BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng
15 Kết quả của sự phá Chấp PhápBây giờ hãy phân tích đoạn Kinh sau:
“Dĩ
vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa
y Bát nhả ba-la-mật-đa cố, tâm vô
quái ngại; vô
quái ngại cố,
vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo,
mộng tưởng,
cứu cánh Niết bàn” được dịch là:”Vì không có chỗ
chứng đắc, nên các vị
Bồ tát dựa vào sự
sáng suốt triệt để ở
nội tâm, lòng
thênh thang không còn bị điều gì ngăn ngại; bởi lòng không có điều ngăn ngại nên không có
sợ hãi,
xa lìa các sự
xáo trộn và
mơ màng,
rốt cuộc đến Niết bàn”.
Đoạn Kinh trên gồm hai phần
liên kết với nhau tức là phần đầu làm nhân cho phần sau là quả.
1) Phần đầu: “Dĩ
vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đõa
y Bát nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại” tức là “Vì không có chỗ
chứng đắc, nên các vị
Bồ tát dựa vào sự
sáng suốt triệt để ở
nội tâm, lòng
thênh thang không còn bị điều gì ngăn ngại”.
Quái ngại là trở ngại, ngăn ngại.
Tâm không còn ngăn ngại là
tâm không còn
phân biệt kẻ oán người thân, không còn bị cái “Tướng”
bề ngoài của
vạn vật làm lầm lẩn và không còn bị cái cảnh “tam giới,
tứ sanh, lục đạo” là
cảnh chiêm bao làm lung lạc.
Tâm của
con người cũng
ví như nước ở trong sông và Thể của
vũ trụ có thể
ví như nước ở ngoài biển cả. Đáng lý ra nước trong sông phải dễ dàng
hòa hợp với nước ngoài biển vì cùng là thể nước nhưng vì “tâm nước sông” của
con người bị cái đê
ngũ uẩn ngăn ngại, chia cách với cái thể nước biển cho nên nước sông phải chịu
một đời sống
tù hãm, nhỏ hẹp, đầy
dơ bẩn và không được
tự do tự tại, to lớn và
trong sạch như
đời sống của nước biển. Vì thế người có “tâm
vô sở đắc” là người đã thực sự
trở về với
đời sống của nước biển để
biết mình là biển rộng
bao la chớ không phải là con sông nhỏ hẹp nầy. Chính biết không có chỗ
chứng đắc nầy mà giúp
con người phá tan cái đê
ngũ uẩn đã chia cách ngăn ngại làm cho họ lầm tưởng rằng “Tướng” là thật Có. Họ không dè đó chỉ là
cảnh chiêm bao,
giả dối biến hiện mà thôi. Tệ hại hơn nữa, họ còn cho “Tướng” là mình và từ “Tướng” của Ta mà thấy “Tướng” của tất cả các loài
chúng sinh khác. Vì có “Tướng” của Ta và của các loài
chúng sinh nên trong Tâm của họ có sự chia cách, ngăn ngại càng lúc càng
phức tạp hơn. Một sự chia cách, ngăn ngại quan trọng nhất là họ thấy mình là
chúng sinh bất tịnh trong khi Phật thì
hoàn toàn thanh tịnh. Vì lầm tưởng như
thế cho nên họ mong cầu được
chứng đắc thành Phật nhưng họ không ngờ
chúng sinh bản nguyên là Phật.
Phật là Thể, là cái gì
chân thật ở trong ta, cũng là
con người chân thật. Cái
chân thật ở
con người và
vạn vật đều giống nhau, không sai không khác. Nếu dùng
trí tuệ Bát nhã để biết được cái
chân thật của ta và của
vạn vật để sống đúng với cái biết ấy thì
con người đang sống với cái Thể chớ không sống cho cái Tướng. Như vậy họ sống với một tấm lòng không còn chia rẽ tức là sống trong
Chân lý tuyệt đối. Thì đây chính là tâm vô
quái ngại.
