BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng
13 TAM HUỆ HỌC VÀ TRÍ TUỆTuy được dịch từ nhiều danh từ
Phạn ngữ có nghĩa sai khác, nhưng tồn
trung đạo Phật chia
trí tuệ ra làm hai loại là
Căn bản trí và
Hậu đắc trí.
1)
Căn bản trí: là
giác tính minh diệu mà mỗi
chúng sinh vốn đã có sẵn nhưng vì bị
vô minh phiền não che lấp nên chưa phát chiếu ra được. Có thể ví
căn bản trí như chất vàng còn nằm trong quặng
lẫn lộn với đất, cát, sỏi, đá.
2)
Hậu đắc trí là
trí tuệ có được nhờ
công phu tu tập như
trì giới, thiền định…Hậu đắc trí bây giờ được
xem như là vàng nguyên chất, không còn
lẫn lộn với đá, sỏi tức là không còn
phiền não khổ đau.
Theo
Duy thức học, khi
chúng sinh chứng quả vị
Đẳng giác tức là được
giác ngộ hoàn toàn có nghĩa là
đạt được Hậu đắc trí thì tám thức sẽ chuyển thành bốn trí. Đó là:
1)
A-Lại-Da thức còn gọi là thức thứ tám có
tác dụng chấp trì sanh mạng và
chủng tử sẽ
đạt đến địa vị vô lậu và
biến thành “Đại viên cảnh trí” tức là trí sáng như tấm gương lớn và tròn đầy,
tượng trưng cho biển cả
chơn như.
2)
Mạt-Na thức còn gọi là thức thứ bảy có
tác dụng là
chấp ngã sẽ
biến thành “Bình đẳng tánh trí” tức là trí có
năng lực nhận thức tính
bình đẳng và
vô ngã của
vạn pháp.
3)
Ý thức còn gọi là thức thứ sáu có
tác dụng là
phân biệt sẽ
biến thành “Diệu
quan sát trí” tức là trí có
năng lực quan sát thâm diệu.
4)
Nhãn thức,
Nhĩ thức,
Tỷ thức,
Thiệt thức và
Thân thức là năm thức
cuối cùng trong sáu thức sẽ
biến thành “Thành
sở tác trí” tức là trí có
năng lực nhận thức cùng khắp và rất
thần diệu.
Trí tuệ tuy mang nhiều danh từ khác nhau như thế nhưng tựu trung
trí tuệ có
nhiệm vụ tối hậu là tận diệt
vô minh để
chúng sinh có thể nhận chân được
chân lý. Đó là
luật nhân quả, luật
vô ngã và luật
vô thường để thấy cõi đời chỉ là thành, trụ, hoại, không để đưa
con người đến chổ khổ đau.
Trí tuệ đóng
vai trò tối quan trọng trong
lý tưởng giải phóng con người ra khỏi mọi
hệ lụy khổ đau. Chính
Đức Phật đã chế ra nhiều pháp tu mà trong đó
tam huệ học là Văn, Tư, Tu và
tam vô lậu học là Giới, Định, Tuệ là những
phương pháp thường được nhắc nhở và
thực hành nhiếu nhất.
Vậy trong
tam huệ học,
trí tuệ phát sinh như thế nào?
1)
Văn huệ: là do tai nghe
âm thanh, mắt thấy
văn tự,
kinh điển của Phật để nhận hiểu mà phát sinh
trí tuệ.
Trong suốt 49 năm hoằng dương
Giáo Pháp của
Đức Phật, có rất nhiều người
đắc quả Thánh hay ngộ được
chân lý khi nghe Ngài
thuyết Pháp. Không những thế, ngay cả hàng
Thanh Văn tức là
A La Hán cũng độ được rất nhiều người vào cõi Thánh. Ngày nọ có vị
Tỳ kheo ni tên là Patacara đến rửa chân nơi một dòng suối.
Đang khi bước lên bờ thì bà thấy những giọt nước từ bàn chân của bà nhỏ xuống theo dòng nước trôi đi và biến mất. Cứ như thế mà bà suy tư sự
biến đổi không ngừng của
hiện tượng và bổng
trực nhận được
lý vô thường của
vũ trụ. Trong
kinh điển cũng có ghi chép rất nhiều
trường hợp như có một
hành giả có thể nghe một tiếng chim hót, hoặc thấy một chiếc lá rơi, một
ngọn đèn phựt tắt, hay nhìn những
bong bóng nước vỡ tan trên mặt hồ mà
chứng ngộ được
chân lý.
