NỀN TẢNG THIẾT LẬP GIỚI
Thích Viên Giác
LỜI NÓI ĐẦUCon người khác với loài
động vật ở chổ biết đặt
vấn đề về
giá trị của
đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu ? Làm thế nào để
con người thể hiện hành vi của mình
phù hợp với
nhân tính ? Cần có một
mục tiêu,
lý tưởng để hướng dẫn
con người hành động, do đó,
triết học,
tôn giáo,
chủ nghĩa ra đời.
Đạo Phật chú trọng đến
vấn đề giải thoát con người ra khỏi những
ràng buộc, những
đau khổ thông thường
cho đến vượt thoát biển khổ
trầm luân sinh tử,
tử sinh, bằng cách khai thác
năng lực tính Phật
tiềm ẩn nơi mỗi
chúng sinh và bằng khả năng
tự lực của chính mình. Để bắt đầu,
đạo Phật thiết lập giới luật để
ngăn ngừa hành vi bất thiện của
dục vọng bản năng, tạo
điều kiện cho tính Phật
xuất hiện, phát triển và
hoàn thiện nhân cách đến chổ
giải thoát hoàn toàn.
Tác dụng của
giới luật trước hết là tạo nên
con người có
tính cách ổn định, hướng về điều thiện, tránh xa điều ác, biểu hiện ở chổ
kiểm soát chính mình, đối xử với
mọi người và
hoàn cảnh như thế nào để đem đến sự
bình an và
hạnh phúc cho
đời sống con người. Sau đó, trên cơ sở
đạo đức ấy,
tâm lý được thanh lọc và
đạt được trí tuệ, hội nhập
thực tại vô ngã giải thoát tối hậu.
Giới luật của
đạo Phật không
xây dựng trên nền tảng
tín điều và
thiết lập giáo điều như các
tôn giáo khác thường làm để bắt buộc
tín đồ phải
tuân thủ, mà
xây dựng trên cơ sở thực tiển
tâm lý và
xã hội, trên cơ
sở quy luật của
hạnh phúc hay
đau khổ.
Vì vậy, định nghĩa về
giới luật (Sila) rất rõ là:
ngăn ngừa những điều
bất thiện,
đình chỉ các điều ác (phòng phi chỉ ác); hoặc là
đình chỉ các điều ác,
thực hành các điều thiện (chỉ
ác tác thiện)
giới luật còn gọi là Vinaya, tức là
điều phục hành vi,
ngôn ngữ bất thiện trở nên thuần thiện; hay còn gọi là Patimokha tức là
giải thoát từng phần,
giữ giới nào thì
giải thoát,
tự do về giới ấy. Điều này có nghiã là tránh được điều
bất thiện nào thì điều
bất thiện đó không
trói buộc, không làm hại được mình. Nói một cách tổng quát thì
giới luật là kim chỉ nam cho hành động, giúp
con người giải quyết những
vấn đề bất ổn
trong đời sống về mặt ứng xử,
tâm lý và nhất là đối với
lý tưởng giải thoát của người
phật tử.
CHƯƠNG I
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH GIỚI LUẬTSau khi
Đức Phật thành đạo dưới cội
Bồ đề, Ngài đến
vườn Lộc Uyển ở Isipatana gần Beneres
hoá độ năm anh em
Kiều Trần Như, năm người
bạn đồng tu khổ hạnh với ngài trước kia.
Giáo pháp được
Đức Phật truyền dạy là
con đường trung đạo tránh xa hai
cực đoan: hưởng thụ
dục lạc và
khổ hạnh ép xác.
Đồng thời Ngài cũng
thuyết giảng hệ thống bốn
chân lý:
chân lý về khổ (Dukkha),
chân lý về nguồn gốc của khổ (Samudaya)
Chân lý về
khổ diệt (Nirodha),
chân lý về
con đường đưa đến
khổ diệt (Magga). Năm
Tôn giả lần lượt quán triệt bốn
chân lý ấy và được
Đức Phật chấp thuận cho làm
đệ tử xuất gia. Đây là năm vị
Tỳ kheo đầu tiên của
Giáo hội. Từ đây ngôi
Tam Bảo được hình thành:
Đức Phật,
giáo pháp và
chúng Tăng, chỉ
trong vòng hai tháng sau khi Ngài
thành đạo.
I. GIÁO PHÁP LÀ GIỚI:Để
trở thành Tỳ kheo, năm anh em
Kiều Trần Như chỉ
giác ngộ chân lý, không cần có một
thủ tục hay giới điều nào
cần phải tuân thủ. Về sau
trường hợp này gọi là:"
Kiến đế đắc giới". Theo các
tài liệu về sử học còn lưu lại thì buổi
ban đầu này
Đức Phật chỉ nói một câu:" Đến đây, này các
Tỳ kheo,
giáo pháp đã được khéo giảng, hãy sống đời
phạm hạnh để đoạn
tận khổ đau" (
Đức Phật Lịch Sử. Tr 164 VNCPH
ấn hành)
Thuở đầu
thành lập Tăng đoàn, việc
thọ giới Tỳ kheo chỉ là sự hợp thức hoá bởi chính
Đức Phật. Khi Ngài thấy được người
đệ tử ấy đã
lãnh hội giáo pháp và
phát nguyện xuất gia. Chưa có một giới điều nào, chưa có
ý niệm gì về sự
ràng buộc của
quy chế,bởi lẻ
giáo pháp chính là giới. Tính
chân lý của
giáo pháp cùng với
năng lực vĩ đại của
Đức Phật ảnh hưởng trực tiếp lên
tâm trí của một người đã tạo nên
tác dụng của giới là
đình chỉ các điều ác,
thực hành các
việc thiện.
Giáo pháp ở đây nên hiểu là bốn
chân lý. Trong đó nguyên tắc
hành trì để
đạt được phạm hạnh thanh tịnh là
Bát chánh đạo,
con đường đưa đến
khổ diệt.
Hành trì Bát chánh đạo tự nó là giới, nếu
phân biệt thì
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng là nội dung của giới. Nói một cách
rộng rãi thì
lãnh hội giáo pháp là
trí tuệ hiện hữu, đã có
trí tuệ thì
tội lỗi không sinh. Do sự
giác ngộ chân lý trực tiếp từ lời dạy và phong cách của
Đức Phật,
Tăng già buổi
ban đầu không
cần phải có các giới điều hay
quy chế làm gì. Trong
luật tạng thời kỳ này được gọi là:" Vô sự Tăng".
Ngoài năm anh em
Kiều Trần Như, vài tháng sau đó,
Đức Phật độ cho Yasa, một thanh niên còn trẻ và
giàu có ở Benares, được
xuất gia và
chứng quả A La Hán. Chẳng bao lâu, 50 bằng hữu của Yasa cũng
gia nhập giáo đoàn và đều đắc
A La Hán quả.
Giáo đoàn đã được 60 vị.
Đức Phật và 60
Tỳ kheo an cư lần đầu tiên tại
vườn nai ở Isipatana.
Pháp và luật mà
Đức Phật luôn luôn giảng dạy, nhắc nhở là đoạn
trừ ác nghiệp những lầm lỗi ở nơi
thân nghiệp,
khẩu nghiệp và
ý nghiệp.
Như vậy, dù chưa
chế giới nhưng nền tảng của giới cũng đã
thiết lập bao gồm Đạo đức luận và
giải thoát luận.
II. BA PHÁP QUY Y LÀ GIỚI:Sau
mùa an cư đầu tiên,
Đức Phật quyết định truyền bá con đường giải thoát một cách
rộng rãi; Ngài tập trung 60 vị
Tỳ kheo và dạy:" Này các
Tỳ kheo hãy đi khắp nơi vì
an lạc và
hạnh phúc của số đông, do
lòng từ bi đối với
cuộc đời, vì
lợi lạc và
hạnh phúc của trời và người. Chớ đi hai người
cùng chung đường
với nhau. Này các
Tỳ kheo, hãy
thuyết giảng giáo pháp cao thượng ở
lúc đầu,cao thượng ở lúc giữa, cao thưọng ở lúc cuối, trong
tâm trí và trong
ngôn từ. Hãy rao giảng sự
viên mãn,
đời sống thanh tịnh của
trạng thái cao cả. Có những kẻ mà trí óc chỉ bị che mờ bởi đôi chút bụi bặm,
nếu không nghe
giảng pháp thì họ không
thể đạt được giải thoát; những kẻ ấy sẽ hiểu pháp". (Mahavagga I.12)
Thọ lãnh những huấn thị ấy của
Đức Thế Tôn, các
Tỳ kheo lên đường hoằng hóa, tiếp độ chúng nhân ngày càng đông. Từ đó nảy sinh ra một điều bất tiện là khi có người xin
xuất gia, các vị
Tôn giả đều phải
giới thiệu hoặc đưa ngưòi ấy về Isipatana để xin
Đức Phật cho
thọ giới. Vì thuở đó
Đức Phật chưa
cho phép các vị
Tỳ kheo tự ý
truyền giới xuất gia. Sự bất tiện nữa là
Đức Phật không thể ở yên
một trú xứ chờ đợi các
đệ tử đưa người về;
bản thân của Ngài cũng
vân du đây đó để
hoá độ chúng sinh. Để
giải quyết vấn đề, Ngài
triệu tập Tăng đoàn hội ý. Sau khi
thảo luận,
Đức Phật dạy:" Này các
Tỳ kheo, ta
cho phép chư vị khi ở trong những xứ sở, thôn làng xa xôi có quyền truyền
tiểu giới xuất gia (pabbajà, sadi) và
đại giới xuất gia (Upasampadà,
Tỳ kheo).Việc ấy phải
thực hiện theo cách này:
Trước tiên hãy cho
giới tử cạo sạch râu tóc, đắp các y vàng và phủ ra bên
trái với thượng y; hãy
cho phép vị ấy quỳ xuống
cung kính nghiêng mình trước
giới sư với hai tay chắp lại. Sau đó vị ấy phải được
dạy bảo lặp lại câu:"
Đệ tử xin
quy y Phật;
đệ tử xin
quy y pháp;
đệ tử xin
quy y tăng." Câu này phải được lặp lại ba lần." Này chư
Tỳ kheo, ta
cho phép chư vị truyền
tiểu giới và
đại giới xuất gia của một tân thọ
Tỳ kheo bằng cách nhận
tam quy này" (ĐP LS). Từ đó,
phương pháp truyền giới và
thọ giới được
thành lập. Nội dung của giới được truyền chỉ
đơn giản là ba pháp
quy y;mặc dù có
phân biệt tiểu giới và
đại giới, nhưng không có
phân biệt về nội dung
giới pháp. Đây là
trường hợp mà trong
luật tạng gọi là:"
Tam ngữ đắc giới"
Sau này, khi
giới luật phát triển đầy đủ, ba pháp
quy y không còn đóng
vai trò quan trọng và lớn lao như vậy nữa. Có người cho rằng, ba pháp
quy y không phải là giới; nhưng trên
thực tế, ba pháp
quy y vẫn phát sinh
tác dụng của giới. Nghĩa là
ngăn ngừa điều ác, những
điều kiện bất thiện phát sinh. Ngài
Thánh Nghiêm ở Trung Hoa viết trong
tác phẩm Giới Luật Học
Cương Yếu rằng:" Thật ra
Tam quy cũng là giới." Bởi vì, nghĩa của giới là cấm ngăn. Sau khi
quy y cũng có ba thứ cấm ngăn:"
Quy y Phật suốt đời không
quy y thiên ma ngoại đạo;
Quy y pháp suốt đời chẳng
quy y tà thuyết ngoại đạo;
Quy y Tăng suốt đời chẳng
quy y đồ chúng ngoại đạo. Vì thế,
bản thân của
quy y Tam Bảolà có bao hàm đặc chất của một loại giới." (
Tuệ Đăng dịch).
Như vậy, sự phát triển
giáo đoàn đã
thúc đẩy hình thành một
quy chế truyền giới; tuy
đơn giản nhưng đó vẫn là một phương thức mang
tính cách quy chế. Đối với hàng
ngũ cư sĩ
tại gia, khi muốn
trở thành một
tín đồ Phật giáo, phương thức
nhập đạo cũng chỉ là
phát nguyện Tam quy. Các
cư sĩ thường
tác bạch:"
Bạch Đức Thế Tôn, nay
đệ tử xin
quy y Thế Tôn,
quy y pháp;
quy y Tăng;
ước mong Thế Tôn nhận
đệ tử làm
cư sĩ tại gia từ nay
cho đến trọn đời" (
Trường Bộ Kinh). Không thấy truyền thọ 5 giới, có lẻ 5 giới được
mặc nhiên hành trì; vì đó là những nguyên tắc
đạo đức phổ quát đương thời được
Đức Phật hệ thống lại về sau. Phương thức
truyền giới và
thọ giới bằng cách đọc
Tam quy chỉ dành cho các
Tỳ kheo sử dụng. Riêng
Đức Phật, Ngài rất
ít khi sử dụng. Ngài thương dùng câu;"
Thiện lai Tỳ kheo"," Hãy đến đây, Tỳ kheo" (Ehi, Bhikka) là một sự vị
thiện nam tử trở thành một người
xuất gia thực thụ. Cách
truyền giới này chỉ có
Đức Phật sử dụng mà thôi
.