2) Phần hai: “Vô
quái ngại cố,
vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo,
mộng tưởng,
cứu cánh Niết bàn” tức là “bởi lòng không có điều ngăn ngại nên không có
sợ hãi,
xa lìa các sự
xáo trộn và
mơ màng,
rốt cuộc đến Niết bàn”.
Trước khi
giải thích ý nghĩa của Kinh trong phần nầy,
chúng ta cần phải thấu hiểu những chữ sau đây:
Khủng bố có nghĩa là
sợ hãi. Vậy
sợ hãi cái gì và ai là kẻ sợ hãi?
Phàm phu thì
sợ chết vì
mê chấp sắc thân là thật Có, là của mình nên sợ xác tan là mình mất.
Hàng
Thanh văn thì sợ cái
phiền não khổ đau. Vì họ chấp cái khổ là thật Có nên tất cả
tam giới,
lục đạo và sanh lão
bệnh tử là có thật.
Hàng
Duyên giác thì cũng sợ khó đoạn
phiền não dứt
vô minh vì họ
mê chấp cho rằng
thập nhị Nhân Duyên là thật Có như bánh xe lăn.
Hàng mới
phát tâm Bồ tát thì sợ không
thành Phật vì còn chấp
chúng sinh là riêng, Phật là riêng. Mà
chúng sinh thì đông
vô số kể thì làm sao độ cho hết để thành Phật?
Tóm lại từ
phàm phu cho đến Bồ tát đều có chỗ lo sợ cũng bởi vì họ không thấy tất cả
vạn vật ở ngay trong cái Thể tức là
Chân không mà chỉ thấy ở cái Tướng tức là giả Có mà ra.
Viễn ly là
xa lìa. Nếu đã là Không thì còn gì phải
xa lìa. Vậy một khi
con người đừng để cho mộng cảnh,
phiền não làm lung lạc thì
chúng ta thật sự đã
viễn ly.
Điên đảo là
đảo lộn giá trị của sự vật. Chẳng hạn như trong chổ ô uế lại cho là
trong sạch, trong cái khổ lại thấy cái vui, trong cái không thường còn lại thấy thường còn và trong
vô ngã lại thấy có ngã.
Thật vậy
con người sống trên
thế gian nầy thường lấy khổ làm sướng, lấy dơ làm sạch, lấy
vô ngã làm ngã làm cho
giá trị của sự vật bị
đảo lộn,
sai lầm. Vì
con người nghĩ sai, thấy sai và lấy giả làm thật cho nên họ càng xa lần với cái
sáng suốt. Họ
nhận lầm cái “biết” là mình nên không thấy rõ
căn tánh nên suốt
cuộc đời sống trong
điên đảo.
Mộng tưởng: Mộng là
chiêm bao, là những cảnh thấy trong giấc ngủ. Tưởng là ngầm nhớ hay là ngầm thấy
hình tượng. Do đó
mộng tưởng theo ý của kinh là
ám chỉ cảnh
thế gian là cảnh hư phù, ảo vọng chẳng khác cảnh
chúng ta thấy trong giấc
chiêm bao.
Niết bàn có nghĩa là
viên tịch,
dập tắt tất cả mọi
phiền não,
mê hoặc để được
hoàn toàn sáng suốt,
hoàn toàn tự tại và
hoàn toàn giải thoát.
Dựa theo những định nghĩa trên thì phần hai có thể được
giải thích như sau: “Vì không còn bị ngăn ngại, nên hết lo sợ, không còn
đảo lộn giá trị sự vật, không còn
mê chấp như người
nằm mộng, cho nên
rốt cuộc đến chỗ
hoàn toàn giải thoát,
hoàn toàn sáng suốt và
hoàn toàn tự tại thiêng liêng”.
Như thế thì dựa theo phần nầy của
Tâm Kinh cho thấy rằng khi người
tu hành nhờ cái
sáng suốt triệt để cho nên có thể soi thấy trước sau đều là trống rỗng và
vắng lặng. Chính cái
sáng suốt nầy giúp họ
nhận thấy trong
thế gian nầy không có một vật gì là thật Có cả cũng như người vừa
chợt tỉnh giấc
chiêm bao. Thật vậy tất cả sự vật trong giấc
chiêm bao thì không bao giờ
con người có thể nắm bắt lấy được.
