6. Vấn đề của Ý
Ý là đầu dây mối nhợ của
phiền não, là
anh cả trong Ba Mình.
Chúng ta sống
hạnh phúc hay khổ đau đều
từ Ý mà ra. Ý luôn
hoạt động không ngừng (trừ khi ta ngủ mê), nó
suy nghĩ cái này, tưởng nhớ cái kia, suy tư, phán xét,
lo lắng, v.v... Nhiều lúc ta muốn nó nghỉ một chút cho ta khỏe, nhưng nó vẫn
tiếp tục làm việc.
Ý thức làm việc rất siêng năng, đến nỗi nó có thể làm cho ta phát khùng hay điên lên được, phải uống thuốc an thần, thuốc ngủ hoặc lấy súng bắn vào đầu thì nó mới yên.
Vọng tưởngTrên
văn tự, vọng có nghĩa là sai, tưởng là những
ý tưởng hay
nhận thức.
Vọng tưởng có nghĩa là
ý nghĩ sai lầm. Ban đêm đi
một mình trên đường vắng, ánh trăng
lờ mờ chiếu xuống một lùm cây, nhìn vào đó ta tưởng là ma rồi hoảng hồn ù té chạy. Bóng cây mà tưởng là ma.
"Trong
ngôn ngữ thông dụng hàng ngày, chữ tưởng thường được hiểu là tưởng lầm. Tôi tưởng hôm nay trời đẹp, hóa ra trời xấu. Tôi tưởng anh đến hôm qua, ai dè hôm nay anh mới đến. Tôi tưởng sự vật như thế này, nhưng
thực tế sự vật lại như thế khác. Cứ thế "tưởng" được dùng theo nghĩa
hiểu lầm, tưởng lầm. Như vậy vô tình nó cho thấy sự
nhận thức (tưởng) của ta thường là một sự
nhận thức sai lầm"[15]. Sự vật
vô thường mà ta tưởng là thường, sự vật
vô ngã mà ta cho là có ngã.
Trong giới
thiền môn, mỗi khi đang
ngồi thiền ý nghĩ khởi lên loạn xạ kéo ta đi thì
đa số gọi đó là
vọng tưởng, nhưng đối với tôi cái đó không phải
vọng tưởng mà là tạp niệm tức sự nhớ nghĩ
lung tung bất định.
Trong tiếng Pháp chữ tưởng được dịch là "croire", tiếng Anh là "believe",
vọng tưởng được dịch là "fausse croyance" hoặc "wrong belief". Danh từ
vọng tưởng mà tôi đề cập ở đây và
trong suốt tập sách này có nghĩa là sự
tin tưởng sai lầm chứ không phải
ý nghĩa vọng tưởng của
Thiền Tông.
Vọng tưởng ở đây
bao gồm cả
thành kiến (préjugé),
quan niệm (concept), tập quán (coutume), phóng chiếu (projection)[16], v.v...
Nếu
để ý quan sát dòng
tư tưởng hay
suy nghĩ của mình ta sẽ thấy nó khởi lên và
trôi chảy theo một chiều hướng khá
nhất định. Nói cách khác, cái
thói quen suy nghĩ và
nhận thức của ta bị
ảnh hưởng bởi những cái tưởng của ta. Sống ở đời
ai nấy đều có tưởng, không
tin tưởng cái này thì
tin tưởng cái kia. Người tin Phật, người tin Chúa, người tin Allah, ngay đến những người
vô thần không theo đạo tưởng mình không có
lòng tin nhưng thật ra họ đã tin vào cái tưởng
vô thần của họ, tin vào mãnh lực
đồng tiền, hoặc tin vào
chủ nghĩa này chế độ nọ, v.v...
Trên
chân lý tuyệt đối, tất cả những cái tưởng của
chúng ta phần nhiều
sai lầm vì
chúng ta chưa
giác ngộ, chưa thấy được
bản tánh và
pháp tánh, nhưng trên
phương diện tương đối những cái tưởng của ta đôi khi có cái đem lại
hạnh phúc và cũng có cái đem lại khổ đau. Cái tưởng đem lại khổ đau tôi gọi là
vọng tưởng (fausse croyance, wrong belief).
Thời xa xưa tất cả
mọi người đều
tin tưởng mặt đất bằng phẳng và
mặt trời mọc lên lặn xuống từ lòng đất. Sau đó người ta
nhận ra mặt đất không phải thẳng mà là tròn và
mặt trời bay vòng quanh trái đất. Mãi đến thế kỷ thứ 15, Copernic
chứng minh là trái đất quay
xung quanh mặt trời nhưng lúc đó
trái với sự tin (tưởng) của
quần chúng nên ông bắt buộc phải
từ bỏ sự
khám phá của mình
nếu không sẽ bị đưa lên dàn
hỏa thiêu.
Bà con của
vọng tưởng gồm có: tưởng tượng, mơ tưởng,
mộng tưởng và
ảo tưởng. Tưởng tượng (imagination) là
nghĩ tưởng và
hình dung ra những chuyện chưa có hoặc không có. Thông thường những
ý tưởng tượng này không kéo dài nên chỉ thoáng chốc là ta
sực tỉnh,
biết mình tưởng tượng. Mơ tưởng và
mộng tưởng có vẻ giống nhau, nhưng mơ nhẹ hơn mộng, tiếng Anh mơ tưởng là daydream tức là giấc mơ ban ngày.
Thí dụ tôi thèm chức tước quyền hành nên tôi mơ tưởng ngày nào đó tôi sẽ làm tổng thống, sẽ có người hầu kẻ hạ và tôi sẽ ra lệnh này nọ, v.v... Nếu
ý tưởng này chỉ thoáng khởi lên rồi biến mất thì đó là tưởng tượng, nhưng nếu nó trở đi
trở lại hoài thì gọi là mơ tưởng. Nếu mơ như vậy hoài đến nỗi tôi bắt đầu tưởng mình là tổng thống thật, đi đâu cũng ra oai, hách xì xằng,
sai khiến kẻ khác, bắt họ phải hầu mình. Đây là tôi đã
đi vào mộng tưởng, sống trong mộng mà không hay, cứ tưởng là thật.
Bát Nhã Tâm Kinh có nói
Bồ Tát khi dùng
trí huệ Bát Nhã quán chiếu thâm sâu thì sẽ
xa lìa điên đảo mộng tưởng,
đạt đến Niết Bàn. Như thế thì biết
mộng tưởng rất quan trọng và là một
vấn đề lớn cần
giải quyết.
Ảo tưởng (illusion) là những
ý tưởng sai lầm không đúng với
sự thật, nó giống như trò
ảo thuật khởi lên trong tâm mà ta không biết cứ tưởng là thật.
Quan niệmQuan niệm (hay khái niệm) là những
ý nghĩ, suy tư,
cảm giác,
nhận xét mà ta đóng lại thành khung cứng ngắc.
Ở
Việt Nam người ta
quan niệm lúc con còn nhỏ thì
cha mẹ nuôi, đến khi
cha mẹ già yếu thì con phải nuôi lại (Trẻ cậy cha, già cậy con). Nhưng ở Pháp người ta lại nghĩ khác,
cha mẹ nuôi con đến 18 tuổi hoặc đến khi con học ra trường là hết bổn phận. Khi
cha mẹ già yếu, con cái không bắt buộc phải nuôi lại. Hơn thế nữa,
cha mẹ nên
đi vào nhà
dưỡng lão để khỏi làm phiền con cái.
Ở Phi châu, có một bộ lạc nọ, khi
cha mẹ già yếu, họ bắt hai ông bà phải leo lên một cái cây cao, con cháu ở dưới đua nhau rung cây thật mạnh cho hai ông bà té xuống chết. Nếu rung xong mà ông bà không té thì con cháu đem về nuôi tiếp. Họ
quan niệm (nghĩ) rằng xứ nghèo không
đủ ăn, người nào già quá không
đủ sức ôm cây thì nên chết cho rồi, khỏi sống làm khổ con cháu.
Ở
Tây phương ngày nay, vợ chồng mới cưới nhau vài tháng mà không
ưng ý thì ra toà
ly dị, đó là việc
bình thường,
tự nhiên, không có gì trái
luân thường đạo lý.
Theo
truyền thống phong tục Á Đông, người đàn bà phải
trung thành với chồng, ngay cả sau khi chồng đã chết. Một
phụ nữ tiết hạnh là người ở giá thờ chồng nuôi con. Vì
quan niệm như vậy nên cô không bao giờ dám nghĩ đến việc tái giá hay yêu đương một người đàn ông khác.
Thành kiếnLà người
Việt Nam nên tôi có một lối suy tư riêng của người
Việt Nam. Tôi suy tư như vậy vì tôi
quan niệm như vậy. Vì
quan niệm như vậy nên tôi mới có một cái nhìn (
thành kiến) như vậy. Chữ
thành kiến rất hay và có
ý nghĩa.
