tại trường Mc. Garvin ngày 26-02-2005
Đây là lần thứ hai
chúng tôi, tăng thân
Lộc Uyển, đến hội trường này có dịp để chia sẻ một
chủ đề mà có lẽ
chúng ta đã từng nghe nói đến rất nhiều, đó là lý
Duyên Khởi.
Duyên Khởi là một
giáo lý có
mục đích hướng dẫn người
Phật tử tu tập để có cái nhìn đúng,
chính xác về sự
hiện hữu của
vạn pháp. Nội dung
giáo lý Duyên Khởi rất bao quát, trong một tiếng đồng hồ
tiếp xúc,
chúng ta khó có thể trình bày tường tận được, vả lại nếu trình bày một cách đầy đủ thì sau đó
chúng ta có thể cũng sẽ quên đi ít nhiều.
Tuy nhiên câu chuyện trong nhà thiền khá
thú vị được kể sau đây, có thể sẽ đọng lại trong
chúng ta một chút gì đó.
Trong thiền sử ghi rằng: Có một vị tăng tha thiết
học đạo đến
đảnh lễ thiền sư Duy Khoan, thưa rằng: "Thưa Thầy, đạo ở đâu?" Ngài Duy Khoan bảo: "Đạo
trước mắt ông". Vị tăng thưa: "Sao con không thấy". Ngài Duy Khoan bảo: "Tại vì ông có ngã (tức có cái chấp về
bản thân) nên ông không thấy được".
Dĩ nhiên vị tăng kia rất
thông minh nên hỏi thêm: "Bạch Thầy, con có ngã nên con không thấy đạo, nhưng Thầy là bậc
tu hành lâu năm,
vô ngã rồi, Thầy phải thấy đạo chứ!"
Thiền sư Duy Khoan bảo: "Ta cũng không thấy". Vị tăng thưa: "Tại sao
lạ kỳ vậy?", "Tại vì có ông, có ta, có hai người nên ta không thấy được". Vị tăng bèn hỏi thêm câu nữa: "Vậy
nếu không có con, không có Thầy, thì Thầy có thấy đạo không?"
Thiền sư trả lời: "Nếu không có ông, không có ta thì ai cần thấy làm gì".
Chúng ta đều biết
giáo lý Duyên Khởi bắt nguồn từ sau khi
đức Thế Tôn chứng ngộ. Vào
tuần lễ đầu tiên trước khi nói kinh Chuyển Pháp Luân",
đức Thế Tôn có bốn mươi chín ngày trầm tư,
thưởng thức niềm
pháp lạc do mình vừa
chứng nghiệm. Và trong ngày cuối của
tuần lễ đầu, ngài đã
chiêm nghiệm về lý
Duyên Khởi; ngài
chiêm nghiệm bằng hai chiều hướng thuận và nghịch. Chiều hướng thuận có từ điểm khởi đầu là
vô minh, qua hành...
cho đến sinh,
lão tử, rồi theo chiều ngược lại,
tức từ lão tử trở lại vô minh.
Giáo lý Duyên Khởi được xem là
giáo lý nền tảng quan trọng của
đạo Phật, bởi vì trước đó chưa có một trường phái
triết học hay
tôn giáo nào khai triển
giáo lý này một cách bao quát và tường tận như vậy.
Chúng ta hãy nhớ một điều là trước khi
đạo Phật có mặt trên đất nước
Ấn Độ, đã có trên sáu mươi trường phái
triết học,
tôn giáo, và tất cả đều có vẻ giống nhau về
quan niệm "độc thần". Với
quan niệm đó,
mọi người trên hành tinh này, kể cả sự có mặt của dãy thiên hà, là đều do một vịthần linh sinh ra.
Nhưng từ lúc
đức Thế Tôn đạt được giác ngộ dưới cội
Bồ đề, ngài
thiền quán,
chiêm nghiệm sâu xa về sự hình thành của các pháp, rồi trực ngộ lý
Duyên Khởi, và đã
triển khai giáo lý này rất
đơn giản:
Cái này sinh thì cái kia sinh
Cái này diệt thì cái kia diệt
Cái này có thì cái kia có
Cái này không thì cái kia không.
Như
chúng ta đã biết trái tim của
đạo Phật là
giáo lý Vô ngã vốn được
xây dựng trên bốn câu kệ trên, để từ đó
đức Phật triển khai một dòng
giáo lý mà nền tảng
căn bản,
trọng yếu bao gồm:
Tứ Diệu Đế,
Thập Nhị Nhân Duyên,
Vô ngã,
Niết bàn...
Cũng từ nền tảng
Duyên sinh,
Vô ngã này rất nhiều trường phái của
đạo Phật đã
xây dựng nên
luận thuyết của mình, thiết định các phương thức
tu tập, hình thành thêm nhiều
tông phái khác như:
Thành Thật tông,
Duy Thức tông,
Tam Luận tông...
Và
chúng ta có thể xác định mà không sợ
lầm lẫn rằng cho mãi đến hôm nay,
giáo lý Duyên sinh,
Vô ngã này vẫn là một
giáo lý căn bản,
vững chắc hiến tặng
tuệ giác đạo Phật cho
xã hội loài người qua mọi
thời đại.
Bước vào
lãnh vực thực dụng nhưng rất
căn bản của
giáo lý Duyên Khởi,
chúng ta cần
tìm hiểu một chút về khái niệm
duyên sinh,
duyên khởi, tiếp đến
chúng ta chia sẻ
với nhau những
nhận thức để có cái nhìn
thực tiễn về
phương pháp thực tập hay
hành trì. Và
cuối cùng là làm thế nào để
chứng nghiệm được
tuệ giác Duyên Khởi. Từ
chứng nghiệm này,
chúng ta xét xem có thể đóng góp được gì cho
xã hội trong
lãnh vực tâm linh,
văn hóa,
đạo đức ở
hiện tại để mang lại niềm
an lạc,
hạnh phúc cho chính mình và những người chung quanh.