Có người cho rằng nếu nghe nhiều mà không
suy luận để
phân biệt chân, hư và không
thực hành theo
chân lý thì
trí tuệ không bao giờ phát sinh! Đây là
trường hợp của
tôn giả A Nan. Chính
tôn giả A Nan đã
làm thị giả cho
Đức Phật rất nhiều năm và nhờ
nhân duyên nầy mà Ngài là người nghe nhiều
học rộng nhất trong số
đại đệ tử của Phật. Thế thì tại sao Ngài không
đắc đạo trong lúc
Đức Phật còn sinh tiền?
Sở dĩ tôn giả A Nan không
đắc đạo quả khi Phật còn
tại thế là vì chưa
thực hành đúng theo những gì Ngài đã
học hỏi được. Đó là phải
quay về với
nội tâm của mình để thấy được tánh giác
thanh tịnh mà đã bị
vọng trần và
vô minh che lấp. Nhưng chính nhờ
kiến thức uyên bác đó, về sau giúp Ngài
chứng ngộ con đường giải thoát và ngày nay hầu hết các
kinh tạng mà
chúng ta có được đều do chính
tôn giả tụng thuật lại. Như thế Ngài đã đem
đa văn của mình đóng góp vào việc
duy trì và phát huy nền
văn học Phật giáo từ mấy ngàn năm nay và còn cho bao ngàn năm nữa.
2)
Tư huệ (Cinta maya panna): là huệ do trí
suy nghĩ,
tìm tòi hay quán xét về những điều đã được thu nhập được bằng
văn huệ.
Những gì mà
chúng ta nghe, thấy và
học hỏi được chỉ là
kiến thức vay mượn. Muốn
chuyển hóa chúng để
trở thành kiến thức của chính mình thì phải
suy nghĩ tường tận qua nhiều giai đoạn suy tư và
phán đoán có nghĩa là
chúng ta phải phân tích, tổng hợp để
tìm ra thật tướng của
chân lý. Vì thế
Đức Phật có dạy rằng:
“Không nên
mặc nhiên chấp nhận một điều nào chỉ vì tập tục
cổ truyền trao đến tay ta, hay chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong
kinh điển nào, cũng
không chấp nhận chỉ vì người thốt ra câu ấy có vẻ
hiền nhân khả kính, khả ái. Này người xứ Kalama, khi nào các người tự mình
suy xét đắn đo để biết rằng những điều này hợp với đạo đức…những điều này đem lại an vui
hạnh phúc; chừng ấy các người hãy
chấp nhận và hành động đúng
theo như vậy”.
Nhưng không phải mọi
tư duy đều đem lại
trí tuệ cho
con người. Vì thế
Đức Phật có dạy rằng:
“Có hai loại
tư duy. Trước hết là
Chánh tư duy giúp
tâm thanh tịnh và
sáng suốt và ngược lại
Tà tư duy làm cho tâm
ô nhiễm và lu mờ”.
Vậy muốn phát triển
trí tuệ trước hết
chúng ta phải tránh những
tà tư duy như
suy nghĩ về
dục lạc,
suy nghĩ về oán thù và
suy nghĩ về lợi mình hại người.
Trái lại chúng ta thường nên suy tư
quán chiếu về
ý nghĩa sâu xa của
vô ngã,
vô thường,
khổ não và
bất tịnh của tất cả các
pháp hữu vi.
Trường hợp của
tôn giả Cùlapanthaka là một người ít học. Tuy Ngài
cố gắng nhưng
cho đến một
bài kệ ngắn chỉ có bốn câu mà trong bốn tháng vẫn chưa thuộc. Vị
sư huynh của Ngài thấy vậy khuyên Ngài nên
hoàn tục nhưng Ngài quá
quyến luyến đời sống đạo hạnh nên không nỡ
từ bỏ.
Đức Phật thấy
đạo tâm của Ngài quá dõng mảnh nên đến đưa cho Ngài một chiếc khăn tay màu trắng và dạy mỗi sáng phải cầm khăn tay đưa ra
trước mặt trời. Ngài làm
y như lời dạy của
Đức Phật nên chẳng bao lâu chiếc khăn bị bụi và mồ hôi bám vào trở nên
dơ bẩn và ố màu. Thấy
sự kiện đó, Ngài
suy gẫm về tánh
vô thường của
đời sống,
trực nhận được
chân lý và
chứng quả A La Hán.
Vậy
trí tuệ phát sinh do
suy xét chân tướng của
vạn hữu thì được gọi là
Tư Huệ.
3)
Tu huệ (Bhavana maya panna): là do
tu hành thể nghiệm và
thể nhập chân lý để chứng được
chân lý mà
giác ngộ.
