BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng
28 VÀI NÉT VỀ THIỀN
Ngày xưa có Ngài Trần
Huyền Trang Đường Tam Tạng đi qua
Ấn Độ thỉnh kinh. Ngày nay cũng có rất nhiều
bậc trí giả từ phương Tây đang đi về phương Đông tầm sư
học đạo. Sống trong một
xã hội càng
văn minh tiến bộ thì
tâm thức càng
gắn liền với phiền não khổ đau. Vì thế
con người trong những thế kỷ sau nầy có khuynh hướng
quay về với
chân lý của
Đức Phật để tìm lại cái
thanh tâm thường lạc và tránh xa mọi
ô nhiễm để có cuộc sống an vui
tự tại.
Mà muốn
đạt được cái
thanh tâm thường lạc chúng ta phải xoay lại nhìn thẳng vào tâm của mình để thấy các
vọng tưởng. Vì thế
cứu cánh vẫn là
chinh phục nơi tâm mình và
dẹp bỏ vọng tưởng. Nhưng
con người luôn luôn
lầm lẫn vọng tưởng là tâm của mình nên các
vọng tưởng nầy dẫn
chúng ta chạy ngược chạy xuôi không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp. Nên nhớ tâm
vọng tưởng là
ý nghiệp, là động cơ dẫn dắt
chúng sinh đi trong
luân hồi sanh tử. Chỉ khi nào dứt nghiệp thì
vòng sinh tử cũng theo đó mà dừng lại.
Phật giáo phát nguyên từ
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và sau đó ở
hội Linh Sơn có ông
Đại Phạm Thiên Vương đem
hoa sen cúng Phật. Phật cầm cành
hoa sen đưa lên để khai thị thì
toàn thể chúng hội đều yên lặng, không ai hiểu thâm ý của Phật như thế nào.
Lúc ấy chỉ có
tôn giả Đại Ca Diếp hiểu được ý Phật nên chúm chím
mỉm cười. Tại sao lại cười? Khi
Đức Phật tay đưa cành
hoa sen lên là muốn chỉ cho
đại chúng biết cái Ngài đã ấp ủ bao lâu nay. Đó chính là tâm
hiện tiền chân thật đầy đủ nơi mỗi người và đây chính là
tánh thấy, tánh nghe, tánh biết
thường có trong tất cả
chúng ta.
Mọi người không
phân biệt nam nữ, đẹp xấu,
thông minh hay
đần độn đều có
tánh thấy, tánh nghe và tánh biết mà không biết
quay về để
nhận thấy nó mà cứ
chạy theo những thứ giả tạm bên ngoài.
Con người thì mắc phải cái bệnh
trí thức hay cái bệnh
phân biệt tốt xấu rồi quên mất cái thấy, biết
ban đầu của mình. Thấy một ngọn núi thì cứ gọi đó là ngọn núi, nhưng
con người thường hay ảo tưởng hóa sự vật nên thay vì nói ngọn núi thì nói là ngọn
bạch mã sơn hay
tuyết sơn cho có vẻ thơ mộng. Vì thế Phật nói
chúng sinh sống trong
điên đảo là thế. Do đó khi thấy cành
hoa sen thì
tôn giả Đại Ca Diếp biết Phật muốn chỉ cái
chân thật cho mình nên mới cười chúm chím còn tất cả
đại chúng thì ngẩn ngơ bởi vì trong tâm của họ đang
quay cuồng suy nghĩ phân biệt trừu tượng mông lung.
Đức Phật nhận thấy liền
ấn chứng cho
tôn giả làm
sơ Tổ ở tại
Ấn Độ. Phật dạy rằng:
“Ta có
Chánh Pháp nhãn tạng, cũng gọi là
Niết bàn Diệu tâm, cũng
tên thật là
Thật tướng vô tướng, cũng gọi là
Vi diệu pháp môn. Nay ta truyền cho ông Đại Ca Diếp”.
Khi Phật sắp
nhập diệt thì
truyền y bát cho
tôn giả Đại Ca Diếp và nói một bài
truyền pháp như sau:
Các pháp vốn
không phápKhông pháp cũng là pháp
Nay truyền cái
vô pháp (
vô tướng)
Vô pháp nào có pháp.
Đây là nguồn gốc
phát khởi của
thiền tông lấy
tôn chỉ “dĩ
tâm ấn tâm” tức là lấy
tâm truyền tâm chớ không dùng
Kinh giáo và
phương tiện.
Một hôm ngài
A Nan hỏi Tổ
Ca Diếp:
- Ngoài việc
truyền y bát,
Đức Thế Tôn còn
truyền Pháp gì riêng cho ngài nữa không?
Tổ
Ca Diếp gọi to:
- Này
A Nan !
