại từ một.
Sau một
thời gian thực tập và đếm dễ dàng từ một tới mười không lộn hoặc không có
ý tưởng khác
xen vào thì bạn tập đếm ngược lại từ mười trở xuống một, gọi là đếm nghịch.
Sau khi
thực tập đếm xuôi đếm ngược mà không bị lộn hay
vọng tưởng thì bạn chuyển sang
phương pháp Tùy tức,
theo dõi hơi thở. Không cần đếm
hơi thở nữa mà chỉ
chú tâm theo dõi hơi thở ra,
hơi thở vào. Bạn nhớ chỉ
chú tâm theo dõi thôi chứ không niệm thầm trong đầu như: "thở vào tôi biết tôi đang
thở vào,
thở ra tôi biết tôi đang thở ra".
Trong lúc đếm hoặc
theo dõi hơi thở bạn nhớ hít thở
bình thường và
tự nhiên, không
cố gắng kéo dài,
nín hơi hay điều khiển
hơi thở.
Sổ tức và Tùy tức là hai
phương pháp căn bản của
thiền tập, rất
lợi ích và
thông dụng trong các
môn phái Phật giáo, từ
Nguyên Thủy tới
Đại Thừa.
Bạn chỉ cần tập từ mười đến mười lăm phút mỗi ngày. Nếu có
thì giờ thì tăng lên hai lần trong ngày, không cần ngồi quá lâu, vì
mục đích ở đây là tập cho có
định lực để lắng tâm nhìn rõ và
nhận diện những
ý tưởng phá hoại hạnh phúc.
2/
Niệm PhậtNiệm Phật ở đây là dùng
danh hiệu Phật để luyện tâm nên không
cần phải niệm thật nhiều hay lần chuỗi ghi sổ. Khi
hít vào bạn niệm thầm sáu chữ
Nam Mô A Di Đà Phật. Khi
thở ra cũng niệm sáu chữ
Nam Mô A Di Đà Phật. Sáu chữ này được kéo dài theo
hơi thở vào và
hơi thở ra. Nếu
hơi thở ngắn thì niệm nhanh,
hơi thở dài thì niệm chậm. Trong khi thở và niệm như vậy cần
tỉnh giác không để cho các
ý tưởng khác
xen vào.
Phương pháp này
thích hợp cho người
thiền tịnh song tu.
3/ Niệm chú
Niệm chú ở đây không phải tụng
thần chú mà niệm hai
chủng tự Om và A. Đúng ra có ba
chủng tự: Om, A, Hum. Theo
mật tông Tây tạng, ba chữ này
tượng trưng cho thân, ngữ, ý của chư Phật. Ở đây
chúng ta không
chủ ý tu
mật tông nên tôi chỉ
lấy ra hai chữ Om và A để
phối hợp với
hơi thở. Khi
thở vào niệm thầm Om, khi
thở ra niệm A. Chữ Om và A cũng được kéo dài theo
hơi thở.
Thiền định có rất nhiều
phương pháp nhưng trên đây tôi chỉ nêu ra ba
phương pháp đơn giản nhất để bạn
thực tập dễ dàng và
hiệu quả. Có người đếm
hơi thở thấy chán và khó thở thì hãy
niệm Phật. Nếu
niệm Phật thấy động tâm thì tập niệm chú.
Tùy theo căn cơ và
sở thích mà
lựa chọn phương pháp.
Tách rời và giữ khoảng cách
Chỉ cần nghĩ đến tên người đó là tôi
cảm thấy bực mình và những
ý nghĩ khó chịu đua nhau khởi lên.
Công năng của
thiền tập sẽ giúp cho tâm tôi tách rời cái tên của người kia và không bị nó
quấy nhiễu nữa. Giai đoạn này gọi là chỉ, có nghĩa là dừng lại, dừng dòng
tư tưởng quấy nhiễu, không
nói thầm hay
suy nghĩ tiếp trong đầu. Trước kia mỗi khi
cơn giận nổi lên thì tôi với
cơn giận là một, tôi là
cơn giận,
cơn giận là tôi, nó nhập vào tôi và điều khiển tôi.
Dần dần với
thiền tập, khi
cơn giận nổi lên tôi thấy được nó,
cơn giận không phải là tôi nữa, giữa tôi và
cơn giận bây giờ có một khoảng cách, khoảng cách này tăng dần với
định lực, nhờ đó tôi nhìn thấy được
cơn giận nổi lên, tăng giảm rồi tan biến và không còn sai sử được tôi như trước. Giai đoạn
kế tiếp là quán tức là
quán chiếu để
tìm ra nguyên nhân nào đã khơi dậy
cơn giận nơi tôi và
tìm cách chuyển hóa, đây là phần truy tìm
vọng tưởng đã nói ở trước.