Tham thiền là một
phương pháp rèn luyện trí tuệ được
Đức Phật khen ngợi và khích lệ hàng
đệ tử ứng dụng để
thấu triệt chân lý và
chứng ngộ Niết bàn.
Phương pháp tu thiền định giúp
con người dập tắt vô minh và
ái dục. Vì thế nó còn được gọi là Định năng sinh huệ.
Ví như một ly nước đục được giữ yên, khi bao nhiêu cặn bả đã lắng đọng thì nước sẽ trở nên
trong suốt.
Con người thì
cũng thế, nếu
chúng ta giữ được
an trú trong
thiền định thì tâm sẽ trở nên
trong sạch,
sáng suốt và nhờ đó
trí tuệ phát sinh.
Trong
kinh Pháp Cú Đức Phật cũng có dạy rằng:
“Dầu
thông suốt kinh luật mà không
hành trì cũng chỉ như kẻ
mục đồng đếm bò cho kẻ khác. Người đó không hưởng được hương vị
giải thoát.
Trái lại dù thuộc ít kinh luật nhưng
cố gắng hành trì,
từ bỏ Tham-Sân-Si,
hiểu biết chân chính, tâm
tự tại, không
vọng chấp. Người ấy ắt hưởng được hương vị giải thoát”.
Ngày xưa có hai vị
tỳ kheo cùng
xuất gia theo Phật. Một vị tuy
học rộng hiểu nhiều, làu thông
kinh Pháp nhưng chưa
đắc đạo. Còn vị kia tuy học ít nhưng
chuyên cần tu niệm nên không bao lâu
chứng quả A La Hán. Khi
bàn luận Phật Pháp với
Đức Phật, vị
phàm tăng nêu lên nhiều
vấn nạn khúc mắc để phô trương tài
bác học của mình. Nhưng khi
Đức Phật hỏi về sự
thực chứng đạo
giải thoát thì vị
A La Hán trả lời thông suốt vì do
kinh nghiệm bản thân của mình.
Trái lại vị
phàm tăng không cách nào
trả lời được vì tự mình chưa
chứng ngộ.
Cũng như
chúng ta thích một loại trà rất
nổi tiếng và học cách pha trà nầy. Nhưng
chừng nào chúng ta chưa tự mình pha lấy và uống qua
một lần thì cũng không
thưởng thức được hương vị của món trà quý nầy.
Nếu
chúng ta chỉ nhìn từ bên ngoài cửa kiến thì làm sao biết được hương vị
đậm đà của ly cà phê mà một người đang
thưởng thức bên trong.
Nói
tóm lại Văn, Tư, Tu rất tương quan
mật thiết với nhau, không thể bỏ qua một thứ nào mà
thành tựu được cho nên
Đức Phật dạy rằng:
“Văn huệ,
Tư huệ,
Tu huệ ba môn khuyết một không được. Nếu nghe mà không
suy nghĩ thì như làm ruộng mà không gieo mạ. Nếu
suy nghĩ mà không tu thì như làm ruộng mà không tát nước, làm cỏ thì không có lúa. Ba huệ được đầy đủ thì
chứng quả Tam thừa”.
Vì tầm quan trọng của
trí tuệ trong
vai trò đưa
con người giải thoát ra khỏi
vòng sanh tử luân hồi và
thể nhập chân lý nên
chúng ta phải luôn luôn
cố gắng rèn luyện trí tuệ của mình bằng cả ba
phương pháp Văn, Tư và Tu.
14 Trí tuệ và Tam vô lậu học?
1)Giới:
Giới không phải là những điều răn mà một vị
giáo chủ đặt ra để buộc
tín đồ tuân phục mình. Mà giới trong
Phật giáo có nghĩa là
dẹp bỏ những
thói quen bất thiện đã tập nhiễm từ lâu và
ngăn ngừa các điều ác có thể gây ra về sau. Thêm nữa giới cũng có nghĩa là phát triển những điều lành đã sẵn có và
cố gắng tạo thêm các điều lành chưa từng làm. Vì
thế giới là
điều kiện tiên quyết để giữ
tâm không vọng động, cho nên trong kinh có câu:”Giới năng sinh Định”.
2)Định: Khi giới đã được
thực hành đứng đắn thì tâm
tương đối bớt
xao động và nếu được giữ trên một đối tượng
thiền Định thì tâm sẽ được
an tịnh và
thoát khỏi dục vọng để trở nên
trong sáng. Một khi được
an trú trong
thiền định thì tâm sẽ được nhu thuần,
minh mẫn,
kiên cố và dũng mảnh. Đây là những
điều kiện căn bản để
trí tuệ có thể phát sinh và vì thế kinh lại dạy rằng:’’Định năng sinh Huệ”.
