LƯỢC GIẢI KINH HOA NGHIÊM
Tác giả: HT. Thích Trí Quảng
Nhà xuất bản Thành Phố HCM 2013
Chương V.
Phẩm Nhập Pháp Giới
Bồ tát đi vào đời dưới dạng
pháp giới được
kinh Hoa Nghiêm diễn tả bằng
hình ảnh Thiện Tài cầu đạo gặp 53
thiện tri thức. Tôi đọc phẩm
Nhập Pháp giới,
suy nghĩ và
theo dấu chân
Thiện Tài,
quan sát xem
Thiện Tài làm gì, rồi nhìn kỹ lại mình xem đã học đươïc và có thể làm được gì, để nhắc nhở các
pháp lữ cùng nhau
tu hành.
Mở đầu
hiện tượng nhập pháp giới,
Xá Lợi Phất hướng dẫn 6000
Tỳ kheo đến
Bồ đề đạo tràng nghe
Phật thuyết pháp, nhưng không thấy Phật, nên đến rừng
Thệ Đa, ở
Ta La song thọ để tìm.
Từ
Bồ đề đạo tràng đến
Ta La song thọ gợi cho
chúng ta nghĩ về
một đời giáo hóa của
Đức Phật, nếu nhìn dưới dạng
tâm linh sẽ khác với cách nhìn theo
lịch sử.
Theo
lịch sử,
sinh hoạt của
Phật giáo đạt đến đỉnh cao vào thời điểm mà
trưởng giả Cấp Cô Độc đổi vàng lấy đất để xây
tinh xá cúng dường Phật. Hoặc lúc
vua Ba Tư Nặc hết lòng hộ đạo,
kính trọng Tăng đoàn.
Ngài
Hiền Thủ gọi
thời kỳ cực thạnh mà
mọi người đều
quy ngưỡng Đức Phật là "Nhựt thăng phổ chiếu". Nghĩa là
mặt trời lên đến đỉnh đầu sẽ chiếu tận hang cùng ngõ hẻm, ai cũng được hưởng phước lạc của
Phật pháp. Nhưng khi có nhiều người đến với
Phật đạo vì
danh lợi thì đương nhiên nổi lên những
thành phần không tốt. Mầm mống
suy đồi đã
xuất hiện trong
thời kỳ vàng son. Điển hình là nhóm
lục quần Tỳ kheo chuyên gây rối ở thành
Xá Vệ.
Tuy nhiên, theo nhãn quan của
Bồ tát thì thấy khác, không thấy tốt xấu như trên.
Bồ tát thấy ở dạng siêu hình.
Sở dĩ vua chúa
phát tâm, hàng
trí thức quy ngưỡng và
Tỳ kheo theo Phật đông là nhờ
tác động vô hình của Phật,
Bồ tát,
chư Thiên,
thiện thần ủng hộ. Chính
sức mạnh siêu nhiên này mới tạo thành
cảnh giới bình yên thật sự cho
đại chúng tu học, hình thành
pháp giới của Phật.
Trên bước đường tu,
chúng ta cần thấy và phát huy được mặt
siêu nhiên của đạo. Nếu chỉ thấy
hình thức, chùa cao Phật lớn, thì cách đạo còn xa.
Bồ tát thấy
thế lực vô hình thu hút vua chúa,
trí thức Bà la môn,
chư Thiên đến với Phật, hình thành
pháp giới để
thâm nhập.
Trong hàng
Thanh văn chỉ có
Xá Lợi Phất là bậc
trí tuệ bậc nhất mới thấy được
thế lực siêu hình của Phật thật sự
vô cùng tận, có khả năng
che chở cho người
phát tâm bồ đề và
nuôi dưỡng mạng mạch
Phật pháp. Thật vậy,
Xá Lợi Phất biết rõ
năng lực của baûn thân không làm gì nổi. Việc lớn thì phải nhờ
tâm hồn lớn và khả năng lớn mới
thực hiện được.
Xá Lợi Phất thấy điều ấy bằng
tuệ giác và 500
La hán cùng đi với Ngài, thì thấy bằng
niềm tin. Đó là hai cách thấy đạo và
thâm nhập đạo.