Điều đầu tiên
chúng ta nên nhớ, danh từ
Duyên Khởi,
Duyên Sinh hay
Nhân Duyên là ba tên gọi được thay đổi
tùy theo cách
sử dụng trong
toàn bộ văn hệ
giáo điển của
đạo Phật.
Cụ thể ở đây
chúng ta cần phân định
rõ ràng các danh từ này thường được dùng trong hai
trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất,
Nhân Duyên là một trong mười hai
thể tài văn học đức Thế Tôn vận dụng để
thuyết kinh, như ta thường nghe các
thể tài Trường Hàng, Trung Tụng,
Cô Khởi...
Vấn đề chia sẻ ở đây tuy có
tính cách chuyên môn trong
lãnh vực Phật học, nhưng
cần thiết để
chúng ta khỏi phải nhầm lẫn trong sự
nhận định. Trong mười hai
thể tài thì
Trường Hàng là loại
văn xuôi chúng ta thường gặp có câu mở đầu: "Như thị ngã văn,
nhất thời Phật tại
Xá Vệ quốc...". Trong
thể tài này, có lúc
đức Thế Tôn cần
nhấn mạnh ý nghĩa của
bài kinh, nên ngài trùng tuyên thành một
bài kệ. Ví dụ trong
kinh Phổ Môn chúng ta có một đoạn kệ được gọi là thể
Trùng Tụng, như sau:
Và trong mười hai
thể tài kinh điển được sắp xếp,
thể tài thứ sáu gọi là
Nhân Duyên, tức nguyên nhâh nói kinh. Có nhiều
trường hợp dưa đến
nhân duyên đức Phật nói kinh: hoặc do
thính chúng có những thắc mắc, khát khao về sự
tu học thì
tham vấn với
Thế Tôn, bấy giờ
Thế Tôn mới nói; hoặc trong
tăng đoàn có những thắc mắc cần
giải quyết, nên ngài có
nguyên nhân hình thành những giới điều để giúp ổn định
sinh hoạt, từ đấy mà hình thành nền
văn học gọi là Kinh, Luật, Luận. Những giới điều này cũng thuộc
thể tài Nhân Duyên.
Trường hợp thứ hai không nằm trong mười hai phần giáo (
thể tài văn học Phật giáo),
Nhân Duyên được đề cập ở đây là lý
Duyên Khởi, là
giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên.
Giáo lý Nhân Duyên bao hàm trong rất nhiều
lãnh vực. Khi thấu hiểu sâu sắc
giáo lý này,
chúng ta có thể vận dụng nó trong cuộc sống đời thường để
chuyển hóa bản thân và
hoàn cảnh, làm cho
đời sống ngày càng có phẩm chất.
Chúng ta cũng có thể từ nguyên
lý Nhân Duyên để nhìn vào những
điều kiện cấu thành các
hiện tượng thiên lưu,
biến dịch của
thân tâm cũng như
quan sát mọi sự
vận hành ngoài
xã hội. Và điều quan trọng
chúng ta cần hiểu ở đây, đó là
thâm nhập vào
giáo lý Nhân Duyên để
nhận thức được
vấn đề rất
căn bản rằng những gì gọi là ta:
hình hài này,
cảm thọ này... tất cả đều
vô ngã. Nếu
chúng ta đi ngang qua
thể tính vô ngã với một
nhận thức sâu sắc và
tu tập một cách
vững chãi, ta sẽ bắt gặp đằng sau
vô ngã là tự thể
vô sinh bất diệt, thường gọi là
Niết bàn.
Tự thể
Niết bàn nói một cách khác
dễ hiểu hơn là một danh từ chỉ cho
trạng thái tịch tĩnh, vốn sẵn có trong trái tim ta. Do vậy, cách thức
chúng ta tiếp cận ở đây sẽ không nặng về phần
giải thích ngôn ngữ, khái niệm mà đặt
trọng tâm vào một nền tảng
cốt lõi, đó là làm thế nào để
chúng ta quay trở lại được với
đời sống nội tại, làm thế nào để
thực tập nhận diện cho được
thể tính vô ngã của tự thân.
Từ
nhận thức rốt ráo về
vô ngã, sẽ khơi mở cho
chúng ta rõ
nguyên nhân mọi sự có mặt vốn
liên hệ với nhau, duyên vào nhau như mắc xích trong sự hình thành của
vạn pháp. Và
giáo lý Duyên Khởi với nguyên lý
tương tức,
tương nhập đã
đáp ứng toàn diện cho nhu cầu
trở về gột sạch mọi
chấp thủ vào tự ngã của
chúng ta.
Trong
văn học A Hàm có một đoạn rất hay kể về ngài
Mã Thắng đọc
bài kệ vốn đã được
đức Thế Tôn chỉ dạy cho
tăng chúng như sau:
Để bớt trùng lập,
Tạp A Hàm ghi rằng:
Diệt phục tùng duyên diệt...