3)Tuệ: Khi tâm đã được
an tịnh,
sáng suốt và
giác tỉnh nhờ
thiền định. Bây giờ
trí tuệ sẽ phát sinh và nhờ đó
chúng ta có thể nhận chân được
thực tướng của
vạn hữu.
Giới, Định, Tuệ tương quan
mật thiết với nhau bởi vì do
trì giới mà
thân tâm không
loạn động. Do
thân tâm không
loạn động mà
tâm trí được Định. Khi
tâm trí đã Định thì
trí tuệ phát sinh. Ngược lại nếu
trí tuệ phát chiếu thì tâm dễ Định. Mà tâm đã Định thì
Trí tuệ dễ phát sinh. Khi có
trí tuệ tức là có thể
nhận ra được cái
tự tánh thanh tịnh,
bất sanh bất diệt mà
xưa kia chư Phật và chư Tổ đã
chứng đắc. Mà
kiến tánh chính là sự
phối hợp tự nhiên giữa Định và Tuệ. Định là
sức mạnh và Tuệ là chất xúc tác để mở con
mắt tâm. Nếu thiếu
trí tuệ thì
con người chỉ có thể
kinh nghiệm được những cái gì hời hợt, nông cạn chợt đến, chợt đi trong chốt lát và sau cùng chỉ là những kỷ niệm rời rạc chẳng giúp ích gì mà còn là những
chướng ngại nếu
con người cứ mãi
bám víu vào đó.
Ngày xưa có vị
Thiền sư rất
tinh tấn tu hành. Vì thấy vị nầy đạo cao đức trọng nên có một
Phật tử tự nguyện cất cho Thầy một cái am để tu. Vị
Phật tử nầy là một
bà già sống với một đứa cháu gái cách cái am không xa.
Hằng ngày bà sai đứa cháu gái đem cơm nước dâng cúng
đều đặn. Ngày qua tháng lại, mà vị
Thiền sư đã tu tại am nầy trên ba năm rồi. Muốn biết sự
tiến tu của vị
Thiền sư như thế nào cho nên một ngày nọ
bà già dặn đứa cháu gái ở tuổi trăng tròn rằng:
- Cháu đem cơm vô cho Thầy, để mâm cơm xuống rồi cháu ôm cứng lấy ông ta và hỏi:”Ngài
cảm thấy thế nào?”. Nghe
trả lời xong cháu về thuật lại cho bà nghe.
Đứa cháu gái
vâng lời làm
y như thế thì vị
Thiền sư trả lời bằng hai câu thơ:
“Khô mộc ỷ hàn nham
Tam xuân vô noãn khí”.
Dịch là:
Cây khô tựa trên núi lạnh
Ba
mùa xuân qua rồi mà không có chút hơi ấm.
Khi đứa cháu gái về thuật lại hai câu thơ trên thì
bà già nổi giận bèn đuổi vị
Thiền sư, đốt luôn cái am và
phàn nàn:”Uổng công ta nuôi ông Thầy phàm phu”.
Đối với hành động
đạo đức và
công phu tu tập của vị
Thiền sư thì
chúng ta chắc chắn sẽ
nghiêng mình kính phục, nhưng tại sao
bà già lại tức giận đốt am?
Vị
Thiền sư nói bây giờ ông cũng như là cây khô trên núi lạnh dầu
trải qua ba
mùa xuân rồi mà không có có một chút hơi ấm có nghĩa là không có việc gì có thể làm cho ông ta khởi động niệm được. Thế thì nhờ
tinh tấn tu hành mà vị
Thiền sư nầy đã đoạn trừ tất cả
phiền não, tâm hằng
vắng lặng chẳng khác chi một cây khô. Nhưng “Vô tâm duy cách nhất trùng quan” tức là
mặc dầu tu tới chỗ “vô tâm” có nghĩa là dứt hết
phiền não nhưng vẫn còn cách một lớp rào nữa chứ chưa phải là
viên mãn.