Thành kiến theo
nghĩa đen là cái thấy đã
thành hình trước khi nhìn thấy sự việc.
Thí dụ: Tôi
quan niệm rằng tất cả những người đi buôn đều là
gian lận. Vì
quan niệm như thế nên trong một bữa tiệc, bạn bè tôi
giới thiệu ông A và
cho biết ông là một nhà
thương gia nổi tiếng. Vừa mới nghe như thế là tôi có
thành kiến ngay với ông A, mặc dù ông chưa làm gì hại tôi nhưng trong đầu tôi đã thấy ông A là người
gian lận,
lưu manh, xảo quyệt và tôi
cảm thấy ghét ông ta
ngay lập tức.
Ở
Việt Nam trước kia, khi đất nước mới bị chia đôi, dân chúng ở ngoài Bắc có
thành kiến là những người
giàu có, điền chủ đều là người ác,
bóc lột dân nghèo, nên họ có
phong trào kết tội và đấu tố người giàu.
Một khi đã có
thành kiến rồi thì ta không
tiếp xúc được với
thực tại nữa. Ta đã đeo vào một cặp mắt kính màu để nhìn sự vật nên cái thấy của ta bị méo mó.
Thành kiến là một loại
vọng tưởng rất nguy hiểm, thường gây
nghi ngờ và chia rẽ.
Tập quán
Tập quán là những
thói quen đúc kết từ
truyền thống văn hóa,
giáo dục,
xã hội.
Ở Á Đông, chịu
ảnh hưởng Nho Giáo, người ta
quan niệm là "nam nữ thọ thọ bất thân".
Nam nữ chưa quen nhau thì không được có những
cử chỉ thân mật như nắm tay, sờ vai, ôm ấp,
mỉm cười, v.v... Khi
gặp nhau chào hỏi chỉ đứng xa
vẫy tay hoặc cúi đầu là đủ. Sau khi tị nạn qua Pháp, vào trường Trung Học, mỗi ngày gặp bạn bè chào hỏi, có vài cô bạn đầm ôm hôn lên má làm tôi sững sờ, vừa mắc cở vừa
hồi hộp, tim đập liên hồi. Về nhà, tôi cứ tưởng là chắc mấy cô ấy
để ý thích mình nên mới ôm hôn như vậy. Cái tập quán Á Đông của tôi đã khiến cho tôi tưởng bở, tưởng mấy cô đầm kia thích mình, nhưng thật ra họ chả thích gì tôi tí nào, tập quán của họ là như thế! Gặp
bạn trai thì bắt tay, gặp bạn gái thì hôn trên má (faire la bise). Bắt tay hay hôn má chỉ là
xã giao, không có một chút
tình ý gì bên trong hết! Vì không hiểu phong tục tập quán của mình và của người nên tôi đã
ngộ nhận. Do đó tập quán cũng thường đưa đến
ngộ nhận, và
ngộ nhận tức là
vọng tưởng.
Phóng chiếu
"Trong
đời sống hàng ngày, có những
ý nghĩ, tình cảm mà ta không
nhận ra chúng là
của riêng ta, phát xuất từ ta và ta phóng chiếu chúng vào sự vật và người khác, rồi tưởng hay đinh ninh sự vật và người khác là như thế. Danh từ
bình dân là "suy bụng
ta ra bụng người"."Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", cảnh vật tự nó đâu có
vui buồn, vì trong tâm ta buồn rồi ta phóng chiếu cái buồn của mình lên cảnh vật nên thấy (tưởng) cảnh vật buồn. Nhiều lúc còn đổ tại cảnh buồn nên làm ta buồn[17]." Trong sự
liên hệ tình cảm,
chúng ta thường xuyên phóng chiếu mà không biết.
Thực tại không phải như ta tưởng
Có một ông vua nọ muốn biết người mù nhìn sự vật ra làm sao. Vua bèn cho gọi năm anh mù đến, cho mấy anh sờ vào một con voi rồi tả cho vua nghe.
Anh sờ trúng cái vòi thì nói con voi giống như vòi nước.
Anh sờ trúng tai voi thì nói con voi giống như cái quạt.
Anh sờ trúng bụng voi thì nói con voi giống như cái trống.
Anh sờ trúng chân voi thì nói con voi giống như cột nhà.
Anh sờ trúng đuôi voi thì nói con voi giống như cái chổi.
Năm anh mù tả con voi theo kiểu của mình, không ai giống ai, người nào cũng cho mình đúng rồi
cãi nhau um xùm làm vua vừa buồn cười vừa
thương hại. Buồn cười vì anh nào cũng cho mình biết được con voi,
thương hại vì các anh mù mà không
biết mình mù, chỉ sờ thấy
một phần nhỏ mà tưởng là mình đã thấy
toàn thân con voi.
Đức Phật thuyết pháp trong suốt 45 năm, để lại biết bao nhiêu
kinh điển.
Chúng ta mỗi người chỉ học và
nghiên cứu vài bộ hoặc vài chục
bộ kinh rồi tưởng mình biết hết
đạo Phật. Khi nghe quý thầy
giảng đạo, tôi thấy
đạo Phật của thầy A không giống
đạo Phật của thầy B,
đạo Phật của thầy B không giống
đạo Phật của thầy C, và v.v...
Chẳng cần nói đến
đạo Phật của quý thầy khác nhau, hãy chỉ nói về
đạo Phật của thầy A. Hai vợ chồng tôi cùng đi nghe thầy giảng 2 tiếng đồng hồ. Về nhà hỏi lại thì mỗi người đã nghe và hiểu khác nhau rồi. Tôi thích Thiền nên
trong suốt buổi giảng, tôi chỉ nghe thấy những gì có
liên quan đến Thiền thôi. Vợ tôi thích
Tịnh Độ, những gì thầy nói có
liên quan đến Tịnh Độ thì nàng thâu nhận ngay, còn những
chi tiết khác thì không nhớ gì hết!
Thầy nói pháp suốt 2 tiếng đồng hồ, nhưng những gì tôi
nghe được gom lại không quá 15 phút. Những gì thầy nói trong 1 giờ 45 phút kia đã rơi đi đâu mất hết. Nhưng về nói chuyện với vợ thì tôi cứ đinh ninh rằng mình đã nghe hết những gì thầy nói trong 2 tiếng đồng hồ.
Trớ trêu thay, vợ tôi cũng tưởng
y như tôi nên không biết ai đã nghe đúng. Thật ra mỗi người chỉ nghe và thâu nhận những gì mình thích nghe mà thôi.
Trong một khu rừng nọ, các loài thú đang chung sống bình yên. Một hôm bỗng nhiên có
tiếng sấm nổ vang rền trên bầu trời
báo hiệu giông bão sắp đến. Có một chú thỏ đang say sưa giấc ngủ bị giật mình
tỉnh dậy. Nửa tỉnh, nửa mê, thỏ hoảng hồn co chân bỏ chạy. Trên đường chú gặp hai anh nai vàng đang đứng ngơ ngác, thấy thỏ hoảng hốt, hai anh nai hỏi
duyên cớ. Thỏ vừa chạy vừa la: "Trời sụp! Trời sụp! Chạy mau". Hai anh nai vốn nhẹ dạ, nghe nói vậy liền cắm đầu
chạy theo. Ba con chạy một quãng gặp ba con ngựa vằn đang gặm cỏ. Thấy thỏ và nai phóng chạy hoảng hốt, ngựa hỏi tại sao thì cả ba con cùng đáp: "Trời sụp! Trời sụp! Chạy mau". Thế là ba con ngựa vằn hoảng sợ
chạy theo thỏ và nai.
Dần dần các con thú khác cũng hùa vào
chạy theo. Nhóm thú chạy như thế càng ngày càng đông khiến các con thú khác dù không biết ất giáp gì cũng
vội vàng tin là trời sụp rồi kéo nhau chạy trối chết.
Tương tựa như vậy, khi nghe ai nói một tin gì đó,
chúng ta liền tin rồi đem rao truyền tiếp, nhiều khi còn thêm mắm thêm muối cho
câu chuyện thêm
lâm ly rùng rợn và nhất là thích nghe những
tin đồn xấu về người khác.
Vì thế
đức Phật đã nói: Chớ có tin bất cứ điều gì vì
nghe đồn hay nói lại. (Xem phần trước, Kinh Kalama).
Câu chuyện sau đây về "Ba cái lọc" của nhà
hiền triết Hy Lạp Socrate cũng tương tựa như vậy.
Một hôm có một người đến gặp Socrate và nói:
- Này Socrate, tôi phải kể cho anh nghe bạn của anh đã có những
hành vi gì!
- Khoan đã! Nhà
hiền triết cản lại. Điều mà anh muốn nói với tôi đã được sàng qua ba cái lọc chưa?