Ngài
A Nan : Dạ !
Tổ dạy tiếp:
- Cây cột phướn trước cửa chùa ngã !
Ngài
A Nan liền
chứng ngộ nên được
Sơ Tổ truyền cho
y bát và
ấn chứng cho làm nhị Tổ rồi sau đó
tôn giả Đại Ca Diếp vào núi Kê Túc mà
nhập diệt.
Mới nghe qua thì
chúng ta nghĩ hai vị nầy nói chuyện
với nhau lảng xẹt. Đó là kẻ hỏi một nơi mà người
trả lời một nẻo. Cây cột phướn trước cửa chùa ngã có
dính dáng gì tới việc
truyền Pháp đâu? Nhưng đây mới thật là câu
trả lời của người
kiến tánh. Tại sao? Khi
Tôn giả A Nan hỏi ngài
Ca Diếp về việc
Đức Phật có
truyền Pháp gì riêng cho
tôn giả Ca Diếp không? Khi hỏi câu nầy có nghĩa là tâm của
tôn giả A Nan còn
chạy theo vọng trần bên ngoài cho nên ngài
Ca Diếp muốn chỉ cho
A Nan quay về thấy và sống với cái
thật tánh bên trong của mình. Đó chính là cái
bản lai diện mục sẵn có trong tất cả mọi
con người mà
chúng ta không hề thấy biết. Ngược lại
con người chỉ
chạy theo các
ảo tưởng,
vọng thức bên ngoài mà thôi.
Cho nên khi
tôn giả Ca Diếp bảo:”Cây cột phướn trước chùa ngã” thì thật ra cây phướn
lúc ấy có ngã đâu. Như vậy mới biết rằng
trọng tâm của cuộc đối thoại là vừa kêu liền ứng tiếng
trả lời. Đó là tánh nghe hằng hữu. Cái biết từ lỗ tai thì không có
suy nghĩ, không có
phân biệt, hể nghe kêu thì
lên tiếng chứng tỏ cái biết ấy luôn sẵn có trong ta. Đó là
tôn giả Ca Diếp đã
trả lời cái
Đức Phật truyền lại cho mình rồi. Ngay đó mà ngài
A Nan liền hiểu được. Cả
cuộc đời tôn giả A Nan luôn theo
Đức Thế Tôn mà không
chứng ngộ cũng bởi vì
để tâm mình
chạy theo vọng trần bên ngoài mặc dù
tôn giả nổi tiếng là đệ nhất
đa văn. Khi đã hiểu được khuyết điểm của mình là bỏ tánh
chạy theo tâm thì
tôn giả liền xoay lại bỏ tâm để tìm tánh và sau cùng
tôn giả đã
chứng quả A-La-Hán.
Như thế thì
chúng ta thấy từ
Đức Phật đến
Sơ Tổ Đại Ca Diếp rồi tới Tổ
A Nan và
cuối cùng là
Lục Tổ Huệ Năng chỉ truyền lại cho
đệ tử hay
chúng sinh đời sau một thứ mà thôi. Đó là các Ngài
cố chỉ cái biết thật của mình từ ở mắt hay ở tai. Còn tất cả những cái biết như tốt xấu, hơn thua,
phân biệt là cái biết của
thế gian và cũng chính là cái biết của
trí thức thì
không thật và
vô thường. Cái biết thật là biết trực tiếp mà không qua
hình ảnh và
ngôn ngữ nào hết.
Ngài
Bát Nhã Đà La là vị Tổ thứ 27 sau đó
ấn chứng cho Bồ-Đề
Đạt Ma làm Tổ thứ 28.
Tổ Bồ-Đề
Đạt Ma sau sáu mươi năm
truyền đạo ở
Ấn Độ vâng lời phú chúc của
sư phụ qua Quảng Đông, Trung Hoa để bắt đầu
hoằng dương Phật pháp. Ngài sang
Trung quốc vào năm 520 Tây lịch nhằm vào đời vua
Lương Võ Đế và
trở thành Sơ Tổ của Thiền Trung Hoa.
Chính Tổ đã qua Trung Hoa với một chủ trương mới là
chuyển hướng tách rời khỏi
Phật giáo Ấn Độ mà sau nầy được
tóm tắt lại bằng
bài kệ như sau:
Giáo ngoại biệt truyềnBất lập văn tựTrực chỉ nhân tâmKiến tánh thành PhậtDịch là:
Truyền ngoài
giáo lýChẳng lập
văn tựChỉ thẳng tâm người
Thấy tánh
thành Phật.