Tạm dịch:
Tỳ kheo Mã Thắng là một trong năm người
đệ tử xuất gia đầu tiên của
đức Phật, khi đi
khất thực đã gặp
Xá Lợi Phất, lúc bấy giờ chưa ở trong
tăng đoàn đức Phật. Thấy phong cách
đoan trang,
an bình, tịnh lạc của ngài
Mã Thắng,
Xá Lợi Phất nhìn theo để xem ông thầy tu này hành xử trong các
sinh hoạt đi, đứng, ăn, uống... như thế nào. Điều này nghe qua
chúng ta có thể
cảm thấy lạ. Thật ra chẳng có gì lạ bởi phong cách, phẩm chất của
con người bên ngoài một phần lớn biểu hiện từ trong
tâm thức.
Đệ tử của Phật tuy chỉ mới
an cư ba tháng, nhưng đã
thực tập và nếm được hương vị
giải thoát từ
đức Phật, từ đó mà có
một đời sống
thảnh thơi,
vững chãi, một phong
thái an tịnh
thể hiện qua
cách đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, uống nước... Do vậy khi nhìn thấy
tỳ kheo Mã Thắng,
Xá Lợi Phất đã có niềm
cung kính liền bước
theo sau và khi có cơ hội,
Xá Lợi Phất bèn hỏi: "Xin Thầy
cho biết, thầy của thầy là ai? Thầy đã học được điều gì mà có một phong cách hành xử đẹp như thế?" Ngài
Mã Thắng trả lời: "Thú thật với ông, tôi chỉ mới tu đây thôi, chưa
thực tập bao nhiêu cả, và chưa
hiểu biết gì nhiều".
Xá Lợi Phất năn nỉ: "Dù không
hiểu biết bao nhiêu nhưng xin thầy cũng
vui lòng chỉ bày cho tôi, ít cũng được. Thầy hiểu chút gì thì xin cứ nói chút đó, tôi rất hoan hỷ". Thế là ngài
Mã Thắng đã đọc
bài kệ như trên.
Thử hữu tắc bỉ hữu: Do cái này có nên cái kia có.
Thử vô tắc bỉ vô: Do cái này không nên cái kia không.
Thử sinh tắc bỉ sinh: Do cái này sinh ra nên cái kia sinh ra.
Thử diệt tắc bỉ diệt: Do cái này mất đi nên cái kia mất đi.
Đây là
bài kệ nói về
giáo lý Duyên Sinh,
Duyên Khởi một cách
súc tích, cô đọng nhất mà
chúng ta biết.
Do
chúng ta có mặt trong hội trường này nên mới có tăng thân
Lộc Uyển ở đây;
nếu không có các vị sẽ không có buổi nói chuyện này. Bởi có các vị nên mới có
gia đình, có
xã hội, có
quốc gia. Do vì có
chúng ta dặt chân lên vùng đất này, nên
văn hóa Việt Nam mới có cơ hội đến với
mọi người Tây phương,
thức ăn Việt Nam mới có dịp được
giới thiệu cho người
thưởng thức. Chùa,
tự viện tôn giáo của người
Đông phương mới có dịp thâm nhận vào vùng đất này. Và
rõ ràng vì có ta nên có mọi thức, khi ta không còn thì mọi thức cũng biến mất theo. Đây là điều thật giản dị mình vẫn
nhận thấy trong đời sống hàng ngày.
Hay có thể nói
đơn giản hơn, gần gũi hơn, khi
quay về chính ta thì, do
tâm thức của ta
sinh khởi niềm vui,
nỗi buồn nên làm
cho không gian quanh ta có niềm vui,
nỗi buồn. Do vì lòng mình có
sân hận,
hờn giận nên tạo cho cuộc sống
bất an, làm không khí
gia đình trĩu nặng. Khi lòng
thảnh thơi, tràn đầy niềm vui, mình có thể làm cho niềm vui, sự
an bình lan
tỏa ra chung quanh.
Năng lượng tích cực này có khả năng
nuôi dưỡng mình,
nuôi dưỡng người thân và
nuôi dưỡng xã hội.
Ở mức độ rộng hơn, bốn câu kệ này cũng đã cho ta thấu rõ sự hình thành nên thiên hà,
vũ trụ; vì có một
hạt bụi nên mới có hành tinh. Do vì hành tinh có
mặt trời, có trăng, có sao, có
đại dương, sông ngòi nên có
con người. Do vì có
con người nên mới có những
điều kiện sống chung quanh;
lịch sử,
văn hóa và các nền
văn minh có mặt. Do có nhưng
nhân duyên hủy hoại,
tác động lên môi trường, làm cho đổ vỡ nên hành tinh này rồi sẽ biến mất...
Ở cấp độ phổ quát của
giáo lý Duyên Khởi,
chúng ta có thể
quan sát bên trong
con người chúng ta tà
hình hài cho đến niềm vui,
nỗi buồn, dòng
cảm xúc suy tư...; rồi nhìn ra bên ngoài
từ hoàn cảnh
xã hội,
các chủ thuyết, môi trường sống
cho đến dãy thiên hà, hành tinh..., tất cả đều hình thành từ nguyên lý tất yếu "Cái này có nên cái kia có". Chẳng hạn,
nếu không có
hoàn cảnh xã hội châu Âu thời ấy thì không có chủ thuyết của Các Mác, cũng
như không có
hoàn cảnh xã hội như thế nào đó, thì không hình thành
thể chế tự do như thế này...; cho nên mỗi việc, mỗi cái đều
trùng trùng nhân duyên mà hình thành. Ngay nơi chính
chúng ta,
mối thù hận hay những
đam mê dại khờ lớn lên cũng đều do
điều kiện này,
điều kiện kia mà có mặt; không phải bỗng dưng mà ta
đam mê, ta thù đời, ta hận người.