- Ba cái lọc là cái gì? Người kia
ngạc nhiên hỏi.
- Đúng! Ba cái lọc.
Chúng ta hãy kiểm lại xem điều anh muốn kể cho tôi có lọt qua ba cái lọc này không.
- Cái lọc thứ nhất là
sự thật. Anh đã kiểm lại điều anh muốn kể có đúng là
sự thật không?
- Ơ! Cái này tôi không chắc, vì tôi chỉ nghe kể lại thôi.
- Như
vậy thì không lọt qua được cái lọc thứ nhất rồi! Nhưng thôi, anh nghe đây, cái lọc thứ hai là
tốt lành. Anh đã kiểm lại điều anh muốn kể, mặc dù không
hoàn toàn đúng
sự thật nhưng
ít nhất nó có
tốt lành không?
- Ơ! Ơ! Điều này không có gì
hay ho tốt lành cả mà ngược lại ...
- Hừ! Vậy coi thử nó có lọt qua được cái lọc cuối này hay không? Điều anh muốn kể cho tôi có đem lại
lợi ích gì không?
-
Lợi ích hả? Chắc không quá ....!!!!
- Thôi đủ rồi! Socrate
mỉm cười. Điều mà anh muốn kể cho tôi nghe vừa không đúng
sự thật, vừa không
tốt lành và không đem lại
lợi ích gì.
Vậy thì tôi không muốn nghe và khuyên anh hãy nên quên nó đi là tốt nhất!
Đi dạo vườn hoa, tôi thấy một bông hồng to, đỏ thắm
tuyệt đẹp. Về nhà gặp bạn, tôi muốn
chia xẻ cho bạn niềm vui của tôi và tả lại cái bông hồng để bạn cùng
thưởng thức vẻ đẹp của nó. Làm như thế tôi nghĩ rằng bạn sẽ biết và cảm nhận được bông hồng. Nhưng cái bông hồng mà tôi đang kể cho bạn không phải là bông hồng mà tôi đã thấy lúc nãy nữa. Nói cách khác là tôi đang trao cho bạn một mớ danh từ về bông hồng chứ không phải là bông hồng (tự thân).
Chúng ta thường
lầm lẫn giữa
ý tưởng và
thực tại, cũng như
lẫn lộn danh từ và sự vật.
Có
một lần đi xem
triển lãm tranh hình, tôi thấy có một tấm hình lớn, trên đó chụp một trái táo và ở dưới đề một câu như sau: "Đây không phải là một trái táo[18]". Tôi rất
ngạc nhiên, không hiểu
tác giả bức tranh muốn nói gì. Túng thế tôi quay lại hỏi vài người quan khách
xung quanh, may thay có người
hiểu ý nghĩa nói cho tôi biết đây không phải một trái táo mà chỉ là hình của một trái táo. Nghe xong vỡ lẽ, tôi
chắp tay thầm phục
tác giả bức tranh đã vô tình dạy cho tôi một bài học, bài học
ghi nhận sự vật đúng
như thật.
Hình ảnh trái táo không phải là trái táo. Nhờ đó tôi ngộ ra:
Danh từ trái táo không phải là trái táo.
Ý tưởng về trái táo cũng không phải là trái táo.
Cũng thế, bản đồ Paris không phải là thành phố Paris. Những danh từ,
ý tưởng và bản đồ giúp cho ta có một khái niệm về
thực tại và sự vật, nhưng khi có trong tay thì ta lại xoay ra xem chúng là
thực tại rồi quên đi
thực tại.
Thực tại luôn luôn
biến đổi từng
sát na, trong khi đó danh từ,
ý tưởng và bản đồ thì cứng ngắc không thay đổi. Cho dù ngày nay với máy chụp hình
tối tân, bạn đem ra chụp cảnh Paris thì cái hình kia cũng chỉ là một
hình ảnh của thành phố Paris được chụp vào ngày 18 tháng 5 năm 1999. Và nếu bạn
trở lại Paris một tháng sau hay một năm sau để chụp lại thì cảnh Paris đã thay đổi rồi.
Thực tại rơi rớt
Bình thường đa số chúng ta đều cho mình biết được
thực tại (réalité), cái gì tôi thấy, biết, nghe, hiểu đều là
sự thật (vérité). Vì thế nên mới có
ngã kiến (tức là cái thấy của tôi) và
kiến thủ (khư khư cho cái thấy của tôi là đúng). Nhưng
thực ra chúng ta chỉ nắm bắt được những mảnh vụn của
thực tại xuyên qua nhiều cái lọc (filtre) hay lăng kính.
Thực tại (
trần cảnh)
↓
Tri giác (
lục căn)
Lọc thứ 1
↓
Văn hóa,
xã hộiLọc thứ 2
↓
Kinh nghiệm bản thânLọc thứ 3
↓
Nhận thức (thức)
Lọc thứ 4
↓
Bóng dáng thực tạiThực tại là sự việc hay
cảnh vật bên ngoài (
trần cảnh). Nó không đúng sai,
phải trái,
thiện ác, đẹp xấu, to nhỏ v.v... Nó là nó, danh từ
đạo Phật gọi là
như thị. Trong
Bát Nhã Tâm Kinh nói là
bất sinh,
bất diệt, bất cấu,
bất tịnh, bất tăng, bất giảm ...
Đứng trước
thực tại (
trần cảnh), ta thâu nhận nó qua những
giác quan của mình là
lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nếu các
giác quan của ta không được
chính xác như mắt lé cận thị, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi khô, thân bệnh, ý đang
tán loạn,
vui buồn v.v... thì
thực tại bị méo mó đi một phần. Do đây
tri giác trở thành một cái lọc (filtre) hay lăng kính (miroir) thứ nhất. Và
thực tại ban đầu trở thành thực tại số 1.
Kế tiếp thực tại số 1 lại được nhìn ngắm qua cái lọc thứ 2 là
gia tài văn hóa,
xã hội mà ta đã sinh ra và lớn lên. Nếu là người
Việt Nam thì ta sẽ thấy sự việc đó như thế này, và nếu là người Mỹ hay Pháp thì ta sẽ thấy sự việc như thế khác, nói theo
Duy Thức Học là ta chịu
ảnh hưởng của cộng nghiệp. Từ đó
thực tại số 1 lại bị
biến thái và
trở thành thực tại số 2.
Kế tiếp, cũng cùng là người
Việt Nam nhưng tôi có những
kinh nghiệm riêng tư, không giống như những người
Việt Nam khác. Tôi có
một đời sống khác, tình cảm khác, người yêu khác, công việc khác, v.v...
tóm lại là một
biệt nghiệp khác. Do đó cái
thực tại số 2 kia sẽ được nhìn qua cái lọc thứ 3 là
kinh nghiệm bản thân và
trở thành một
thực tại số 3.
Cuối cùng khi Ý của tôi muốn
nhận thức thực tại thì nó chỉ thấy được cái
thực tại số 3 chứ không còn thấy được cái
thực tại ban đầu nữa. Sau khi
nhận thức được cái
thực tại số 3 này,
Ý thức của tôi mới đóng khung (lọc thứ 4) nó qua
hình ảnh,
ngôn ngữ, khái niệm và cho đó là
thực tại thứ thiệt. Cái
thực tại sau cùng mà Ý
nhận thức được chỉ còn là một
bóng dáng, một mảnh vụn của
thực tại, hay là một
thực tại rơi rớt, méo mó vì đã
trải qua nhiều cái lọc.
Tuy vậy
đa số chúng ta cứ tưởng là mình nắm bắt được
thực tại, cho là mình biết đúng, thấy đúng
sự thật và từ đó muốn bao nhiêu người khác phải tin và nghe theo
ý kiến của ta.
Jean Rostand, trong quyển "Ce que je crois", có nói: "Kẻ ngu thì tưởng là mình biết, người trí thì biết là mình tưởng" (les téméraires croient qu'ils savent, les sages savent qu'ils croient).
Làm sao
biết vọng tưởng, vọng tình?
Tiến trình
phiền não phát xuất từ ba anh Ý, Tình, Thân (Ba Mình) hoặc nói cách khác là do
vọng tưởng,
vọng tình và vọng nghiệp sinh ra. Hai cặp ba này
liên quan rất
mật thiết. Vì Ý
vô minh nên khởi
vọng tưởng,
vọng tưởng nếu không được hóa giải thì sinh ra
vọng tình,
vọng tình nếu không được hóa giải thì đưa đến tạo
nghiệp khổ đau.
Nhưng làm sao
biết mình có vọng tưởng? Làm sao ngưng được vọng tưởng?
