Tưởng Niệm Ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Xuất Gia Ngày 8/2 Âm Lịch
TƯỞNG NIỆM NGÀY ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NIXUẤT GIA
Ngày 8/2 âm lịch (Thích Tánh Tuệ)
Vào ngày rằm tháng 4, năm 623 trước công nguyên tại vườn Lâm Tỳ Ni gần thành Ca Tỳ La Vệ, một nơi hiện nay là vùng biên giới giữa Nepal và Ấn Độ, Đức PhậtThích Ca đã giáng sinh, làm Hoàng tử con vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da. Vua Tịnh Phạn trị vì một vương quốc nhỏ của bộ tộc Sakya( Thích Ca). Vì Hoàng hậu Ma Da qua đời 7 ngày sau khi Thái tử sinh ra, cho nên Thái tử được Bà Dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề, trực tiếp nuôi nấng dạy dỗ, còn con trai của Bà Dì là A Nan thì được giao cho các bảo mẫu nuôi dưỡng. Tên riêng của vị Phật tương lai là Tất Đạt Đa, tên dòng họ Ngài là Gotama (Cồ Đàm), Ngài có danh hiệu Sakya (Thích Ca), cho nên sau này Ngài có danh hiệu Sakya Muni là bậc Thánh, Sakya Muni là bậc Thánh thuộc bộ lạc Thích Ca. Thái tửTất Đạt Đa được nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục một cách toàn diện về hai mặt: văn chương và võ nghệ. Vào tuổi 16, Thái tử cưới Công chúaDa Du Đà La, đồng lứa tuổi với Thái tử. Và trong gần 13 năm, sau ngày cưới, Thái tử sống một cuộc đờihạnh phúc trong nhung lụa, vô tư, không biết gì tới mọi nỗi khổ và bất hạnh ở đời. Thế nhưng, với thời gian, do năng khiếu suy tư sâu sắc và lòng thương người bẩm sinh, Thái tử không thể nào cam tâm một mình sống mãi trong nhung lụa, giữa một xã hội bất công, một thế giới đau khổ. Thái tử sớm giác ngộ về tính tạm thời, tầm thường của vật chấtthế gian và có ý chíxuất giacầu đạogiải thoát, tìm racon đường cứu vớt chúng sanh ra khỏi già, đau, chết và mọi nỗi bất hạnh khác của đời người. Một ngày, Thái tử đi ra ngoài thành dạo chơi và lần đầu tiên trong đời được tiếp xúc với những sự thậtđen tối và đáng sợ: Thái tửlần lượt gặp một người già yếu, một người bệnh tật, một xác chết và cuối cùng là một vị Tu sĩ với dung sắc giải thoát, khoan thai đi trên đường. Thái tử nghiệm thấy mình dù là Thái tử con vua, cũng không thể thoát khỏi cảnh già, đau và chết; nhưng hình ảnhsiêu thoát của vị Tu sĩ đã giúp Thái tử sớm thấy con đường dẫn tới giác ngộ, Vĩnh viễn khắc phục mọi nỗi khổ đau và bất hạnh của đời người, con đường dẫn tới cõi Niết Bànbất tử. Từ đó Thái tửquyết tâmtừ bỏgia đình, xuất giacầu đạo. Nhưng một tin đến Công chúaDa Du Đà La mới hạ sinh con trai. Thái tử nói: “một trở ngại đã được sanh, một ràng buộc đã xảy ra”. Nhân đó ông nội Vua cha Tinh Phạn đã đặt tên cháu là La Hầu La. SỰ TỪ BỎ VĨ ĐẠI: Lâu đài, cung điện không còn là nơi ở thích hợp nữa cho Thái tử, lòng nặng trĩutình thươngchúng sanhchìm đắm trong bể khổ và Thái tử càng thêm quyết tâmxuất giacầu đạo, tìm con đườngcứu khổ muôn loài. Thế rồi vào một đêm Thái tử ra lệnh cho người nô bộctrung thành là Xa Nặc dắt con ngựa Kiền Trắc. Trước khi xuất phát, Thái tử đi dọc theo hành lang nội cung, đến trước phòng Công chúaDa Du Đà La và người con trai đang ngủ thiếp, Thái tử hé cửa nhìn vào, Thái tử rất yêu thương người vợ và con trai của mình, nhưng đối với nhân loại khổ đau bất hạnh, lòng xót thương của Thái tử lại còn da diết hơn. Sau đó, Thái tửmột mình lên ngựa ra đi, vượt khỏi hoàng thành, theo sau chỉ có người nô bộctrung thànhXa Nặc. Ra đi, Thái tửtừ bỏ tất cả, phụ vương, ngai vàng, vợ con, cuộc sống đầy đủhạnh phúc của một Hoàng tử. Không phải là sự hy sinhtừ bỏ của một người già, đau ốm, một người nghèo, bệnh tật, ngán ngẫm cuộc đời, mà là sự hy sinh của một vị Hoàng tử đang tuổi thanh Xuân, đang sống trong quyền quýgiàu sang. Quả thật đó là một sự từ bỏ, hy sinh vĩ đại, có một không hai trong lịch sửloài người.
