AI VÀO ĐỊA NGỤC
Nguyên Minh
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh
Xa rời địa ngục
Cho dù đã “tạm gác lại” không bàn đến một
địa ngục sau khi chết, nhưng
chúng ta cũng không
thể không nhận ra một sự tương đồng giữa những gì đã được
mô tả về
cảnh địa ngục ấy với những
trạng thái đau đớn về
tinh thần mà ta đang cảm nhận.
Hay nói khác đi, một
cảnh giới địa ngục sau khi chết, nếu có, chẳng qua cũng chỉ là một sự kéo dài của những gì mà
hiện tại chúng ta đang cảm nhận.
Vì thế, đến đây
chúng ta có thể
vui mừng nhận ra một điều là: nếu như mỗi
chúng ta có thể sống như thế nào để
thoát khỏi “cảnh giới
địa ngục trong hiện tại”, thì một “địa ngục sau khi chết” – nếu như có thật –
chắc chắn cũng không phải là nơi đến của chúng ta!
Có người nói rằng: “Hạnh phúc là sự tạm dừng của những khổ đau.”
Phát biểu này tuy chưa phải là
hoàn toàn chính xác, nhưng cũng tạm nói lên được thực trạng “vui ít khổ nhiều” của
đời sống. Ngay cả khi
chúng ta có gặp được rất nhiều
may mắn thì sự trải nghiệm khổ đau dường như vẫn là
tính chất chủ đạo của cuộc sống này.
Nhưng những nỗi khổ đến với
chúng ta cũng không hề có sự đồng
nhất như nhau. Mỗi
đau khổ có một
nguyên nhân, và khi
nguyên nhân khác nhau thì kết quả nhận lãnh cũng sẽ khác nhau.
Vì thế,
luật nhân quả xưa nay vốn thường được hiểu như là mối tương quan giữa những
hành vi thiện ác với những kết quả sẽ nhận được về sau. Nhưng thật ra còn có mối quan hệ
tức thời giữa một
hành vi với
tác động của nó đối với
bản thân người
thực hiện mà phần lớn
chúng ta ít khi quan tâm đến, cho dù đó là điều vẫn
thường xuyên xảy ra trong cuộc sống.
Chẳng hạn như khi ta giúp đỡ một người bạn bằng cách làm thay công việc trong khi anh ta bị bệnh. Theo cách hiểu về
nhân quả thì
hành vi này được xem là một điều thiện và sẽ mang lại cho ta một kết quả
tốt đẹp tương ứng trong tương lai, chẳng hạn như ta cũng sẽ được ai đó giúp đỡ khi
cần thiết, hoặc sẽ nhận được những
may mắn,
phúc lộc nào đó...
Điều mà ít ai
quan tâm đến là
tác động tức thời của
hành vi tốt đẹp mà ta vừa
thực hiện.
Sự thật thì việc
thực hiện hành vi tốt đẹp ấy sẽ mang lại cho ta một sự
hài lòng,
thỏa mãn, một niềm vui nhẹ nhàng khi có thể làm được công việc mà ta biết là
tốt đẹp. Và
tác động tích cực này không
thể không được xem là một phần kết quả của
hành vi đã làm, thậm chí còn phải nói là một kết quả trực tiếp,
thiết thực mà bất cứ ai cũng có thể dễ dàng
nhận thấy ngay, nhưng lại rất
ít khi lưu tâm đến.
Trong
kinh Pháp cú, ở kệ số 18
đức Phật dạy rằng:
Hiện tại vui nơi đây,
Đời sau vui
nơi khác.
Người tu các
nghiệp lành,
Nơi nơi đều
vui vẻ.
(
Hiện thế thử xứ hỷ,
Tử hậu tha xứ hỷ.
Tu chư
phước nghiệp giả,
Lưỡng xứ câu
hoan hỷ.)
Cho nên, những
hành vi tốt đẹp không chỉ là tạo ra kết quả
tốt đẹp trong tương lai, mà ngay khi
thực hiện những
hành vi đó,
chúng ta đã nhận được những kết quả
tốt đẹp tức thời về mặt
tinh thần.
Nếu bạn đã từng làm một
việc thiện nào đó – tôi tin là như vậy – cho dù rất nhỏ nhoi, bạn sẽ dễ dàng tự mình
nhận biết được thế nào là niềm vui có được sau khi làm điều thiện. Và điều đó cũng có nghĩa là: có một mối tương quan giữa mỗi
hành vi của
chúng ta với những cảm nhận về mặt
tinh thần của
chúng ta ngay sau đó.