Thiền định làm cho
phiền não không
quấy nhiễu tác hại được nhưng chưa đủ,
cần phải có
thiền quán mới nhổ được tận gốc
phiền não.
Ghi nhận và gọi tên
Ngoài giờ
ngồi thiền tu tập lắng tâm, có một
phương pháp rất
hiệu nghiệm giúp ta
thoát khỏi sự sai sử của
vọng tưởng và
cảm xúc, đó là
phương pháp "ghi nhận" và "gọi tên".
Một
Phật tử đến gặp thầy: Thầy ơi, con buồn quá!
Thầy hỏi: Ai buồn?
Phật tử đáp: Dạ thưa con buồn!
Thầy nói: Không phải CON buồn mà chỉ có một
cảm giác buồn đang khởi lên trong tâm.
Một
Phật tử khác đến thưa: Thầy ơi, con tức quá!
Thầy đáp: Không có CON tức mà chỉ có một
cảm giác tức đang khởi lên trong tâm.
Mỗi khi có
cảm giác buồn thì ta
ghi nhận và gọi tên nó: Buồn ơi! Ta xin chào ngươi. Ngươi chỉ là một
cảm giác, ta không phải là ngươi!
Mỗi khi trong đầu đang
lo nghĩ tính toán đủ thứ thì ta
ghi nhận: Lo tính ơi! Ta xin chào ngươi. Ngươi chỉ là một
ý tưởng, ta không phải là ngươi!
Buồn ơi, ngươi chỉ là một
cảm giác, ta không phải là ngươi.
Lo nghĩ ơi, ngươi chỉ là một
ý tưởng, ta không phải là ngươi.
Nhờ
thiền tập và giữ khoảng cách, ta sẽ hiểu và thấy rõ chúng chỉ là những
cảm giác. Mà
cảm giác nào cũng
vô thường, đến rồi đi,
không tồn tại.
5) Chuyển Tình
Sau khi
nhận diện được những
tin tưởng sai lầm (
vọng tưởng),
nguyên nhân phát khởi tánh tình xấu (
phiền não) và tập thay thế nó bằng những
tư tưởng mới, đó chỉ là
tu tập trên
phương diện của Ý thôi.
Phiền não bắt nguồn
từ tâm ý,
thể hiện qua tình cảm và hành động, do đó phải tu sửa cả Tình và Thân nữa.
Trong phần chuyển Tình (hay tu Tình), ta tập phát triển những tình cảm, đức tính, tánh tình mới ngược lại với cái tánh xấu cũ, trong đạo gọi là dưỡng tánh (
nuôi dưỡng tánh tốt).
Thí dụ đối với tánh hay
sân hận thì ta tập phát triển tánh
từ bi, đối với tánh
ganh tỵ thì ta tập phát triển tánh hỷ, đối với tánh ghim chấp trong lòng thì ta khai triển tánh xả, đối với tánh nhút nhát thì ta tập tánh
can đảm, đối với tánh lười biếng thì ta tập
tinh tấn, đối với tánh
bỏn xẻn ích kỷ thì ta tập
bố thí,
rộng rãi, đối với tánh khinh người thì ta tập khiêm nhường và
tôn trọng kẻ khác, đối với tánh
độc tài thì ta tập
khoan dung, đối với tánh
đa nghi thì ta tập
thông cảm, v.v...
Một
ý nghĩ nếu khởi lên
đều đặn sẽ đúc kết thành một tánh tình hay tình cảm, một tánh tình nếu khởi lên
thường xuyên thì sinh ra một
thói quen hay quán tính. Vì thế muốn có một tánh tình mới thì phải bắt đầu bằng một
ý nghĩ mới.
Tứ Vô Lượng TâmTứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) là bốn đức tính cao đẹp mà người tu
cần phải có,
nếu không có hoặc chưa có thì phải
cố gắng phát triển.
Tứ vô lượng tâm thường được định nghĩa như sau:
Từ (metta):
tình thương,
lòng từ ái ban vui cho kẻ khác.
Bi (karuna):
lòng bi mẫn thương xót, cứu vớt người khổ đau.
Hỷ (mudita): mừng lây với cái vui của kẻ khác.
Xả (upekkha):
bình đẳng đối với
mọi người dù thân hay thù.
Từ, bi, hỷ, xả là bốn
tâm niệm, nhưng cũng là bốn thứ tình cảm. Tại sao lại có người
từ bi hơn kẻ khác? Có người dễ
hỷ xả hơn kẻ khác? Ai cũng muốn mình
từ bi nhưng
lòng từ bi không thể
tự nhiên mà có, nó
cần phải được trau dồi và phát triển. Muốn phát triển
lòng từ, bi, hỷ, xả thì ta phải tập cho nó khởi lên
thường xuyên trong tâm.