III. GIỚI KINH:Trong kinh có đề cập đến sự tập trung
Tăng chúng vào những ngày trăng tròn và không trăng để
đọc tụng giới kinh. Như vậy, dù chưa hình thành rõ nét
giới bổn, nhưng
chắc chắn đã có những
bài kinh gọi là
giới kinh để nhắc nhở
Tăng chúng thúc liễm
thân tâm và để thanh lọc
thân khẩu ý.
Trong
giới bổn Tỳ kheo có 7
bài kệ của 7
Đức Phật kể từ
Đức Phật Tỳ Bà Thi cho đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là
giới kinh.
Hình thức của
bài kệ ngắn gọn, dễ thuộc, nội dung khích lệ
tu tập để làm
trong sạch thân khẩu ý.
Giới bản Tỳ kheo nói rõ rằng: " Đây là
giới căn bản
ứng dụng cho
chư Tăng Vô sự" thuở
ban đầu. Sau này,
giới luật phát triển cũng chỉ làm
phong phú thêm mà thôi; có thể trích dẫn 1 trong 7 bài
giới kinh như sau:
Giới kinh do Đức
Thích Ca Mâu Ni dạy:
" Khéo léo mà giữ
Miệng lưỡi lời tiếng
Tự mình làm sạch
Tâm trí của mình
Và
thân thể nữa
Cũng đừng làm ác
Đó là đường sạch
Của cả
ba nghiệpKhả năng
đạt đượcĐường sạch như vậy
Chính là đường đi
Của Bậc Đại Tiên".
" Bài tụng này là
giới kinh của
Thích Ca Mâu Ni đấng
Như Lai, đấng
Vô Trước, đấng
Chánh Biến Tri thuyết ra cho
chư Tăng không có mọi sự
tội lỗi trong 12 năm đầu. Từ đó về sau, chỉ là phân tích
phong phú giới kinh này." (
Tỳ kheo giới.
Trí Quang dịch 1974)
Qua bài tụng
giới kinh tiêu biểu trên,
chúng ta có thể thấy rằng, thanh lọc
thân khẩu ý là
mục tiêu của sự
hành trì giới và
mục tiêu của
đời sống phạm hạnh.
Qua năm thứ ba sau ngày
Đức Phật thành đạo,
giáo đoàn đã lên đến con số 1250 vị gồm 1000
đệ tử của ba anh em Kassapa, 250đệ tử của Sàriputta và Mogallàna. Với số lượng
Tăng chúng đông đảo như vậy, để có sự ổn định, ngoài các bài tụng
giới kinh,
chắc chắn Đức Phật có chế ra một ít
giới luật để
ngăn ngừa những sự
rắc rối xảy ra
trong đời sống tập thể và đối với
quần chúng xã hội. HW Schuman, trong
tác phẩm Đức Phật Lịch Sử của ông có đề cập
vấn đề này:" Bậc
đạo sư đưa ra một loạt huấn thị để dạy chư vị
Tỳ kheo biết giữ phép
xã giao nhã nhặn, phải
đắp y đúng luật
Sa môn,
cư xử khiêm tốn trước các
thí chủ và thọ thực trong
im lặng.
Những
trường hợp bất kính đối với các vị thầy
giáo huấn lớp tân
Tỳ kheo cũng khiến Ngài
ban hành các
giới luật về
vấn đề này. Ngài truyền lệnh các
Tỳ kheo phải
vâng lời của các
giáo thọ, phải chăm sóc
y phục của các
giáo thọ, phải rửa sạch
bình bát và lau chùi sàng tọa của thầy mình". (Trần Phương
Lan dịch. Tr 232).
IV.NI GIỚI:Năm 504 BC, sau khi
Đức Phật thành đạo 5 năm, trong dịp Ngài về thăm phụ vương đang bệnh nặng và sau đó ông qua đời, đây là lần thứ 2 Ngài về
hoàng cung, bà Mahapajapati-
di mẫu của
Đức Phật cầu xin xuất gia. Mặc dù
Đức Phật 3 lần từ chối bà đã tự cạo đầu, khoác
áo cà sa cùng với một số
cung phi trong
hoàng tộc đi từ Kapilavatthu đến thành Vaisali gặp Ngài xin
xuất gia. Dù vậy,
Đức Phật vẫn từ chối.
Tôn giả Ananda, đã không
cầm lòng được và
lên tiếng cầu xin giúp.
Cuối cùng,
Đức Phật dạy:" Này Ananda, nếu mẫu hậu Mahapajapati cam kết
tuân theo tám trọng giới này thì hãy xem đây là lễ
thọ giới của bà." Bà Mahapajapati
chấp nhận mọi diều kiện và
trở thành vị
Tỳ kheo ni đầu tiên.
Nội dung của
Bát kỉnh pháp là đề cao
vai trò của
Tăng chúng,
Tỳ kheo ni phải phục tùng và
kính trọng Tăng chúng.
Bát kỉnh pháp quy định một
Tỳ kheo ni dù đã 100 tuổi hạ cũng phải
cung kính đảnh lễ vị
Tỳ kheo 1 hạ …
Lý do Đức Phật thiết lập Bát kỉnh pháp là để
phòng ngừa sự
quá đáng của
ni giới đối với
chư Tăng về mọi mặt. Như trong kinh Tăng
Chi Phật dạy:" Này Ananda, cũng như một người vì nghĩ đến tương lai mà lo xây đập ngăn hồ nước lớn không cho nước chảy qua. Cũng vậy, này Ananda vì nghĩ đến tương lai ta mới
ban hành Bát kỉnh pháp này cho các
Tỳ kheo ni để họ
trọn đời không vượt qua".
Như vậy, ngoài những nguyên tắc
đơn giản là truyền
Tam quy,
Ni chúng còn được truyền
Bát kỉnh pháp để
trở thành Tỳ kheo ni. Về sau,
giới luật của
Tỳ kheo ni cũng nhiều hơn
giới luật của
Tỳ kheo;
đơn giản, là vì người nữ về mặt
sinh lý,
tâm lý, xã hội… đều
phức tạp hơn nam giới.
Qua quá trình ở trên,
chúng ta nhận thấy giới luật của
Tỳ kheo và
Tỳ kheo ni thời kỳ này chủ yếu là coi trọng
giới thể chứ chưa đặt nặng
giới tướng.
Vì vậy, khi một
Tỳ kheo hay một
Tỳ kheo ni được
thọ giới hoặc
đắc giới có nghĩa là
giới thể vô biểu phát khởi trong
thân tâm của người thọ. Đó là nột loại
ấn tượng có thể tạo ra
năng lực chi phối các
hoạt động của
thân khẩu ý.
Năng lực ấy tuy không thấy được bằng mắt nhưng
tác dụng rất rõ. Đó là
ngăn ngừa được sự
bất thiện của thân, khẩu, ý.Đây chính là
cốt lõi của
Tỳ kheo và
Tỳ kheo ni giới.
Giới Tỳ kheo được gọi là
giới Cụ túc, tiếng phạn là Upasampàda, dịch là
Cận viên, nghĩa là gần với sự
viên mãn;
hay nói cách khác là gần với
quả vị cao thượng của
A La Hán.
Đời sống của một vị
A La Hán có 4 sự
thanh tịnh:
a.
Biệt giải thoát luật nghib. Căn
luật nghic. Mạng
luật nghid.
Chánh niệm tỉnh giác.
Đầy đủ 4 sự
thanh tịnh này gọi là
Cụ túc giới.
Tổng kết các
trường hợp đắc giới Cụ túc,
Luật tạng nêu ra 10
trường hợp:
1.
Tự nhiên đắc giới: Đây là
trường hợp của
Đức Phật hay
Độc Giác Phật, do tự mình
chứng ngộ, không có ai truyền.
2.
Kiến đế đắc giới: Như
trường hợp của năm anh em
Kiều Trần Như, thấy được 4
chân lý bước vào
thánh đạo mà
đắc giới.
3.
Thiện lai Tỳ kheo: được
Đức Phật gọi là
Thiện lai Tỳ kheo mà
đắc giới.
4.
Do
xác nhận Phật là thầy: Đây là
trường hợp của
Tôn giả Ca Diếp khi gặp
Đức Phật liền
tuyên bố:" Đây là bậc
đạo sư của tôi" mà
đắc giới Cụ túc.
5.
Do kheó
trả lời: Đây là
trường hợp của
Tô Đà Di mới 7 tuổi đã
trả lời một cách khéo léo câu hỏi của Phật rằng:" Nhà con ở đâu ?". Đáp:"
Ba cõi không đâu là nhà"
Đức Phật cho
thọ giới Cụ túc.
6.
Do thọ
Bát kỉnh pháp: Đây là
trường hợp bà Mahapajapati,
di mẫu của
Đức Thế Tôn, chấp nhân 8 phép
tôn trọng đối với Tăng mà đắc
Cụ túc giới.
7.
Do gởi
đại diện: Đây là
trường hợp của
ni cô Pháp Thọ; do có sắc đẹp
nổi tiếng nên khi
hay tin nàng
xuất gia thọ giới, nhiều thanh niên tổ chức đón đường bắt cóc. Phật
cho phép nàng gởi người
đại diện đến giữa Tăng mà thọ, sau đó về truyền lại.
8.
Do người thứ 5 là người
trì luật:
Trường hợp ở
biên cương không đủ túc số 10 Tăng, được
cho phép chỉ đủ 5 người, nhưng 1 trong 5 người phải biết pháp
yết ma truyền giới.
9.
Thọ giới đủ 10
Tỳ kheo truyền: Đây là
trường hợp thông thường bắt buộc đối với vùng
đô thị và nơi đủ túc số Tăng.
10.
Tam ngữ đắc giới: Đây là
trường hợp thọ Cụ túc giới bằng cách đọc 3 lần:"
Quy y Phật;
quy y pháp;
quy y Tăng"
Cách này là cách
truyền giới thuở
ban đầu thành lập Tăng đoàn.
Tóm lại,
giới luật trong
thời kỳ ban đầu của
giáo đoàn đặt
trọng tâm vào
giáo pháp và
đời sống phạm hạnh. Những
giới luật của người
xuất gia chưa
cần phải thiết lập.
Nghi thức truyền
thọ Cụ túc giới cũng rất
đơn giản, ngắn gọn. Do
tình hình sinh hoạt thực tế của
giáo đoàn,
Đức Phật dần dần thiết lập giới. Theo
Luật tạng thì
cho đến năm thứ 12 sau ngày Phật
thành đạo giới luật mới
chính thức được
thành lập. Năm thứ 5 sau ngày Phật
thành đạo,
Tôn giả Ưupali
xuất gia, vì là ngưòi có năng khiếu về phân tích
giới luật, nên
Đức Phật thường giao cho
Tôn giả nhiệm vụ nghiên cứu giới luật để hình thành
luật tạng.sự hình thành
giới bổn kéo dài
cho đến khi
Đức Phật nhập Niết bàn mới
chấm dứt.
V. GIỚI BỒN:1
. Giới của người cư sĩ tại gia:Theo nguyên tắc, người
cư sĩ tại gia phải có đủ 2
điều kiện để
trở thành một
phật tử chân chính. Đó là thọ nhận 3 pháp
quy y và
hành trì 5
giới cấm, 5 giới cũng được truyền và thọ đúng nguyên tắc.
Tuy nhiên,
thời kỳ đầu của
giáo đoàn, người
cư sĩ không
cần phải thọ giới hay được truyền 5 giới mà chỉ cần
phát nguyện thọ
Tam quy theo
nghi thức rất
đơn giản là lặp lại 3 lần
Tam quy.
Người
cư sĩ tại gia đầu tiên của
Đức Phật là hai
thương gia Tapassu và Bhallika, hai
thương gia này trên đường về quê gặp được
Đức Phật vừa mới
đắc đạo chưa đi hoằng hoá. Trước phong cách
đặc biệt của một
vị giác ngộ, hai
thương gia dừng lại
thăm hỏi đảnh lễ và
cúng dường một ít mật và bột. Sau đó họ quỳ xuống và bạch rằng:"
Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin
quy y Phật,
quy y pháp, xin Ngài thâu nhận chúng con làm
thiện tín kể từ nay
cho đến ngày
cuối cùng đời chúng con". Đó là 2 vị
thiện tín đầu tiên
quy y nhị bảo. (
Đức Phật và
Phật pháp. Tr 78 Narada).