Phải chăng mỗi khi có
ý nghĩ khởi lên đều là vọng tưởng? Theo
Thiền tông, hễ khởi
ý niệm là vọng, dù đó là niệm xấu hay tốt. Nhưng ở đây
chúng ta không nói chuyện Thiền mà nói chuyện
đời sống hàng ngày, vì
chúng ta không thể
ngồi thiền nhập định suốt ngày, không nói năng hay
tiếp xúc với
trần cảnh. Ngày nào còn sống ngày đó
chúng ta còn phải suy tư,
nghĩ tưởng vì phải đi làm kiếm ăn nuôi
gia đình. Chỉ khi nào
đắc quả A La Hán nhập Diệt-thọ-tưởng-định thì lúc đó mới không còn một chút
ý tưởng. Hơn nữa
chúng ta được
cấu tạo bởi
năm uẩn, trong đó có thọ, tưởng, hành, và thức nên suốt ngày
chúng ta cảm thọ,
tư duy,
suy nghĩ, nhớ tưởng
lung tung, đó là chuyện đương nhiên.
Trên
phương diện tương đối hàng ngày,
chúng ta không
thể không có Tưởng,
không tưởng cái này thì tưởng cái kia. Tưởng rồi tin vào cái tưởng của mình gọi là
tin tưởng (croyance, belief). Những cái tưởng đúng hoặc gần với
thực tại, với
chân lý thì được gọi là
chánh kiến,
đạo đức hay minh triết vì nó đem lại an vui
hạnh phúc, còn những cái tưởng méo mó
sai lầm không đúng
thực tại, tin vào đó sẽ đưa đến
buồn phiền khổ đau thì gọi là
vọng tưởng (fausse croyance). Ngay cả những cái ta cho là
sự thật hay
chân lý rồi khư khư bám chặt vào đó thì nó cũng
trở thành một loại
vọng tưởng.
Mỗi khi
khởi tâm so sánh một chiều,
phê bình cái này đúng, cái kia sai, hoặc lên án người này tốt, người kia xấu, đó là đang rơi vào
vọng tưởng (
xem lại phần
vọng tưởng).
Vọng tưởng «
phân biệt,
so sánh, phê phán, lên án,
chỉ trích phải trái, tốt xấu.
Làm sao
biết mình có vọng tình? Đó là khi trong lòng có sự ưa ghét đối với cảnh vật, hoặc yêu người này ghét người kia.
Vọng tình « trong lòng ưa ghét, thương giận, lo buồn...
Khi tâm thấy người này đúng, người kia sai thì ta sẽ ưa người (đúng) này và ghét người (sai) kia.
Tiếp theo ta muốn gần gũi thân cận (thủ) người đúng và xa lánh ghét bỏ (xả) người sai.
Vọng nghiệp « thủ xả,
bám víu,
xua đuổi.
Tóm lại mỗi khi trong lòng có sự ưa ghét đối với người hay vật là
biết mình đã có
vọng tưởng rồi. Vì có
vọng tưởng nên mới sinh ra
vọng tình (ưa ghét).
Cảnh giới Ý Đồ
Trong
Duy Thức Học có danh từ
chánh báo và
y báo, cả hai đều là
nghiệp quả hay
quả báo.
Chánh báo là
thân mạng con người, còn
y báo là môi trường ta sống trong đó. Tùy
nghiệp nhân đã tạo mà ta có thể được
chánh báo và
y báo tốt như sinh ra
thân thể khỏe mạnh,
đẹp đẽ và sống trong một
quốc gia giàu sang. Hoặc
chánh báo tốt mà
y báo xấu như
thân thể khỏe mạnh,
đẹp đẽ nhưng sống ở một nơi nghèo hèn khốn khổ. Hoặc
chánh báo xấu mà
y báo tốt như
thân thể xấu xí,
bệnh hoạn nhưng lại được sống trong một
gia đình giàu sang. Hoặc cả
chánh báo và
y báo đều xấu như sinh ra
thân thể xấu xí,
bệnh hoạn và phải sống trong một xứ
nghèo khổ.
Chúng ta có thể sống trong cùng một
y báo, cùng một môi trường,
gia đình,
xã hội,
quốc gia nhưng trong
thâm tâm mỗi người lại có riêng một
cảnh giới khác. Vì mỗi
chúng ta đều có những
vọng tưởng,
quan niệm,
thành kiến, tập quán, và
kinh nghiệm tình cảm
cá nhân, tất cả những cái đó cộng lại tạo ra
một thế giới riêng biệt trong tâm ý mà tôi gọi là "cảnh giới Ý Đồ". Ý đồ là bản đồ của tâm Ý.
Thế giới tâm ý được đóng khung thành một bản đồ
gồm có những
con đường quen thuộc mà Ý của ta hay đi trong đó, với những
quy tắc mà tình cảm và hành động của ta thường
tuân theo.
Tâm của ta là một họa sĩ khéo, luôn
vẽ vời ra đủ loại tranh ảnh, có cái đúng với
thực tại, có cái méo mó và có cái
hoàn toàn tưởng tượng không thực. Cái đúng với
thực tại,
Duy Thức Học gọi là tánh cảnh, cái hơi méo mó gọi là Đới chất cảnh, và cái
hoàn toàn tưởng tượng được gọi
Độc ảnh cảnh. Đới chất cảnh và
Độc ảnh cảnh đều là
thế giới tự biến của mỗi
cá nhân.
Thí dụ: Hôm
lễ Phật Đản tôi đi dự
lễ Khánh Thành chùa mới và
cùng lúc được nghe thầy
trụ trì giảng về
ý nghĩa công đức xây chùa
cúng Phật. Cảnh chùa và buổi giảng có thực, đó là Tánh cảnh. Nhưng về đến nhà tôi chỉ còn nhớ mái chùa cong cong, với tượng
Quan Thế Âm Bồ Tát lộ thiên đứng trên đầu con rồng đang phun nước, đây là những mảnh vụn của
thực tại mà tôi mang về được, gọi là Đới chất cảnh. Sau đó tôi
nghĩ thầm (tưởng tượng) mai mốt mỗi cuối tuần sẽ đến chùa
lễ Phật, làm
công quả và
học đạo với thầy, cái này gọi là
Độc ảnh cảnh, tức cảnh
hiện ra một mình trong tâm ý tôi, vì việc này chưa xảy ra và có thể sẽ không bao giờ xảy ra.
Nếu
so sánh với
Duy Thức thì
cảnh giới Ý Đồ có thể tương đương với Đới chất cảnh và
Độc ảnh cảnh. Nhưng
cảnh giới Ý Đồ ở đây còn
bao gồm nhiều thứ khác như đã nói ở trên. Phần đông
chúng ta tưởng mình cùng nói chung một thứ tiếng, cùng thấy một cảnh,
cùng chung một
lý tưởng, cùng theo một
đạo Phật, v.v... nhưng
cảnh giới Ý Đồ cho thấy
thực tế không phải như vậy chút nào.
Một
thí dụ khác: Tôi và bạn cùng theo
đạo Phật, nhưng khi nói đến chữ Phật tôi tưởng ngay đến Phật
Thích Ca trong khi đó bạn lại nghĩ đến Phật
A Di Đà. Khi nói đến
giải thoát thì tôi nghĩ đến
Niết Bàn, còn bạn lại nghĩ đến
Cực Lạc. Khi nhắc đến một ngôi chùa đẹp thì trong tâm tôi
hiện ra chùa Một Cột ở Hà Nội, còn trong đầu bạn
hiện ra chùa
Vĩnh Nghiêm ở Sài Gòn.
Chúng ta cùng nói đến Phật,
giải thoát và chùa nhưng cả ba
hoàn toàn khác nhau vì
đức Phật trong
cảnh giới Ý Đồ của tôi không phải là
đức Phật trong
cảnh giới Ý Đồ của bạn. Trong bản đồ (tâm ý) của bạn cũng có đầy đủ những thứ giống như của tôi (Phật, chùa,
giải thoát) nhưng khác một điều là nó do chính bạn vẽ nên hai cái bản đồ không thể giống
y như nhau được.
Biết được mỗi
chúng ta đều có một
cảnh giới Ý Đồ riêng là điều quan trọng trong việc giao tiếp và
truyền thông. Nhờ hiểu được như thế ta sẽ không
độc tài muốn
mọi người phải
tuân theo ý của mình, không
buồn bực khi thấy người khác không hiểu mình, không vội nghe theo những
tin đồn.
