AI VÀO ĐỊA NGỤC
Nguyên Minh
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh
Nhất thiết duy tâm tạo
Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nếu ai muốn
hiểu rõ được về hết thảy các
đức Phật trong
ba đời quá khứ,
hiện tại và tương lai, thì nên quán xét tánh thật của các pháp trên
thế gian này tất cả đều là do tâm tạo thành.” (Nhược
nhân dục liễu tri,
tam thế nhất thiết Phật, ưng
quán pháp giới tánh,
nhất thiết duy tâm tạo.)
Nói rằng tánh thật của các pháp tất cả đều do tâm tạo thành, có thể là
trừu tượng và do đó có phần khó hiểu đối với một số người. Nhưng chính cái “trừu tượng và khó hiểu” này lại là một trong những điểm cốt tủy của
đạo Phật, và cũng là phần
giáo lý thiết thực nhất có thể mang lại
sự giải thoát,
an lạc ngay trong
hiện tại cho những ai
hiểu rõ, tin nhận và
hành trì.
Tuy nhiên, nói là “trừu tượng và khó hiểu”, thật ra chỉ là đối với những ai mới
tiếp xúc thoáng qua mà thôi. Nếu có một sự
chiêm nghiệm sâu sắc, hầu như bất cứ ai cũng có thể nhận hiểu được
ý nghĩa của lời dạy này, cho dù mức độ nhận hiểu và
thực hành có thể là khác nhau ở mỗi người.
Có bao giờ bạn
quan sát cuộc sống của những người mù? Đối với họ, ánh sáng, màu sắc,
hình ảnh đều không còn có
giá trị phân biệt gì nữa. Vì thế, ngày và đêm đối với họ là như nhau, sáng và tối không có gì khác, và hết thảy màu sắc,
hình ảnh đều không còn được họ
nhận biết. Và nếu là những người mù từ lúc mới sinh ra, thì những khái niệm về màu sắc, ánh sáng,
hình ảnh đối với họ chính là những khái niệm không thể nắm bắt,
hình dung được!
Tương tự như vậy, khi một người bị điếc thì mọi
âm thanh cũng không còn có
giá trị nhận biết,
phân biệt. Bạn không thể
bàn luận với người ấy về những
âm thanh hay, dở, to, nhỏ... bởi vì đối với họ thì tất cả những
tính chất ấy
xem như không
hiện hữu.
Và nếu
chúng ta truy xét đến tận cội nguồn của các
giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý,
chúng ta sẽ
nhận ra rằng
sở dĩ mỗi
giác quan ấy có thể
hoạt động, giúp ta giao tiếp với các đối tượng
tương ứng như
hình sắc,
âm thanh,
mùi vị... đó là nhờ có một “năng lực nhận biết” bao trùm tất cả, hiểu được tất cả. Không có “năng lực nhận biết” này, người có mắt sáng cũng như mù, có tai cũng như điếc... bởi thật ra thì hết thảy các
giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng đều chỉ là những
ứng dụng khác nhau của cái “năng lực nhận biết” đó. Điều này
giải thích vì sao khi một người bị mù thì
thính giác và
xúc giác sẽ
tự nhiên phát triển
tốt hơn, giúp họ bù đắp lại phần nào khả năng giao tiếp với môi trường, chẳng hạn như để
nhận biết đường đi, đối tượng...
Khi một người ngủ rất say, cho dù các
giác quan của anh ta
hoàn toàn bình thường, nhưng lúc đó anh ta sẽ không
nhận biết được ánh sáng,
âm thanh, mùi hương... ở quanh mình. Vì sao vậy? Vì các
giác quan tuy vẫn
bình thường, nhưng “năng lực nhận biết” của anh ta đang tạm thời không
hiển lộ.
Như vậy, chính nhờ có
năng lực nhận biết này mà
chúng ta mới có thể vận dụng được các
giác quan trong sự giao tiếp với môi trường. Khi mắt
tiếp xúc với
hình sắc, sự
nhận biết này biểu
hiện thành nhãn thức, hay cái biết của mắt. Khi tai
tiếp xúc với
âm thanh, sự
nhận biết này biểu
hiện thành nhĩ thức, hay cái biết của tai. Khi mũi
tiếp xúc với mùi hương, sự
nhận biết này biểu
hiện thành tị thức, hay cái biết của mũi. Khi lưỡi
tiếp xúc với vị nếm, sự
nhận biết này biểu
hiện thành thiệt thức, hay cái biết của lưỡi. Khi thân
tiếp xúc, đụng cọ với mọi đối tượng mềm, cứng, trơn, nhám... sự
nhận biết này biểu
hiện thành thân thức, hay cái biết của thân, cũng gọi là
xúc giác. Khi ý
tiếp xúc với các
ý tưởng, các pháp, sự
nhận biết này biểu
hiện thành ý thức, hay cái biết của ý.