Trong
thời gian đầu tiên này,
Đức Phật cũng nhận nữ
thiện tín đầu tiên
quy y nhị bảo. Đó là nàng Sunjata, người dâng bát sữa đầu tiên khi
Đức Phật từ bỏ con đường tu khổ hạnh.
Người
cư sĩ đầu tiên
quy y Tam bảo là
thân phụ của Yasa. Yasa là một thanh niên
giàu có, con một, của một
thương gia. Do
chán đời sống
gia đình xa hoa vô nghĩa, một hôm anh ta đến
vườn nai ở Isipatana gặp được
Đức Phật, nghe
thuyết pháp;
cuối cùng Yasa
giác ngộ chân lý và muốn
xuất gia theo
Đức Phật.
Thân phụ của Yasa đi tìm con; ông ta đến
vườn Nai hỏi thăm Đức Phật.
Đức Phật bảo ông ta ngồi xuống và
thuyết pháp cho ông nghe. Nghe xong, ông
hoan hỷ xin
quy y Tam bảo. Từ đó những
cư sĩ muốn
trở thành đệ tử của
Đức Phật thường đọc 3 lần
quy y Tam bảo.
Năm giới cấm của người
phật tử tại gia do
Đức Phật chế và
trở thành giới điều thực sự có lẻ khoảng năm thứ 12 sau ngày
thành đạo trở lên; nghĩa là hình thành cùng khoảng
thời gian hình thành
giới bổn của người
xuất gia.
Thật ra, như
chúng ta thấy, dù nói 5 giới là của người
phật tử tại gia nhưng lại là giới nền tảng,
căn bản cho cả người
xuất gia.
Năm giới Đức Phật dạy được ghi chép lại trong kinh
Trung A Hàm 128 là
bài kinh Ưu-bà- tắc (
bản kinh do Sanghadeva dịch ra chữ hán), tương đương với
kinh gia chủ trong Anguttava Nikàya. Kinh này
Đức Phật dạy cho
cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với 500
cư sĩ bằng hữu của Cấo
Cô Độc tại
tịnh xá Kỳ Hoàn thuộc nước
xá vệ (Savatthi).
Nội dung 5 giới được trình bày rất
rõ ràng và đầy đủ cả
hai mặt Chỉ trì và
Tác trì, nghĩa là rất
tích cực. Ví dụ, giới thứ nhất xa lià
sát sinh, Phật dạy:"
Bạch y thánh
đệ tử xa lià
sát sinh,
vứt bỏ khí giới, có tâm
hổ thẹn, có
tâm từ bi thường
thực hành hạnh
lợi ích cho tất cả,
cho đến loài côn trùng (
phóng sinh,
bảo vệ sinh vật). Đấy là pháp thứ nhất mà
bạch y thánh
đệ tử giữ gìn và
thực hành một cách hoàn hảo".
Căn cứ vào bài kinh trên trên
chúng ta có thể rút ra vài
nhận định như sau. Đối tượng mà
Đức Phật thuyết giảng 5 giới là
cư sĩ hết sức ủng hộ và
sùng kính Đức Phật cũng như
giáo đoàn. Đây là lần đầu
tiên Đức Phật thuyết về 5 giới như là những
tiêu chuẩn đạo đức cho người
cư sĩ tại gia.
Thời gian thuyết kinh này khoảng từ năm thứ 10 đến thứ 12 sau ngày
thành đạo.
Cấp Cô Độc có duyên gặp Phật rất sớm vào năm thứ 3 sau ngày
thành đạo và ông đã dâng cúng
tịnh xá Kỳ Hoàn ở
Xá Vệ (Savatthi) năm sau đó, tức khoảng 526-527 BC. Nhưng
Đức Phật không ở Kỳ Hoàn
cho đến 515 (hơn 10 năm sau) Ngài mới
an cư lần đầu tiên tại đây. Từ đó
cho đến cuối đời, phần lớn các
mùa an cư Đức Phật đều ngụ tại
tịnh xá Kỳ Hoàn, theo sử ghi lại khoảng 19 lần Ngài
an cư tại nơi này. Ngài Narada viết trong
tác phẩm Đức Phật và
Phật pháp rằng:"
Đức Phật an cư 19 lần ở jetavana.
Đa số các bài pháp
liên quan đến hàng
cư sĩ là do
Đức Phật giảng cho Cấp Cô Độc".
Trong phần
duyên khởi của kinh nói
Cấp Cô Độc đến thăm ngài
Xá Lợi Phất chuyển hoá các
cư sĩ chưa hiểu đạo này. Điều cần nói thêm ở đây là mối giao tình giữa ngài
Xá Lợi Phất và
Cấp Cô Độc rất
đặc biệt.Ngài
Xá Lợi Phất dẫn dắt 500
cư sĩ đến
trình diện Đức Thế Tôn với thâm ý là
Đức Thế Tôn trực tiếp giảng dạy họ.
Đức Phật nhận thấy rằng, đây là cơ hội để
chính thức dạy cho hàng
ngũ cư sĩ
thực hành 5 giới như là những nguyên tắc cơ bản của một
cư sĩ theo Phật. Việc
Cấp Cô Độc dẫn dắt số lượng
cư sĩ đã khá mạnh, nhu cầu
tu học đã cao. Điều đó cũng nói lên sự bắt rễ
vững chắc của
giáo đoàn ở Savatthi.
Thời gian đầu của
Đức Phật ở tại Savatthi, ngoài sự
hộ trì của
cư sĩ Cấp Cô Độc,
Đức Phật và
giáo đoàn còn được sự
hộ trì của một
nữ cư sĩ nổi tiếng là Visàkhà. Cô là con gái triệu phú Dhanàrjaya, lúc lên 7 tuổi, cô đã có
cơ duyên gặp
Phật nhân dịp Ngài
du hành đến Bhaddiya, quê hương của cô. Sau khi nghe
Đức Phật thuyết pháp, cô
trở thành một
phật tử thuần thành. (Sách ghi là cô
chứng quả Tu Đà Hoàn) khoảng năm 17 tuổi cô lấy chồng, cũng con một triệu phú, tên là Punnavadhana. Về nhà chồng ở Savatthi, được
gần gủi Đức Phật và
chư Tăng, cô rất
vui mừng và
hết lòng ủng hộ Phật pháp. Cô đã
chuyển hóa cha chồng từ một
đệ tử đắc lực của
giáo phái Nigantha
trở thành đệ tử của
Đức Phật. Bà đã
cúng dường Đức Phật và
chúng Tăng đầy đủ đến
suốt đời theo
tâm nguyện của mình.
Đặc biệt, Visàkhà dâng cúng
Đức Phật một
tịnh xá tên là Pubbàràma(Đông Viên Trùng Các) cách
tịnh xá Jetavana không xa.
Đức Phật đã
an cư tại đây 6 mùa mưa. Bà là người nữ cư sĩđược
Đức Phật dạy rất nhiều
bài kinh liên quan đến đời sống của người
cư sĩ,
đặc biệt là pháp
Bát Quan Trai Giới.
Bát Quan Trai Giới mà các
phật tử ngày nay
thọ trì tu tập khởi nguyên là
Đức Phật dạy cho Visàkha. Nội dung
Bát Quan Trai được ghi chép lại trong
kinh A Hàm IV, kinh
Trì Trai 202. Từ
bài kinh này ta có thể rút ra một vài
nhận định sau:
Bát Quan Trai Giới đã được
Đức Phật thuyết lần đầu cho Visakha tại Đông Viên Trùng Các, vào dịp
an cư mùa mưa. Có lẽ là sau
thời gian thuyết 5 giới cho
Cấp Cô Độc.Visàkhà thường đến
tịnh xá để hầu thăm
Đức Phật vào những ngày trăng tròn. Nàng
phát nguyện trì trai trọn ngày; nhân đó
Đức Phật dạy cho Visàkhà về
phương pháp trì trai chân chính gọi là Tám Chi Thánh Trai.
Nội dung tám giới, 5 giới đầu
tương tự 5 giới của người
cư sĩ mà
Đức Phật dạy cho
Cấp Cô Độc, trừ giới thứ 3 thêm là không
dâm dục. Những giới còn lại là không nằm giường cao rộng lớn,
xa lìa trang sức,
ca vũ nhạc và không ăn
phi thời. Ba giới sau tương đương với giới của
sa di, nghĩa là giới của người
xuất gia.
Chứng tỏ giới sa di cũng được
thiết lập hoàn chỉnh.
Mục đích của
Bát Quan Trai là tạo cơ hội cho hàng
ngũ cư sĩ có diều kiện
tu tập giải thoát,
nâng cao đời sống tâm linh và
trí tuệ,
ít nhất là
thực hành hạnh
xuất gia. Trong kinh
Trì Trai Đức Phật coi Tám Thánh Trai này tương đương với phẩm hạnh của một vị
A La Hán; có thể lấy một giới để ví dụ, như giới thứ ba:" Này
nữ cư sĩ,
Đa văn thánh
đệ tử khi
trì trai tư duy như vầy:"
A La Hán cân nhân rọn đời xa lià phi pham hạnh, đoạn
trừ phi phạm hạnh,
tu hành phạm hạnh,
chí tâm thanh tịnh, sống không
xú uế,
ly dục,
đoạn dâm. Đối với
phi phạm hạnh, nay tôi tịnh trừ tâm ấy". Ta coi chi này như của
A La Hán ngang nhau không khác, do đó gọi là trai (Kinh
Trì Trai tương đương Tăng Chi III. Phẩm Ngày
Trai Giới).
Như vậy tuy gọi là 5 giới hay 8 giới của người
cư sĩ tại gia nhưng vẫn là
giới luật nền tảng của người
xuất gia. Bởi lẻ
mục tiêu giải thoát là một và
con đường đi đến
giải thoát cũng là một.
Qua trình bày trên,
chúng ta có thể tạm
kết luận quá trình hình thành giới của người
phật tử tại gia đến khi hoàn chỉnh ở vào thời điểm
giáo đoàn hưng thịnh hàng
ngũ cư sĩ đông đảo đã có nhu cầu
tu học cao; tức là
thời gian từ năm thứ 12
cho đến thứ 15 sau ngày
thành đạo. Hai
vị cư sĩ
nổi bật là
Cấp Cô Độc và Visàkhà được
xem như là khởi nguyên
giới luật của người
phật tử tại gia. Nội dung của các giới điều ấy rất
cụ thể, mang tính
tích cực và
phù hợp với
đời sống con người xã hội và
lý tưởng giải thoát.
2.
Giới của người xuất gia:Như
chúng ta đã biết, buổi
ban sơ của
giáo đoàn chưa
thiết lập giới. Chúng
Tỳ kheo dưới sự hướng dẫn trực tiếp của
Đức Phật rất
thanh tịnh. Theo
luật tạng,
thời gian này kéo dài 12 năm.
Tuy nhiên, khoảng năm thứ 6 trở đi những huấn thị của
Đức Phật về những điều nên làm thuộc về phép xả giao, sự khiêm tốn, đối xử với các thầy
giáo thọ phải
săn sóc và
lễ độ … đã được hình thành.
Đối với người
xuất gia, giới nhỏ nhất là
sa di giới gồm có 10 giới. Người được coi là vị
sa di đầu tiên của
giáo hội là
La Hầu La, Ngài theo Phật từ lúc
Đức Phật về thăm
hoàng cung lần đầu tiên kể từ khi bỏ thành ra đi, khoảng năm 526 BC. Bấy giờ,
La Hầu La đã được 9 tuổi.
Đức Phật giao
La Hầu La cho
Tôn giả Xá Lợi Phất dạy dỗ.
Tôn giả Xá Lợi Phất chỉ hướng dẫn
La Hầu La những
đức hạnh căn bản của người
xuất gia và
phương pháp luyện tâm
đơn giản,
tuân thủ lý tưởng tu tập bản thân như một vị
tỳ kheo; chưa có gì khác biệt chỉ ở chổ tuổi tác, chưa đủ 20 tuổi thì chưa thành
Tỳ kheo được.
Mười giới sa di chưa hình thành vào
thời kỳ này, lúc khoảng 15 tuổi,
La Hầu La vi phạm lỗi
nói dối,
Đức Phật đích thân dạy
La Hầu La phương pháp kiểm soát,
kiềm chế thân khẩu ý (Xem
kinh Giáo Giới
La Hầu La,
Trung Bộ Kinh II"; không thấy
Đức Phật đề cập đến lỗi
nói dối như là đã
vi phạm giới thứ tư của người
sa di. Ngay cả
giới không được uống rượu
cho đến 520 BC mới được
quy định, tức năm thứ 8 sau ngày
thành đạo.