Cuộc đời nầy thì
cũng thế, tất cả sự vật đều là giả Có cho nên
cảnh giới đều là do tâm mình
điên đảo,
mơ hồ mà tạo ra. Khi biết như
vậy thì tâm
con người chắc chắn sẽ an vì nó không còn
theo đuổi những
ý nghĩ hay mong muốn ngông cuồng để
thỏa mãn những cái
không thật Có. Đây chính là
viễn ly tức là
xa lìa mọi căn nghiệp từ
mê lầm vọng kiến để đưa
con người trở về sống trong
Chân không luôn luôn thường còn và
vắng lặng của
Niết bàn.
Vậy
Niết bàn không phải là một
cảnh giới như nhiều người lầm tưởng mà chỉ là một danh từ để chỉ cho người được
hoàn toàn giải thoát mọi sự
ràng buộc của thế tình,
hoàn toàn sáng suốt và không còn một tí
mê lầm. Người đó
biết mình là
thiêng liêng và sống trong
thiêng liêng vì thế họ không
nhận lầm mình là
vật chất và sống trong
vật chất. Một khi
con người đã trừ bỏ được những
vọng tưởng,
chấp trước và
dập tắt tất cả mọi
dục vọng của Tham-Sân-Si để
đạt đến cảnh
tịch diệt tức là
vắng lặng và
an lành thì được gọi là
chứng đắc Niết bàn. Như thế thì
Niết bàn là
Liễu nhân chớ không phải là
Tác nhân. Mà đã là
liễu nhân thì
Niết bàn rõ ràng không phải là một cái gì thật Có mà
con người cần phải cố thu nhập cho được. Nói một cách khác
Niết bàn không phải là kết quả của những
nỗ lực tích cực mà chỉ là của những
cố gắng tiêu cực mà thôi. Nhưng thế nào là
nỗ lực tích cực? Trong cuộc sống nếu
chúng ta muốn làm giàu thì phải ra công
gắng sức làm việc
cực khổ hằng ngày thì một ngày nào đó
chúng ta sẽ có nhiều tiền. Vậy mỗi
nỗ lực hằng ngày là một
nỗ lực tích cực bởi vì
nếu không làm thì không có nhiều tiền, mà không tiền thì không giàu. Còn trong
Phật pháp thì ngược lại có nghĩa là
chúng sinh đừng làm thì được
như ý. Nhưng đừng làm cái gì?
· Đừng lấy
ngũ uẩn làm thật Có.
· Đừng lấy
vạn vật,
vũ trụ làm thật Có.
· Đừng
để tâm mình bị ngăn che .
· Đừng lo sợ
ảo huyền.
· Đừng sống
mơ mộng.
· Đừng
suy nghĩ tưởng tượng sai quấy.
· Đừng
đảo lộn giá trị của sự vật như
lấy khổ làm vui, lấy dơ làm sạch.
Không làm không có nghĩa là không làm gì hết mà chỉ
nỗ lực một cách
tiêu cực mà thôi. Vì
Niết bàn là sự
tịch diệt cho nên
con người chỉ cần tránh xa những thứ trên thì sẽ chứng được ba đức của
Niết bàn. Đó là
giải thoát,
bát nhã và
pháp thân. Chính ba đức của
Niết bàn đã đưa
con người đến chỗ
hoàn toàn giải thoát,
hoàn toàn sáng suốt và
hoàn toàn tự tại thiêng liêng. Nếu sống trong
thế gian nầy mà
con người không thể
chứng đắc được
Niết bàn để tâm hoàn toàn được
an tịnh thì khi chết sẽ không bao giờ có
thể đạt được
Niết bàn cả.
Ngày xưa chính
Đức Phật cũng phải
viễn ly,
xa lìa cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh thì mới thấy được cái
bản thể thanh tịnh và tâm mới
thường trụ Niết bàn.