AI VÀO ĐỊA NGỤC
Nguyên Minh
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh
Địa ngục ở đâu?
Trong sách
Quy nguyên trực chỉ, một
tác phẩm bằng Hán văn ra đời
vào khoảng thế kỷ 11, có ghi lại một cuộc
vấn đáp giữa
thiền sư Nhất Nguyên Tông Bổn với một người vốn không tin là có
địa ngục.
Ngài Tông Bổn hỏi: “Ông có bao giờ
nằm mộng chăng?”
Người kia đáp: “Có.”
Lại hỏi: “Trong mộng có khi nào gặp những việc buồn, vui, sướng, khổ... chăng?”
Đáp: “Có.”
Ngài Tông Bổn liền hỏi: “Những lúc buồn, vui, sướng, khổ đó, có phải là
thân thể nhận lãnh sự buồn, vui, sướng, khổ hay chăng?”
Đáp: “Hẳn là không phải, vì
thân thể lúc ấy mê muội, nằm yên
bất động trên giường ngủ, làm sao có thể nhận lãnh sự buồn, vui, sướng, khổ?”
Ngài Tông Bổn nói: “Vậy tức là phần
tinh thần nhận lãnh.
Cảnh giới địa ngục cũng
tương tự như thế, do
tinh thần nhận lãnh, chẳng có
hình tướng nên không thể nhìn thấy.
Tuy nhiên, chỉ trong một
giấc mộng mà còn có sự buồn, vui, sướng,
khổ không nhìn thấy được, huống chi là
cảnh giới tinh thần sau khi chết?”
Tất nhiên là
lập luận như trên chưa đủ để
thuyết phục những kẻ
hoài nghi trong thời
hiện đại này. Bởi lẽ phần
tinh thần trong giấc mơ là điều có thể hiểu được, nhưng phần
tinh thần tồn tại sau khi chết lại là chuyện mà nhiều người vẫn chưa tin nhận được.
Tuy nhiên,
lập luận trên đã nêu lên được
ý nghĩa vật thể và phi vật thể trong cách hiểu về
địa ngục. Hơn thế nữa, sự cảm nhận những buồn, vui, sướng, khổ trong một giấc mơ có thể gợi nhớ đến những buồn, vui, sướng, khổ mà mỗi
chúng ta đang nhận chịu
trong suốt một
kiếp người.
Và thật ra thì không chỉ những buồn, vui, sướng, khổ trong một giấc mơ mới là những điều mà
chúng ta không nắm bắt được
một cách cụ thể, mà ngay cả những cảm nhận buồn, vui, sướng, khổ trong cuộc sống này cũng rất
mơ hồ đối với nhiều người trong
chúng ta, bởi rất
ít khi chúng ta dành
thời gian để
quan sát, phân tích những cảm nhận đó trong
nội tâm của chính mình, cho dù
sự thật là chúng vẫn luôn luôn
hiện hữu.
Vì thế, ngay trong cuộc sống này của
chúng ta vốn dĩ đã song song
tồn tại hai
yếu tố vật thể và phi vật thể,
hay nói khác đi là hai
cảnh giới thể xác và
tinh thần. Trong khi những nỗi đau thể xác là rất dễ
nhận ra, thì những nỗi đau
tinh thần lại là điều gì đó rất riêng tư, chỉ thuộc về sự cảm nhận của mỗi người, và bao giờ cũng rất
mơ hồ, khó có thể
nhận biết hay
mô tả được một cách thật
cụ thể.
Nhưng cho dù là
mơ hồ, khó
nhận biết hay
mô tả, những nỗi đau
tinh thần vẫn là
hoàn toàn có thật. Và chỉ cần tự xét lại mình, mỗi
chúng ta đều có thể dễ dàng
nhận ra ở từng mức độ khác nhau những nỗi đau
đang tồn tại trong
nội tâm của chính mình.