Và vì thế, sẽ không khó hiểu khi ngược lại cũng có những
hành vi mà sau khi
thực hiện sẽ đẩy ta vào sự khổ sở, dằn vặt hay ray rứt trong
tâm hồn... Và
theo như những gì mà
chúng ta đã bàn đến, có thể xem những
hành vi thuộc loại này như là những chiếc chìa khóa mở cửa vào
địa ngục.
Mặt khác, như
chúng ta đã đề cập đến trong phần trước, chính
trạng thái tinh thần quyết định khuynh hướng
việc làm của
chúng ta. Do đó, không thể phủ nhận được mối tương quan giữa những
trạng thái tinh thần khác nhau với khuynh hướng
thực hiện các
hành vi khác nhau, và vì thế mà dẫn đến những kết quả khác nhau.
Như vậy, những mắt xích
phức tạp mà
chúng ta vừa
xem xét cuối cùng rồi cũng dừng lại ở điểm khởi đầu là một
tâm hồn nhẹ nhàng
thanh thản hay nặng nề trầm uất. Ở từng mức độ khác nhau, những
trạng thái tinh thần này có thể xem là cội nguồn quan trọng
quyết định những cảm nhận vui, buồn, sướng, khổ của
chúng ta trong đời sống.
Và thật
may mắn là
chúng ta hoàn toàn có thể chủ động
đạt đến những
trạng thái tinh thần tích cực, nghĩa là
đạt đến một
tâm hồn nhẹ nhàng
thanh thản, bằng vào những
nỗ lực đúng hướng của chính
bản thân mình.
Có ba
yếu tố độc hại tiềm ẩn trong
tâm hồn chúng ta, có
tác dụng cuốn hút
chúng ta về những khuynh hướng xấu. Ba
yếu tố này là
tham lam,
sân hận và
si mê, thường được gọi chung là
Tam độc.
Chúng ta thấy là có hai trong số ba
yếu tố này đã được nhắc đến trước đây trong các nhóm
nguyên nhân làm che mờ sự
sáng suốt của
tâm hồn, đẩy
chúng ta vào những
trạng thái nặng nề, trầm uất. Điều này càng cho thấy rõ mối tương quan chặt chẽ giữa những
tác hại của chúng. Bởi vì, như đã nói, khi chúng gây ra
trạng thái tâm hồn nặng nề, trầm uất thì cũng là
đồng thời tạo ra khuynh hướng
thực hiện những
hành vi xấu ác.
Hơn thế nữa, trong khi
si mê là một
trạng thái thiếu
tri thức và
trí tuệ, thì
đồng thời nó cũng là hệ quả tất yếu của hai
yếu tố tham lam và
sân hận. Bởi vì, khi các
tâm niệm tham lam và
sân hận chế ngự hoàn toàn tâm hồn ta, thì tất yếu ta sẽ mất đi sự
sáng suốt và rơi vào
si mê.
Như vậy, điểm khởi đầu của
chúng ta trong việc xa rời
địa ngục chính là
hạn chế và loại trừ ba
yếu tố tham lam,
sân hận và
si mê.
Sự
tham lam là một ông chủ khó tính – vì chẳng bao giờ
chúng ta có thể làm
hài lòng – mà phần lớn
chúng ta đều là những tên
nô lệ của nó ở từng mức độ khác nhau. Khi lòng tham nổi lên,
lý trí bị che mờ và sự
thôi thúc chiếm hữu trở thành nỗi
ám ảnh liên tục trong lòng ta.
Tùy theo đối tượng của lòng tham, sức cuốn hút đối với
chúng ta có thể thay đổi khác nhau, nhưng nói chung tất cả đều tạo ra một tâm trạng mong muốn
chiếm hữu đối tượng, khao khát có được đối tượng đó. Tâm trạng này thường phát triển
dần dần theo
thời gian,
cho đến một lúc nào đó, nó khống chế
hoàn toàn ý chí và ta không còn chọn lựa nào khác hơn là phải
thực hiện mọi phương thức để
chiếm hữu đối tượng.