Chúng ta chấp nhận giáo lý Duyên Khởi khi thấu hiểu nguyên lý
tương tức như vừa chia sẻ. Rồi từ nền tảng
nhận thức các phép
duyên sinh,
vô ngã,
chúng ta biết
lấy ra, loại trừ những
nhân duyên vô minh gieo vào
tâm thức, làm cho
cuộc đời ta nhẹ gánh, lòng ta
thanh thản và tim ta do
tâm từ bi
thúc đẩy mở rộng, sẽ mang lại
hạnh phúc cho mình và cho những người có mặt quanh ta.
Từ đó,
chúng ta có thể thấy rõ rằng
giáo lý Duyên Khởi có một
công năng trị liệu rất
tuyệt vời. Nó đánh đổ
quan niệm cứng nhắc,
chấp thủ của
chúng ta đối với nhiều
lãnh vực trong cuộc sống:
niềm tin tôn giáo, tình cảm,
nhận thức, triết lý,
hạnh phúc, khổ đau... Chỉ cần
đạt được một chút
tuệ giác về
giáo lý Duyên Khởi là đủ để mở ra cánh cửa
tâm linh,
tri thức, làm vơi đi
tranh chấp, giảm nhẹ mức dộ bất ổn
trong đời sống
gia đình và
xã hội.
Bước vào
con đường thực hành,
vấn đề đặt ra là làm thế nào để
ứng dụng được
giáo lý Duyên Khởi một cách thiết thực?
Ai cũng thấy rõ một điều là
nhận thức của
chúng ta rất quan trọng.
Vấn đề tu tập ban đầu cũng là cạn nhất đó là làm sao để
chuyển đổi được
quan niệm,
nhận thức của mình về
cuộc đời, về
cách sống. Muốn làm cho
đời sống hạnh phúc, cho niềm vui luôn có mặt đó là cả một nghệ thuật. Cũng
hoàn cảnh ấy, cũng những khó khăn ấy, thế nhưng cái nhìn của
chúng ta khác đi thì tức khắc
hoàn cảnh thay đổi ngay. Cũng
điều kiện vật chất ấy,
con người ấy nhưng khi cái nhìn của
chúng ta chứa đầy
ý niệm tiêu cực thì thấy nó là ngục tù,
bất an,
ràng buộc, do đó
chúng ta thấy khổ sở
vô cùng. Cho nên
vấn đề chuyển đổi quan điểm,
chuyển đổi nhận thức là
vô cùng quan trọng. Và ta chỉ làm một điều cạn, rất gần gũi là chuyên đổi
nhận thức của mình về
cuộc đời, về
con người thì niềm vui liền có mặt, mà chưa cần đi sâu vào những
giáo lý cốt lõi hay sự
tu tập nào cao siêu.
Thông thường, khi gặp những khó khăn, bất an, sầu muộn, chúng ta hay làm một điều giản dị là đổ lỗi tất cả cho người kia, đổ thừa cho hoàn cảnh. Nếu chịu khó nhận diện một cách tích cực dựa trên nền tảng giáo lý Duyên Khởi, chúng ta sẽ điều chỉnh được mọi vấn đề một cách dễ dàng. Thế nào là tích cực? Như ta đã biết, không việc gì phát sinh mà không tùy thuộc vào các nhân và duyên. Chúng ta cứ tưởng sự đổ vỡ của đời sống hiện tại là điều gì xảy ra thật tình cờ. Một lời nói gây tổn thương không là gì cả, có thể như làm gió thoảng qua, nhưng nếu nhiều lời gây tổn thương ngày qua ngày chồng chất sẽ trở thành giông bão làm sụp đổ. Tuy người Việt chúng ta thường rất giỏi chịu đựng, nhưng không có nghĩa là chịu đựng thì mọi chuyện đến với mình đều trôi qua ngay rồi biến mất.
Tâm ta không phải là mặt nước - nếu ta vẽ lên mặt nước thì ngay liền sau đó mặt nước trở lại bình yên, phẳng lặng. Nhưng tâm thức ta một khi được vẽ lên những vết hằn của phiền muộn, bất an, tổn thương nó lưu giữ không bao giờ mất. Nó sẽ cất giữ vào bên trong để chờ đợi cơ hội tái hiện và lần thứ hai biểu hiện thì không phải biểu hiện với hình dạng cái mầm lúc ban đầu mà nó đã mọc thành cái cây. Nhưng chưa hết, nếu ta cố tình chế ngự, ra sức loại trừ thì những xung động tiêu cực bị dồn sâu vào tiềm ẩn trong tâm thức, hứa hẹn lần thứ ba có dịp sinh khởi, sẽ sinh khởi lên như khu rừng chứ không còn là một cây nữa. Từ vấn đề này ta có thể nhận diện được một sự thật rằng những phiền muộn bất an, đổ vỡ phát sinh trong đời sống, đưa đến những bất hạnh đều bắt nguồn từ những hạt mầm bé nhỏ. Muốn chuyển hóa những tâm hành tiêu cực này của chính mình, điều quan trọng đầu tiên là hãy chuyển đổi nhận thức của chúng ta. Chuyển đổi nhận thức bằng cách nào? Trước hết, ta phải quay lại nhìn vào bản thân, xem những sự kiện xảy ra đem đến khó khăn là do mình, không phải nhìn vào người. Ta hãy vỗ lòng tự nhủ, ta là tác nhân, là người gây nên phiền não kiết sử... Thay vì đòi hỏi người kia phải có được mọi điều ưu tú thì ta phải quay lại đòi hỏi nơi mình trước. Chúng ta có khuynh hướng chung hay đòi hỏi người khác làm theo ý mình mà không muốn mình làm, đòi hỏi người kia phải dễ thương trong khi đối với mình dễ thương hay không là chuyện của riêng mình.