Khi ấy,
Đức Phật đến xứ Kosambi,
hành vi củc các
Tỳ kheo ở đây thường bị
chỉ trích.
Nổi bật là
tỳ kheo Sagata, sau khi uống rượu say nằm trước cổng thành Kosambi, các
Tỳ kheo khác phải khiêng về, Nhân đó,
Đức Phật ban hành luật cấm
Tăng chúng uống rượu và ra điều luật nếu
sa di uống rượu sẽ bị bát bỏ quyền
thọ cụ túc giới (sđd T.28).
Ap lực hình thành
giới luật ngày càng mạnh, vì
Tăng chúng ngày mỗi đông, những
thành phần phức tạp xen lẫn vào
Tăng đoàn nên phải bổ sung những điều giới
phù hợp bảo đảm sự
thanh tịnh của
giáo đoàn. Những diều giới của người
xuất gia được hình thành sớm hơn của người
tại gia,
ban đầu gồm 10 giới (Sau gọi là
giới sa di):
1.
Không
sát sinh hại mạng.
2.
Không lấy của không cho.
3.
Không
dâm dục.
4.
Không
nói dối.
5.
Không uống rượu.
6.
Không thọ thực sau
giờ ngọ.
7.
Không
tham dự các buổi
ca vũ nhạc kịch.
8.
Không dùng trành hoa hương liệu, son phấn vàng ngọc trang sức.
9.
Không dùng sàng toạ cao sang rộng lớn.
10.
Không nhận tiền, vàng, bạc …
Mười giới trên là giới của người
xuất gia,
sa di hay
tỳ kheo cũng phải giữ như vậy;
mục đích là giữ sự
thanh tịnh của
Tăng đoàn, tránh xa các
hành vi phù phiếm thế tục để dễ dàng
tu tập chánh niệm.
Giới bổn quy định rõ 10 giới trên là của
sa di, có lẽ từ năm thứ 12 khi mà
giới luật Tỳ kheo được
thành lập.
Quá trình hình thành
giới Tỳ kheo trải qua thời gian khá dài.
Đức Phật không chủ trương
thiết lập hệ thống giới luật để
kiềm chế chúng Tăng, do
tình hình thực tế và
thuận theo nhu cầu của Tăng mà
thiết lập giới. Khi một
Tỳ kheo phạm vào một
bất thiện pháp nào,
Đức Phật họp tăng và
chế giới ấy.
Sự tình chế giới có lẽ vào năm thứ 5 kéo dài đến cuối đời Ngài.
Luật tạng thực sự được
thành lập phải là
thời kỳ kết tập thứ nhất sau khi
Phật diệt độ 3 tháng. Luật
tăng Kỳ ghi lại
sự kiện Tôn giả Xá Lợi Phất thấy sự
cần thiết phải có khung
giới luật hoàn chỉnh, nên
yêu cầu Đức Phật chế giới đầy đủ.
Đức Phật từ chối, ngài dạy:" này
Xá Lợi Phất, trong chúng của ta chưa từng có
pháp hữu lậu. Trong chúng này của ta, người nhỏ nhất cũng
đắc quả Tu Đà Hoàn. Các
Đức Phật Như Lai không vì chưa có
pháp hữu lậu mà
kết giới cho các đệ tử". Vậy cho thấy,
giới luật của
Đức Phật khôngmang tính cưỡng chế.
Trường hợp chế giới Tỳ kheo, theo luật
tăng kỳ thì giới đầu tiên là giới bất dâm, được
thiết lập vào năm thứ 5 sau ngày thành đến năm thứ 12 thì
giới tỳ kheo đã lên đến 120 điều. Luật chép:"
Đức Thế Tôn ở thành
Tỳ Xá Ly, sau khi
thành đạo được 5 năm, nữa tháng thứ 5 của
mùa đông, ngày 12 sau khi thọ trai xong bóng
mặt trời ngã về
hướng tây một người rưỡi,
Đức Phật chế giới này cho con trai của một trương
giả Da xá ca lan Đà". Giới thứ hai là giới
trộm cắp, Phật chế ở thành
vương xá vào năm thứ sáu, chế cho người thợ gốm tên là Đạt Ni Ca. Điều thứ ba là
giới sát sinh,
Đức Thế Tôn ở thành
Tỳ Xá Ly vào năm thứ sáu, nhân các
Tỳ kheo tu
bất tịnh quán,
nhàm chán xác thân nên nhờ
Lộc Trượng giết,
Lộc Trượng (Migalandika) là một
tỳ kheo, trước kia là
ngoại đạo trà trộn vào chúng
Tỳ kheo, có
biện tài chặt đứt đầu một cách nhanh chóng những người muốn
tự sát, bấy giờ ngài liền
chế giới này. Giới thứ tư là Đại
Vọng Ngữ,
Đức Thế Tôn ở tại
Xá Vệ, năm thứ sáu, nhiều
Tỳ kheo đi vàolàng xưng là
A La Hán. Như vậy, các trọng giới của
Tỳ kheo đã được chế
trong vòng 2 năm. Đó là theo
quan điểm của luật
Tăng Kỳ.
Vấn đề lịch sử về quá trình hình thành
giới luật rất
phức tạp, khó mà
chính xác được.
Luật tạng gồm các bộ luật ghi chép các giới điều ngăn cấm và
phương cách xử lý khi có ai
vi phạm giới tướng của
Tỳ kheo giới có 250 điều,
Tỳ kheo ni có 348 điều. Sau khi
Đức Phật diệt độ, lần
kết tập thứ nhất
Tôn giả Ưu Ba Ly đã
đọc tụng 80 lần mới
hoàn thành, nên gọi là:"
Bát Thập Tụng Luật". Sau này
thời kỳ phân phái
luật tạng chia ra nhiều bộ nữa.
Luật tạng được hình thành không theo
hệ thống mà dựa theo các
sự kiện thực tế. Ngài
Ưu Ba Ly sắp xếp theo mức độ nặng nhẹ
tuần tự 8 phần như sau
1.
Baladi (Paràjika) có 4 tội: Hành dâm,
đạo tặc, sát nhân và đại
vọng ngữ. Gọi là Baladi nghiã là thất bại, sẽ bị
tẩn xuất ra khỏi
giáo hội (Ni có 8 tội).
2.
Tăng già bà thi sa (Sanghàdisesa): nghiã là
yêu cầu hội họp tănh chúng. Giới này Tăng có 13, Ni có 17. Vị nào phạm các giới này, người có tội phải
thú nhận trước cuộc họp
tăng chúng.
3.
Bất định (Aniyatà): Những sự
vi phạm giới này là
trường hợp cần phải diều tra để
quyết định xem chúng thuộc một hay hai. Cách
xử phạt sẽ khác nhau tuỳ theo
trường hợp. Có 2 giới bất địng cho
Tỳ kheo.
4.
Ni tát kỳ ba dật đề (Nissaggaya- Pàcittiya): Nghĩa là:" Xả đoạ" người phạm phải đem tài vật ấy xả cho tăng rồi đến trước Tăng
sám hối. Có 30 giới cho tăng và Ni.
5.
Ba dật đề (pàcittiya) nghĩa là
cần phải chuộc tội. Đây là
giới luật nếu
vi phạm là không
thanh tịnh cần phải chuộc tội bằng cách
thú nhận trước
chúng Tăng hay trước vị
Tỳ kheo. Có 90 giới cho
Tỳ kheo và 166 giới cho
tỳ kheo ni.
6.
Ba la đề xá ni (Pàtidesaniya) nghĩa là
cần phải thú nhận sám hối trước một vị tăng. Có 4 giới cho Tăng và 8 giới cho Ni.
7.
Pháp chúng học (Sekhiya) là những nguyên tắc xử thế, những phép
cư xử lịch sử của
Tăng ni về
y phục,
thái độ lúc đi
khất thực, vệ sinh
cá nhân. Không có hình phạt
chính thức nào dành cho
vi phạm.Có 100 pháp cho Tăng và Ni.
8.
Pháp diệt tránh (Adhikarama) nghĩa là ổn định thanh chấp, là các giới lu\iên hệ đến
phương cách ổn định các mối
tranh chấp và loại trừ các sự
sai biệt về
ý kiến. Có 7
phương pháp (
tham khảo Đức Phật lịch sử – VNCPPHVN
ấn hành).
Luật
bát Thập Tụng được
truyền trì nghiêm cẩn qua 5
Tôn giả:
Ca Diếp (Mahakassapa), Anan (Ananda), Mạc Diền Địa (Mad- hyàntika),
Thương Na Hoà Tu (Sànavàsa),
Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta), Tạng luật vãn không có gì thay đổi. Nhưng
Ưu Ba Cúc Đa có 5
đệ tử, mỗi người đều có
dị kiến về luật mà chia thành 5 bộ. Về sau
kiến giải về
luật tạng còn
phong phú hơn. Nhưng nhìn chung, nội dung của giới điều mà
Đức Phật đã dạy từ thời nguyên thuỷ vẫn nguyên vẹn, những dị biệt chỉ là
tiểu tiết.
CHƯƠNG II
GIỚI LUẬT- CƠ SỞ CỦA ĐẠO ĐỨCI
. KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC:"
Đạo đức là một trong những hình thài
ý thức xã hội, một chế định
xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của
con người tronh mọi
lãnh vực của
đời sống xã hội" (Từ điển
triết học). Vậy,
đạo đức là
vấn đề liên hệ đến
giá trị tốt xấu,
thiện ác của
đời sống con người.
Dựa vào các
quan niệm, các nguyên tắc
đạo đức,
con người có thể
điều chỉnh hành vi của mình
phù hợp với
đạo lý xã hội. Điều đó được biểu hiện qua những
hình thức khác nhau như
lương tâm,
trách nhiệm, bổn phận …
Đạo đức được hình thành tự phát bởi nhu cầu và
lợi ích xã hội được
mọi người chấp nhận.
Đạo đức khác với
pháp luật ở chổ người có
thực hiện đạo đức được
mọi người xung quanh kiểm định là một
con người có
thực hiện đạo đức không
gắn liền với một
quyền hạn thực sự nào.
Đạo đức có đặt tính thực tiển,
gắn liền với sinh hoạt của
con người, đặt ra những nguyên tắc ứng xử, những
quan niệm về các mối quan hệ
xã hội như đối với
bản thân,
gia đình,
dòng họ,
xã hội và
thiên nhiên.
Vì vậy, tính thiết yếu của
đạo đức khá mạnh mẽ; nó
tác động thuận hay nghịch vào quá trình
xây dựng hạnh phúc và phát triển của
xã hội.
Giải quyết vấn đề đạo đức,
con người thường
dựa vào phong tục, tập quán,
tôn giáo triết học … để chọn cho mình một
lối sống, một cách ứng xử
tốt đẹp nhất.
II. Ý THỨC ĐẠO ĐỨC:Ý thức đạo đức chính là tiến nói
lương tri của
con người, là những
hoạt động tâm lý liên hệ dến
giá trị tốt, xấu, nên hay không nên làm của
ngôn ngữ hành vi và cả
tư duy. Biểu hiện của
ý thức đạo đức gồm có 3
lãnh vực.
1.
Lãnh vực nhận thức:
Khả năng
tri thức nhận biết những
giá trị cao thượng của
đời sống như
nhận thức về
chân lý, biết cái đúng cái sai … nó giúp
con người thẩm định giá trị và chọn lựa một hành ộng hợp
đạo lý.
2.
Lãnh vực tình cảm:
Ý thức đạo đức được
biểu lộ qua tình cảm của
con người. Như khi ta làm một điều thiện, trong lònh
vui vẻ,
thanh thản; khi làm một điều xấu ác,
cảm thấy lòng
xấu hổ, nặng nề,
tâm lý tàm quý,
ân hận,
sợ hãi tội lỗi … hoặc
tỏ ra không
hài lòng, không
kính trọng một người vì
hành vi của họ và ngược lại. Đó là biểu
hiện tình cảm của
đạo đức.
3.
Lãnh vực hành vi:
Một biểu hiện khác của
ý thức đạo đức là
hành vi. Hành động
thể hiện ý chí đoạn trừ điều ác
thực hành các điều thiện. Khi
ý thức đạo đức mạnh mẽ thì
hành vi được hướng dẫn để đi đúng hướng.
Tóm lại,
ý thức đạo đức là sự
nhận biết một
tâm niệm, một
quyết định, một
hành vi là tốt hay xấu để chọn lựa
thái độ phù hợp với
giá trị đạo đức.
III. CÁC QUAN NIỆM ĐẠO ĐỨC QUA CÁC TÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC ĐÔNG TÂY:1.
Nho giáo:
Nho giáo do
Khổng Tử sáng lập.