Đối tượng của lòng tham là một
phạm vi không dễ đo lường hay
nhận thức trọn vẹn. Không chỉ là những vật thể
hữu hình như
tài sản, nhà cửa, xe cộ... vốn là những thứ có thể nhìn thấy và xác định
giá trị, lòng tham còn hướng đến cả những đối tượng vô hình như
danh vọng,
tiếng tăm, sự
kính trọng... là những đối tượng không thể nhìn thấy và cũng không thể xác định
giá trị cụ thể, nhưng lại có khả năng cuốn hút mạnh mẽ không kém các đối tượng
vật chất.
Hơn thế nữa,
ý thức chiếm hữu do lòng tham tạo ra có khi
hoàn toàn vô lý đến mức gây nhầm lẫn, làm cho ta không
nhận ra đó là lòng tham. Chẳng hạn như trong quan
hệ nam nữ hay vợ chồng, ngoài những tình cảm dành cho nhau còn có một “ý thức sở hữu” luôn
tồn tại.
Ý thức sở hữu này làm cho người vợ luôn nghĩ rằng người chồng là “của mình”, và luôn tìm mọi cách để
bảo vệ,
gìn giữ cái “vật sở hữu” này. Nếu
sử dụng lý trí để phân tích, ta sẽ thấy điều này có vẻ như
vô lý, bởi quan hệ
gắn bó giữa hai người chỉ có thể là
do nơi những tình cảm dành cho nhau mà thôi. Tuy vậy, trong
thực tế thì
ý thức “chiếm hữu” này vẫn luôn
tồn tại, bởi nó
xuất phát từ lòng
tham của chúng ta, chỉ muốn chiếm lấy đối tượng cho riêng mình.
Loại bỏ yếu tố lòng tham, ta sẽ không thể
giải thích được rất nhiều
phản ứng quá khích trong các vụ đánh ghen chẳng hạn, khi mà người ta hành động không một chút “lưu tình”, để rồi phải
biện hộ một cách văn vẻ là “thương nhau lắm, cắn nhau đau”.
Sự
chi phối của lòng tham đối với
chúng ta diễn ra một cách
liên tục và
lâu dài. Một khi
chúng ta vừa nảy sinh sự
ưa thích,
tham muốn đối tượng,
chúng ta đã
lập tức trở thành nô lệ của lòng tham. Bởi vì kể từ
lúc ấy, mọi
suy nghĩ, hành động của
chúng ta sẽ âm thầm bị
chi phối bởi sự
ham muốn, sẽ luôn hướng theo sự
ham muốn, và sẽ luôn tìm mọi cách để
thỏa mãn sự
ham muốn.
Sự
chi phối này thậm chí kéo dài cả đến sau khi ta đã có được đối tượng, bởi vì khi ấy sẽ bước sang giai đoạn
chiếm hữu và
bảo vệ. Ta sẽ không
cho phép bất cứ ai khác giành lấy đối tượng mà ta đã có, nên sẵn sàng làm
mọi việc để giữ chặt lấy nó.
Nói chung, sự
chi phối của lòng tham đối với một đối tượng chỉ
chấm dứt khi ta đã thực sự
nhàm chán, không còn
ham thích đối tượng đó nữa.
Và
nhận xét này cũng chính là nguyên tắc để
đối trị lòng tham. Đối với tiền tài,
vật chất,
của cải... nếu
chúng ta quán xét để thấy được
tính chất tạm bợ, không thường tồn và
vô nghĩa của chúng khi
so sánh với những
giá trị tinh thần cao đẹp,
chúng ta sẽ nảy sinh sự
nhàm chán, không còn
ham thích, và do đó sẽ không bị sự
chi phối của lòng tham.
Tương tự, đối với
danh vọng,
tiếng tăm, sự
kính trọng... nếu
chúng ta cũng quán xét để thấy được chúng
hoàn toàn không phải là những
giá trị chân thật có thể giúp ta tạo ra một
cuộc sống hạnh phúc, an vui, mà ngược lại còn
mang đến nhiều sự
phiền toái, rối rắm trong cuộc sống,
chúng ta cũng sẽ nảy sinh sự
nhàm chán, không còn
ham thích, và do đó sẽ không bị sự
chi phối của lòng tham.