Thực tế thì việc đòi hỏi người khác bao giờ cũng khó hơn đòi hỏi chính mình. Cho nên chuyển đổi nhận thức trong đời sống, gần nhất là ta chuyển đổi mình. Phải đòi hỏi nơi mình trước. Làm được điều này thì hoàn cảnh bên ngoài tự nhiên cũng nhẹ nhàng, có thể giúp ta dễ ứng phó hơn. Không gian quanh ta bao la hơn, không khí dễ thở hơn và nhất là không còn vung vãi ghét ghen, bực bội, giận hờn làm đau khổ người khác. Chúng ta sẽ nhẹ tênh khi đi giữa cuộc đời.
Cuộc đời dù có trải đầy gai góc, khổ nhọc đọa đày trước mặt nhưng khi ta đã trang bị những yếu tố rất đẹp, rất lành của một tâm thức đã được chuyển hóa thì trên vạn nẻo đường ta bước, không nơi nào là bất an sầu khổ, đời sống chúng ta bấy giờ là lễ hội của tình thương và hạnh phúc. Đấy là mức độ cạn nhất của việc tu tập giáo lý Duyên khởi. Hãy thực tập, hãy thử chuyển đổi nhận thức, chuyển đổi cách nhìn của mình về đời sống hàng ngày.
Trong đời sống thường nhật, mọi biểu hiệu của thân hay tâm đều phát sinh trong chiều dài của mười hai Nhân Duyên. Nhân Duyên có nghĩa là hạt giống và điều kiện để tác thành, từ đó sinh ra quả. Như đã nói, giáo lý Duyên Khởi rất bao quát, chúng ta chỉ chia sẻ, giải thích một vài chi phần trương mười hai Nhân Duyên để từ đó có thể dễ dàng tiếp nhận và ứng dụng vào việc tu tập của mình của mình nhằm chuyển hóa dòng chảy của mọi nỗi khổ trong cuộc sống đời thường và thâm sâu hơn là chấm dứt nỗi khổ lang thang qua nhiều kiếp sinh tử.
Niềm mơ ước lớn lao của con người trong đời sống là làm thế nào vượt qua được nỗi buồn khổ, đau đớn của bệnh tật, già yếu và sự biệt ly. Có thể người trẻ chưa có ý niệm gì về cái chết, nhưng những người trên sáu mươi tuổi đã bắt đầu cảm thấy bất an, lo sợ. Lo già, lo bệnh, thấy tóc bạc cũng lo, không muốn tóc bạc mà tóc bạc vẫn cứ lai rai... Sau mỗi năm thấy mình bệnh nhiều hơn, đi bác sĩ nhiều hơn nên nỗi sợ hãi về bệnh tật, già yếu, cái chết cứ lớn dần, bao trùm lên đời sống. Người trẻ có những nỗi khổ khác, nhưng nếu có ít nhiều nhận thức về cuộc đời, chúng ta đều cảm nghiệm được rằng dường như niềm vui sướng, hạnh phúc của cuộc sống tặng cho ta thì ít, nỗi buồn khổ, lo lắng lại rất nhiều. Bên cạnh đó, áp lực của xã hội đè nặng, vây quanh, đặt lên chúng ta những lo toan, tính toán rất căng thẳng.
Do vậy, mức độ khổ cao nhất của đời người là sinh, lão tử. Mức độ trung bình của nỗi khổ là ghét mà phải gặt mặt, thương mà phải chia tay; và mức độ cạn nhất của đời sống bình thường là sự lo lắng, bất an. Tất cả những điều này nằm trong chi phần sinh, lão tử - là hai chi phần sau cùng trong mười hai Nhân Duyên. Nhân Duyển đầu là vô minh, và tiếp đến là hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh và lão tử.
Động cơ cho sinh, lão tử có mặt là do hữu. Tất cả những nỗi khổ có mặt là do hữu; vì tôi có người tôi thương nên tôi sợ mất người thương. Do người thương của tôi rất đáng yêu nên tôi mới ghen hờn, lo âu, nghi hoặc. Tức là từ cái "có" mà tạo thành một chuỗi dài những nỗi khổ nối đằng sau. Chiêm nghiệm sâu về yếu tố hữu, những gì ta có như hình hài này, tình cảm vui buồn này, kỷ niệm quá khứ, tri thức... là những điều cần thiết cho sự sống, nhưng nếu chúng ta xem chúng là không thì điều gì sẽ xảy ra? Có nghĩa là chúng có mặt ở đó nhưng ta không nắm giữ, không bám víu, chấp thủ. Khi đã chấp thủ những gì ta có, thường theo sau là nỗi lo âu và bất an (như khi có gia đình, người thương, con cái... chúng ta phải lo lắng ra vào, ngồi đứng không yên). Nếu dùng tuệ giác của lý Nhân Duyên mà nhìn, sở dĩ những dứa con có mặt với ta trong đời là bởi có ta và có người hôn phối của ta. Khi đã đủ điều kiện, nhân duyên thì một sinh linh mượn ta để đến với đời. Nếu không sinh ra trong gia đình ta, nó cũng sẽ xuất hiện ở một nơi khác, môi trường khác, nên nó đâu phải là sở hữu của ta, ta chưa hề là chủ nhân của nó. Cho nên, tuệ giác của lý Nhân Duyên cho ta nhận biết sự thật không có gì trên đời là sở hữu của ta cả. Và cũng không ai là sở hữu riêng của ai. Thấy được như vậy ta nhẹ tênh đối với những gì ta sở hữu, gọi là có (hữu) mà không nắm giữ (thủ).