Chương trình tâm ý
Qua những phần trước:
vọng tưởng,
quan niệm,
thành kiến, tập quán, phóng chiếu, và
cảnh giới Ý Đồ,
chúng ta có một
chương trình tâm ý (programme mental). Trong
xã hội văn minh ngày nay, tất cả máy móc, cơ khí, điện tử đều được điều khiển bởi
chương trình tự động. Nhất là
hệ thống vi tính (computer), nếu bạn muốn máy vi tính của bạn chạy được thì phải gắn những
chương trình (programmes, logiciels, software) vào. Tâm ý của
chúng ta cũng giống như vậy, sau khi được bỏ vào hay gắn vào những
vọng tưởng,
quan niệm,
thành kiến, tập quán, v.v... nó cũng
hoạt động theo
chương trình mà ta đã
thiết lập (một cách
vô ý thức). Tâm ý
hoạt động theo
chương trình là sao? Đó là mỗi khi gặp một
ngoại cảnh hay sự việc gì (input) nó liền cho ra một
phản ứng (output) tự động khiến ta không kịp
suy nghĩ hoặc
suy nghĩ không ra.
Hồi nhỏ đi học ở
Việt Nam tôi rất sợ bị kêu lên trả bài, vì mỗi khi trả bài không thuộc tôi bị thầy giáo tát hoặc cô giáo nhéo lỗ tai và chửi: "Sao ngu quá vậy"! Trong
gia đình thì tôi không bao giờ được quyền nói lên
ý kiến của mình, vì ông bà,
cha mẹ, cô chú thường nói: "Con nít tụi bay im đi, biết cái gì mà nói". Qua những
dữ kiện trên,
tâm trí tôi
lặng lẽ thiết lập một
chương trình: "Tôi là người ngu, im đi, biết cái gì mà nói, nói bậy sẽ bị ăn đòn". Lớn lên tuy đã tốt nghiệp kỹ sư và đi làm lâu năm nên tôi biết rõ công việc của mình, nhưng mỗi khi phải đi họp (réunion, meeting) trong sở thì tôi rất sợ, tim đập mạnh, đầu óc tê cứng, tay chân lạnh ngắt, lúc đó tôi giống như một tù nhân sắp bị đưa ra
pháp trường. Trong sở làm, từ chủ hãng
cho đến nhân viên,
ai nấy đều
quý mến tôi vì tôi làm việc tốt và chăm chỉ, lúc nào cũng đối xử đàng hoàng
lịch sự với
mọi người, nhưng không hiểu tại sao đến các
buổi họp là tôi
sợ hãi, mặc dù biết sợ như vậy là
vô lý làm tôi ăn nói
vụng về.
Nguyên nhân gây ra
sợ hãi chính là cái
chương trình cũ (old program) mà tôi đã đưa vào tâm mình năm xưa ở tiểu học, mỗi khi bị đứng ra trước một nhóm người để nói thì
chương trình này nhảy ra
hoạt động, nó nói: "Tôi là người ngu, im đi, biết cái gì mà nói, nói bậy sẽ bị người ta chửi".
Hồi cô Tám được ba tuổi, cha cô phải đi quân dịch và tử trận bỏ lại hai
mẹ con cô bơ vơ. Vài năm sau mẹ cô mắc bệnh qua đời bỏ cô ở lại cho bà ngoại nuôi nấng. Lúc đó tuy hãy còn nhỏ không biết
suy nghĩ nhiều nhưng trong
tiềm thức bé Tám đã âm thầm đưa vào (set up) một
chương trình: "Tôi là người bị
bỏ rơi, những người tôi thương trước sau gì cũng
bỏ rơi tôi"! Lớn lên
lập gia đình, cô không dám lấy người cô thương mà lại lấy một người khác vì sợ nếu lấy người đó thì họ sẽ bỏ cô. Vì lấy chồng mà không thương nên cô không có
hạnh phúc, thường
buồn bực và
bất mãn. Bởi
gia đình không hạnh phúc nên cô hay lo sợ là chồng sẽ bỏ cô. Đúng như cô
dự đoán mong chờ, sau hai chục năm chung sống chồng cô đã bỏ đi cưới người khác. Tuy không
thương yêu gì chồng nhưng cô
cảm thấy rất
đau khổ, cái
chương trình "bị bỏ rơi" lại
hiện hành làm cô khóc suốt ngày, người ngoài tưởng cô nhớ chồng nhưng thật ra cô khóc cho
thân phận "bị bỏ rơi". Cô Tám có năm đứa con, ba đứa đã
lập gia đình, cứ mỗi lần làm đám cưới cho con, bên ngoài cô tỏ vẻ
vui mừng nhưng trong lòng đau như cắt vì
cảm thấy lại "bị
bỏ rơi nữa". Hai đứa còn lại đang ở với cô vì còn đi học và sắp ra trường. Cô rất mong con cái học thành tài nhưng trong
thâm tâm cô
nơm nớp lo sợ học xong
chúng nó sẽ ra ở riêng và cô sẽ sống
cô đơn. Mấy đứa lớn tuy đã
lập gia đình nhưng ở gần và hàng tuần đều ghé thăm mẹ nhưng cô không thấy được sự
hiếu thảo đó mà
tiếp tục sống trong
hồi hộp lo âu sợ "bị bỏ rơi".
Chúng ta thường sống với những
chương trình cũ rích không hợp thời hợp thế, chúng làm ta
mắc kẹt không sống an vui
hạnh phúc được trong
hiện tại.
Công trình tu tập là làm sao
nhận diện được những
chương trình lỗi thời này để
xóa bỏ và thay thế bằng những
chương trình mới hợp thời và hữu ích hơn.
Tất cả những
mặc cảm như tự ti, tự tôn,
tội lỗi, v.v... đều là những
chương trình nằm sâu trong
tiềm thức. Mặc có nghĩa là thầm lặng, cảm là cảm nhận,
mặc cảm là sự cảm nhận âm thầm
lặng lẽ trong
tâm thức.
Mặc cảm tự ti (complexe d'infériorité) là âm thầm cảm nhận, cho rằng mình là người ngu, dở,
thua kém kẻ khác. Vì bị
chương trình tự ti điều khiển nên ta
trở thành nhút nhát,
sợ hãi, mắc cở. Càng nhút nhát,
sợ hãi, mắc cở thì ta lại càng tự ti, càng thấy mình dở và
thua kém.
Mặc cảm tự tôn (complexe de supériorité) là âm thầm cho mình là người tài giỏi hơn kẻ khác. Vì bị
chương trình tự tôn điều khiển nên ta dễ
kiêu mạn, ăn
nói phách lối, khinh người.
Mặc cảm tội lỗi (culpabilité) là âm thầm cho mình có tội, mỗi khi gặp chuyện không may, dù lớn dù nhỏ xảy ra đều
ăn năn hối hận tự trách lỗi tại mình nên mới ra nông nỗi như vậy. Người này thường bị
ăn năn hối hận dày vò, sống trong
hồi hộp,
sợ hãi, sợ bị
trừng phạt.
Những
mặc cảm này,
xem ra có vẻ không nguy hiểm vì không làm hại người khác một cách trực tiếp, nhưng chúng cũng là một loại
phiền não vì làm ta khổ sở. Nếu khổ sở,
không hạnh phúc thì từ từ ta sẽ
ảnh hưởng đến những người
xung quanh như vợ chồng, con cháu,
cha mẹ, anh em và làm họ khổ lây.
7.
Vấn đề tình cảm
Trong các
báo chí, tạp chí
văn nghệ, truyền tin, ngoài những
tin tức chính trị, kinh tế,
xã hội, người ta rất thích những mục tình cảm của các
minh tinh màn ảnh, như tài tử này lấy tài tử kia, cô nọ
ly dị chồng, anh kia lừa dối vợ, v.v...
Đời sống xã hội hôm nay có thể gom lại trong hai chữ Tình và Tiền, nghe qua hơi cải lương nhưng
sự thật là vậy.
Người tu thường được dạy là phải xa lánh
ngũ dục: tiền bạc, sắc đẹp,
danh vọng,
ăn ngon, ngủ kỹ (tài, sắc, danh, thực, thùy), vì năm thứ này thu hút và
cám dỗ con người đi vào nẻo khổ. Riêng đối với
sắc dục (tức sự ham mê sắc đẹp và
tình dục) thì kinh sách thường ví nó như
rắn độc và dạy ta phải xa lánh. Nhưng xét cho kỹ, sắc đẹp không
lợi hại bằng tình cảm, đâu phải ai cũng mê nữ tài tử xi-nê hay người mẫu (top model), mà dù có mê đi nữa cũng đâu thể
lân la thân cận hay làm gì được. Người
tu hành cầu
giải thoát cần phải xa lìa sắc đẹp và
tình dục nhưng đó chỉ là một loại
cám dỗ thô kệch không nguy hiểm bằng tình cảm. Tình cảm
vi tế không
hình tướng nhưng nó
trói buộc và sai sử
con người gấp trăm ngàn lần.
Đa số phiền não khổ đau đều nằm trên
phương diện của Tình. Tình ở đây
bao gồm tất cả tình cảm (sentiment),
tình dục (sexualité),
cảm thọ (sensation, feeling) và
cảm xúc (émotion)[19].