Đối với những người
xuất gia, để
đối trị với tâm
tham dục cuốn hút về
nữ sắc,
đức Phật cũng dạy phép
quán bất tịnh. Theo phép quán này,
chúng ta quán xét
thân thể con người như một sự tập hợp của những
yếu tố như xương, da, thịt..., trên đó,
cửu khiếu thường chảy ra toàn những chất nước hôi hám... Tất cả những
yếu tố cấu
thành thân thể đều không thường tồn. Chẳng bao lâu cái già sẽ đến, da nhăn,
tóc bạc, lưng khòm... và một khi tắt hơi nhắm mắt thì tất cả đều thối rửa
không tồn tại. Khi quán xét như vậy,
chúng ta sẽ nảy sinh sự
nhàm chán, không còn
ham thích, và do đó sẽ không bị sự
chi phối của lòng
tham dục.
Lòng tham
hiện hữu trong mỗi
chúng ta như một
bản chất tự nhiên, và vì thế mà ta thường
mặc nhiên chấp nhận sự
chi phối của nó. Thậm chí, một số người còn xem đây là
động lực cần thiết để vươn lên trong cuộc sống. Những người này đã nhầm lẫn giữa
ý chí hướng thượng với sự
thôi thúc của lòng tham. Bởi vì
ý chí hướng thượng giúp ta vươn lên
hoàn thiện bản thân cũng như
điều kiện môi trường chung quanh, nhưng nó không che mờ sự
sáng suốt của
tâm hồn, bởi vì nó không làm nảy sinh sự khao khát
chiếm hữu. Trong khi lòng tham thì ngược lại, như đã phân tích trên, luôn hướng đến sự
chiếm hữu, và do đó mà làm che mờ đi sự
sáng suốt, làm mất đi sự nhẹ nhàng vốn có của một
tâm hồn thanh thản.
Hiểu rõ được về lòng tham và những
tác hại của nó,
chúng ta sẽ
sáng suốt hơn trong việc
nhận biết mỗi khi lòng tham
sinh khởi, cũng như có thể
chống lại và thoát được ra khỏi sự
chi phối của nó.
Tâm hồn ta sẽ trút bỏ đi rất nhiều
gánh nặng một khi lòng
tham lam bị
kiềm chế và
loại bỏ.
Lòng
sân hận là
yếu tố độc hại thứ hai đối với
tâm hồn. Nếu
như không ai trong
chúng ta là không có lòng tham, thì cũng không ai trong
chúng ta không có lòng
sân hận.
Chúng ta thường không
nhận ra lòng
sân hận nếu
như không có bất cứ việc gì trái ý
chúng ta. Bởi vì điều đó có nghĩa là “bản ngã” của
chúng ta đang được ve vuốt,
tôn sùng, không có ai
xúc phạm đến nó.
Nhưng đây lại là điều không thể có trong cuộc sống. Ngay cả khi bạn có được
quyền lực vượt trên
mọi người, bạn cũng không thể
đảm bảo việc không có ai làm trái ý mình. Mặt khác, những sự việc diễn ra quanh ta rất nhiều khi không
hoàn toàn do ta
kiểm soát, và do đó mà những việc “bất như ý” vẫn là chuyện rất thường xảy ra.
Và vì thế mà cuộc sống này vẫn luôn là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của lòng
sân hận. Bất cứ khi nào có ai đó làm một điều trái ý
chúng ta, hoặc một sự việc nào đó diễn ra không như ta mong muốn, ngay khi ấy
chúng ta sẽ dễ dàng
nổi giận. Và
tùy theo mức độ “trái ý” của sự việc mà
cơn giận của
chúng ta có thể có những cường độ khác nhau.
Khi
cơn giận nổi lên,
tác hại đầu tiên của nó là khống chế
lý trí và tình cảm của
chúng ta.
Chúng ta không còn khả năng
suy xét,
phán đoán một cách
sáng suốt như
bình thường được nữa. Mọi
suy nghĩ,
phán đoán của
chúng ta bị cuốn hút về phía làm thế nào để
thỏa mãn cơn giận. Và mọi tình cảm của
chúng ta cũng bị đẩy sang một bên, nhường chỗ cho
lửa giận bốc lên chiếm trọn
tâm hồn. Một đứa con thường ngày được nuông chiều,
thương yêu nhất
vẫn có thể phải nhận một bạt tai nảy lửa nếu
dại dột đến
quấy rầy người cha trong lúc ông đang phừng phừng
lửa giận. Vì thế, nếu
chúng ta hiểu được điều này thì sẽ không lấy làm lạ khi thấy rằng những
vấn đề lý lẽ và tình cảm thường không mấy khi có
tác động đối với một người đang
giận dữ.