Đạo đức luân lý Nho giáo là thuyết
Trung dung,
hoạt động của
con người tuỳ thuận theo
Thiên mệnh hay Thiên lý, có thể hiểu là những
quy luật khách quan của
vũ trụ nhân sinh. Từ chổ hiểu được
Thiên mệnh, người nquân tử
xây dựng lòng nhân, thương người và
hoà hợp với trời đất. Từ nhân, các đức tính nghiã, lễ, trí, tín … được
thiết lập. Chữ nhân của
Khổng Tử rất bao quát, có thể hiểu là
hiếu để hay
lòng nhân ái. Trong
luận ngữ,
Khổng Tử nói:" Người có đức nhân là
bản thân mình muốn đứng vững trong cuộc sống,
bản thân mình muốn
thành đạt thì cũng nên giúp người khác
thành đạt.
Mọi việc đều có thể từ mình mà nghĩ đến nghĩ người khác có thể nói đó là
biện pháp thực hiện đạo nhân".
Muốn
đạt được nhân từ thì phải tu nhân, muốn
tu thân thì phải chánh tâm. Muốn chánh tâm thì phải nhờ vào Lễ và Nhạc. Nhờ lễ mà định chính được lòng người giữ
đạo Trung Dung.
Lễ ký viết:" Lễ là
định thân sơ, quyết sự
hiềm nghi,
phân biệt cái giống nhau khác nhau, làm rõ cái phải trái". Nhạc có thể cảm hoá được lòng người, lòng người
xúc động mà thành nhạc, lòng vui thì nhạc vui, lòng buồn thì nhạc buồn. Ngược lại, nhạc vui thì lòng vui, nhạc buồn thì lòng buồn. Nên
tác dụng của nhạc là cảm hoá được lòng người.
Khổng Tử nói:" Xét cho cùng thì cái lẽ về nhạc là làm lòmg người trở nên
từ ái,
thành tín, giản dị,
chánh trực,
tự nhiên … (Nhạc ký) Lễ và Nhạc có
mục đích chung là cùng
sửa đổi tâm tính con người cho được
trung chính,
bồi dưỡng tình cảm
con người cho được
nhân hậu. Nhạc
tác động bên trong, Lễ
tác động bên ngoài; nhờ
vậy mà có sự hoà thuận".
2.
Lão giáo:
Lão giáo do
Lão Tử sáng lập.
Tư tưởng của
Lão Tử nằm trong
tác phẩm Đạo Đức Kinh.
Vạn vật sinh ra và
biến đổi nhờ có.
"Đạo" –
Con người sống
thuận theo tính
tự nhiên là hợp với đạo, nghiã là sống vô dục mới nhận được chổ
huyền diệu của đạo.
Đạo đức kinh viết:" Thường vô dục dĩ quan
kỳ diệu, thường
hữu dục dĩ quan kỳ hiếu" (nghiã là thường sống không
tư dục mới nhân được chổ
huyền diệu của đạo, thường sống với
tư dục nên chỉ thấy chổ chia lìa của đạo). Sống không
tư dục cũng có nghiã là sống
tri túc, tri chỉ, như nói:
"Thậm ái tức thậm phí
Đa tàng tất hậu vong
Tri túc bất nhục
Tri chỉ bất đãi
Khả dĩ
trường cửu(Thương nhiềi thì tổn nhiều
Chứa nhiều tất mất nhiều)
Biết đỉ tức không nhục
Biết dừng tức không nguy
Như vậy mới
tồn tại lâu dài"
Trên cơ sở ấy, cách
xử sự của ngưòi biết đạo là dùng:" Vô vi" mà
xử sự, dùng
vô ngôn mà dạy dỗ (Xử
vô vi chi sự hành
vô ngôn chi giáo –
Đạo đức kinh) biểu
hiện hành động
cụ thể trong cuộc sống là:" Hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn"
(Để thân ra sau mà thân ở trước để thân ra ngoài mà thân đặng còn).
Tóm lại,
đạo lý của
Lão Tử nằm ở chổ vô dục
vô tranh,
như Đạo Đức kinh viết:" Phù vi
vô tranh cố vô vưu", ôi vì không tranh nên không sao lầm lỗi !
3.
Cơ Đốc Giáo:
Cơ Đốc Giáo được khai sáng bởi Jesus.
Đạo đức cơ đốc giáo,
căn bản là lòng
bác ái,đầy tính
nhân đạo. Jesus
đặc biệt quan tâm đến tầng lớp
nghèo khổ, ghét kẻ
tâm địa giả dối và
cậy quyền thế của giới
thượng lưu. Nguyên tắc:" mến chúa yêu người" là nền tảng của
đạo đức cơ đốc. Người có lòng yêu chúa mà không yêu yêu người là kẻ
gian dối. Thánh Jean nói một câu rất hay là:" Cái thấy được mà còn chưa yêu thì làm sao yêu được cái mình không thấy". Theo Jesus thì
thượng đế là cha của
nhân loại;
vì vậy cha
yêu thương con là
thiên tính, nên con phải
tin tưởng vào cha của mình. Jesus rao giảng những nguyên tắc
đạo đức như đừng ghét, đừng giận, đừng
dâm loạn, đừng làm chứng dối, đừng
tham của cải người khác, phải nhu hoà
yêu thương, khiêm tốn,
thành thật, và
bao dung tha thứ … Những
quy phạm đạo đức của
Cơ Đốc Giáo mang tính phổ quát.
Tuy nhiên, sự
giới hạn của
đạo đức của
con người khó
vượt qua là tôị
tổ tông.
Con người muốn
đạt được đạo đức cao thượng phải có
niềm tin tuyệt đối vào
Thượng đế và được sự mặc khải của
thượng đế, chỉ
Thượng đế mới có
đạo đức utyệt đối.Phẩm hạnh
đạo đức cao nhất của
con người là niền tin và niềm
hy vọng vô
điều kiện và sự
ban ơn của chúa trời.
4.
Phật giáo:
Đạo đức Phật giáo không chỉ là những nguyên tắc
đạo đức đáp ứng nhu cầu
xây dựng hạnh phúc ổn định cho
cá nhân và thượng
siêu việt và
giải thoát;
hay nói cách khác là đưa
con người ta ra khỏi con ngươi để vươn tới
lý tưởng giải thoát. Nguyên tắc
đạo đức Phật giáo được gói gọn trong
Bát Chánh Đạo,là
Đạo đế trong
Tứ Diệu Đế.
Bát Chánh Đạo gồm có:
Chánh kiến (
hiểu biết chính xác),
Chánh tư duy (
suy nghĩ đúng đắn),
Chánh ngữ (
ngôn ngữ đúng đắn),
Chánh nghiệp (
hành vi đúng đắn),
Chánh mạng (
phương tiện mưu sinh
chân chính),
Chánh tinh tấn (nổ lực
đúng đắn),
Chánh định (tập
trung tâm đúng đắn). Tám chi
thánh đạo này có
tác dụng thanh lọc
ngôn ngữ,
hành vi và
tâm lý của
con người. Theo
Tứ Diệu Đế,
con người đau khổ vì con
tham lam sân hận và
si mê, từ đó tạo ra
ngôn ngữ và
hành vi bất thiện, nghiã là tạo
ác nghiệp để rồi gặt hái
hậu quả khổ đau.
Mục tiêu của
đạo Phật là
chấm dứt khổ đau, đem đến
an lạc và
giải thoát. Khổ đau theo
đạo Phật có 2 lĩnh vực:
Một là khổ đau thông thường như già, bệnh, chết, thất bại, khốn cùng … nghiã là những
đau khổ thuộc về
tâm lý,
sinh lý,
hoàn cảnh vật lý.
Hai là nổi
đau khổ do
luân hồi sinh tử trong
ba cõi.
Giải quyết đau khổ thông tục,
Đức Phật dạy:" Đừng làm các điều ác, hãy làm các việc lành". (
Chư ác mạc tác chúng thiện
phụng hành). Muốn
thực hiện điều này
cần phải giáo dục về mặt
nhận thức,
tư duy, nhận rõ điều ác, điều thiện (qua
Chánh kiến,
Chánh tư duy)
cần phải giữ gìn ngôn ngữ như không nói dối, không nói đâm thọc, không nói
độc ác, không nói lời
phù phiếm vô ích;
Cần phải giữ gìn hành vi như không được giết hại, không được
trộm cắp, không được
tà dâm;
giữ gìn phương tiện mưu sinh
chân chính như không lường gạt trong nghề nghiệp, không hàng nghề
độc ác như buôn bán vũ khí, chất độc rượu, buôn người, đồ tể … Những giới điều này được đúc kết thành 5 giới của người
phật tử: Không được
sát sinh, không được
trộm cắp, không được
tà dâm, không được
nói dối, không được uống rượu,
ma túy.
Giải quyết nổi khổ vì bị
luân hồi sinh tử,
đạo phật cho rằng phải thanh lọc tâm ý
chấp ngã thành
vô ngã, đoạn trừ
hoàn toàn tham, sân, si, bằng ba
Thánh đạo:
Chánh tinh tấn,
Chánh niệm,
Chánh định để đưa đến
Chánh trí, Chánh
giải thoát.
Đạo đức Phật giáo mang tính phổ quát, là cơ sở
đạo đức cho
xã hội.
Hành vi đạo đức Phật giáo mang tính
tự giác, không
ép buộc bởi
Thượng đế hay một
áp lực nào, chỉ vì nhu cầu
hạnh phúc và
an ổn cho
đời sống cá nhân và
cộng đồng một cách
lâu dài. Đó là những nguyên tắc
đạo đức cho bất cứ người nào,
thời đại hay
xã hội nào. Đây là tính
ưu việt của
đạo đức Phật giáo.
5. Socrate (649 – 399 BC): Là một nhà
hiền triết rất
nổi tiếng thời Hy Lạc cổ đại. Đối với
vấn đề đạo đức, ông cho rằng:" Một nền
đạo đức thực tiển không thể
căn cứ vào một
giáo lý mơ hồ, ta có thể tạo dựng một nền
luân lý hoàn toàn không
lệ thuộc thần học,
hoàn toàn thích hợp với ngườicó
tôn giáo cũng
như không có
tôn giáo thì
xã hội có thể được ổn định mà không cần thần học" (Will Durant –
Câu chuyện triết học). Ông cho rằng
tinh hoa của một nền
luân lý chính là
nhận thức sáng suốt về
quyền lợi chính đáng,
thấu triệt được
luật nhân quả,
kiểm soát được
lòng ham muốn … mọi
tội lỗi đều do nhu si mà ra. Ông
phân biệt hai hạng người: Một là hạng người
vô minh; Hai là hạng người
trí tuệ. Người có
trí tuệ cũng bị
cám dỗ bởi
tham sân si nhưng họ biết dùng
trí tuệ để
chế ngự sự
cám dỗ và không rơi vào vòng
tội lỗi.
Theo Socrate,
bản tính con người là thiện. Khi người ta
biết điều thiện thì người ta sẽ làm điều thiện. Cho nên, sự
phân biệt thiện ác rất quan trọng
trong đời sống của
con người, người có
trí tuệ chính là người biết rõ
thiện ác.
6. Platon (427- 347 BC): là học trò của Socrate.
Vấn đề đạo đức ông cho rằng đó là sự
công bằng hay là sự thăng bằng:" Mỗi
cá nhân là một sự
phối hợp các ước muốn, các tình cảm, các
suy nghĩ. Nếu các
yếu tố được điều hoà thì
cá nhân sẽ được
tồn tại thành công nếu các
yếu tố ấy không làm đúng phận sự của mình, nếu để tình cảm hướng dẫn hành động
con người sẽ
mất thăng bằng, thăng bằng là sự ổn cố của
tâm hồn. Tất cả những sự
xấu xa trên đời đều do sự thiếu điều hoà, nghĩa là thiếu sự thăng bằng giữa
con người và
vũ trụ, giữa
con người với
con người, giữa
con người với xã hội". Ông
nhấn mạnh sự thăng bằng hay
công bằng là một sự quan hệ giữa
cá nhân, tuỳ thuộc vào tổ chức
xã hội.
Tuy nhiên, ông
công nhận sự
đau khổ của
con người xuất phát từ trong
tâm hồn của
con người. Ông cho rằng
con người không được
hạnh phúc vì:" Do lòng tham và sự
xa hoa.
Con người không chịu bằng lòng với
một đời sống giản dị, họ luôn muốn chiếm đoạt, muốn
ao ước, muốn
ganh đua, muốn
ghen ghét. Họ
bất mãn với những gì họ có và chạt theo những gì họ chưa có, họ chỉ muốn những gì thuộc về kẻ khác (
Câu chuyện Triết học).Ông cũng chủ trương như thầy của ông là
hành vi con người có
giá trị khi tham, sân, si được hướng dẫn
chuyển hoá bởi
trí tuệ. Ông chủ trương cải hoá lòng người bằng
âm nhạcĐiều này
tương tự như chủ trương của
Khổng Tử ở Trung Hoa. Ông nói:"
Cần phải dạy cho dân chúng biết
âm nhạc. Nhờ
âm nhạc mà
tâm hồn con người ý thức được sự điều hoà và nhịp điệu, do đó mà
ý thức được công lý".