Thế thì, khi có một chút giác ngộ về giáo lý Nhân Duyên, chúng ta xả ly được chấp thủ về vật chất, tiền của, nhà cửa, con cái, người thân... và khi xả ly được sự chấp thủ này là ta đã làm vơi nhẹ rất nhiều nỗi ám ảnh từ những tác nhân đưa đến cho ta niềm đau, nỗi khổ. Tất cả mọi sanh linh trên hành tinh này sở dĩ có khổ đau là vì không thoát ra được những tâm hành này, tức là không ra ngoài ái, thủ và hữu. Từ tình trạng chấp thủ này, chúng ta nhìn sâu xa hơn một chút, thấy rằng nó có gốc rễ từ ái, tức là sự ưa thích.
Sự thật, có cái gì ta không thích, không thương mà ta muốn nắm giữ Ta nắm giữ mọi thứ trong tay là vì ta ưa thích, ta yêu chuộng. Biết rằng sự yêu thương do nhiều nhân duyên mà hình thành, nhưng hãy tự hỏi trong những nhân duyên đó thì cái gì là nguyên nhân chủ yếu? Rõ ràng trong ta luôn có những tiếng thì thầm, một rừng ngôn ngữ xao động, cuộn chảy thúc đẩy mọi tạo tác. Điều này nói lên sự liên hệ khắng khích giữa ái và thọ.
Khi nhìn một người mà tâm ta rỗng lặng, không sinh khởi tiếng nói thì thầm bên trong thì thọ không có mặt. Do vậy, áisở dĩ có mặt là vì có thọ nên đưa đến nỗi khổ là điều tất yếu. Thọ sinh khởi từ xúc tức là từ sự tiếp xúc như tai khi nghe âm thanh, mắt khi nhìn cảnh vật...
Nếu khi nghe, khi nhìn (tiếp xúc) mà thần trí chúng ta dạo chơi năm non bảy núi thì dù dòng nhạc có hay, đóa hoa hồng có rực rỡ đến mấy cũng không tác động gì đến ta. Ta nghe mà nghe như tiếng gió thoảng; nhìn mà không thấy màu sắc tươi thắm của hoa. Nhưng khi tiếp xúc mà có ý thức ta dẫn đạo, có tiếng thì thầm khởi lên bên trong cho ta biết đây là bản nhạc của Trịnh Công Sơn. Song, với lời ca: "Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa...", bỗng dưng quá khứ, kỷ niệm vui buồn ngày cũ như sóng lùa về, thì sự tiếp xúc lại đưa đến thọ, ái, thủ (tiếp nhận, say đắm, bám víu). Chúng ta có thể gọi sự tiếp xúc bên ngoài là xúc chạm vật lý, không đáng quan ngại. Nhưng sự tiếp xúc ở trong chiều sâu tâm thức, có hạt giống của quá khứ, hạt giống của kỷ niệm, của buồn khổ, của phân tích... biểu hiện dẫn dắt thì sự tiếp xúc này sẽ kéo theo một chuỗi những sầu, bi, khổ, ưu, não phía sau như một đoàn quân diễn hành trong tâm thức.
Cho nên tu tập giáo lý Duyên Khởi ở tầng sâu hơn một chút là chúng ta làm thế nào trong mỗi tiếp xúc hàng ngày của mình, dừng lại không để cho thọi có mặt. Và sự khác nhau giữa Thánh hay phàm, giữa thiền sư và người thường, đức Phật và chúng ta chỉ ở chỗ này mà thôi.
Đối với các bậc Thánh, các ngài cũng như chúng ta, cũng đi ngang qua cuộc đời đầy phiền lụy khổ đau, nhưng có điều các ngài không để cho bất cứ đối tượng nào ràng buộc, dính mắc, ngôn ngữ nhà thiền mô tả là: "Đi khắp hành tinh nhưng chân không dính một hạt bụi". Tiếp xúc thì vẫn là tiếp xúc nhưng cảm thọ không phát sinh. Cảm thọ không phát sinh không có nghĩa là uống nước không biết nóng, lạnh; nhìn bông hoa không biết màu sắc, mà có nghĩa là khi tiếp xúc ta nhận biết rõ ràng nhưng không khởi lên tiếng thì thầm bên trong, không độc thoại hay đối thoại để mời gọi ký ức kỷ niệm sinh khởi; đó gọi là xúc mà không sinh thọ. Ngay ở đây ta có thể cắt đứt chuỗi phát sinh của ái và thủ, và đồng thời cũng chấm dứt chuỗi vô minh, hành, thức... trong mười hai Nhân Duyên. Mười hai Nhân Duyên là một vòng tròn gồm mười hai mắc xích. Ta chỉ cần chặt đứt một mắc xích bất kỳ nào đó thì vòng tròn mười hai mắc xích kia tự tan rã.
Đức Thế Tôn sau khi thành đạo, ngài đã thiền quán, chiêm nghiệm và bừng sáng giáo lý mười hai Nhân Duyên quan trọng này. Sau này các vị luận sư đã dùng giáo lý Duyên Khởi khai triển thành hệ thống để nhận diện về toàn thể cấu trúc vật chất hữu hình, cũng như sự vận hành của tất cả mọi ý niệm và hình thành học thuyết Tánh Không, Chúng ta tu tập chỉ cần thực hành thế nào ngay nơi sự tiếp xúc nà đừng để cho cảm thọ sinh khởi. Thực tập không để cho cảm thọ của quá khứ tràn về tức khắc, chúng ta có thể cắt đứt dòng chảy phiền não của sinh tửphía sau, đồng thời diệt trừ gốc rễ vô minh phía trước.