Nếu
lặng lẽ quan sát từ xa một người đang tức giận,
chúng ta có thể dễ dàng
nhận ra những thay đổi rõ nét, từ mọi
hành vi,
cử chỉ,
lời nói cho đến vẻ mặt, dáng đi, tất cả đều như bị kích động bởi một
sức mạnh vô hình, và sự khoan thai, bình thản không còn
hiện diện nơi người ấy trong lúc đó.
Vì thế,
chúng ta cũng có thể thấy được rằng một người đang
giận dữ là đang sống trong một
cảnh giới tinh thần hoàn toàn khác biệt với những lúc
bình thường.
Tâm hồn của người ấy bị nung nấu bởi một sức nóng
dữ dội do
cơn giận tạo ra. Sức nóng ấy có thể
bộc lộ cả ra bên ngoài với những dấu hiệu
cụ thể như thân nhiệt tăng, mồ hôi tuôn ra và
vẻ mặt đỏ bừng lên...
Và nếu như
đặc điểm của lòng
tham lam là sự
chiếm hữu, thì điểm đặc trưng của lòng
sân hận lại là sự đập phá, hủy hoại. Khi
cơn giận bừng lên, sự đập phá
trở thành một “nhu cầu”! Việc trút
cơn giận vào đúng đối tượng rất
ít khi xảy ra, bởi có những sự ngăn trở
nhất định không phải bao giờ cũng có thể
vượt qua. Hơn thế nữa, có những
cơn giận không có đối tượng
cụ thể hoặc có quá nhiều đối tượng... Chẳng hạn như, có những
trường hợp người ta
nổi giận đến mức
điên cuồng và nghĩ rằng... cả
thế giới này đang
chống lại mình! Hoặc
đơn giản hơn nữa là sự
vắng mặt của đối tượng trong lúc
cơn giận đang “bốc lên”. Và vì thế, một người đang tức giận có thể đập phá, hủy hoại bất cứ vật gì trong tầm tay của anh ta, cho dù ai cũng biết đó là một
hành vi hoàn toàn vô lý!
Điều đáng buồn là sự đập phá, hủy hoại không bao giờ là
biện pháp thích hợp để hóa giải
cơn giận, mà chỉ càng làm cho nó bốc lên mạnh mẽ hơn nữa. Khi dừng lại để
quan sát cảnh đập phá
ngổn ngang do chính mình vừa gây ra trong
cơn giận, người ta thường không thấy “hối hận” hay dịu đi ít nhiều, mà
thực tế là càng thấy... tức giận hơn, như thể sự đập phá, đổ vỡ đó là do chính người mà mình đang tức giận gây ra.
Cũng
tương tự như sự
chiếm hữu không làm
thỏa mãn lòng tham, sự đập phá cũng không giúp ta
chấm dứt cơn giận.
Cơn giận chỉ có thể
chấm dứt khi sự kích động của nó lắng dịu đi và ta
lấy lại được sự
bình tĩnh.
Và
nhận xét này cũng chính là nguyên tắc để
đối trị lòng
sân hận. Để ngăn không cho một
cơn giận bốc lên, mọi sự
suy luận, phân tích của
lý trí hay
tác động của tình cảm đều
vô hiệu. Phương thức
hiệu quả duy nhất là sự định tĩnh. Bạn có
thể đạt được sự định tĩnh bằng nhiều cách, nhưng cách tốt nhất và dễ
thực hiện nhất là cách ly mọi
tác động từ bên ngoài, ngồi
một mình trong phòng riêng chẳng hạn.
Ngồi yên, và chỉ cần
ngồi yên, không
suy nghĩ bất cứ điều gì, nhất là những gì
liên quan đến sự việc đang làm bạn tức giận. Chỉ cần khoảng 10 hay 15 phút
ngồi yên như vậy, bạn sẽ có thể hóa giải được
vô số những
tác hại mà một
cơn giận có thể gây ra. Và một khi đã có được sự
bình tĩnh, đó mới là lúc bạn có thể nhờ đến sự
can thiệp của
lý trí hay tình cảm.