Thí dụ tôi có tánh
hay giận (sân), giận là một
cảm xúc, khi giận thì tôi
cảm thấy nóng mặt khó thở, tức ngực, đó là một
cảm thọ, và tôi đâm ra ghét người kia, ghét là một tình cảm.
Con người có những tình cảm rất
phức tạp, ngoài
thất tình (hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục) còn có những tình cảm
éo le uẩn ức như
bất mãn, ganh tị,
mặc cảm tội lỗi,
kiêu mạn, tự phụ,
lo âu,
sợ hãi, nhút nhát, khủng hoảng, v.v...
Tình cảm
Người Á đông
ít khi nào
biểu lộ tình cảm cho nên trong
ngôn ngữ hằng ngày chúng ta không thấy sự khác biệt giữa tình cảm,
cảm thọ và
cảm xúc như người
Tây phương. Và cả ba danh từ này cũng
ít khi được dùng vì
đa số hay dùng chữ
cảm thấy hoặc nghe thấy mà thôi, nhất là người Nam hay dùng chữ nghe để chỉ sự
cảm thọ như: tôi nghe nóng/lạnh trong người, tôi nghe đau nhức/khó chịu trong bụng, v.v...
Tình là khả năng
nhận biết những
cảm giác[20] đến từ bên ngoài qua
sáu giác quan (
lục căn).
Con người hữu tình nên khi
tiếp xúc với sự vật bên ngoài thì phát sinh cảm (thọ).
Cảm thọ được
nhận thức phát sinh ra tình cảm. Ta có thể vẽ ra như sau để
dễ hiểu:
Lục căn +
lục trần →
cảm thọ (sensation)
Cảm thọ +
nhận thức → tình cảm (sentiment)
Cảm thọ có ba loại:
dễ chịu, khó chịu và
bình thường.
Tình cảm có nhiều loại, nhưng đều bắt nguồn từ hai loại: ưa và ghét. Khi gặp
cảm thọ dễ chịu thì ưa, gặp
cảm thọ khó chịu thì ghét. Từ ưa nên sinh ra nhiều loại khác như thương, thích, yêu, lo, buồn, ghen, v.v... Từ ghét nên sinh ra giận hờn,
sợ hãi, khinh bỉ,
kiêu mạn, v.v...
Khi ta đang khát gặp được một người cho ta nước uống. Khát nước là một
khổ thọ, được uống nước là một
lạc thọ. Khi được
lạc thọ thì tâm sinh ra ưa mến người cho nước, đây là tình cảm.
Giao thiệp với một người nào đó mà ta thấy
dễ chịu (
cảm thọ) thì từ từ ta sẽ
quý mến thương yêu người này, ngoài đời gọi là có
cảm tình.
Tình cảm luôn luôn có đối tuợng, ưa là ưa ai, ưa cái gì, và ghét là ghét ai, ghét cái gì?
Tình cảm dù ưa hay ghét đều là sợi dây
trói buộc con người vào
thế giới luân hồi.
Đa tình thì
đa sầu. Trong
Kinh Lăng Nghiêm chương IV, đoạn IV,
Phân biệt tình tưởng nhẹ nặng,
đức Phật có nói tưởng nhiều thì bay lên, tình nhiều thì
đi xuống, tình và tưởng bằng nhau thì không bay lên, không đọa xuống, sinh nơi
nhân gian, tưởng
sáng suốt nên
thông minh, tình
u ám nên
ngu độn[21]. Tưởng chính là
ý tưởng hay
lý trí, tình là tình cảm. Là người ai cũng có tình cảm nhưng phần đông là
vọng tình, tức là tình cảm
ái luyến ích kỷ, dẫn đến ưa ghét, giận hờn.
Tu hành là
chuyển hóa tình
cảm thành từ, bi, hỷ, xả.
Chiếm hữuLúc nhỏ sống trong
gia đình ta cần
tình thương của
cha mẹ. Lớn lên ta đi tìm
tình thương nơi một người khác phái, nếu là trai thì ta đi tìm một người con gái nào "dễ thương" có thể
ban cho ta
tình thương mà trước kia ta
thèm khát mong chờ nơi mẹ hay chị. Nếu là gái thì ta đi tìm một người con trai nào
vui vẻ, săn đón,
bảo vệ, chiều chuộng ta như trước kia ta đã từng đòi hỏi
mong chờ nơi cha hoặc anh.
Đối với
cha mẹ ta không thể
độc quyền đòi hỏi
cha mẹ phải
thương yêu một mình ta nếu có nhiều anh em. Nhưng nay đối với người tình hay
hôn phối thì ta có thể
chính thức đòi hỏi người đó phải
thương yêu riêng
một mình ta thôi. Nếu
chẳng may người đó cũng
thương yêu luôn
cha mẹ hay anh em thì ta sẽ
cảm thấy khó chịu,
không vui vì nghĩ rằng ta không được
thương yêu một cách
trọn vẹn.
Muốn thương và được thương tự nó không có gì xấu, nhưng
vấn đề là khi thương
chúng ta chỉ muốn
chiếm hữu và
độc quyền. Ta chỉ muốn
thương yêu một mình người đó và muốn người đó cũng chỉ
thương yêu một mình ta, không muốn một người nào khác
xen vào. Rồi từ từ ta muốn
chiếm hữu luôn người đó từ thể xác lẫn
tinh thần, có nghĩa là ta muốn người đó phải đi đứng, nói năng,
suy nghĩ giống như ta. Khi đi đâu thì ta cũng muốn người đó
đi theo. Khi ta thích cái gì thì cũng muốn người yêu của ta phải thích luôn cái đó, muốn biến người yêu của mình thành một hình
nhân thứ hai, một thứ
sở hữu. Ta không còn biết đến quyền
tự do,
sở thích và
nhân phẩm của người kia nữa mà chỉ biết người kia là của ta, thuộc về ta mà thôi. Nếu được như thế thì đỡ quá nhưng
thực tế trái ngược vì người kia cũng muốn ta
trở thành sở hữu của họ, muốn ta
biến thành như cái họ muốn và từ đó sinh ra
giằng co tranh chấp quyền lợi, ai là chủ ai là tớ?
Tự áiTự ái tương đương với
ngã ái (atmasneha) tức là
thương yêu ái luyến cái Ta. Khi cái Ta được tâng bốc
khen tặng, đề cao thì ta
vui sướng thích thú, khi cái Ta bị đụng chạm,
chỉ trích,
xem thường thì ta
buồn bực khó chịu. Trên
phương diện tình cảm
chúng ta muốn cái Ta (ngã) được
mọi người chú ý, khen ngợi và
thương yêu. Nhiều
tự ái chừng nào thì dễ
đau khổ chừng nấy. Những bậc ông bà,
cha mẹ, thường cho mình lớn tuổi trải đời,
hiểu biết nên hay đòi hỏi người nhỏ tuổi như con cháu phải kính nể và
nghe lời mình. Nếu
chẳng may chúng không
nghe lời thì buồn giận, tức tối, ăn ngủ không yên, nhiều lúc phát sinh bệnh tật. Những người có
học thức, chức tước,
địa vị càng cao thì cái ngã cũng lớn theo và
tự ái càng nhiều. Bởi vậy người
tu hành phải biết
xóa bỏ tự ái thì được an vui.
Tìm người
lý tưởngSống ở đời
chúng ta luôn luôn cần một đối tượng để
biểu lộ tình cảm của mình, do đó
chúng ta thường
mơ màng đi tìm một người
lý tưởng để
thương yêu và
phục vụ. Lấy chồng để
thương yêu,
phục vụ chồng, có con thì
thương yêu và chăm sóc cho con. Đến khi
nhận ra "Tu là cõi phúc, tình là giây oan" thì ta tìm đến đạo. Nhưng khi vào đạo, ta lại
tiếp tục mang theo tình cảm của mình dưới sự trá hình, ta
đi chùa này vì ưa mến thầy này, không
đi chùa kia vì không có tình cảm với
ni sư kia, v.v... Đến chùa này thì ta được
mọi người quý mến để ý, còn đến chùa kia thì chả có ai chào hỏi săn đón. Ta theo thầy này vì thầy tài giỏi
từ bi, không theo thầy kia vì thầy có vẻ sân, si, ái, ố, v.v...
Vị thầy nào
từ bi,
hiền lành, có tài
thuyết pháp, lại thông
kinh điển thì dễ bị đóng khung "ông thầy lý tưởng" và
chắc chắn sẽ có nhiều
Phật tử "thương thầy". Thương ở đây có nhiều
trình độ từ cạn đến sâu. Thương cạn thì đến chùa nấu nướng quét dọn
công quả cho thầy, điều này
đa số Phật tử già trẻ đều làm và không ai
chỉ trích. Thương sâu đậm là tưởng nhớ đến thầy nhiều hơn, muốn đích thân
săn sóc,
lo lắng cho thầy và gần gũi thân cận với thầy, nếu thầy khó
tính không để ý đến sự chăm lo của mình thì buồn tủi, giận hờn.