Sau đây là một bài nguyện ngắn về
Tứ vô lượng tâm thường được tụng trong các khóa lễ
Tây Tạng:
- Nguyện cho tất cả
chúng sinh được an vui
hạnh phúc, hay tạo
hạnh lành[32].
- Nguyện cho tất cả
chúng sinh được
thoát ly mọi
đau khổ phiền não, ngưng tạo điều ác.
- Nguyện cho tất cả
chúng sinh đều có tâm
hoan hỷ, không oán ghét lẫn nhau.
- Nguyện cho tất cả
chúng sinh đều có
tâm bình đẳng, không thương người này ghét người kia.
Phương pháp đọc tụng thường xuyên là tập gieo những lời hay ý đẹp vào
tâm thức để nó
hiện hành ra
cử chỉ, hành động, giống như
thiết lập chương trình (programming) điện toán
tâm lý vậy.
Ngoài ra trong
truyền thống Nam tông cũng có những bài
Thiền quán về
lòng từ gọi là Metta Bhavana.
Hành giả ngồi thiền và
khởi tâm cầu nguyện như sau:
- Cầu mong cho tôi được
mạnh khỏe,
bình an, thân không tật bệnh,
tâm không phiền não, giận hờn, lo sợ,
hằng ngày an vui,
xa lìa khổ nạn.
- Cầu mong cho người thân của tôi (
cha mẹ, anh em,...) được
mạnh khỏe,
bình an, thân không tật bệnh,
tâm không phiền não,...
- Cầu mong cho những người quen (tên...) được
mạnh khỏe,
bình an,...
- Cầu mong cho người
xa lạ (tên...) được
mạnh khỏe,
bình an,...
- Cầu mong cho
kẻ thù và
oan gia của tôi ... được
mạnh khỏe,
bình an,...
- Cầu mong cho tất cả
chúng sinh được
mạnh khỏe,
bình an, thân không tật bệnh,
tâm không phiền não, giận hờn, lo sợ,
hằng ngày an vui,
xa lìa khổ nạn.
Ban đầu bạn
học thuộc lòng và
đọc thầm bài trên, sau một
thời gian bạn có thể thay đổi và
thêm bớt tùy theo sở thích để khi cầu mong bạn
cảm thấy tình thương của mình thực sự gửi đến đối tượng. Ngoài giờ
thiền quán bạn
vẫn có thể
tiếp tục tu tập được bài trên
trong đời sống hàng ngày,
thí dụ đi đường thấy một người nào đó có
vẻ buồn khổ thì bạn khởi ngay trong tâm: cầu mong cho ông/bà được
mạnh khỏe,
bình an, thân không tật bệnh,
tâm không phiền não, ...,
xa lìa khổ nạn.
Xa hơn nữa, mỗi khi giận người nào hoặc bị người đó làm phiền thì bạn cũng khởi lên câu nguyện kia: cầu mong cho anh/chị được
mạnh khỏe,
bình an, thân không tật bệnh, v.v... thay vì khởi lên
ý nghĩ giận hờn, thù ghét.
Bình thường khi tức giận ta chỉ muốn
mắng chửi, trù ẻo: cầu cho tên đó bị trời đánh thánh đâm, hoặc bị xe cán chết cho rồi, v.v... Khởi lên một
ý nghĩ tốt lành cho
kẻ thù không phải là dễ,
ban đầu chưa quen nên ngượng ngạo, không
tự nhiên nhưng từ từ sẽ
thành công.
Một mặt khởi lên
ý tưởng thương yêu,
từ bi trong tâm ý, một mặt tập
biểu lộ nó ra ngoài hành động và
lời nói (
tu Thân). Ta có thể
thực tập thương yêu với chính ta bằng cách
ban cho ta một nụ cười hoặc mua cho ta một bó hoa, rồi
dần dần tập
ban cho người khác một nụ cười, một
lời khen khuyến khích, hoặc một món quà gì đó.
Thiền Sư Nhất Hạnh thường nhắc nhở
chúng ta mỉm cười:
Thức dậy mỉm miệng cười
Hăm bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống
trọn vẹnMắt thương nhìn
cuộc đời.
Hoặc sống
chánh niệm:
Thở vào tâm tĩnh lặng
Thở ra miệng
mỉm cườiAn trú trong
hiện tạiGiờ phút
đẹp tuyệt vời.[33]
Nụ cười không tốn tiền mua nhưng
chúng ta hay
quên lãng hoặc không biết tặng cho chính mình. Ta cứ tưởng phải có chuyện gì vui thì mới được cười, đó là một
thành kiến sai lầm làm cho
cuộc đời nặng nề khó thở.