Năm ấy Ngài tròn 29 tuổi. Khi tới bờ sông Anoma, Thái tử dừng lại bỏ ngựa, cạo râu, tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Xa Nặc, lệnh cho Xa Nặctrở về. Còn Thải tử một mình ra đi , với bộ áo màu vàng đơn giản của người Tu sĩ, từ nay cuộc sống không nhà của người xuất giacầu đạo. Ngài không ở nơi cố định. Khi thì ngồi dưới bóng cây, khi thì nằm nghỉ qua đêm trong một hang đá. Chân không và đầu để trần, Ngài đi bình thản giữa nắng nóng cũng như trong sương đêm lạnh, tất cả mọi năng lực và ý chí của Ngài đều hướng tới lý tưởng cao cảtìm rasự thậttối hậu, lý lẽ của cuộc sống và chết, ý nghĩa của nhân sinh, của cuộc đời, con đường dẫn tới giải thoát, cõi Niết Bànbất tử. NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Cứu cánh của Sa môn hạnh
.......Trẫm xin hỏi đây: Sống đời xuất gia có gì là lợi ích? Có gì là cao thượng? - Tâu đại vương!
Người sống đời xuất gia thành tưụ được bốn điều lợi ích: 1. Không còn sầu khổ khi một ngũ uẩn sanh, hay gọi là "khổ sanh".
2. Không còn sầu khổ khi ngũ uẩn héo mòn, tiều tụy, hay gọi là "khổ già".
3. Không còn sầu khổ khi ngũ uẩnđau đớn, nhức nhối, khó chịu, hay gọi là "khổ bệnh".
4. Không còn sầu khổ khi ngũ uẩn tàn hoại, diệt mất, hay gọi là "khổ chết".
Sự thay đổi, biến hoại, tiêu diệt của ngũ uẩn từ sanh, lão, bệnh, đến tử - người xuất gia hằng suy niệm, hằng quán tưởng nên sẽ thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối - là những lợi íchthù thắng đấy, tâu đại vương! - Đúng thế! Quả thật là lợi ích to lớn giữa cõi nhân sinh này. Còn có cái gì là cao thượng, thật sự cao thượng của người xuất gia, thưa đại đức? - Thưa, khi người xuất gia không còn bị sinh lão bệnh tử của ngũ uẩn ma vương ấy chi phối nữa, vị ấy thân chứng một trạng tháiquân bìnhtuyệt hảo, hạnh phúctuyệt hảo; vượt cao, vượt trên tất cả hạnh phúc của trần thế, siêu việtý niệm, ngữ ngôn: cái ấy giả danh là Niết bàn; nơi không còn sanh tử, khổ đau và phiền não nữa! Đấy là sự cao thượng trên tất cả mọi sự cao thượng, tâu đại vương! Đức vua rất hoan hỷ hỏi tiếp:
- Tất cả sa môn đều có nguyện vọng như thế sao?
- Tâu đại vương! Cứu cánhsa môn hạnh thì như thế, nhưng trong hàng Tăng lữhiện có bảy hạng người xuất gia vì lý do khác nhau:
1. Có người xuất gia vì muốn trốn luật vua, phép nước.
2. Có người xuất gia là để được thân cận giới quyền quý cao sang.
3. Có người xuất gia là mong được quyền hành trong một ngôi chùa hay lãnh đạoTăng lữ, đồ chúng.
4. Có người xuất gia vì thất nghiệp, muốn kiếm miếng cơm manh áo.
5. Có người xuất gia vì cô thế, cô thân, trốn kẻ thù nghịch.
6. Có người xuất gia vì mang công mắc nợ.
7. Có người xuất gia vì sợ sanh tử luân hồi, muốn chấm dứt khổ đau, phiền não. Thấy đại đức Na-tiên trả lời đâu ra đó rất rõ ràng, minh bạch, lại tự nhiên như hít thở khí trời; ngài phục lắm, thử ướm hỏi: - Vậy chắc chắnđại đức vì mục đích cao thượng của hạng người thứ bảy mà xuất gia làm sa môn?
Đại đức Na-tiên mỉm cườigật đầu: Thưa, không phải thế! Bần tăng rời khỏi gia đình lúc bảy tuổi, còn rất nhỏ thì nào biết gì! Sau dần lớn lên, nhờ Thầy tổ, nhờ các vị trưởng lãodày cônggiáo hóa, trí óc mới khơi mở được chút ít. Hiện giờ thì có thể nói rằng, bần tăng tu là cốt ý để diệt khổ, đấy không còn là lời nói dối nữa! Đức vua Mi-lan-đà nghe cách trả lời, cách nói đầy khiêm tốn củađại đức Na-tiên, ngài kính trọng quá, quỳ xuống vập đầu và nói lớn: - Ôi lành thay! Cao quý thay!