Cuối cùng, chúng ta chia sẻ vấn đề chứng nghiệm giáo lý Duyên Khởi. Có hai con đường để bước sâu vào đạo, tiến gần đến chân lý.
Thứ nhất là ngộ lý khởi tu. Ngộ lý khởi tu là con đường vận dụng trí tuệ để nhận diện rốt ráo mọi đau khổ của cuộc đời vốn là do nhân duyên mà sinh ra. Ai có được niềm tin chắc thực như vậy và từ đó mà chuyển đổi nhận thức, quan niệm chấp thủ sai lầm của mình thì gọi là người thể nhận được ly (ngộ) để bắt đầu vận dụng vào cuộc sống.
Con đường thứ hai là khởi tu (ứng dụng) trước rồi dần dần nhận ra đạo lý. Dưới lăng kính của tuệ giác Duyên Sinh vô ngã, chúng ta có thể nhìn mọi việc dù thành công hay thất bại đều có giá trị tích cực giúp ta tu tập thiện hạnh và vươn lên trong mọi tình huống. Khi hiểu được mọi biểu hiện không phải chỉ dành cho một mình ta mà có sự tương tác trùng trùng, thì một việc lành mình làm, một ý niệm tốt đẹp khởi lên..., tất cả không bao giờ mất. Hiện nay có những ngành khoa học thử nghiệm chứng minh tâm thức con người chúng ta có một khả năng trị liệu rất lớn đối với hình hài, đối với sự sống. Ta gởi một ý niệm thiện lành để cho một người để chuyển hóa tâm thức người kia là gởi tặng hạnh phúc cho người ấy. Khi tâm ta rạng rỡ niềm vui, tự nhiên người chung quanh ta cũng vui theo, đó là món quà từ bên trong ta gởi tặng đến người mà không cần làm thêm gì cả.
Bằng con đường sử dụng trí tuệ, sử dụng nhận thức, chúng ta đi vào giáo lý Duyên Khởi để từ đó nhận ra các pháp trên thế gian đều hình thành bằng nhân duyên. Và bằng con đường thực hiện thiện hạnh trong đời sống thâm thức chúng ta khi cơ duyên hội đủ, tự nhiên bừng sáng tuệ giác: Mọi hiện hữu đều được cấu thành bởi duyên sinh vô ngã. Và ta sống trong sự tiếp xúc với mọi thứ, mọi điều mà không hề vướng mắc vào cảm thọ, không đắm chìm vào ái, thủ, hữu. Ta thong dong trong cuộc đời, không có bóng dáng lo âu, khổ đau đè nặng lên tâm thức.
Chúng ta đều biết nền tảng xuyên suốt của giáo lý đạo Phật là Duyên sinh đưa đến vô thường, vô ngã và hình thành tam pháp ấn, cuối cùng quy về tự thể là Niết bàn. Con đường tu tập của chúng ta ở mức độ thâm sâu nhất là làm thế nào thể nhập tự thể Niết bàn không sinh không diệt. Trong đời sống thế gian, sự nghiệp của chúng ta tạo dựng một đời nếu khéo léo thì giữ được đến lúc trăm tuổi, rồi cũng để lại cho con cháu nào của cải, tiền tài, danh phận..., có thể cao sang hơn hết thảy mọi người, nhưng thử hỏi những thứ ấy có tồn tại mãi không? Hay tất cả cũng đều mất đi khi ta không còn hơi thở. Sự thật này cho ta cơ hội thể nghiệm rõ ràng hơn về giáo lý Duyên Khởi để từ đó đưa đến đoạn cuối của con đường thể nghiệm tự tánh Niết Bàn.
Giáo lý Duyên Khởi trao cho ta chiếc chìa khóa mở tung cánh cửa thay đổi nhận thức, ta không phải là hình hài này, không phải là vui buồn, sướng khổ, thương ghét này, không phải là suy nghĩ này. Giáo lý Duyên Khởi có công năng phá tan mọi bản ngã mà ta chấp chặt bất lâu nay, và giúp ta nhận diện con người thật của mình vốn là cái ở sâu bên trong hợp thể ngũ uẩn này. Điều này được chỉ ra rất rõ trong Thiền sử qua câu chuyện Phá Táo Đọa rất hay sau đây:
- Ở một làng kia, người ta đồn rằng có một ông thần Táo rất linh hiển. Ai cầu điều gì đều được toại nguyện. Ai mất bò, dê, trâu, heo đến khấn vái là ông giúp cho tìm lại được, đem về. Thần Táo linh quá nên dân làng thường đem heo, gà đến cúng cho ông ở cái lò đặt bên gốc cây đa. Ngày nọ, một nhà sư đi ngang qua vùng này, nghe đồn chuyện thần Táo, bèn lò mò đến xem cái miếu thờ ấy. Nhà sư nhìn cái lò một lúc, rồi lấy gậy gõ ba cái trên đầu lò bảo: "Ôi, tôi tưởng gì ghê gớm lắm, hóa ra chỉ là cái bếp lò do đất nặn lên có gì mà linh hiển". Sau câu nói của nhà sư, cái lò vỡ ra từng mãnh, đổ sụp xuống. Lát sau, một ông thần mũ cao, áo rộng đi đến phục lạy dưới chân nhà sư mà thưa rằng: "Bạch thầy, con bị đọa ở đây năm trăm năm rồi, hôm nay nhờ lời khai thị của thầy nên con ngộ được lý Duyên Sinh, thoát kiếp đọa đày". Nhà sư cười bảo: "Lý duyên sinh là tự tánh của ông, không phải do tôi khai thị mới có". Ông thần thưa: "Đành là như vậy, nhưng không có thầy khai thị con đâu có ngộ được". Nói xong ông thần biến mất. Các đệ tử của vị thầy thấy lạ, đến thưa: "Thầy có phép mầu gì mà có thể khai thị để ông thần Táo kia liễu ngộ, xin nói lại cho chúng con nghe". Nhà sư nói: "Các thầy cùng đi với tôi đều thấy đó. Tôi chỉ nói: Ông vốn là đất tạo thành, có gì là linh hiển trong ông đâu!" Các đệ tử rất ngạc nhiên không biết trong lời nói kia có điều gì lạ mà thần Táo thoát được kiếp bị đọa năm trăm năm. Điều kỳ diệu đó là gì? Nếu nhận ra được cái kỳ diệu trong đó tức khắc mình đã nhận biết con đường Niết bàn để quay lại.