Hai đức tính từ và bi thường được
nhấn mạnh và đề cao vì nó là nền tảng của
đạo đức, nhưng hai đức tính hỷ và xả cũng quan
trọng không kém, nhiều khi còn khó làm hơn nữa. Sống trong
cộng đồng xã hội,
gia đình, suốt ngày phải
va chạm tiếp xúc với người
xung quanh nên khó
tránh khỏi phiền não.
Phiền não phát sinh do tình cảm bị
tổn thương, tình cảm
tổn thương thì sinh ra nội kết. Muốn chữa vết thương lòng thì phải biết
tha thứ,
hỷ xả.
Sau đây là hai bài
thực tập về
tha thứ và xả:
Quán
Tha Thứ1/ Nếu tôi đã từng làm ai
đau khổ hay
tổn thương bằng
tư tưởng,
lời nói hay hành động thì tôi xin được
tha thứ.
2/ Tôi cũng xin
hoàn toàn tha thứ cho những ai đã từng làm tôi
đau khổ hay
tổn thương.
3/ Tôi cũng xin
tha thứ cho những điều
lầm lẫn vụng dại của tôi.
4/
Cầu xin cho tất cả
mọi người biết
tha thứ cho nhau và không ôm ấp
hận thù.
Câu thứ nhất xin người
tha thứ cho ta, câu thứ hai ta
tha thứ cho người, câu thứ ba ta
tha thứ cho chính mình, và câu thứ
tư ta cầu mong cho
mọi người biết
tha thứ lẫn nhau.
Cũng giống như phần trên,
ban đầu bạn
học thuộc lòng bài
thiền quán này và tập nhớ lại một cách tổng quát trong lúc
ngồi thiền, sau đó bạn đi
xa hơn vào
chi tiết nghĩa là xét lại mình đã làm người nào
đau khổ, người đó là ai? Bạn đã làm
tổn thương họ ra sao? Bằng
lời nói hay hành động? Và sau cùng bạn thầm xin người đó
tha thứ cho bạn.
Có người rất
kiêu căng, ngạo mạn, nhiều khi
biết mình có lỗi nhưng không chịu
nhận lỗi và
xin lỗi.
Thực tập câu thứ nhất sẽ giúp cho họ bớt
kiêu căng và
thông cảm niềm đau của kẻ khác.
Có người biết
nhận lỗi và
xin lỗi nhưng
trái lại hay ghim trong lòng những niềm đau nên khó bỏ qua hoặc
tha thứ cho kẻ đã làm mình
tổn thương.
Thực tập câu thứ hai sẽ giúp cho họ mở tâm
độ lượng bao dung.
Có người biết
tha thứ cho kẻ khác một cách dễ dàng nhưng lại không
tha thứ được cho mình mỗi khi lầm lỗi. Họ mang
mặc cảm tội lỗi và tự trách móc mình như: tại sao tôi dở quá, tại sao tôi có thể làm những chuyện
ngu si tồi bại như vậy, v.v...
Thực tập câu thứ ba sẽ giúp cho họ biết
thương yêu và
tha thứ cho chính mình.
Câu thứ tư tập cho tâm
mở rộng hướng đến tất cả
chúng sinh.
Quán Xả
1/ Tôi
cố gắng giúp đỡ và làm
vui lòng người khác, nhưng nếu họ vẫn
không vui và
đau khổ thì tôi biết
chấp nhận vì hiểu đó là
nghiệp quả của họ.
2/ Tôi biết tôi không thể thay đổi
tính tình hay
nghiệp quả của người khác nếu họ không muốn.
3/ Cầu mong cho tôi biết
chấp nhận mọi sự việc xảy ra với
tâm bình thản không ưa ghét, buồn giận.
4/ Cầu mong cho tôi không bị
xao động bởi những
biến cố đến và đi.
Chữ Xả (upekkha, upeksha) trong tiếng Việt
thường có nghĩa là
tha thứ và bỏ qua, không
cố chấp, ai làm mình
buồn phiền thì mình
tha thứ bỏ qua, nhưng Xả trong tiếng Anh và Pháp được dịch là
bình đẳng (equanimity, équanimité) có nghĩa là
tâm bình thản xem mọi sự việc như nhau, không ưa không ghét, không
bám víu cũng không
xua đuổi, biết
chấp nhận sự việc như chúng là (accept things as they are).
Xả không có nghĩa là
dửng dưng mặc kệ không
đếm xỉa tới, ngược lại ta vẫn
cố gắng làm
hết sức mình cho
mọi việc tốt đẹp, nhưng nếu nó không xảy ra theo
ý muốn thì ta bình thản
chấp nhận.