Như vậy, sự biểu hiện của
năng lực nhận biết ở sáu căn tạo thành sáu thức, và các
đối tượng nhận biết như
hình sắc,
âm thanh, mùi hương...
cho đến các đối tượng của ý được gọi chung là
sáu trần.
Trong sáu thức vừa kể trên thì
ý thức là
đặc biệt nhất, bởi
tính chất hoạt động của nó
liên quan đến tất cả các thức kia. Chẳng hạn, khi mắt nhìn thấy các
hình sắc thì
hoạt động của
nhãn thức chỉ
đơn thuần là
nhận biết hình sắc ấy mà thôi. Trên cơ sở sự
nhận biết của
nhãn thức,
ý thức mới khởi lên sự
phân biệt,
đánh giá về đối tượng, chẳng hạn như xanh, đỏ, đẹp, xấu... Chính
do nơi sự
phân biệt,
đánh giá của
ý thức mà
chúng ta mới hình thành những
cảm xúc như sự
ưa thích hay
chán ghét... đối với đối tượng.
Vì
tính chất bao quát và quan trọng của
ý thức, nên
chúng ta rất dễ cho rằng
ý thức chính là “ông chủ” của mọi
hoạt động.
Sự thật thì
ý thức cũng chỉ là một trong sáu thức, và do đó cũng chỉ
tồn tại trong mối quan hệ tương quan giữa căn và trần như trên đã nói. Khi tách rời mọi đối tượng của ý, ta không thể
hình dung được sự
hoạt động của
ý thức. Hơn nữa, ngay trong khi
ý thức đang
hoạt động, ta
vẫn có thể
nhận ra được một
năng lực nhận biết có khả năng “nhận biết mọi
hoạt động của ý thức”.
Để nhận rõ điều này,
chúng ta chỉ cần
ngồi yên trong một
thời gian ngắn, tập trung sự chú ý
quan sát của mình vào dòng
tư tưởng, vào những
ý nghĩ đang diễn ra trong
nội tâm. Khi ấy, ta sẽ
nhận ra rằng ngoài cái “tôi” đang
tư duy, còn có một cái “tôi” có thể tách biệt ra và
nhận thức được cái “tôi” đang
tư duy kia.
Điều này thật ra có
ý nghĩa gì? Chính là một bằng chứng cho thấy cái dòng
tư tưởng thường ngày vẫn
chi phối mọi
hoạt động của
chúng ta thật ra không phải do
ý thức làm chủ.
Ý thức cũng chỉ là một trong sáu thức, và vì thế, cũng
tương tự như năm thức kia, nó chỉ
hoạt động được là nhờ có một
năng lực nhận biết biểu
hiện ra ở nó.
Khi
chúng ta chưa hiểu được điều này,
chúng ta dễ dàng
chấp nhận mọi sự
thôi thúc,
sai khiến do
ý thức đưa ra, khiến cho năm thức còn lại đều phải chịu sự
chi phối và
sai khiến của nó. Sự
chi phối và
sai khiến ấy diễn ra như thế nào? Khi mắt (căn)
tiếp xúc với
hình sắc (trần) và sự thấy hình thành,
ý thức lập tức nảy sinh sự
phân biệt và
đánh giá về đối tượng, phân loại đó là đẹp hay xấu, đáng yêu hay dễ ghét...
Do nơi sự
phân biệt và
đánh giá của
ý thức, sự
nhận biết của
nhãn thức liền không còn
đơn thuần chỉ là
nhận biết nữa, mà nảy sinh sự mê đắm hoặc
chán ghét đối với từng đối tượng. Từ đó,
chúng ta bắt đầu có sự say mê, yêu thích,
chạy theo những
hình sắc xinh đẹp,
thích ý, và chê chán những
hình sắc xấu xí,
thô thiển...
Như vậy,
bản thân đối tượng vốn không có những thuộc tính như đáng yêu hay
đáng ghét, nhưng qua sự
chi phối và
sai khiến của
ý thức,
chúng ta mới rơi vào sự mê đắm
hình sắc.