Tu hành như thế mà còn bị
bà già chê. Tại sao? Trong
tam vô lậu học tức là
Giới Định Tuệ thì
trí tuệ bát nhã mới là
cứu cánh của người
tu hành vì
nếu không phát sinh được
trí tuệ thì người tu vẫn còn lênh đênh trên mặt nước chớ chưa đến được
bờ bên kia tức là bờ
giác ngộ. Vì
tâm không khởi động niệm có nghĩa là tuy có
Định lực cao nhưng vẫn thiếu chất xúc tác là
Trí tuệ để khai thị con
mắt tâm. Con
mắt tâm không mở thì
suốt đời vẫn không thấy được tánh giác
thanh tịnh sáng suốt triệt để của mình. Nhờ
bà già đốt am mà vị
Thiền sư kia mới thấy được chỗ mắt kẹt của mình là dậm chân tại chỗ ở Định mà quên đi
cứu cánh là Tuệ.
Vì
thế Trí tuệ chính là
cứu cánh của người
tu Phật cho nên trước khi
nhập diệt,
Đức Phật đã tha thiết khuyên các
đệ tử của Ngài phải
trau dồi trí tuệ. Trong Kinh
Di Giáo, Phật có dạy rằng:
“
Trí tuệ là chiếc thuyền
kiên cố đưa
con người thoát khỏi biển già, đau, chết. Chính nó là
ngọn đèn lớn
chói sáng vô minh hắc ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gãy cây
phiền não. Vậy các ngươi phải lấy sự nghe, sự
suy nghĩ, sự
tu tập mà
tăng ích cho
trí tuệ của mình”.
Tóm lại tu theo
lục độ ba-la-mật giúp
con người phát nguyện theo
con đường thiện xảo và
tu hành tinh tấn của
Bồ tát để đánh tan những tham cầu,
ngã mạn. Khi lấy
chúng sinh làm
trọng tâm của mọi hành động để đánh đổ cái Ta của tự ngã làm cho Thân-Khẩu-Ý được
thanh tịnh và
chứng ngộ được
chân lý.
Thật vậy,
đạo Phật là
đạo từ bi và
giác ngộ.
Từ bi thì thuộc về phước và
giác ngộ thì thuộc về huệ. Vì thế
phước huệ song tu mới thành ngôi
Chánh giác. Do đó trong sáu pháp ba-la-mật thì
bố thí và
nhẫn nhục thuộc về
tu phước.
Thiền định và
trí tuệ thuộc về
tu huệ còn
trì giới và
tinh tấn là hai chất liệu có
công năng kiểm soát và
đốc thúc cho việc
tu phước và huệ được
thành tựu viên mãn.
Vậy
lục độ ba-la-mật là chiếc
thuyền Bát nhã đưa
chúng sinh từ bờ mê đến bến giác.
Chúng ta thực hành lục độ ba-la-mật là để
tăng trưởng và
nuôi dưỡng tâm Từ-Bi-Hỷ-Xả và đoạn trừ tâm Tham-Sân-Si làm
trí tuệ được phát triển để
giải thoát ra khỏi
sinh tử khổ đau và
thể nhập tánh-Không của
Bát nhã.
Chữ “Trí” trong câu “Vô Trí” chỉ phần thứ sáu là
Trí tuệ trong
Lục độ ba-la-mật. Vì
Trí Tuệ là bước
cuối cùng trong pháp
Lục độ, do đó khi nói “Vô Trí” tức là nói “Vô Lục Độ” tức là không có
Lục độ. Tu theo
Lục độ ba-la-mật sẽ giúp
chúng sinh khai mang
trí tuệ để
chứng đắc sự
sáng suốt của chư
Bồ tát và
cuối cùng đạt đến quả vị Đẳng giác của chư Phật. Như thế chữ “Đắc” trong câu “Vô Đắc” tức là Vô
Phật quả khả đắc có nghĩa là không có cái quả Phật mà
đạt được.
Vậy ở đây
một lần nữa
Đức Phật lại đã phá những gì Phật đã dạy.
Chúng ta thấy từ
Tứ Diệu Đế đến
Thập Nhị Nhân Duyên và sau cùng là
Lục Độ Ba-la-mật,
Đức Phật đã phủ nhận tất cả. Mà hễ phá những “xuất
thế gian pháp” nầy tức là phá luôn những kết quả mà chính
Đức Phật đã hứa với
đệ tử của Ngài
từ hàng Thanh Văn đến hàng
Duyên Giác cho đến bậc cao hơn là
Bồ Tát.
Tại sao lại có sự trái ngược như vậy? Trên đời nầy lại có chuyện trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược như vậy sao?
Vì là
phàm nhân cho nên
con người lúc nào cũng cho
thân tâm tức là
ngũ uẩn là thật Có. Mà nếu
ngũ uẩn là thật Có thì
dĩ nhiên trong ta phải có cái Ta. Ta có cái Ta của ta còn
vạn vật có cái Ta của
vạn vật vì theo luật
tương đối là hễ có chủ là phải có khách. Như thế thì:
Có cái Ta là
chấp có “ngã” tức là
ngã chấp.