Bình thường khi thương ai thì ta muốn làm cho người đó an vui
hạnh phúc, nhưng nhiều khi quên mất là họ có cuộc sống riêng và
nghiệp quả riêng. Ta chỉ có thể
xen vào ảnh hưởng đôi chút, nếu họ
đồng ý. Trong
gia đình cha mẹ con cái muốn giúp đỡ và làm
vui lòng nhau nhưng nhiều khi vô tình làm phiền nhau nhiều hơn người ngoài. Vợ chồng sống chung cũng vậy, người nào cũng muốn thay đổi
tính tình của người kia, khi thay đổi không được thì
bất mãn, buồn giận,
chán ghét, v.v...
Một
bác sĩ tài giỏi nhất trên đời cũng không thể nào
cứu sống được bệnh nhân nếu người đó không chịu uống thuốc.
Đức Phật với lòng
đại từ đại bi thương
chúng sinh, dùng đủ
phương tiện giáo hóa, nhưng nếu
chúng sinh không nghe thì Phật đành chịu, không thể dùng
thần thông cứu được.
Cha mẹ thương con, lo cho con ăn học đầy đủ, muốn con
trở thành bác sĩ, kỹ sư,
giàu sang sung sướng, nhưng nếu con không chịu học, hoặc học xong thất nghiệp thì
cha mẹ nên
biết mình đã
cố gắng làm phần của mình rồi, còn con cái thành tài
giàu sang hay
nghèo khổ thì đó là nghiệp của nó và bình thản
chấp nhận.
Khi làm ăn
may mắn, có nhà lầu, xe hơi,
tiện nghi sang trọng thì ta biết hưởng và sống
rộng rãi, đến khi xui xẻo gặp
thiên tai, chiến tranh,
tai nạn, nhà tan cửa nát thì ta biết
chấp nhận và giữ
vững lòng tin để làm lại
cuộc đời, không la khóc rầu rĩ, than trời trách đất.
Thuở xưa,
đức Phật thường bị
ngoại đạo oán ghét,
tìm cách vu oan,
mắng chửi,
não hại nhưng ngài luôn luôn bình thản,
vắng lặng. Tâm xả không phải là
dửng dưng,
vô tri vô giác như gỗ đá mà ngược lại lúc nào cũng
tỉnh thức, biết rõ sự vật đang xảy ra như thế nào và biết
chấp nhận như thế đó, không
khởi tâm ưa ghét, khó chịu hay
bực bội.
6) Chuyển Thân
Chuyển thân hay
tu thân là tập thay đổi những tập quán cũ,
thực hiện những
thái độ,
cử chỉ,
lời nói tương ưng với những
ý nghĩ, hoặc
chương trình tư tưởng mới (new programs).
Tập
thể hiệnSau khi
thực tập những bài
thiền quán trên, ta cần
thể hiện những
tính tình, đức tính mới qua
lời nói và hành động,
nếu không chúng vẫn còn ở trong
trạng thái tâm ý, không đủ mạnh để
chuyển hóa tập khí cũ.
Thí dụ sau khi thầm xin người kia
tha thứ cho mình, ta chờ cơ hội
thuận tiện đến gặp hẳn người đó và nói lời
xin lỗi. Nói ra được là
thành công, còn người kia
tha thứ cho ta hay không là quyền của họ. Thông thường khi ta biết lỗi và nói ra được thì người kia sẽ
ngạc nhiên cảm động và dễ
tha thứ cho ta hơn.
Về phần ta
tha thứ cho người, cái này không phải dễ, không phải cứ nói suông trong đầu vài chục lần là xong, vì đây không phải nhồi sọ mà là một
phương pháp quán chiếu. Trước hết cần kiểm lại xem người kia đã làm ta
tổn thương ra sao, nhiều hay ít, vô tình hay
cố ý, ta có thể
tha thứ được hay không,
nếu không thì tại sao, v.v... Trước khi
tha thứ thì phải nói đến
tổn thương, có
tổn thương mới có
tha thứ. Trên
phương diện tuyệt đối thì không có Ai làm khổ Ai, vì không có cái Ta, lấy ai bị
tổn thương, lấy ai đau khổ? Nhưng trên bình diện
tương đối của
thế gian thường tình thì có ta và có người nên nếu bạn thấy có người kia làm mình khổ thì cần nói ra cho họ biết là bạn bị
tổn thương. Nói ở đây là nói trong
ái ngữ, trong sự
thương yêu và
hiểu biết, nói lên
cảm xúc hay tình cảm của mình chứ không lên án hay kết tội.
Chúng ta hay để bụng và ghim trong lòng mỗi khi bị khổ đau,
bất mãn, không chịu nói hay đúng hơn là không biết cách nói để nỗi khổ
chồng chất thành nội kết chờ ngày nổ tung làm
tổn thương cả hai bên (ta và người).