Tương tự, với các đối tượng khác như
âm thanh, mùi ngửi, vị nếm, những xúc chạm của
thân thể, sự mê đắm của
chúng ta đều được hình thành theo cách đó. Trong kinh thường gọi sáu thức là sáu tên giặc (
lục tặc), chính là do
ý nghĩa này. Và những ai
chấp nhận sự
chi phối,
sai khiến, buông thả sáu căn
chạy theo sáu trần được gọi là “nhận giặc làm con” (
nhận tặc vi tử). Bởi chính
do nơi đây mà
chúng ta thực hiện tất cả mọi
hành vi tạo tác các nghiệp
thiện ác, chính
do nơi đây mà
chúng ta mê đắm không
nhận ra được
bản chất thực sự của
đời sống.
Nhưng cũng có thể nói rằng việc kết tội sáu thức là có phần nào
oan uổng. Bởi chính sự mê đắm,
chạy theo trần cảnh mới là thủ phạm
thôi thúc, xúi giục
chúng ta tạo nghiệp. Còn
bản thân sự
nhận biết sáng suốt của sáu thức vốn dĩ không có gì sai trái! Chính là khi hiểu được điều này, ta mới có thể ngay
tức thời dừng lại mọi cuộc
săn đuổi của sáu thức,
buông bỏ mọi đối tượng thuộc về
trần cảnh; và ngay khi đó sáu thức
trở thành sáng suốt,
trong sạch, đồng
một thể tánh với cái
năng lực nhận biết đã
hiển lộ ở nơi chúng.
Hay nói khác đi, sáu thức vốn không thực có, mà chỉ là sự biểu hiện của một sự
sáng suốt duy nhất mà thôi!
Vì thế, khi
chúng ta mê đắm một đối tượng nào đó thì sự mê đắm ấy là ở nơi ta chứ không phải là thuộc tính của đối tượng. Và cuộc sống của
chúng ta thông thường là sự
tiếp nối của
vô số những đối tượng làm ta mê đắm, nên việc
nhận biết được điều này là cực kỳ quan trọng, vì nó có thể
giải thoát chúng ta ra khỏi
sợi dây ràng buộc từ muôn kiếp, giúp ta
trở thành người
tự do, tự tại!
Điều này
giải thích vì sao một đối tượng có thể làm cho người nào đó say mê đến
điên cuồng nhưng lại chẳng có sức cuốn hút nào đối với một người khác. Bởi vì sự say mê đó vốn
dĩ hoàn toàn không phải là thuộc tính của đối tượng.
Đến đây,
chúng ta có thể
nhận ra được rằng, đối với mỗi người thì sự
hiện hữu của cả
thế giới này vốn dĩ chỉ có thể có được nhờ vào
năng lực nhận biết. Không có cái “biết” của ta thì
thế giới này
xem như không
hiện hữu đối với ta, cũng như
hình sắc không
hiện hữu đối với người mù,
âm thanh không
hiện hữu đối với người điếc...
Rất có thể bạn sẽ thấy có phần khó hiểu ở điểm này. Người mù không
nhận biết hình sắc, nhưng
hình sắc vẫn
tồn tại đấy thôi! Người điếc không
nhận biết âm thanh, nhưng đâu phải vì thế mà
âm thanh không hiện hữu?
Tương tự, bạn có thể nghĩ rằng, cho dù
bản thân ta có “biết” hay “không biết” thì
thế giới này vẫn đang
hiện hữu chứ không thể vì thế mà biến mất!
Vấn đề ở đây là,
chúng ta đang nói đến sự
hiện hữu “đối với”
chúng ta, không phải đối với những người khác. Đúng là
hình sắc vẫn
tồn tại, cho dù một người mù không
nhận biết được. Nhưng bạn hãy thử
suy nghĩ xem, đối với một người bị mù từ lúc mới sinh ra, cho dù
thế giới này có hàng tỷ người sáng mắt, liệu có thể nào làm cho người mù ấy hiểu được thế nào là “màu đỏ” hay chăng? Vậy đối với người mù ấy, màu đỏ có
hiện hữu hay chăng?
Tương tự, cho dù
thế giới mà ta đang sống có vẻ như vẫn luôn
hiện hữu bất
chấp sự nhận biết hay không của ta, nhưng thật ra thì sự
hiện hữu ấy chỉ có
giá trị đối với ta một khi ta
nhận biết được nó. Và do đó,
tính chất thật sự của
thế giới ấy bao giờ cũng do chính
bản tâm ta tạo ra.
Khi một
đức Phật thành đạo, cả
thế giới trở nên
trang nghiêm thanh tịnh.