Danh từ
địa ngục được người Trung Hoa
sử dụng để dịch nghĩa từ naraka trong tiếng Phạn.
Tuy nhiên, cũng giống như hầu hết các
trường hợp phiên dịch khác,
vẫn có những khác biệt
nhất định về
ý nghĩa của hai danh từ trong hai
ngôn ngữ khác nhau này.
Đối với người Trung Hoa,
địa ngục là nơi các
tội nhân bị giam giữ và phải
chịu đựng những hình phạt
đau đớn, khổ sở. Trong danh từ của họ bao hàm
hai nghĩa: ngục, đồng nghĩa như lao ngục, tù ngục, là nơi giam giữ những người
phạm tội, và địa nghĩa là đất, hàm nghĩa chỉ cho
vị trí của ngục này là nằm sâu trong lòng đất. Và cũng không chỉ riêng cách hiểu về
địa ngục, mà hầu hết các khái niệm của người Trung Hoa
xưa kia liên quan đến “âm giới” –
cảnh giới sau khi chết – đều được
hình dung là nằm sâu trong lòng đất. Chẳng hạn như cách hiểu về
suối vàng (
hoàng tuyền) hay nơi chín suối (
cửu tuyền) đều là nằm sâu trong lòng đất. Vì thế mới có
câu chuyện Khảo Thúc khuyên Trang công đào đất thật sâu
giả lập cảnh “suối vàng” để giải
lời thề “không đến
suối vàng không gặp mẹ”. Hơn thế nữa, trong nhiều
câu chuyện của người Trung Hoa,
địa ngục còn được
mô tả với những dụng cụ để hành hình
tội nhân rất
cụ thể như
vạc dầu, cối giã, cưa xẻ...
Trong
Phạn ngữ, danh từ naraka chỉ đến nơi mà người ta phải
chịu đựng sự
không vui (
bất lạc), đáng
chán ghét (khả yểm) và đủ mọi sự
trừng phạt,
hành hạ rất khổ sở,
đau đớn bằng nhiều cách khác nhau (
khổ cụ), nhưng
mở rộng không gian thành một
cảnh giới riêng biệt chứ không chỉ hàm nghĩa là một “nơi giam giữ”, và cũng không có ý cho rằng
cảnh giới ấy là nằm sâu trong lòng đất.
Vì thế,
chúng ta có thể thấy rằng danh từ naraka có vẻ như là một cách hiểu rộng hơn và gần gũi hơn với
ý niệm về một
cảnh giới phi vật thể,
cảnh giới của những nỗi đau
tinh thần mà
chúng ta vừa đề cập đến trên đây.
Và theo cách hiểu này thì có thể thấy là
địa ngục hiện hữu ngay trong cuộc sống của
chúng ta, vào những khi mà
chúng ta phải
chịu đựng sự
đau đớn, khổ sở nặng nề về mặt
tinh thần do một số
nguyên nhân nhất định. Đó chính là những lúc mà
chúng ta không có niềm vui,
chán ghét và
đau khổ.
Có một
địa ngục dành cho những kẻ ác
sau khi chết hay không, điều đó xin hãy tạm gác lại không bàn đến. Nhưng nếu hiểu
địa ngục như là một
cảnh giới của những nỗi
đau đớn tinh thần mà
chúng ta thực sự cảm nhận trong cuộc sống, thì có lẽ không ai có thể phủ nhận được một
địa ngục như thế.
Tương tự như các hình phạt
cụ thể trong
thế giới vật chất, có thể xếp từ nhẹ đến nặng như
cảnh cáo, tù treo
cho đến tù giam, tạp dịch, khổ sai...
cảnh giới địa ngục theo cách hiểu này cũng bắt đầu
hiện hữu từ những nỗi ray rứt, dằn vặt,
hối tiếc cho đến những
đau đớn khổ sở kéo dài nhiều năm hay thậm chí là
suốt đời...