Thí dụ ta có thể nói như sau: "Hôm nọ anh/chị đã nói hay làm một điều (gì đó) khiến tôi
cảm thấy bị xúc chạm và
tổn thương. Có thể anh/chị không
cố ý nhưng tôi
cảm thấy buồn và giận anh/chị". Nói như vậy là nói lên cảm nghĩ và
cảm xúc của mình mà không kết tội kẻ khác. Ngược lại nếu ta nói: "Anh/chị là người
ác độc, ăn nói hồ đồ,
mắng nhiếc bêu xấu tôi trước
bà con cô bác làm tôi
xấu hổ vô cùng". Nói như vậy là lên án và kết tội. Dù muốn
tha thứ hay được
tha thứ chúng ta đều cần nói ra
cảm xúc khổ đau của mình để hai bên cùng
ý thức. Có
ý thức sự
hiện diện của khổ đau thì mới hóa giải được, nếu như chỉ có bên này
ý thức mà bên kia không hay biết gì hết thì rất khó
hòa giải.
Sau khi nói ra được phần của mình rồi thì phải biết lắng nghe phần của người kia. Nhờ lắng nghe ta sẽ
nhận ra người kia do vô tình,
vô ý hay
vụng dại chứ không
cố ý nên ta có thể
tha thứ dễ dàng.
Tập nói ra sự bất bình
Khi gặp chuyện trái ý hay bất bình thì
phản ứng ra sao? Thông thường
chúng ta có hai
thái độ:
1/
Nổi giận cãi nhau hoặc chửi mắng.
2/
Im lặng nuốt giận nhưng trong lòng ấm ức.
Cái thứ nhất gọi là sân, cái thứ hai là nhịn (nhục). Cả hai đều không tốt vì gây
tổn hại.
Nổi giận cãi nhau thì
gây thù oán, giận hờn, làm sứt mẻ tình cảm.
Đa số người tu đều được dạy là không nên
nổi giận. Nhưng
nếu không nổi giận thì rơi vào
trường hợp thứ hai: câm miệng làm thinh, đè nén nuốt giận vào bên trong. Một đàng khạc cái giận ra bên ngoài làm
tổn thương người kia, một đàng đưa cái giận vào bên trong làm
tổn thương chính mình. Cả hai
trường hợp đều có người
tổn thương, đều là
bạo động (violence).
Chúng ta cần có một
giải pháp thứ ba: đó là
diễn tả, nói ra sự
bất mãn của mình trong hoà bình, còn gọi là
chánh ngữ.
Trong nền
giáo dục đông phương, con cái không được nói lại hay cãi lại bề trên, nếu nói lại là hỗn láo, dù nói đàng hoàng
nhỏ nhẹ hay
lễ phép. Bề trên luôn luôn có quyền và có lý, còn kẻ dưới phải
nghe lời và khuất phục.
Giáo dục như vậy làm
con người bị kềm tỏa
áp bức,
thụ động, không có óc
sáng tạo. Ngày nay ở thế kỷ 21
chúng ta cần phải sửa lại
chương trình,
cho phép và khuyến khích
mọi người nói chuyện
với nhau trong
chánh ngữ và
ái ngữ, không dùng
uy quyền đàn áp kẻ khác.
Thí dụ: Dì Sáu có năm người con. Dì rất thương con và muốn mấy đứa
thương yêu hòa thuận với nhau, nhưng dì có cái tật là khi gặp cô Hai, con gái lớn, thì dì kể chuyện và
than thở trách móc cô Ba. Khi gặp cô Ba thì dì
than thở cô Tư thế này thế nọ, không thương chồng, không biết lo cho má, v.v... Gặp đứa này dì
than thở trách móc đứa kia, gặp đứa kia dì
than thở trách móc đứa này. Từ đó mấy đứa con của dì đâm ra ghét nhau vì nghĩ mấy người kia bất hiếu với má. Duy có cô Tư biết rõ
nguyên nhân gây ra
bất hòa giữa mấy chị em là do má cứ hay
than thở trách móc hoài. Nhiều lúc cô rất
bực mình nhưng cả nể không dám mở miệng vì sợ nói ra dì Sáu sẽ buồn, cho cô là đồ bất hiếu hỗn láo. Mà không nói thì cô khó chịu ấm ức trong lòng tại sao má cứ hay chia rẽ mấy chị em. Khạc ra không được mà nuốt vào không xong nên cô Tư rất khổ sở, không muốn về thăm má để khỏi phải thấy nghe những điều trái tai
gai mắt. Nhiều lúc cô tự nhủ nếu dì Sáu không phải là má cô thì cô đã la cho một trận nên thân rồi. Cô Tư không biết phải
đối phó làm sao với cái giận, vì khi giận mà mở miệng thì cô chỉ biết la hét chửi bới chứ không biết nói từ tốn, và nếu làm
vậy thì tình
mẹ con coi như
chấm dứt. Do đó cô phải ráng im miệng nuốt cái giận vào trong.