Tại sao Tổ nói “Chẳng lập văn tự” có nghĩa là không
lệ thuộc vào
chữ nghĩa kinh điển mà chính Tổ lại
đem theo bộ Kinh Lăng Già gồm bốn quyển sang Trung Hoa truyền lại cho đệ tử? Thật ra ý của Tổ là muốn
phá kiến chấp
sai lầm của những người cho rằng thông kinh hiểu nghĩa là
ngộ đạo thì chẳng khác nào cho ngón tay là
mặt trăng. Còn “truyền ngoài giáo lý” là để khai thị cho
con người hiểu rằng
mặt trăng không phải là ngón tay. Đây chính là
tư tưởng của
Đại thừa tức là
văn tự kinh điển chỉ là chiếc bè. Mà
con người còn chấp chiếc bè thì biết đến bao giờ mới qua
đến bờ bên kia tức là
giác ngộ. Vì
thế Tổ mới nói đừng chấp vào
kinh điển mà hãy nhìn thẳng vào tâm mình để thấy được cái
thật Tánh của mình thì sẽ
được giải thoát giác ngộ. Bởi vì
nếu không nhìn thẳng vào tâm của mình thì không
phân biệt được
vọng tưởng và
chơn tâm. Tâm là
vọng tưởng còn
thật tánh chính là
bản thể chơn tâm thanh tịnh có sẵn trong mỗi
con người. Nếu thấy và sống với cái thật “Tánh” nầy thì
chúng sinh sẽ được
kiến tánh tức là
giải thoát giác ngộ.
Tại sao Tổ Bồ-Đề lại bảo là “giáo ngoại”?
Phật giáo có hai
phương pháp là “giáo nội “ và “giáo ngoại”. Khi dùng
ngôn ngữ để
truyền đạo theo khuôn khổ của
Phật giáo Ấn Độ thì gọi là
giáo nội pháp. Khi bỏ
ngôn ngữ mà chỉ lấy
Phật tâm để in thẳng vào tâm người khác thì gọi là
giáo ngoại pháp. Vậy Thiền là
giáo ngoại pháp.
Sau lần
yết kiến vua
Lương Võ Đế với
hy vọng sẽ được nhà vua tận lực giúp đỡ trong việc
truyền bá Phật giáo ở Trung Hoa, nhưng vì
nhận thấy căn cơ của vua còn thấp và sự
tín ngưỡng của nhà vua chỉ có tánh cách
hình thức bề ngoài nên Tổ Bồ-Đề đã từ giã vua đến tu tại
chùa Thiếu Lâm ở Trung Sơn. Ngài ngồi xoay mặt vào tường
tham thiền nhập định trong chín năm mới trao
ấn chứng cho Tổ thứ hai của
Thiền tông ở Trung Hoa là ngài
Huệ Khả.
Huệ Khả truyền cho Tam
Tổ Tăng Xán. Rồi đến Tứ
Tổ Đạo Tín và
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn và sau cùng truyền lại cho
Lục Tổ Huệ Năng.
Khi
thiền tông hưng khởi tại Trung Hoa,
y bát được xem là những
biểu tượng thiêng liêng của
chánh pháp và là vật
truyền thừa tối quan trọng trong
thiền môn. Sau khi Tổ Bồ-Đề
truyền tâm ấn cho ngài
Huệ Khả, Tổ còn
truyền pháp y để xem đó như là
bảo vật để minh chứng cho sự
truyền thừa từ một
Tổ Sư Ấn Độ cho một
môn đồ đắc pháp Trung Hoa. Tổ
Đạt Ma còn huyền ký rằng sau khi ngài
diệt độ khoảng hai trăm năm thì
con người lúc ấy biết đạo thì nhiều mà
hành đạo thì ít và
con người nói lý thì nhiều mà tỏ lý thì ít. Đến thời điểm nầy thì
pháp y không còn được
truyền thừa nữa.
Vì
thế cho nên từ ngài
Lục Tổ Huệ Năng về sau, không còn cái lệ
truyền y bát nữa và các Tổ cũng không còn
ấn chứng riêng cho một vị nào.
Truyền thống thiền tông cho rằng
pháp y được truyền từ thời Tổ
Đạt Ma cho đến thời ngài
Huệ Năng chính là tấm y mà
Đức Phật đã truyền lại cho
tôn giả Đại Ca Diếp, người
lãnh hội được
yếu chỉ của thiền trên
pháp hội Linh Sơn. Thêm nữa, ngài
Thần Hội tại
Ấn Độ nói rằng:” Nơi nào có những bậc
cao tăng sống đời
thanh bạch và
nghiêm tịnh thì
pháp y không được
xem như là
ấn tín. Việc
truyền thừa y để
ấn chứng chỉ xảy ra ở những nơi có quá nhiều người tham cầu
tiếng tăm,
lợi dưỡng hay
tranh chấp chẳng hạn như ở Trung Hoa”.