7. Aristote (384-322): Ông là học trò xuất sắc của Platon. Ông chủ
trương thuyết Trung Dung dạy
con người hành động
hợp lý giữa các
thái cực. Cũng như các bậc thầy của ông
vấn đề đạo đức vẫn đặt trên nền tảng
lý trí:"
Đạo đức tuỳ thuộc vào sự
suy luận chính xác, sự
kiểm soát tinh thần, sự
quân bình của
lòng ham muốn.
Thói quen suy luận đưa người ta đến chỗ
thánh thiện. Một người hành động
chính đáng không phải vì
lý do họ là một người có
đạo đức nhưng ngược lại vì họ có
đạo đức do sự huấn luyện suy tư,
công phu mà họ hành động chính đáng". (sđd) Điều đó có nghĩa là sự
thánh thiện đạo đức của một
con người không phải tự nó có mà phải do tập
luyện hành trì lâu ngày
trở thành thói quen. Đặt biệt, Aristote hướng
đạo đức đến
cứu cánh của ó là
hạnh phúc cho
đời sống của
con người. Ông nói:"
Mục đích trực tiếp của
cuộc đời không phải cái hay cái đẹp mà chíng là hạnh phúc". Định nghĩa về
hạnh phúc, ông nói:"
Hạnh phúc là sự phát triển
hoàn toàn đầy đủ các đức tính của
con người. Đức tính nổi bậc nhất của
loài người là khả năng
suy luận, chính nhờ đức tính này mà
loài người đứng trên tất cả các loài khác. Chính
vì vậy mà khả năng
suy luận một khi được phát triển
hoàn toàn đầy đủ sẽ đem đến
hạnh phúc hoàn toàn cho con người".
Tóm lại, trên đây chỉ nêu
tiêu biểu và
sơ lược về
quan niệm đạo đức của một số
tôn giáo,
Triết học Đông Tây.
Nếu cần thiết có
thể tham khảo rộng hơn và đủ hơn qua các
tác phẩm chuyên môn. Nhìn chung
quan niệm về
đạo đức là:
1.
Con người phải có
lòng từ bi
nhân ái bao,
bao dung.
2.
Phải có
trí tuệ biết rõ
thiện ác3.
Phải bớt
dục vọng, biết
tri túc khiêm tốn.
4.
Đạo đức là những đức tính mang
tác dụng chuyển hoá con người bản năng thành
con người tự chủ,
con người đau khổ thành
con người hạnh phúc.
IV. MỤC TIÊU CỦA ĐẠO ĐỨC:Các
tiêu chuẩn đạo đức và các
hành vi đạo đức nhằm
mục đích đem đến cho
con người và
xã hội một
cuộc sống hạnh phúc. Banzeladze, một
tư tưởng gia phương tây viết:" Vân đề
lý tưởng tối cao và
ý nghĩa của cuộc sống
thực chất là
vấn đề hạnh phúc.
Con người là
giá trị cao nhất, là cơ sở, là ngọn nguồn của mọi
giá trị, mọi thứ đều là
phương tiện cho
con người và cuộc sống của con người". (
Đạo Đức Học NXB Hà Nội)
Những
quan điểm và
hành vi đạo đức nếu không đáp ứng được
mục tiêu hạnh phúc cho
con người thì không thể coi là
đạo đức được; không thể
chấp nhận các
tiêu chuẩn đạo đức mà đưa đến sự
áp bức, hảm hại, bất công và
đau khổ. Như vậy,
mục tiêu của
đạo đức là
hạnh phúc.
Hạnh phúc là gì ? Một
vấn đề khá
phức tạp.Có người
quan niệm rằng
hạnh phúc đến từ
vật chất như
tài sản, sắc đẹp,
danh vọng hoặc đến từ sức khoẻ của cơ thể; đến từ tình yêu (một mái nhà tranh hai quả tim vàng chẳng hạn) hoặc đến từ cảm thụ thẩm mỹ nghệ thuật hoặc sự
ân sủng của
Thượng đế …
Mặc dù
quan niệm về
hạnh phúc khác nhau nhưng có một
kinh nghiệm chung về
hạnh phúc, đó là một
cảm thọ có
điều kiện, nghĩa là
cảm giác thoải mái sung sướng vui tươi do các
điều kiện phù hợp có mặt. Những
cảm giác ấy
Đạo Phật gọi là
Lạc thọ, đó là một trong 3
cảm giác: Lạc, Khổ, và
Trung tính, đã là
cảm thọ thì nó
vô thường.
Vì vậy có những
cảm thọ thoáng qua nhanh, có những
cảm thọ tồn tại lâu dài, có những
cảm giác hạnh phúc nhưng nó lại là
nguyên nhân của
cảm giác khổ đau, có những
cảm giác hạnh phúc là nền tảng cho những
cảm giác hạnh phúc cao hơn.
Nhìn chung thì
hạnh phúc đến từ
yếu tố tinh thần được nhiều người
chấp nhận hơn, ít người cho rằng
hạnh phúc đến từ
vật chất. Aristote,
Triết gia cổ đại Hy Lạp cho rằng:" Mặc dù
tiện nghi vật chất cần thiết cho
đời sống hạnh phúc nhưng
yếu tố chính là sự
sáng suốt của
tâm hồn. Những khoái lạc
giác quan không phải là chìa khoá của
hạnh phúc.
Hạnh phúc phải là sự khoái lạc của tâm trí". (
Câu chuyện triết học) Ông ta
công nhận giá trị của
vật chất nhưng coi
hạnh phúc thuộc
giá trị tinh thần cao hơn, đây là cái nhìn được nhiều
triết gia chia xẻ. Banzeladze viết:" Tronh
lãnh vực khoái cảm
vật chất, khoái cảm càng mạnh thì càng ngắn ngủi. Cường độ khoái cảm
tỷ lệ nghịch với độ dài
thời gian của nó … trong
lãnh vực những khoái cảm về
tinh thần nhân tố
thời gian có một giai trò
hoàn toàn khác,
thời gian tác động có lợi cho
con người. Ở đây, không có
quy luật tỷ lệ nghịch, ngược lại cường độ khoái cảm càng cao trong
lãnh vực này thì nó càng kéo dài".
(
Đạo đức Phật giáo – T. Chơn Thiện)
Đức Phật có lần
so sánh hạnh phúc của vua Bimbisara và
hạnh phúc của ngài, Ngài dạy rằng
hạnh phúc mà vua Bimbisara hưởng thụ không kéo dài trong một ngày một đêm, còn
hạnh phúc mà ngài hưởng thụ một cách thuần tuý kéo dài 7 ngày 7 đêm vì đó là
hạnh phúc của
tâm linh (
thiền định) (Kinh tiểu
khổ uẩn –
Trung bộ I).
Đức Phật thường dạy
đệ tử phải biết rõ
bản chất của
lạc thọ (
cảm giác hạnh phúc) sau khi biết rõ hãy
an trú vào nội lạc (
hạnh phúc tâm linh) (Kinh
Trung Bộ)
Đề cập đến haạnh phúc của một
con người bình thường trong
xã hội,
Đức Phật dạy có 4 loại
hạnh phúc:
1.
Hạnh phúc khi có được
tài sản sở hữu hợp pháp.
2.
Hạnh phúc của sự hưởng thụ
hợp lý tài sản ấy.
3.
Hạnh phúc của sự không
vướng mắc nợ nần của ai.
4.
Hạnh phúc của sự không có
tội lỗi (
tâm hồn trong sáng thanh thản)
(Kinh tăng Chi – chương 4 pháp)
Hạnh phúc thứ tư được coi là
căn bản và cao nhất, nếu
hạnh phúc tinh thần này không có mặt thì 3 loại
hạnh phúc trên trở nên
vô nghĩa. Một người có nhiều
tội lỗi không thể sống
hạnh phúc được, ngược lại một người không có gây tạo
tội lỗi thì có thể sống
hạnh phúc, nghĩa là
tâm hồn thanh thản,
lương tâm trong sạch không có
lo âu sợ hãi ân hận… một người như vậy phải là một người sống có
đạo đức, sống không bị
chi phối, thúc bách của
tham lam,
sân hận và
tà kiến.
Quan niệm hạnh phúc theo
Phật giáo nó
đồng nghĩa với giải thoát. Như vậy toàn bô
hệ thống giáo lý Phật giáo noi chung và
hệ thống giới luật nói riêng đều là
con đường đi vào đạo đức và
hạnh phúc.
Sự giải thoát hay
hạnh phúc của một
con người nhiều hay ít, cao hay thấp tuỳ thuộc vào
hành vi đạo đức của người ấy, nghĩa là tuỳ thuộc vào sự
chế ngự dục vọng nhiều hay ít, nhất htời hay
triệt để. Người
phật tử xuất gia hay
tại gia không phải sống hai
lối sống khác nhau mà chính là sống trên một
trình giải thoát khỏi dục vọng và
đau khổ, tuỳ theo
điều kiện và cấp độ
tu tập mà có sự khác nhau giữa hai
đời sống xuất gia và
tại gia.
V. GIỚI LUẬT LÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC:Mục tiêu của
đạo đức là
hạnh phúc hay nói cách khác, muốn sống có
hạnh phúc thì phải sống có
đạo đức.
Đạo đức phải được
xây dựng trên cơ sở những
tiêu chuẩn phù hợp với thực tiển của
con người và
hoàn cảnh xã hội mà
con người đang sống. Có những
tiêu chuẩn được coi là
đạo đức nhưng nó không thực sự
cần thiết và thực sự
phù hợp với
quy luật hạnh phúc. Có những
tiêu chuẩn đạo đức chỉ
phù hợp với một giai đoạn
lịch sử nào đó.
Tóm lại nó không có tính phổ quát, không đạt chuẩn mực
đạo đức toàn diện.
Vì vậy,
thiết lập nền tảng
đạo đức phải mang tính phổ quát,
phù hợp với
chân lý và thực tiển
đời sống con người.
Đạo Phật có thể
cung cấp một
hệ thống đạo đức như vậy.
Một người muốn
trở thành một
phật tử, tự nguyện đặt mình vào kỷ luật
tâm linh mà
Đức Phật đã
thiết lập, họ phải
tuân thủ 5 giới, 10 giới hay nhiều giới hơn nữa như 250 giới của
Tỳ kheo, 48 giơi của
Bồ tát … Những
giới luật ấy là những nguyên tắc
hành trì, để sống có phẩm chất hơn, có
tác dụng hướng thượng và hướng
thiện tâm lý và
hành vi của cin người chứ không phải những nguyên tắc bất di bất dịch hoặc cứng nhắc
giáo điều.
Giới luật ấy giúp
con người nhận ra được một cách sâu sắc hơn về
bản chất của cuộc sống và rút ra được hệ quả
đạo đức,
nuôi dưỡng những niền tin vào cuộc sống
hiện tại và hướng đi của tương lai.
Nếu một người
hành trì các nguyên tắc
đạo đức hay những
giới luật này mà họ không
cảm thấy một sự
bình an,
thanh thản nào thì họ đã không hiểu và
hành trì đúng. Trong
thực tế, có những
phật tử tuân thủ các nguyên tắc của giới nhưng
đời sống của họ vẫn thiếu
đạo đức, mối tương hệ của họ với
tha nhân bất ổn, các mối quan hệ khác bị khủng hoảng,
Đức Phật dạy đấy là rơi vào
giới cấm thủ, một trong những
kiết sử, những
ức chế tâm lý.
Nguyên tắc
hành trì mà
Đức Phật thiết lập cho các
đệ tử khép mìng vào đó để làm
đình chỉ dục vọng bản năng có thể nói đó là những nguyên tắc khách quan và phổ quát. Đó là 5 giới của người
phật tử:
1.
Không giết hại.
2.
Không
trộm cắp.
3.
Không quan hệ
tình dục phi pháp.
4.
Không dối gạt hại người.
5.
Không rượu chè say sưa.
Một
nhà trí thức phương tây
nhận định:"
Năm giới này cho thấy 5 hướng chính mà người
phật tử tự mình
kiểm soát để (
hành trì)
tri hành. Đó là giới thứ nhất răn người
phật tử kiềm chế nóng giận, giới thứ hai
kiềm chế tham đắm
vật chất, giới thứ ba
kiềm chế nhục dục, giới thứ tư
kiềm chế sự khiếp nhược và
ác ý (
nguyên nhân không
chân thật) và giới thứ năm
kiềm chế lòng ham muốn các sự
kích thích nhơ bẩn’.(Edmond- Homs –
Tín điều của
Đức Phật). Dù
phật tử hay không là
phật tử, các nguyên tắc
đạo đức này
cần phải được
thực hành, dù trong
điều kiện thời gian hay
không gian nào,
nếu không muốn có
hậu quả xấu.