Tuy nhiên, đối với những
chúng sinh còn mê tối thì
thế giới vẫn đầy dẫy những điều
cấu uế,
bất tịnh. Trong kinh Duy-ma-cật,
Phật bảo ngài Xá-lỵ-phất rằng:
“Xá-lỵ-phất! Do tội của
chúng sinh, nên họ chẳng thấy
quốc độ của
Như Lai trang nghiêm thanh tịnh, chẳng phải lỗi của
Như Lai. Xá-lỵ-phất! Cõi
thế giới này của ta là
thanh tịnh, nhưng ngươi chẳng thấy được như vậy.”
Và
ý nghĩa này được tóm gọn vào một câu cũng trong kinh Duy-ma-cật: “Tùy
tâm thanh tịnh, ắt
cõi Phật thanh tịnh.” (Tùy kỳ tâm tịnh tắc
Phật độ tịnh.)
Cõi Phật ở đây chính là
thế giới mà mỗi
chúng ta đang cảm nhận, nhìn thấy
trong đời sống. Một khi
tâm thức ta được
thanh tịnh,
thế giới ấy sẽ được
thanh tịnh. Như vậy,
rõ ràng là “thanh tịnh” hay “bất tịnh” đều không phải là những thuộc tính vốn có của
thế giới. Những
tính chất ấy đều
do nơi tâm thức của ta mà có. Và chính do đây mà
chúng ta có thể hiểu được thế nào là “nhất thiết
duy tâm tạo”.
Và cái “tâm” mà
chúng ta đang nói đến thật ra không phải là gì khác mà chính là cái
năng lực nhận biết sáng suốt đã
hiển lộ qua sáu căn thành sáu thức. Trong nhiều kinh sách, cái gọi là “năng lực nhận biết” này được gọi bằng rất nhiều tên khác nhau,
đơn giản chỉ là vì không một tên gọi nào có thể được xem là
hoàn toàn nói rõ được nó, mà tất cả đều chỉ được tạm dùng trong những
trường hợp nhất định để
mô tả về một điều vốn thật ra là chỉ có thể nhận hiểu mà không thể
mô tả được. Những tên gọi khác nhau ấy có thể là “cái biết”, có thể là “chân như”, có thể là “thật tánh”, có thể là “chân tâm”, có thể là “chân tánh”... và rất nhiều tên gọi khác nữa.
Tuy nhiên, dù gọi bằng bất cứ tên gọi nào, điều đó cũng không quan trọng.
Vấn đề quan trọng nhất chính là
nhận biết và tách rời được nó ra khỏi
ý thức hư vọng vốn luôn là cái bóng của
pháp trần. Và khi
chúng ta có thể làm được điều đó, thì ngay chính
ý thức tự nó cũng không còn
tồn tại, mà sẽ
trở thành sự
hiển lộ sáng suốt của
chân tâm.
Sự
phân biệt giữa
ý thức hư vọng và
chân tâm chính là
giới hạn mà khoa học chưa thể
vượt qua. Bởi vì mỗi sự
nhận biết của
giác quan đều có một “trú xứ”
cụ thể, chẳng hạn như sự
nhận biết của mắt hay
nhãn thức nằm ở mắt, sự
nhận biết của tai hay
nhĩ thức nằm ở tai...
Cho đến sự
nhận biết của ý hay
ý thức vẫn được xem là nằm ở bộ óc. Trong khi đó,
năng lực nhận biết hay
chân tâm mà
chúng ta vừa đề cập đến
quả thật không có một “trú xứ”
nhất định, nhưng
đồng thời mắt, tai, mũi, lưỡi... lại đều có thể xem là trú xứ của nó, bởi đó chính là sự
hiển lộ của nó chứ không phải là gì khác.
Vì không
nhận biết được sự
hiện hữu của một
chân tâm, nên việc tin nhận về một sự
tồn tại sau khi chết là điều rất khó. Bởi vì khi mắt, tai, mũi...
cho đến bộ óc đều hư hoại
sau khi chết, thì
dựa vào đâu để có được một sự tồn tại? Ngược lại, nếu
chúng ta nhận biết rằng
nhãn thức cho đến ý thức vốn
không thật có, chỉ là sự
hiển lộ của một
chân tâm sáng suốt, thì sự
hoại diệt của chúng
hoàn toàn không thể
đồng nghĩa với sự
hoại diệt của
chân tâm.
Tuy nhiên, làm thế nào để
nhận biết được sự
hiện hữu của
chân tâm,
hay nói theo
ngôn ngữ của nhà thiền là “kiến tánh”, lại là một
chủ đề khá rộng. Vì thế, điều tất nhiên là
chúng ta không thể đề cập đến trong
phạm vi của tập sách này.