Theo
giải pháp thứ ba thì cô Tư phải tập nói ra sự
bực tức của mình một cách
ôn hòa, từ tốn, không hung dữ.
Thí dụ như cô mời dì Sáu ngồi xuống rồi nắm tay dì nói: "Má à! Mỗi lần về thăm, nghe má than trách kể chuyện xấu về mấy chị em, con
cảm thấy rất khó chịu và
buồn bực, vô tình má làm cho tụi con ghét nhau. Con rất thương má và thương mấy chị em, con xin má lần sau có kể chuyện gì về tụi con thì má
cẩn thận một chút."
Sửa cái giận
Trước kia, mỗi khi bị trái ý hoặc bị ai
nói xỏ xiên,
chế nhạo là ta nổi sùng,
cất tiếng chửi bới hoặc
ăn thua đủ với người kia. Nay muốn sửa cái giận thì phải làm sao?
Cần phải thay thế cái
phản ứng chửi lại bằng một
phản ứng khác.
Thí dụ như thầy
Nhất Hạnh dạy mỗi khi giận thì ta phải nắm lấy
hơi thở và
thực tập chánh niệm: "Thở vào tôi biết là tôi đang giận và ôm cái giận của tôi vào lòng,
thở ra tôi
săn sóc cái giận của tôi như một người mẹ
săn sóc đứa con", đó là một cách. Bạn có thể tạo ra nhiều cách khác,
thí dụ như khi giận thì bạn hít thở thật sâu rồi niệm "Nam mô
A Di Dà Phật" thay vì
trả lời người kia, cứ hít thở và niệm như vậy cho tới khi nào
cơn giận lắng xuống thì mới thôi, hoặc ngưng ngay
cuộc nói chuyện quay mặt đi nhìn chỗ khác, hoặc
mỉm cười hít một hơi dài và chắp hai tay lại, v.v...
Nói chung có hai giai đoạn:
1/
tỉnh giác ghi nhận (
chánh niệm)
2/
áp dụng phương pháp: nắm lấy
hơi thở, hoặc
niệm Phật, hoặc làm bất cứ cái gì
thực tiễn hướng tâm đến chuyện khác, v.v...
Bài tập:
1) Nếu một người nào đó làm bạn tức giận thì bạn sẽ làm gì
hay nói gì? Hãy ghi ra và sau đó
diễn tả một mình.
2) Giận tức có thay đổi được
vấn đề không?
3) Thật sự
vấn đề có
nghiêm trọng đến nỗi phải tức giận hay không?
4) Nếu bạn không tức giận thì bạn sẽ nói hay làm gì? Hãy ghi ra và
diễn tả bằng
lời nói, hành động.
4) Hãy
ý thức về những
cảm giác của bạn khi
trả lời mấy câu trên. Sau đó bạn
lựa chọn, hoặc làm theo câu 1 hoặc làm theo câu 4. Nên nhớ kỹ bạn có toàn quyền
lựa chọn và chịu
trách nhiệm về những
phản ứng của mình.
Tìm người mẫu
Hồi nhỏ
chúng ta có tật hay bắt chước người lớn, thấy ai làm gì thì âm thầm làm theo. Con gái thấy mẹ bồng em thì cũng lấy búp bê ra bồng, con trai thấy cha đóng đinh đục gỗ thì cũng lấy búa ra đập. Người mà ta bắt chước nhiều nhất là
cha mẹ, anh em. Mỗi khi cha ta không bằng lòng
điều chi thì ông ấy làm gì?
Nổi giận quát tháo, la hét làm cho
vợ con sợ hãi nghe lời. Đó là một sự thị uy, ra oai có
hiệu quả.
Chứng kiến những cảnh đó nên dù muốn dù không, vô tình ta bị
ảnh hưởng và bắt chước, tức là mỗi khi bị trái ý, không bằng lòng thì ta cũng
nổi giận, la lối, quát tháo. Mỗi khi mẹ ta bị
áp bức hay buồn giận thì bà
phản ứng ra sao? Khóc lóc,
than thở hay cắn răng làm thinh chịu đựng? Đương
nhiên không phải đứa con nào cũng bắt chước
cha mẹ một cách rập khuôn,
y như đúc vì khi
tái sinh trở lại mỗi người đều
mang theo vốn liếng
tập khí riêng từ nhiều đời trước, nhưng bây giờ sống trong môi trường mới, những điều mắt thấy tai nghe cộng với
chủng tử cũ sẽ cho ra một tánh tình,
tư cách mới.