Trường hợp này tuy chưa có gì gọi là
phạm giới nhưng thật ra đã bị dính mắc
trầm trọng rồi. Đến với đạo để cầu
giải thoát mà vô tình lại
trói buộc mình vào tình cảm
sai lầm.
Có nhiều người tu hay sợ và tránh né đàn bà, còn các bà cụ thì hay làm cảnh sát canh chừng quý thầy, không cho nữ
Phật tử lại gần, sợ họ
cám dỗ quý thầy, hoặc sợ quý thầy
sa ngã.
Tội nghiệp các cụ muốn giữ cho quý thầy yên thân
tu hành, nhưng điều quan trọng là các thầy lớn
cần phải giảng dạy cho
đệ tử hiểu rõ về
tâm lý nam nữ để họ
trưởng thành và tự
bảo vệ lấy mình. Đương nhiên một người
giữ giới đúng đắn là tự
bảo vệ lấy mình rồi, đâu
cần phải học gì thêm. Nhưng
giới luật chỉ là hàng rào ngăn chặn bên ngoài, không
ngăn cản được tâm
ái luyến bên trong. Một người có thể
giữ giới rất kỹ
bề ngoài nhưng trong tâm vẫn thầm yêu trộm nhớ như thường. Tình yêu có thể xảy đến ngay lần đầu (coup de foudre) khi mới gặp người kia qua ánh mắt, giọng nói,
cử chỉ, dáng đi, không
cần phải gần gũi qua lại mới rơi vào tình yêu (fall in love).
Yêu thương là một
bản năng tự nhiên của
con người, nhưng
yêu thương làm sao cho đúng, đúng chỗ, đúng cách, đúng thời,
nếu không thì
tình thương sẽ
trở thành tình lụy, tình sầu.
Yêu một thầy
tu hoặc một người đã có
gia đình là yêu không đúng chỗ.
Yêu mà
lợi dụng,
chiếm hữu, đòi hỏi người kia làm theo ý mình là yêu không đúng cách.
Khi người
thân yêu của mình còn sống mà
lơ là không chăm sóc, đến khi họ mất rồi mới tiếc nuối khóc than là yêu không đúng thời.
Tình dụcTình dục tuy có mang chữ tình nhưng nó
liên quan đến sinh lý thuộc về thân, còn được gọi là
tính dục, sẽ được bàn đến ở chương sau (
vấn đề của thân).
Thèm khátKhi ưa, muốn, thích một cái gì mà không được
thỏa mãn thì đâm ra
thèm khát. Đối tượng của
tình dục là người khác phái hoặc nhục dục, còn
thèm khát thì có đủ loại đối tượng.
Tu hành biết
sắc dục là nguy hiểm nên ta không
ưa thích sắc đẹp trai gái nữa, nhưng cái
năng lượng ham muốn kia sẽ đi tìm một thứ khác như thích uống trà, thích ăn tương, thích nghe nhạc, thích quần áo đẹp, thích hút thuốc, thích sưu tầm đồ sứ, bonsai, v.v... Những thứ này
giới luật không cấm nên ta có thể
thỏa mãn, nhờ đó không bị
thèm khát dằn vặt. Nhưng
nếu không may những thứ ta thích lại bị cấm đoán như
ăn thịt, uống rượu, v.v... thì
chắc chắn sẽ có
thèm khát.
Thí dụ như chuyện "một
sư cô nọ
tu hành lâu năm, một hôm
lâm bệnh nặng sắp từ trần, trước khi chết
sư cô xin được uống một muỗng nước mắm nhưng người
xung quanh không cho vì sợ
công phu tu hành mấy chục năm của cô sẽ tan mất theo muỗng nước mắm[22]" và
cuối cùng sư cô đã chết trong sự
thèm khát. Hoặc một vị sư kia
mồ côi cha mẹ được bỏ vào chùa từ nhỏ, tuy
tu hành giữ giới tinh nghiêm, tận
đáy lòng thầy vẫn
thèm khát tình mẹ và thầm mơ ước được một người nữ ôm thầy vào lòng như mẹ ôm con,
đơn giản vậy thôi, không có
tình ý hay
tình dục gì bậy bạ hết, nhưng
giới luật không
cho phép điều đó. Thầy đành ôm ấp niềm mơ ước này
cho đến cuối đời và
yêu cầu cho gọi một
bà già đến gần để thầy nắm tay trước khi nhắm mắt.
Tình yêu và
ái luyếnNgoài
đời người ta thường
lầm lẫn giữa
thương yêu (love) và
ái luyến (attachment).
Ái luyến xuất phát từ lòng
vị kỷ, muốn chiếm làm của mình, không muốn rời mất. Tình yêu
nam nữ thế gian đượm mùi
ái luyến và
tình dục, yêu nhau chỉ muốn
quấn quít bên nhau, yêu người vì thích sắc đẹp hoặc
tình dục. Khi
chiếm hữu không được thì ghét, không
thỏa mãn tình dục được thì chán, tình yêu
ban đầu biến đi đâu mất, nhường chỗ lại cho tình hận, tình sầu,
tình lụy.
Tình yêu thực sự là mong muốn người kia được
sung sướng hạnh phúc, không đòi hỏi
mong chờ, không muốn họ phải
trở thành như ý ta muốn (xem chương Đi tìm
hạnh phúc).
Cảm xúcTrong
đạo Phật chúng ta hay dùng danh từ
phiền não để chỉ những
tâm sở bất thiện như: tham, sân, si, mạn, nghi,
ác kiến, v.v... nhưng trong tiếng Anh và tiếng Pháp người ta
thường dùng danh từ emotions (
cảm xúc) để
ám chỉ phiền não.
Phiền não (kilesa, klesa) đã được định nghĩa theo
kinh điển ở phần trước (chương Đi tìm
phiền não), ở đây tôi bàn
theo quan niệm Tây phương. Làm chủ và điều khiển được
cảm xúc là một
vấn đề rất quan trọng đối với
mọi người dù Âu hay Á, vì một khi
cảm xúc khởi lên thì ta
hoàn toàn bất lực bị nó điều khiển làm khổ mình và người khác.
Đi làm không
bình tĩnh nổi nóng với chủ thì
chắc chắn mất việc. Có vợ mà
để ý thương cô
thư ký thì
gia đình sẽ đổ vỡ. Kinh tế
xã hội xuống dốc thì lo sợ thất nghiệp. Lỡ thất nghiệp thì
xấu hổ mắc cở. Kiếm việc hoài không ra thì
bất mãn chán đời, v.v...
Trong đời sống
hằng ngày,
chúng ta cứ
loanh quanh lẩn quẩn trong
thế giới tình cảm và
cảm xúc, người thì giận chồng con, người buồn
cha mẹ, người tức bạn bè, v.v...
Cảm xúc (émotion) khác
cảm thọ (sensation) chỗ nào? Khi nghe một bản nhạc hay ta
cảm thấy dễ chịu, đó là một
cảm thọ. Nhưng nếu nghe bản nhạc hay mà ta bật khóc hoặc bật cười thì đây là một
cảm xúc vì nó đã kích động một điều gì đó.
Cảm xúc là một
cảm thọ bị
biến thái bởi tình và tưởng hoặc ký ức tạo ra
xúc động mạnh.
Cảm xúc có nhiều loại, có loại tốt cũng như loại xấu, ta không nên từ chối hay phủ nhận chúng. Một số người tu có khuynh hướng cho rằng tất cả là không (có), là huyễn, là giả, nên làm ngơ không
tìm cách giải quyết, cứ bỏ mặc hoặc đè nén
cảm xúc. Nếu
cảm xúc bị đè nén lâu ngày thì sinh ra nội kết hoặc tệ hơn nữa là sinh ra bệnh tâm thể (psychosomatique).
Tu hành là
tìm cách hoá giải những
cảm xúc xấu và khai triển
cảm xúc tốt.
Cảm xúc xấu (émotions négatives)
gồm có: giận, hờn,
kiêu ngạo, ganh tị, lo, sợ,
thèm khát,
bất mãn, nhút nhát, mắc cở,
mặc cảm tội lỗi, chán nản, v.v...
Cảm xúc tốt (émotions positives)
gồm có: vui, mừng, thương, mến, cởi mở,
can đảm, v.v...
Những
cảm xúc trên vì không có
hình tướng nên được xếp vào loại
tâm sở. Trong
Duy Thức Học có nêu ra những
tâm sở thiện và
bất thiện. Những
cảm xúc xấu có thể được xem là
tâm sở bất thiện, và
cảm xúc tốt là
tâm sở thiện.