Trên bước đường tu, khi thấy được
đức độ của Phật, ta tin Phật dễ dàng.
Nếu không, cũng có thể dùng
niềm tin để đến với Phật. Như tôi tin
Phật gia bị cho mình
thành tựu mọi việc, không phải do tài của tôi. Một số người thường nghĩ tự thắp đuốc đi. Theo tôi, Phật là người cầm đuốc soi đường và ta nương theo
ánh đuốc của Ngài, ta tự thắp không được.
Xá Lợi Phất bảo 500
La hán nên biết
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát cũng như phần lớn các
Bồ tát đóng vai
cư sĩ, nhưng thật sự các Ngài đóng
vai trò quan trọng trong việc hộ đạo. Đừng nghĩ rằng
cư sĩ không bằng hàng
nhị thừa. Phải thấy từ
chư thiên, chư Thần,
nhân vương, người
trí thức, người giàu coù, thậm chí cả công nhân, thợ thuyền, v.v... Họ đều có thể là
Bồ tát hiện thân lại trên
cuộc đời để hộ đạo, tạo
điều kiện cho các
Tỳ kheo tu hành. Như vậy, hàng
nhị thừa đã
thọ ơn của
Bồ tát.
Nhận thức điều này, Hoøa thượng
Trí Tịnh cho biết Ngài rất ngại dự
trai tăng, vì sợ rằng trong hàng
cư sĩ cúng dường, quỳ lạy, nếu có
Bồ tát hiện thân lại, thì Ngài bị tổn phước.
Lời
Hòa thượng dạy làm
chúng ta phải
suy nghĩ. Trên
thực tế, chuùng ta thấy trong giới
Phật tử có
thành phần trí thức như giáo sư,
bác sĩ..,
trình độ học thức hơn ta và về
phước báo, họ cũng
giàu có hơn ta, nếu ta không mặc áo tu. Khi thực sự
phát bồ đề tâm,
chúng ta phải thấy như vậy.
Ở đây mượn nhân vật
Xá Lợi Phất, dùng
trí tuệ bậc nhất, dắt chúng
nhân từ Bồ đề đạo tràng đến
Ta La song thọ, không phải nhằm
diễn tả dẫn đi baàu7857?ng đường bộ, theo động tâm. Nhưng hàm ý rằng
Xá Lợi Phất dạy các
Tỳ kheo nên
quan sát,
theo dõi bước
chân Phật từ
thành đạo đến
nhập Niết bàn,
Đức Phật đã làm gì. Phải nhìn suốt
cuộc đời du hoá của Phật để học và làm theo.
Đến rừng
Thệ Đa không thấy được Phật đang phô diễn
thần lực, nói khác không gặp Phật mà lại gặp
Văn Thù Sư Lợi đang
giáo hoá chúng sanh. Điều này cũng nhằm chỉ rằng trước kia
chúng ta quen
quan sát theo
lịch sử. Nhưng nay cần
quan sát việc làm của Phật ở dạng
Văn Thù hay dùng
trí tuệ xem Phật
xử trí với
cuộc đời như thế nào.
Phẩm
Nhập Pháp giới phát xuất từ rừng
Thệ Đa. Kinh
diễn tả do
thần lực của Phật mà rừngThệ Đa rộng lớn bằng
vô số quốc độ của Phật. Nơi đó lại có
vô lượng hoa báu, đài báu, lưới báu, diệu hương,
kỹ nhạc để
ca ngợi công đức Phật.
Theo tôi, mỗi người có cách nhìn riêng về khu vườn này. Người
thế gian,
ngoại đạo nhìn về khu vườn
chắc chắn khác với cái thấy của
Tăng Ni,
tín đồ. Và hàng
Bồ tát sống trong khu vườn lại càng thấy khác hơn nữa. Cảnh là một, nhưng
tâm trí khác nhau, nên
nhận xét không giống nhau.