Đức Phật xác định rằng một người nếu có
hành vi sát sinh, lấy của không cho,
tà hạnh trong các dục, nói láo và đắm say rượu men rượu nấu thì sẽ có một cuộc sống
sợ hãi và
hận thù đồng thời cõi ác đau khổ đang chờ đợi họ; ngược lại một người (
phật tử)
từ bỏ sát sinh … thì cuộc sống không có
sợ hãi,
hận thù và cõi thiện đang chờ đợi họ.
giá trị của một
con người phải được
đánh giá qua
tài sản,
thân tướng,
dòng họ,
địa vị … mà được
đánh giá qua 5 nguyên tắc
đạo đức trên.
Đức Phật dạy thêm rằng:" Một người mà
hành trì của họ được
bảo vệ bởi 5 nguyên tắc (giới) trên thì người ấy có thể
thành tựu một cách nhanh chóng bốn
tăng thượng tâm hiện tại lạc trú". (Tăng Chi III)
Đi sâu hơn các nguyên tắc
căn bản trên,
Đức Phật thiết lập 10 giới (10 điều thiện) nhằm
nâng cao hơn nữa
hành vi và
tâm lý đạo đức của
con người 10 điều ấy được
thiết lập trên cơ sở
hành vi,
ngôn ngữ,
tâm lý.
Hành vi gồm có:
Không
sát sinhKhông
trộm cắpKhông quan hệ
tình dục phi phápNgôn ngữ gồm có:
Không
nói dối.
Không nói hai lưỡi.
Không nói lời
độc ác.
Không nói lời
phù phiếm ba hoa.
Tâm ý
gồm có:
Không
tham lam.
Không
sân hận.
Không
si mê tà kiến.
10 giới điều này thực sự bước vào lộ trình của
giải thoát, đây là
giới căn bản cho cả
tại gia và
xuất gia, khác với 5 giới là
bước đầu chỉ quy định trong
phạm vi,
hành vi và
ngôn ngữ là những biểu hiện
đạo đức cụ thể gây hậu trực tiếp, tuy vậy vẫn chưa
thể hiện được nguồn gốc, động cơ bên trong có người có thể
giữ gìn vẻ
bề ngoài như là có
đạo đức để lừa gạt người khác nhưng họ vẫn không thể là người tốt thực sự, vì động cơ bên trong không
lành mạnh, chỉ tốt
bề ngoài chưa phải là thiện thật sự.
luật pháp của
xã hội cũng chỉ
giới hạn ở mức độ
hành vi và
ngôn ngữ mà thôi.
Đức Phật dạy rằng:"một người
thực hành 10 điều
bất thiện thì cuộc sống của họ là
phi đạo đức
đồng thời không
đạt được mục tiêu hạnh phúc"." Này các
Tỳ kheo,
sát sinh, lấy của không cho,
tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời
độc ác, nói lời
phù phiếm,
tham lam,
sân hận và
tà kiến, đây gọi là
phi pháp và phi mục đích" (Kinh tăng Chi III). Ngài khuyên
mọi người nên sống đúng theó0 điều thiện, như vậy
phù hợp với nguyên tắc
đạo đức và
quy luật của
hạnh phúc.
Trong 10 điều thiện phân làm 3
lãnh vực: Thân, Khẩu, Ý – Theo
Phật giáo lãnh vực tâm lý rất quan trọng, những
hành vi của
thân khẩu ý đều có động cơ
từ ý thức – Những
hành vi bất thiện chỉ là những biểu hiện của
động lực bên trong: Tham, sân hay
tà kiến.
Vì vậy,
đạo phật thường coi trọng
tu tâm hơn tu tướng, nếu lòng tham không được nhân diện và
tu tập để
chế ngự chúng thì
tội ác sẽ phát sinh,
thiện pháp sẽ tổn giảm.
Đức Phật dạy:"này các
tỳ kheo, do nhân tham, sân, si mà có
sát sinh, lấy của không cho
tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời
độc ác, nói lời
phù phiếm … Như vậy, tham là
nhân duyên cho nghiệp
sinh khởi, sân là
nhân duyên cho nghiệp
sinh khởi, si là
nhân duyên cho nghiệp
sinh khởi; ngược lại
tham sân si đoạn diệt thì nghiệp đoạn diệt". (Kinh tăng Chi III) Sự phát triển giới điều trong các
sinh hoạt của
Tăng chúng cũng chỉ khai triển sâu và rộng hơn 3 cái
động lực thiện và
bất thiện bên trong tâm ý này.
Tham lam là gốc nhưng tham có nhiều loại: tham sắc,
tham tài,
tham danh,
chấp ngã … sự
mở rộng giới luật chính là để
tương ứng với nhiều sắc thái khác nhau của 3
tâm bất thiện này. Những nguyên tắc
giới luật vừa để
chế ngự,
đình chỉ 10
ác nghiệp nhưng
đồng thời cũng để phát triển 10
thiện nghiệp, trong luật gọi
tính chất 2 mặt này của giới:
Chỉ trì và
Tác trì.
Đạo phật chú trọng vào động cơ tâm ý hay
ý nghiệp điều đó không có nghiã là
coi thường hành vi của thân và khẩu và kết quả của đối tượng. Ví dụ
giới sát:"
Cố ý tự tay mình làm dứt sinh mạng
con người hoặc cầm dao đưa người khác giết, hoặc khen ngợi sự chết hoặc khích lệ cho chết … Người kia vì các điều trên mà chết thì
phạm tội giết người phải bị trục xuất" (
Giới Tỳ kheo) Một giới nếu
vi phạm phải có
tác ý, hay
cố ý làm
căn bản nhưng để thành một
hành vi phi đạo đức phải có biểu
hiện thân khẩu và kết quả của đối tượng. Có
trường hợp thân khẩu hành động có
hậu quả cho đối tượng nhưng không
cố ý, không
tác ý thì không
phạm tội hay tội rất nhẹ. Đó là
lý do đạo đức Phật giáo thường đi sâu vào
động lực tâm ý của
con người. Những
động lực tâm ý ấy
trở thành giới luật có
tác dụng phòng ngừa và làm cho
con người trở nên
thánh thiện.
Đối với người
xuất gia giới luật rất nhiều và
chi tiết Tỳ kheo 250 giới,
Tỳ kheo ni 348 giới,
Bồ tát 48 giới … nhưng cũng chỉ phát triển từ sự đoạn trừ các
động lực bất thiện của tâm ý là tham, sân, si. Nếu một người không có
tham sân si thì
đạo đức đã
hoàn thiện không còn giữ các giới điều trên làm gì
Vì vậy, đức tính của một
Tỳ kheo được
Đức Phật dạy
bao gồm các
thiện tâm mà nguồn gốc là
vô tham,
vô sân,
vô si diễn ra như sau:"Người có tâm
xấu hổ (
tàm quý) sẽ đưa đến tâm
sợ hãi các
tội lỗi, đưa đến không
phóng dật, đưa đến biết khiêm cung, đưa đến
nghe lời dạy bảo, đưa đến ưa gần người hiền đưa đến có
lòng tin vào
chánh pháp, đưa đến
lòng vị tha, đưa đến
tinh cần trong
thiện pháp, đưa đến
chế ngự các
dục vọng, đưa đến
thiện giới được
tuân thủ, đưa
đến gần gũi bậc
thánh hiền, người
trí tuệ, đưa đến ưa
nghe pháp, đưa đến không
quan tâm chỉ trích kẻ khác, đưa đến
chánh niệm tỉnh giác, đưa đến
tâm định tỉnh, đưa đến
tác ý hợp
chân lý, đưa đến không lầm theo
tà đạo, đưa đến tâm tỉnh bén nhạy,
tích cực, đưa đến đoạn trừ
thân kiến,
giới cấm thủ và nghi, đưa đến đoạn trừ
tham sân si để
thành tựu đạo đức hoàn toàn vô tham,
vô sân, vô si". (Kinh Tăng Chi III)
Tóm lại,
đạo đức Phật giáo được
xây dựng trên cơ sở
giới luật mà những
giới luật ấy là những nguyên tắc nếu được
tuân thủ sẽ đem đến
hiệu quả chế ngự dục vọng bản năng,
thiết lập các mối quan hệ giữa
con người với
con người,
con người với
thiên nhiên một cách hoà điệu;
xa hơn nữa có thể tịnh hoá
tâm thức thoát ly các
chướng ngại và
ức chế tâm lý để sống một đơi
hạnh phúc chân thực.
CHƯƠNG III
NỀN TẢNG CỦA GIỚIGiới luật được
thiết lập do nhu
cầu thực tiển của
giáo đoàn,
hay nói cách khác là do nhu cầu
giáo dục kỷ luật để
hướng thượng tâm linh của
tăng chúng, tức là
thiết lập một hướng đi, không để cho
con người quờ quạng
tìm kiếm một cách
mệt mỏi mà không có kết quả.
Nguyên tắc của giơi như là những
tiêu chuẩn cho Định và Tuệ;
mục tiêu của giới vẫn là
giải thoát khổ đau hay dòng
sinh tử luân hồi.
Vì vậy, không thể coi giới là những giới điều bất di bất dịch, tạo nên những
giới hạn làm
áp lực lên tâm tư của
con người. Giới càng không phải là
phương tiện để tranh đoat
địa vị hay
tranh chấp quyền lợi. Giới được
thiết lập trên nền ttảng thuận dòng
pháp tánh thanh tịnh và trên nền tảng
trí tuệ và
từ bi.
I.
TRÍ TUỆ –NỀN TẢNG CỦA GIỚI:
Giới được
thiết lập trên nền tảng
trí tuệ, bởi lẽ
trí tuệ mới soi thấy cội nguồn của
thiện ác, thấy được sự
vận hành của
quy luật hạnh phúc và khổ đau,
quy luật của
giải thoát và
trói buộc. Trên mảnh đất
trí tuệ, giới được
thực hành một cách
tự giác, tự nguyện và mới có sự nổ lực
chân chính để
thành tựu những gì cần
thành tựu. Theo nguyên tắc thì Giới sinh Định thì Định sinh Tuệ;
tuy nhiên mặc khác
trí tuệ vẫn sinh Giới và Định sinh Giới mà
giới luật Đại thừa gọi là Đạo Cộng Giới và Định Cộng Giới. Giới, Định, Tuệ nương tựa vào nhau tạo thành
tác dụng đoạn
trừ phiền não, sự
trói buộc của
lậu hoặc, Kinh
Tương Ưng Đức Phật dạy:
" Người trú giới có trí
Tu tập tâm và huệ
Nhiệt tâm và
thận trọngTỳ kheo ấy thoát triền"
(Kinh
Tương Ưng Tr. 36)
Nghĩa là người
giữ giới là người có
trí tuệ, có
trí tuệ mới
giữ giới, trên cơ sở ấy phát triển
Định Tuệ một cách
vững chắc và
tự giác, nhờ đó màthoát khỏi
trói buộc của
phiền não, mối
liên hệ giữa
trí tuệ và
giới hạnh ở tronh kinh
Trường A Hàm có nói rất hay:"
Trí tuệ làm cho
giới hạnh thanh tịnh,
giới hạnh làm cho
trí tuệ thanh tịnh. Chỗ nào có
giới hạnh chỗ đó có
trí tuệ, chỗ nào có
trí tuệ chỗ đó có
giới hạnh. Người có
giới hạnh nhật định có
trí tuệ, người có
trí tuệ nhất định có
giới hạnh.
Trí tuệ và
giới hạnh được coi là
tối thắng ở đời, mối quan hệ của chúng giống như lấy bàn tay rửa bàn tay, lấy bàn chân rửa bàn chân" (Kinh Sonadanda).
Giới
thiết lập trên nền tảng
trí tuệ, có thể đơn cử một giới
như không sát sinh chẳng hạn. Không giết hại sinh vật không phải vì đó là
ý muốn của bậc
Đạo sư hay của
Thượng đế mà bởi vì thấy rõ sự
vận hành của
ác nghiệp đưa đến
quả báo đau khổ. Vì thấy rõ rằng, trong mối quan
hệ duyên sinh tất cả mọi loài đều
liên hệ với nhau nổi
đau khổ của một người liên hoan đến
nhân loại. Không thể có một
chúng sinh nào
tồn tại độc lập, vậy làm hại
một sinh vật chính là hại mình. Vì thất rõ rằng tất cả
chúng sinh đều có
phật tính, đều
đồng thể tánh
thanh tịnh và
bình đẳng, không ai được quyên
xâm phạm đến
sinh mệnh của
chúng sinh khác, dù đó chỉ là một
chúng sinh nhỏ bé. Nói chung
giới bổn đều
dựa trên cơ sở
trí tuệ mà
thiết lập.