Vì thế,
chúng ta không lấy làm lạ khi thấy rằng những người có
thực hành thiền định rất hiếm khi
nổi giận. Bởi vì lòng
sân hận giống như một ly nước bị khuấy động lên, trong khi
thiền định lại chính là phương thức
đối trị để làm cho ly nước ấy lắng yên
trở lại. Nếu bạn
thực hành thiền mỗi ngày, ngay trong những tâm trạng
bình thường, thì lòng
sân hận không có mấy cơ may có thể khống chế được
tâm hồn bạn, ngay cả khi bạn gặp phải những điều trái ý nhất.
Điểm tương đồng giữa lòng
tham lam và lòng
sân hận là cả hai đều làm cho
tâm hồn ta mất đi sự
sáng suốt. Khi chúng đã khống chế được
tâm hồn ta, chúng
thôi thúc ta phải có những
hành vi đáp ứng với sự
tham lam, sự
giận dữ, cho dù những
hành vi ấy có thể là
vô lý, có thể là đi ngược lại các chuẩn mực
đạo đức. Vì thế, một khi đã trừ bỏ được lòng
tham lam và
sân hận,
tâm hồn ta sẽ trở nên nhẹ nhàng,
thanh thản hơn nhiều, vì không phải chịu những sự
trói buộc,
thôi thúc của các
yếu tố độc hại này.
Tham lam và
sân hận đều có thể đẩy ta vào chỗ
si mê, thiếu
sáng suốt. Sự
si mê này là do
lý trí của ta tạm thời bị
vô hiệu hóa bởi
tác dụng của lòng
tham lam hay
sân hận. Ngay khi ta trừ bỏ được sự
tham lam hay
sân hận thì
tâm trí ta sẽ lại
sáng suốt như trước đó.
Nhưng
si mê còn là một
yếu tố độc hại vốn có trong mỗi
chúng ta, cũng
tương tự như
tham lam và
sân hận. Bởi vì
si mê vốn là một cách
diễn đạt khác của sự thiếu
tri thức, thiếu
hiểu biết, mà
tri thức hay sự
hiểu biết lại không phải là điều
tự nhiên có được, vốn phải
do nơi sự
học hỏi. Nếu như
chúng ta không
quan tâm đến sự
học hỏi những điều
tốt đẹp trong cuộc sống, thì sự
si mê tự nó vốn đã
hiện hữu. Và một khi sự
si mê đã
hiện hữu thì
chúng ta không thể có đủ những
hiểu biết cần thiết để
nhận ra và
đối trị với lòng
tham lam hay
sân hận. Do đó mà những
yếu tố độc hại này sẽ phát triển ngày càng mạnh hơn. Rồi như một hệ quả tất yếu, càng
tham lam,
sân hận thì
chúng ta lại càng
si mê hơn nữa!
Cái vòng luẩn quẩn này sẽ chẳng bao giờ có thể bị phá vỡ, trừ khi
chúng ta có được một
nỗ lực tự thân để khai mở
trí tuệ, đẩy lùi sự
si mê. Sự
học hỏi giúp ta làm được điều đó, bởi vì nó mang lại những
hiểu biết,
tri thức cần thiết để
chúng ta có thể
nhận ra vấn đề và biết được là
cần phải làm những gì.
Vì thế, tuy là
yếu tố độc hại được kể ra
cuối cùng, nhưng
si mê có thể xem là mấu chốt quan trọng nhất trong cả ba
yếu tố. Mối tương quan
sinh khởi như vừa phân tích trên cho thấy rằng,
nếu không đẩy lùi được sự
si mê thì sẽ chẳng bao giờ có thể mở ra khả năng
nhận biết và trừ bỏ được các
yếu tố tham lam và
sân hận. Ngược lại, khi đẩy lùi được sự
si mê, ta sẽ có đủ
sáng suốt để
nhận ra sự
tham lam và
sân hận đang
hiện hữu trong lòng mình,
nhận biết được
tác hại của chúng cũng như phương thức
đối trị, và nhờ đó mà có thể
tiếp tục tiến bước trên
con đường hướng thượng.
Ba
yếu tố độc hại vừa kể trên có thể xem là sự thâu tóm một cách khái quát nhất các
nguyên nhân sinh khởi của mọi điều ác. Vì thế, trong kinh Phật dạy rằng: “Nếu không có tham, sân, si thì gọi đó là
trí huệ.” (Nhược
vô tham sân si, thị
danh vi trí huệ.)