Có
vạn vật là
chấp có “pháp” tức là
pháp chấp.
Nay
Tâm Kinh đã chỉ cho thấy “Ngã” và “Pháp” đều Không thì
dĩ nhiên chúng ta không còn
chấp ngã,
chấp pháp nữa. Nếu bỏ được hai cái chấp nầy là
chúng ta có thể bỏ được
con đường thế tục với tất cả những
sai lầm bấy lâu. Thế nhưng nếu
chúng sinh không
mê chấp việc đời thì
Đức Phật lo ngại
chúng sinh sẽ lại
mê chấp việc đạo vì
tin tưởng rằng những gì Phật dạy trong ba từng
giáo Pháp là
Tứ Diệu Đế,
Thập Nhị Nhân Duyên và
Lục Độ Ba-la-mật là thật Có. Chẳng hạn như khi nghe nói Khổ thì tưởng Khổ là cái gì thật Có. Hay nghe nói
Vô Minh thì nghĩ rằng
Vô Minh là cái gì cũng thật Có. Ngay cả khi nghe nói
Trí tuệ phải tu,
Phật quả phải đạt rồi cứ tưởng
Trí tuệ và
Phật quả là những cái gì thật Có. Vì lo ngại như
thế cho nên Đức Phật phá luôn những cái chấp của người
tu hành tức là cái chấp về “xuất
thế gian pháp”.
Thói thường khi đã nghĩ Khổ là thật Có thì
chúng ta lại lầm tưởng luôn sự
diệt Khổ là thật Có. Nếu lầm tưởng
Vô Minh là thật Có thì phải lầm tưởng luôn là phải
chấm dứt cái
Vô minh tức là vô-minh-tận. Nếu lầm tưởng
Trí tuệ là thật Có thì phải lầm tưởng luôn là có thể một ngày nào đó
chúng ta sẽ nắm lấy cái
Trí tuệ nầy. Còn hễ lầm tưởng
Phật quả hay
thành Phật là một cái gì thật Có thì ắt phải lầm tưởng luôn rằng đó là một cái gì mà mình sẽ thu nhập được.
Tất cả những lầm tưởng nầy đều là bệnh của người đang tu trên
con đường “xuất thế gian” tức là người
tu hành mong cầu
được giải thoát giác ngộ nhưng chưa đến chỗ
cứu cánh tột đỉnh.
Vậy chỗ
cứu cánh tột đỉnh ở đâu?
Khi kẻ
tu hành đạt đến trình độ hành
thâm Bát nhã ba-la-mật thì trong cái thời điểm mà thấy trong
thâm tâm trống rỗng và
vắng lặng hoàn toàn thì một ánh sáng huy hoàng
bộc phát làm cho
con người thấy rằng:
Ø Khổ, Tập, Diệt, Đạo chỉ là
giả danh.
Ø
Thập Nhị Nhân Duyên chỉ là
giả danh.
Ø
Trí tuệ,
Phật quả chỉ là
giả danh.
Tại sao? Bởi vì tất cả những “Pháp” ấy đều là danh từ, không có gì là thật thể và những
ý niệm do những danh từ ấy tạo ra trong tâm của
chúng ta cũng đều là ngụy tạo, là
giả dối do
đối đãi mà tạo ra.
Muốn thấu hiểu tường tận
chúng ta hãy phân tích từng
giáo Pháp một để tìm xem
giả dối ở chỗ nào.
1)
Tứ Diệu Đế: Trong
cuộc đời phải chăng chúng ta cho có Thân là có Khổ vì thế
Đức Phật mới đối lại là chỉ cho
phương cách diệt Khổ tức là
chân lý Tứ Diệu Đế? Bây giờ nếu
con người sống với Chơn tánh tức là Chơn không mà không sống với Thân thì dầu
chúng ta có Thân mà Thân vẫn không với
chúng ta. Vì thế cái Khổ do Thân
cảm thọ cũng tiêu mất. Do đó nếu bệnh đã không có thì đâu
cần phải có thuốc. Vậy Khổ là cái gì? Nó có thật thể hay là giả dối?