Tại sao tôi
phân biệt cảm xúc và tâm. Tâm giận và
cảm xúc giận khác nhau chỗ nào? Khi ta suy tư,
nghĩ tưởng chuyện gì trái ý thì tâm khởi một niệm giận, ở đây mới chớm nở trên
phương diện của Ý, hãy còn thuộc về
tâm tưởng, sau đó cái
ý niệm giận kia
tiếp tục hiện hành ra phía ngoài Tình làm ta
cảm thấy bực bội khó chịu trong người, tới đây là
phương diện của Tình và tôi gọi đó là
cảm xúc, tức là những cái mà ta cảm nhận hay
cảm thấy được bắt đầu xúc tác, muốn
hiện hành và biểu
hiện ra ngoài thân. Khi ta mới bị trái ý thôi thì có
thể không ai thấy được, nhưng khi
cảm xúc khởi lên thì người ngoài có thể thấy được.
Thí dụ khi ta giận tức thì mặt đỏ bừng lên, khi sợ thì mặt mày tái mét, chân tay run lẩy bẩy, khi buồn thì
dáng điệu ủ rũ, mặt mày
u sầu, v.v... Có những tình cảm và
cảm xúc trùng tên hoặc giống nhau nhưng đó là tùy cường độ, nếu nhẹ và còn nằm trong tâm ý thì thuộc tình cảm, nếu mạnh và
bộc phát ra ngoài thì thuộc
cảm xúc.
Duy Thức Học và
A Tỳ Đàm khi nêu ra những
phiền não thường đứng trên
phương diện tâm ý và hình
như không quan tâm gì đến tình cảm và
cảm xúc. Ngày nay
chúng ta thấy rõ là có những
cảm xúc như buồn, lo, sợ, nhút nhát,
hồi hộp, chán nản, v.v... mặc dù không được xem là
phiền não nhưng nó cũng làm cho
chúng ta đau khổ. Bởi thế ngày nay khi nói đến hai chữ
phiền não chúng ta nên thêm vào những
cảm xúc xấu (émotions négatives).
Nội kết
Nội kết là những sự
bất mãn, không
như ý, lâu ngày không có chỗ thoát nên đúc kết lại bên trong.
Khi ta giận một người nào mà không nói ra được, không trả đũa lại được, không tránh né được thì cái giận đó âm ỉ trong lòng
biến thành nội kết.
Khi lỡ dại làm một điều gì sai quấy rồi
ăn năn hối hận hoài không nguôi,
bề ngoài làm bộ
như không có chuyện gì nhưng bên trong niềm
ân hận đó
cứ theo ám ảnh làm ta không thể vui sống, đây là một nội kết, một
mặc cảm tội lỗi.
Từ nhỏ đến lớn, lúc nào ta cũng sống
bám víu vào một người nào đó,
nếu không có ai
xung quanh thì
sợ hãi, bơ vơ lạc lõng, bởi thế nên ta phải lấy chồng như bao nhiêu người khác, dù bị chồng
hành hạ, chửi mắng,
hất hủi, đánh đập cũng không dám bỏ vì sợ sống
một mình. Nỗi lo sợ bị
bỏ rơi, phải sống
một mình là một nội kết.
Nội kết là vết thương lòng hay niềm đau thầm kín (blessures, wounds), những vết thương này thường xảy ra hồi ta còn nhỏ vì lúc đó
tâm hồn chưa đủ cứng rắn, chưa đủ vốn liếng để
đối phó với
cuộc đời đầy khó khăn.
Ngoài ra ta còn
mang theo nội kết của nhiều kiếp
quá khứ chưa được giải tỏa, chúng nằm sâu trong
tiềm thức, lâu lâu chờ cơ hội nhảy ra làm ta khổ sở, dễ sinh ra những
thành kiến và từ đó ta đúc kết cho mình một
chương trình (program)
đối phó với
cuộc đời, với người này thì ta có
thành kiến này nên ta sẽ ăn nói,
cư xử như vầy, còn với người kia thì ta có
thành kiến như thế kia nên sẽ ăn nói và
cư xử một cách khác, v.v...
Nếu không hiểu đạo, không biết cách
chuyển hóa thì sẽ
tiếp tục tạo thêm nội kết.
Giữ chặt
quá khứKèm theo nội kết là bệnh
chấp chặt quá khứ, nhiều người hay mắc phải bệnh "ôm giữ quá khứ" nhất là những điều
bất hạnh, khổ đau, và uất ức. Niềm vui qua mau nhưng niềm đau nhớ đời. Mỗi khi có dịp
gặp nhau nói chuyện,
chúng ta thường lôi những chuyện cũ rích từ năm xửa năm xưa, nhắc đi nhắc lại những chuyện
buồn bực rồi
than thở trách móc, người này thế này, người kia thế nọ. Làm như vậy
chúng ta vô tình ôm ấp những niềm đau như giữ của
gia bảo, lâu lâu đem ra ngắm rồi cất đi, để mai mốt có dịp lại đem ra ngắm nữa.
Có những người
thông minh hơn, biết những niềm đau
quá khứ giống như thuốc độc nên không dám lôi ra vì sợ nó làm mình đau nên cố quên hoặc dìm nó xuống tận
đáy lòng. Nhưng không may lâu lâu những
hình ảnh này vẫn nhảy ra mà không đợi mời, tiếng Anh gọi là "flashback", flash là lóe lên, back là trở lui. Mỗi khi bị flashback thì ta bị rơi
trở về quá khứ và
sống lại những
cảm xúc,
cảm thọ khổ đau mặc dù
hiện giờ ta không có gì đáng
đau khổ hết.
Trường hợp này tôi gọi là bị "ma
quá khứ nhập". Sau vụ chiến tranh
Việt Nam năm 1975, các cựu chiến binh Mỹ
trở về nước thường bị bệnh này tức bị ma (
quá khứ) nhập.
Trở về Mỹ sống trong hòa bình,
đoàn tụ gia đình,
vật chất sung túc nhưng họ rất khổ sở mỗi khi bị lên cơn flashback, những
hình ảnh khổ đau
quá khứ trồi lên ụp lấy họ và đưa họ
trở về dĩ vãng
kinh hoàng. Người bị ma nhập giống như người điên vì họ không còn sống trong
hiện tại mà sống trong một
cảnh giới khác,
một thế giới khác,
một thế giới của
hình ảnh và
tâm tưởng (ảo tuởng).
Chúng ta là những người "bình thường" (normal) nhưng mỗi khi con ma
quá khứ hiện lên nhập vào thì ta cũng chẳng khác gì người điên.
Đa số chúng ta đều bị
quá khứ dẫn dắt, ôm ấp, chấp cứng những chuyện đã qua, quên sống trong
hiện tại nên
chúng ta thường là người bệnh hơn là người
bình thường, bệnh mà không
biết mình bệnh!
Chị Sáu
hồi trước sống với một người chồng rất
ích kỷ, ông ta có tánh
độc tài hay bắt nạt
vợ con. Sau khi
ly dị, chị Sáu lấy được anh Ba là người
hiền hòa, dễ mến và rất
thương yêu chị. Nhưng lâu lâu anh Ba vô tình làm một điều gì đó khiến chị Sáu
chợt nhớ lại
hoàn cảnh xưa khi còn chung sống với anh Sáu và bỗng nhiên chị "nhìn" thấy anh Ba chẳng khác gì anh Sáu, cũng giống y hệt anh Sáu và chị đâm ra
buồn rầu chán nản. Khi chị "nhìn" thấy như vậy tức là chị đã bị flashback, bị con ma
quá khứ nhập và đương nhiên cả ngày hôm đó chị sống trong
địa ngục. Chỉ khi nào "con ma quá khứ" biến đi trả chị về với
hiện tại thì chị mới
hồi tỉnh nhìn thấy anh Ba là anh Ba chứ không phải anh Sáu, và biết
thưởng thức tình thương của anh Ba đang dành cho chị.
Chúng ta không sống
hạnh phúc được vì lâu lâu bị ma
quá khứ nhập.
Tu hành là tập làm sao
nhận diện được con ma
quá khứ khi nó
hiện ra và mời nó đi chơi chỗ khác, hoặc khi có flashback thì phải biết
hồi tỉnh ngay đừng để nó dẫn mình
đi vào thế giới mộng tưởng hay
ác mộng.
[15] Trích Góp Nhặt, Thích Trí Siêu
[16] Xem Góp Nhặt
[17] Trích Góp Nhặt.
[18] "Ceci n'est pas une pomme" bắt nguồn từ bức tranh "Ceci n'est pas une pipe" của Magritte, họa sĩ người Bỉ.
[19] Để dễ hiểu trong việc phân tách danh từ nên tôi tạm dùng thêm tiếng Pháp và Anh.
[20] Cảm giác và cảm thọ cùng một nghĩa.
[21] Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Tâm Minh Lê Đình Thám
[22] "Hạnh phúc, mộng và thực". Thích Nhất Hạnh