Thần vốn không có hình thể vật lý, nên ông thần Táo có thể biến mất nơi này, hiện ra chỗ khác một cách nhẹ nhàng. Ông đi bằng tâm thức: sáng chơi non Nam, chiều dạo biển Bắc, chưa hề bị ràng buộc, ngăn ngại bởi một vật gì. Một hôm, ngồi vắt vẻo trên cành cây, tình cờ thấy có người đến đốt hương khấn vái trước cái lò cầu xin gì đó. Ông nghĩ là người ta khấn vái mình liền chạy đi tìm heo hay bò lùa về cho họ. Một vài lần thấy linh hiển, người ta rủ nhau đến khấn xin trước cái lò đông hơn, thế là ông vất vả ngược xuôi để giúp tìm kiếm trâu, bò, heo... cho dân làng tội nghiệp. Chưa hết, nếu một hôm có đứa trẻ chăn bò vào nghịch phá, lấy chân đá cái lò, vậy là xúc phạm đến ông, ông bẻ gãy chân nó. Rồi khi gặp chuyện không như ý, ông cũng nổi giận, bất an, sầu não..., vì ông đã gắn đời ông vào cái lò, ông thấy ông là cái lò bể kia.
Vị sư đã nhìn thấy điều ấy, chỉ nhẹ nhàng bảo ràng ông không phải là cái lò đất. Cuộc đời thần Táo không phải tất tả ngược xuôi như vậy để thỏa mãn mọi người. Ông không phải là cái lò kia, mà là một người khác ở bên sau cái lò ấy. Từ câu chuyện này, chúng ta có thể nhìn lại để xem thân này là ta hay thân của ta? Sự thật thân này chỉ là vật sở hữu của ta.
Chúng ta cần nhớ một điều quan trọng. Cái gì được cho là của tôi tức cái đó đều là vật sở hữu. Khi mọi vật đã là sở hữu thì nó không phải là "mình" mà là "cái của mình". Nhưng chúng ta thường để mình gắn chặt vào mọi thứ tình cảm (niềm vui, nỗi buồn, thương giận...) cho đến vật chất (nhà, xe, tiền của, con cái, người thân...), cho đó là ta nên bị ràng buộc khổ sở vô cùng. Chúng ta đồng hóa mình vào trong những thứ ấy, luôn thấy mình là "cái lò bể" giống như ông thần Táo kia. Và việc tu tập ở đây là ta chỉ cần quay lại nhận rõ chính mình là "ông thần Táo" chứ không phải là "cái lò" dưới gốc đa, mình là tuệ giác "nhận biết" bên trong chứ không phải thân này. Mình là cái không đến đi, không sinh diệt.
Những gì có tính chất sinh diệt như niềm vui, nỗi buồn, dòng suy nghĩ... đều không bao giờ hiện hữu mãi trong ta. Tình yêu thương nào rồi cũng có lúc phai nhạt. Mọi thứ đều đổi thay, cho nên mọi hiện tượng cấu thành từ suyên sinh, duyên khởi đều chỉ là sở hữu của ta. Ta hãy nhận diện nó như một người khách; ta có quyền mời giữ nó ở lại với mình và cũng có quyền khước từ hay mời nó ra khỏi nhà theo ý mình. Thông minh làm được điều này là ta đang loại trừ tất cả những nỗi đau khổ đến với ta trong cuộc sống. Chúng ta tu tập là thực hành mỗi ngày nhìn mọi thứ đi qua trong tâm thức ta, đến với ta qua những sinh hoạt, giao tiếp hằng ngày bằng sự nhận biết. Tất cả có đến và đi, nhưng khả năng nhận biếtcủa ta không dến không đi bao giờ; nó luôn có mặt ngay nơi đây và giờ phút này.
Sống được với cái nhận biết ấy thì ngay lúc tiếp xúc chỉ là tiếp xúc. Có xúc mà không có thọ, tưởng, ái, thủ, hữu, ưu bi, khổ não. An trú ngay chỗ nhận biết này, ta ngắt được dòng chảy của vô minh phía trước, chấm dứt được khổ đau phía sau. Ngay nơi đây tỉnh sáng thấy mình không phải là chiếc lò bể, tức chúng ta đang an trú trong tự thể Niết bàn, an trú trong tâm Phật chiếu sáng chính mình. Với niềm tin chắc thực vào điều này, thì dú có sống bất cứ nơi nào trên trái đất, chúng ta vẫn thong dong không vướng mắc, vì ta đã trở về với quê hương đích thực của mình. Trong ta là niềm hạnh phúc tỏa rạng, là hương vị an lạc tràn đầy và ta có thể dâng tặng những phẩm chất đó đến với mọi người.