Trong
thế gian nầy bất cứ cái gì mà không xứng ý
vừa lòng, không thích với thân nầy có nghĩa là đi ngược lại với
sở thích của
ngũ uẩn thì
chúng ta gọi là Khổ chứ cái Khổ
thật không có. Chẳng hạn nếu cho rằng
cay đắng là Khổ thì tại sao có người thích ăn ớt và uống rượu? Còn nếu nói rằng
danh lợi đem
hạnh phúc đến cho
con người và làm cho
con người thêm
sung sướng thì tại sao có người ngậm
danh lợi như ngậm bồ hòn? Như thế thì cái Khổ là cái gì cảm nhận do lòng
say đắm,
tối tăm hay do cái
vọng tưởng,
mê hoặc của
con người sống vì
vật chất tạo ra mà
vật chất là Tướng. Cái Khổ nầy
không thật Có và nhất là không Có tức là Vô trong lòng người đã
tỉnh ngộ và trong những
tâm hồn trong sạch,
sáng suốt triệt để tức là trong Chơn không. Vậy đứng về
phương diện Chơn không,
Tuyệt đối mà nhìn thì
rõ ràng là không có Khổ. Mà
nếu không có Khổ thì không có
nguyên nhân của sự Khổ tức là Tập, cũng không có
phương pháp diệt Khổ tức là Đạo và
cuối cùng cũng không có cái Khổ bị diệt tức là Diệt. Vì thế mà
Tâm Kinh mới nói :” (
Thị cố không trung) vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo” là vậy.
2)
Thập nhị Nhân Duyên: Như trên đã nói
nếu không có cái Khổ thì cái chấp
Tứ Diệu đế đã bị phá. Vậy bây giờ tới pháp
thập nhị Nhân Duyên thì cái gì là
không thật Có?
Dựa theo thuyết
mười hai Nhân Duyên thì từ
Vô Minh mà có Hành, từ Hành mà có Thức…sau cùng từ Sanh mà có
Lão Tử. Như thế thì
động lực đưa đến cái “già-chết” chính là
Vô minh.
Mười hai Nhân Duyên là mười hai vòng xích không có điểm bắt đầu mà cũng không có điểm cuối, vì thế
nếu có thể phá vỡ một vòng xích thì tất cả vòng xích nầy sẽ phải vỡ theo.
Nhưng thế nào là Vô minh?
Vô minh chỉ là một
giả danh để
diễn tả sự mê mờ không
sáng suốt do không thấu hiểu
Chân lý chân tướng để cho
ngũ uẩn che đậy và bị tham-sân-si
phiền não làm
chướng ngại nặng nề gây ra sự
lầm lẫn và có cái nhìn
sai lạc về
bản chất của
vạn hữu. Như thế thì không có cái gì là chơn thật
Vô minh mà chỉ có những
trạng thái mê mờ của
tâm hồn, của
trí tuệ mà thôi.
Nếu
Vô minh đã
không thật Có thì làm gì cần có cái
việc làm cho
Vô minh tiêu mất tức là làm cho “hết Vô minh” hay là “Vô minh tận”. Nhưng
Vô minh, một vòng xích lớn trong chuổi xích
thập nhị Nhân duyên, đã
không thật Có thì những vòng xích nối tiếp là Hành, Thức,
Danh Sắc,
Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh và
Lão Tử cũng
không thật Có.
Vì thế
thập nhị Nhân Duyên là
không thật Có thì
dĩ nhiên không có cái việc gọi là làm cho “hết Hành”, “hết Thức”…và “hết Lão Tử” tức là “Lão Tử tận” vậy.
Nói
tóm lại Đức Phật đã dùng pháp
thập nhị Nhân Duyên và pháp
Tứ Diệu đế để giúp
chúng sinh trị dứt bệnh
mê lầm lấy giả làm thật bấy lâu nay. Trong hai mươi năm đầu kể từ khi
Đức Phật thành đạo thì Ngài chưa hề nói Kinh
Bát nhã cho nên chưa có
đệ tử nào thâm
hiểu ý nghĩa cao siêu của
tuệ giác Bát nhã cả. Cũng vì
chúng sinh chưa có “Bát nhã” tức là chưa sáng mắt cho nên còn thấy có
vui buồn, sướng khổ và
sanh tử.
Đức Phật đã nương theo nguyên tắc của
pháp hữu vi mà dạy rằng
nguyên nhân căn bản của dòng sông khổ đau, sanh, già, bệnh, chết là
Vô minh.
Con người có
sáng suốt để làm cạn nguồn
Vô minh nầy thì dòng sông khổ đau kia mới dứt, mới tận. Nhưng làm thế nào để tát cạn nguồn
Vô minh kia? Muốn không còn
phiền não khổ đau thì phải
chấm dứt Vô minh. Mà muốn dứt
Vô minh thì nên khước từ
say đắm. Vì thế nếu
chúng sinh không còn
say đắm thì sẽ
trở thành người
sáng suốt và một khi đã
trở thành người
sáng suốt là họ sẽ hết
Vô minh. Chẳng hạn như tắt đèn thì gọi là tối còn đèn thì sáng. Nhưng
sự thật không có cái tối và cái sáng mà chỉ có hai
quang cảnh trái ngược nhau mà thôi.