Nếu cha của bạn nổi sân, mẹ bạn hay khóc mỗi khi bị trái ý và bạn cũng
phản ứng giống như
vậy thì nên biết là bạn đã thâu những
chương trình (programs) đó vào tâm của bạn rồi. Bây giờ bạn cần đi tìm một
chương trình khác hay hơn,
thông minh và nhiều
tuệ giác hơn để thay thế vào. Nếu là
Phật tử thì bạn hãy tự hỏi, nếu
đức Phật bị
mắng chửi, mạ nhục thì ngài
phản ứng ra sao? Nếu gặp
hoạn nạn thì các bậc
A La Hán đối xử ra sao? Một người
tu hành chân chính sẽ có
thái độ gì trước những cảnh như vậy?
Trả lời được thì tốt, còn
nếu không bạn hãy tìm đọc những tích truyện
Phật giáo kể về
đời sống của
đức Phật và các
đệ tử. Sau đó bạn nên đi tìm một người nào có những
tư cách,
cử chỉ,
thái độ mà bạn muốn có, và xem họ như một người mẫu mới, một người mẫu
sống động (un modèle vivant, a live model).
Chúng ta muốn
thành Phật nhưng khổ nỗi
chưa bao giờ tận mắt thấy Phật mà chỉ có những khái niệm về Phật. Ai cũng biết
đức Phật từ, bi, hỷ, xả nhưng không làm theo được. Vì sao? Vì từ, bi, hỷ, xả vẫn còn là những khái niệm
trừu tượng. Ta
cần phải thấy tận mắt,
tiếp xúc, sờ mó được từ, bi, hỷ, xả thì những đức tính này mới thấm vào ta được. Vì
thế sự gần gũi những người
đạo đức, những bậc
tu hành rất
ích lợi và
cần thiết trong việc
tu tâm dưỡng tánh.
Có nhiều người nói: "tôi chỉ
tu tâm thôi, không cần
tụng kinh,
niệm Phật,
ngồi thiền,
bố thí,
trì giới, v.v..." Như đã trình bày ở trên, Ý, Tình,
Thân liên quan và
hoạt động chặt chẽ
với nhau nên muốn tu sửa
phiền não thì phải
tác động trên cả ba mặt, tức là tu (sửa) tâm ý, tu (sửa) tình, và tu (sửa) thân. Nếu chỉ lo
tu tâm,
ngồi thiền suốt ngày, không khởi
vọng tưởng suy nghĩ thì tình sẽ khô khan, không biết
thương xót giúp đỡ kẻ khác, hết
ngồi thiền thì tình cảm nội kết sẽ
hiện hành trở lại,
chứng nào tật nấy. Nếu chỉ tu tình, lập đi lập lại những đức tính tốt trong tâm mà không
tu thân, không
thể hiện những đức tính đó ra thân và miệng thì tánh tốt làm sao phát triển. Nếu chỉ
tu thân, đi đứng
oai nghi,
giữ giới trang nghiêm mà tình, ý không sửa thì đó là
hình dáng giả tạo
bề ngoài.
Tóm lược
Muốn
chuyển hóa hay tu sửa một tánh tình xấu thì đầu tiên ta phải
ý thức nhận diện ra nó.
Kế tiếp là tìm xem ta đã có những
ý nghĩ,
tư tưởng,
quan niệm nào khiến cho tánh tình kia phát sinh. Sau khi
tìm ra vọng tưởng nguyên nhân thì ta phải thay
đổi ý nghĩ. Mọi sự
chuyển hóa đều đắt đầu từ sự thay
đổi ý nghĩ. Muốn sự thay đổi được
hiệu quả thì phải
thực tập trên ba
phương diện Ý, Tình, Thân, hoặc
ít nhất là trên Ý và Thân. Do luật tương quan tương sinh thì khi ta sửa Ý và Thân thì Tình sẽ được
chuyển hóa.
[23] Kinh thứ 59 của Trung Bộ. Thích Minh Châu
[24] Trung A Hàm. Viện nghiên cứu Phật học Viêt Nam ấn hành 1991.
[25] Vô thức còn được gọi là tiềm thức, có nghĩa là cái thức nằm ở phía dưới.
[26] Trung A Hàm, phẩm Xá Lê Tử Tương Ưng. Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1991.
[27] Trong kinh dùng chữ "tịnh hạnh", ở đây tôi không trích nguyên văn mà chỉ lấy đại ý.
[28] xem Vô Ngã của Thích Trí Siêu.
[29] Kinh thứ 8 của Trung Bộ. Thích Minh Châu
[30] Kinh thứ 20 của Trung Bộ
[31] Kinh Trung Bộ I, Thích Minh Châu.
[32] Semchen thamché déwa tang déwai gyu tang denpar gyur chik...
[33] Trích "Từng bước nở Hoa Sen" của Nhất Hạnh, Lá Bối.