Vì vậy, động cơ của giới là
trí tuệ và cũng từ giới mà Tuệ sinh.
Dưới sự soi chiếu của
trí tuệ không thể có loại giới đưa đến
trói buộc,
ức chế và
đau khổ như một số người thường cảm nhận và có
thái độ không mấy coi trọng
giới luật. Nếu có những
giới luật đem đến cho ta sự khó chịu, sự
ràng buộc thì có nghĩa là ta chưa thấy rõ
mục tiêu và
tác dụng của giới. Có lần
Đức Phật dạy các
Tỳ kheo không nên ăn
phi thời ban ngày cũng như ban đêm. Một số
Tỳ kheo phản đối cho rằng
Đức Thế Tôn quá đặt nặng về sự cấm đoán, quá
để ý đến những
tiểu tiết không đáng
quan tâm, nên họ không
nghe lời Ngài.
Đức Thế Tôn dạy rằng những
Tỳ kheo ấy cho là những điều nhỏ nhặt. Nhưng những điều nhỏ nhặt ấy đã
trói buộc được họ thì nó không còn là nhỏ nhặt nữa. Giống như con chim cái bị vướng vào sợi dây leo nhỏ bé mà vẫn bị trói chặt không thoát được. Vậy không thể nói dây leo nhỏ bé ấy là không
đáng kể đối với con chim cáy, ngược lại là đằng khác. còn những
Tỳ kheo vâng lời Thế Tôn dạy bảo nên
từ bỏ việc này việc kia, họ liền
thực hành một cách
hoan hỷ thì việc nhỏ ất không
trói buộc được họ; như một con voi to khoẻ dù bị trói bằng dây da
chắc chắn nó có thể bức dây ấy bằng một cách chuyển mình.
Tôn giả Udayi là một trong những vị chống đối những ngăn cấm của
Đức Thế Tôn sau một
thời gian va chạm thưc tế mới hiểu được
giá trị của những điều ngăn cấm mà Ngài đã dạy
Tôn giả hối hận và bày tỏ sự thấy biết của mình đối với
Đức Phật (
Kinh Ví Dụ Con Chim Cáy K.
Trung Bộ II).
Trí tuệ của Phật là
viên mãn, những gì Ngài dạy đều
xuất sinh từ trí tuệ và
từ bi của Ngài. Ngài thấy rõ
hậu quả của 3 nghiệp và muốn
đệ tử của mình được
lợi ích mà
thuyết giảng.
Một người
giữ giới mà không lấy cái tuệ làm nền tảng thì không thể tiến
xa hơn trên lộ trình
tu tập. Họ sẽ
biến giới luật thành những sợi dây
trói buộc; họ trở nên
con người hẹp hòi,
cố chấp,
bảo thủ. Họ có thể có những
ức chế tâm lý mà lệch
lạc nhân cách, càng tu lâu càng khó chịu. Tệ hơn nữa họ sẽ tạo một sự mâu thuẩn nội tại
bất an giữa
ý nguyện giữ giới với
tình ý bất thiện thầm kín, một
bi kịch có thể xảy ra.
Như vậy,
giới luật trở nên
trói buộc hay
giải thoát tuỳ thuộc vào
trí tuệ cuả mỗi người. Người hiểu giới và
giữ giới trên nền tảng
trí tuệ là người
độ lượng và
an lạc.
Giữ giới đối với vị ấy là
tự nhiên, tất yếu và niềm vui
tối thượng.
II.
TỪ BI – NỀN TẢNG CỦA GIỚI:Song song với
trí tuệ,
từ bi là nền tảng của giới.
Thực ra,
trí tuệ và
từ bi là một, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Như một người có hai chân để đi; cũng vậy
trí tuệ và
từ bi là hai chân đi đến
Niết bàn.
Giới được
thiết lập trên nền tảng
Từ bi, tức là
tình thương yêu đối với mọi loài
chúng sinh. Như vậy giới được
thiết lập không chỉ
thuần lý mà còn là sự
cảm thông, sự ước muốn tất cả
chúng sinh thoát khổ. Cho nên một người có giới là người đầy
lòng nhân ái,
bao dung,
độ lượng, sẵn sàng vì
mọi người,
quên mình vì lợi ích chúng sinh. Tronh khi
trí tuệ thấy rõ sự
vận hành của
quy luật thiện ác tạo
tác dụng đình chỉ các điều ác thì
Từ bi thúc đẩy thực hành các điều thiện.
Tâm từ bi làm nền cho mọi hành động, soi chiếu cho
mọi việc làm đối với
chúng sinh như tronh
Kinh Phổ Môn nói:"
Từ nhãn thị chúng sinh, phước tụ hải vô lượng". Luôn luôn nhìn
chúng sinh với con mắt đầy
tình thương, do đó
thúc đẩy hành động hiền thiện
lợi ích chúng sinh nên được
phước đức lớn.
Hình ảnh của một thầy
Tỳ kheo thường được
quan niệm là một
hình ảnh đơn độc,
lặng lẽ và
lạnh lùng, điều đó không đúng
bản chất của một
Tỳ kheo.
Hình ảnh vị
Tỳ kheo phải là
hình ảnh của sự trầm tỉnh,
thanh thoát và đầy
trí tuệ, đầy
tình thương. Một trong những định nghĩa về Giới là
thanh lương, nghĩa là người
giữ giới cảm thấy mát mẻ, sự
mát mẻ ấy do
trí tuệ và
tình thương đem đến.
Dựa trên cơ sở
tình thương bao la mà lập giới đó là
con đường đặt biệt của
Phật giáo, có thể đơn cử 5
giới căn bản:
1.
Giới không sát sinh: Vì
thương yêu chúng sinh, không
phân biệt loại nào.
Chúng sinh nào cũng
tham sống sợ chết, cũng
cảm xúc đau khổ khi bị
xâm phạm thân thể. Cảm nhận được niềm đau của
chúng sinh như nỗi đau của mình mà mình
giữ giới không giết hại.Tâm
cảm thông và
thương yêu ấy đưa đến
giữ giới một cách
tự nhiên không gượng ép.
2.
Giới không trộm cắp: Vì
cảm thông được sự mất mác về
tài sản đem đến
đau đớn, tiếc nuối, than khóc. Mình không muốn bị mất mác cho nên mình
giữ giới không
trộm cắp của kẻ khác. Nói theo cách của
Khổng Tử:"Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân".
3.
Giới không tà dâm: Vì
cảm thông được nỗi
đau đớn khổ sở của người bị phản bội,
phụ tình, sự mất mác
hạnh phúc của kẻ khác. Do sự
hiểu biết và
thương yêu ấy mà ta
giữ giới không
tà dâm,
đình chỉ được ước muốn
bất thiện.
4.
Giới không nói dối: Vì
cảm thông được
tình cảnh của người bị dối gạt, bị
trách mắng, bị hãm hại, và bị
đau khổ do
lời nói dối,
lời nói bất thiện mà mình
từ bỏ sự nói năng
dối trá. Vì
thương yêu mà mình nói những lời
chân thật ôn hoà, có ích.
5.
Giới không uống rượu: Vì
cảm thông được nỗi
đau khổ của
thân thể mình, của
trí não mình, vì
cảm thông được sự tàn phá, sự
mê muội do rượu đem đến, vì
cảm thông nỗi
lo lắng sợ hãi của người thân, của láng giềng, mà mình nguyện
từ bỏ rượu chè say sưa, các chất gây nghiện …
Tương tự như vậy
toàn bộ giới bổn mà
Đức Phật dạy được xuât sinh từ lòng
thương yêu và
cứu khổ chúng sinh của Ngài.
Giữ giới là
phương pháp tập tu trái tim tình cảm làm cho
tâm hồn trở nên
sinh động, đầy
cảm xúc thanh cao,
quân bình hoà điệu trái tim và khói óc,
hay nói cách khác hoà điệu ý, tình, trí vươn tới
con người toàn diện.
Nếu
giữ giới mà
tâm địa hẹp hòi, khó chịu,
bảo thủ,
chấp chặt … thì không còn
bản chất giới của Phật nữa mà
trở thành phiền não,
giới cấm thủ.
Có
trường hợp người mới vào đạo chưa quen khép mình vào kỷ luật, vào giới quy sẽ có
cảm giác khó chịu và
bó buộc nên không thấy
thoải mái,
thanh thản. Đó là điều
tự nhiên, trong tâm mình đang chứa đầy tính
phàm phu tục tử, những
thói quen,
tập khí ô nhiễm,
buông lung không dễ gì thay đổi nhanh chóng. Bấy giờ muốn thay đổi chẳng khác nào làm một cuộc
cách mạng thân tâm thì ắt phải khó chịu. Nhưng với
ý nguyện xuất gia và
tâm nguyện hướng thượng mạnh mẽ thì sẽ
vượt qua cảm giác khó chịu không lâu.
Có
trường hợp gặp những
nghịch cảnh trong đời sống
tu hành như bị Bổn sư hay
đại chúng thường lấy
giới luật trách mắng,
chỉ trích hay hình phạt mới nhìn qua ta có
cảm tưởng giới là
điều kiện để người lớn
áp bức mình nên ta không có
thiện cảm với
giới luật. Nhưng đó là những
phương tiện, là
tình thương của Bổn sư hay
đại chúng mong cho ta được sớm
thành tựu thiện hạnhMột lần nọ, vương tử Abhaya được sự tham mưu của Nagantha Nataputta, một
giáo chủ ngoại đạo, đến hỏi
Đức Thế Tôn với một câu hỏi có 2 móc với ý đồ đánh bại Ngài, rằng: Có khi nào Samôn Gotamalàm cho người khác
đau khổ không ? Nếu Samôn Gotama đáp là có, thì nói rằng: vậy chẳng khác
phàm phu ! Nếu Samôn Gotama đáp là không, thì chất vấn tại sao Samôn gotama những lời nặng nề làm cho Devadatta
phẩn nộ sầu muộn ?
Thay vì đáp là có hay không,
Đức Thế Tôn hỏi vương tử Abhaya:
phải chăng vương tử đang chờ đợi câu
trả lời một chiều ? Vương tử
thú nhận đúng như vậy.
Đức Thế Tôn dạy
ví như đứa trẻ con của Vương tử bị một que nhọn hay một hòn sỏi rơi vào trong cổ họng thì Vương tử phải tức tốc móc họng nó để lấy các vật ấy ra dù nó có bị
đau đớn hay bị chảy máu. Vì
thương yêu đứa bé mà làm như vậy.
Như Lai cũng thế, chỉ vì lòng thương sót đối với
chúng sinh mà có khi phải nói lời làm chúng không thích. (Kinh Vô U? Vương Tử.
Trung Bộ II).
Giới luật luôn luôn có
tác dụng tốt cho ta trong bất cứ
trường hợp nào, bởi
Từ bi là nền tảng của
giới luật. Mối quan hệ giữa
Từ bi và
Giới luật bất khả phân ly. Từ đó, ta thấy tính
tích cực của giới và sự
cần thiết của giới đối với
bản thân và
cuộc đời.
Tóm lại, được
thiết lập trên nền tảng
Từ bi và
Trí tuệ, biểu hiện của
giới luật là
Từ bi và
Trí tuệ,
mục tiêu của
giới luật vẫn là
Từ bi và
Trí tuệ. Với tâm được trang bị bằng
giới luật, mọi
đức hạnh đều có mặt và
thiện pháp đều
tăng trưởng.
Từ bi là
tu tập tâm giải thoát,
Trí tuệ là
tu tập tuệ giải thoát. Với
ý nghĩa như vậy,
giới luật trở thành sinh mệnh của
Phật giáo:
" Biết
vi phạm, biết không
vi phạm, biết phạm nhẹ, biết phạm nặng, có
giới luật, sống ngự với sự
chế ngự của
giới bổn, đầy đủ
oai nghi chánh hạnh, thấy
sợ hãi trong trong cái lỗ nhỏ nhặt,
chấp nhận và học tập các học pháp, chứng được không khó khăn, không mệt nhọc, không phí sức đối với
Bốn Thiền Tăng thượng tâm,
hiện tại lạc trú, đoạn trừ các
lậu hoặc tự mình với thắng trí ngay tronh
hiện tại,
chứng ngộ, chứng đạt
Vô lậu tâm giải thoát.
Thành tựu bảy pháp này gọi là người trì luật". (Kinh Tăng Chi II- 7 pháp).
Hiểu nền tảng của giới, lộ trình
tu tập của người
phật tử rất
thênh thang, giới như là không khí để thở, như gió mát mùa hè, bởi vì giới là
Trí tuệ là
tình thương vô tận.
HẾT