Vô minh thì
cũng thế, không có cái
Vô minh thật sự thì cũng không có cái
sáng suốt thật sự mà
chúng ta gọi là
Trí tuệ.
Thật vậy nếu nói không có
Vô minh, cũng không có cái “hết vô minh” tức là người
tu hành sau khi
dựa vào cái
sáng suốt quán tự tại và soi thấy được cái
tánh Không của
ngũ uẩn tức thì ánh sáng
thiêng liêng nơi mình không còn bị
chướng ngại che lấp nên
trở thành rực rỡ mà
soi sáng hoàn toàn cái Thể.
Lúc ấy tất cả sáu Căn,
sáu Trần và sáu Thức đều Không tức là trong thì Không và ngoài cũng Không. Như thế thì
Vô minh vọng niệm làm sao mà có được? Do đó nếu trong đã Không thì
dĩ nhiên không có
Vô minh. Nếu
Vô minh đã không Có thì cần gì phải nói đến cái “hết Vô minh”.
3)
Lục độ Ba-la-mật: Vậy cái
Trí tuệ mà
chúng sinh cố gắng tu theo pháp
Lục độ ba-la-mật để
đạt đến cứu cánh sau cùng nầy cũng chỉ là một
giả danh vì thế không có cái gì thật là
Trí tuệ cả. Cùng một
lý luận thì cái “Được” tức là “Đắc” để
thành Phật tức là
Phật quả là một
giả danh khác vì
lý do là nếu
chấp có chúng sinh mê muội đau khổ nên phải có cái chấp đối lại là có Phật
sáng suốt, an vui.
Khi
chúng ta thực hành Lục Độ Ba-la-mật mà còn thấy trên có
Phật đạo để thành tức là Đắc và dưới có
chúng sinh nên độ thì
chúng ta còn cái tâm “chấp Có”. Như vậy là
chúng ta còn sống trong sự
chi phối của cái Thức tức là
trong vòng tương đối. Bây giờ khi sống trong Chơn không,
Thực tướng, tuy
con người vẫn
thực hành pháp Lục Độ Ba-la-mật nhưng không nên chấp một pháp nào hết. Nói một cách khác là
nếu không chấp cái tướng
Lục Độ tức là
Vô Trí thì cái
tâm không đắc quả tức là Vô Đắc cũng không còn. Như thế thì mới thật là
hết sức từ bỏ,
hết sức buông xả và
hết sức tỉnh ngộ.
Như thế thì đoạn Kinh từ :”vô Vô-minh, diệt vô Vô-minh tận;
nãi chí vô
lão tử, diệc vô
lão tử tận; vô Khổ, Tập, Diệt, đạo;
vô trí diệc vô Đắc” có nghĩa là : Trong Chơn-không, trong
Sự thật, trong
Tuyệt Đối, không có những cái gọi là
Tứ Diệu Đế,
Thập nhị Nhân Duyên,
Lục Độ Ba-la-mật, cũng không có
Trí tuệ phải tu,
Phật quả phải chứng. Tất cả những “pháp” nầy là những
giả danh, là những
ảo tưởng dùng để
đối trị với những
ảo tưởng nghịch lại. Chẳng hạn như nếu bị đạp gai thì lấy gai mà lể.
Nói một cách khác là nếu
con người còn sống
trong vòng mê muội của
thế gian thì tất cả những “pháp” nầy rất cần cho họ chẳng khác nào như người đang lặn hụp
dưới nước thì
cần phải có phao, hay có thuyền để sống. Nhưng ở đây,
Tâm Kinh đưa
chúng ta sang
một thế giới khác. Đây là
thế giới của
Chân không, của
Thực tướng, của
Tuyệt đối mà trong ấy không có gì cả. Vì thế mà có những bậc đã thấy được
Chân tướng thì họ sống trong cái Thể mà không thấy Tướng. Họ không còn nói đến kinh sách mà cũng không còn
biện luận bàn cải
gì nữa tức là
bất lập văn tự, tuyệt
ngữ ngôn. Đối với họ thì như người đã lên bờ vì thế họ không còn nói đến phao hay thuyền vì đối với họ thuyền hay phao bây giờ không còn
cần thiết nữa.