Theo
nhận thức tham vọng của người đời hay
ngoại đạo, họ không hiểu tại sao
đạo Phật không có giáo quyền, giáo sản, không
ép buộc,
đe dọa,
dụ dỗ, mà lại
tồn tại lâu dài,
truyền bá rộng rãi. Không hiểu tại sao
giàu có như
Cấp Cô Độc lại cúng vàng xây
tinh xá cho Phật mà chẳng thấy ông được
quyền lợi gì.
Cách nhìn thứ hai của
Thánh chúng thường được
diễn tả bằng
câu chỉ có người uống nước mới cảm nhận được
mùi vị như thế nào. Người ngoại cuộc như
phàm phu,
ngoại đạo mang cặp kính nghiệp làm sao biết được. Hàng
đệ tử theo bằng
chân tình mới hiểu
đạo Phật, theo do
hoàn cảnh không thể sống
lâu dài trong đạo.
Chỉ người
tu chân chính mới thấy Phật và
Thánh chúng ngồi yên lặng trong rừng
Thệ Đa, không nói, không làm, nghĩa là
tu Thiền. Ngồi như vaäy, họ hiểu được Phật. Ngồi mà không hiểu thì một lúc chán cũng bỏ đi,
ngoại đạo khó
thâm nhập Phật đạo là vậy.
Phật và
Thánh chúng tọa Thiền tạo thành cuộc sống
hỷ lạc, ngồi nhiều năm cũng
cảm thấy không đủ, không chán. Thật tu
chúng ta dễ hiểu điều này. Người say mê
Thiền quán,
vui thích chánh pháp mới thấy được những gì khác hơn người thường. Họ
đắc đạo nên tâm họ và Phật
cảm thông, đó là
tâm Phật ấn tâm đại chúng và thaàn của Phật truyền qua
đại chúng, kinh gọi là Phật
phóng quang gia bị. Nhờ vậy, tâm họ yên tĩnh lạ lùng, thần họ
minh mẫn, sáng thêm. Theo tôi, điểm này quan trọng nhất đối với người tu,
nếu không cảm nhận như vậy, e rằng khó tu lâu.
Cuộc đời tôi từng
kinh nghiệm, khiến tôi nhận chân được
giá trị Phật ấn tâm,
Phật hộ niệm. Thật vậy, có những lúc cực kỳ khó khăn, nguy hiểm, người sợ, nhưng tôi rất
tỉnh táo, không
cảm thấy sợ bất cứ theá lực nào. Và tôi bình tâm
giải quyết thoả đáng từng việc
thích hợp với từng lúc.
Thiết nghĩ, trên bước đường tu, gặp việc vui ta vui, gặp buồn ta buồn, thì dù có khoác áo
tu sĩ cũng chưa hẳn là người tu. Vì điểm đặc bieät của người tu, tâm lúc nào cũng bình ổn,
hoàn cảnh nào cũng
tự tại, loé lên
tia sáng để
giải quyết việc khó.
Thánh chúng sống
đạm bạc, không có
quyền lợi gì, nhưng
hoàn toàn an vui. Đó chính là
tinh thần Đại thừa phát triển để hình thành
thế giới quan của
Hoa Nghiêm gọi là
Nhập Pháp giới. Tại sao sống
hẩm hiu, tu
cực khổ nhưng có sức thu hút người tu chịu nổi.
Thực tế, người
an trú lâu trong đạo có nguồn vui riêng và
lý tưởng để soáng. Còn người thường không
tìm thấy niềm vui đạo, tu một lúc rồi cũng bỏ cuộc.
Người
tu sĩ Nhật có câu
phương châm : Khi
tâm hồn yên tĩnh thì cái thấy của
chúng ta sáng ra, thấy cái đẹp.
Thế giới người
tu đạt đến
trạng thái tâm hồn yên tĩnh, sáng ra là
thế giới của
Hoa Nghiêm hay
pháp giới. Và với
tâm hồn Hoa Nghiêm nhập pháp giới,
phóng khoáng,
bao la, dung được các pháp, tất cả đều đẹp. Từ đó, dưới cái nhìn theo
Hoa Nghiêm, Thánh chuùng ngồi
xung quanh Phật
dưới gốc cây,
tâm hồn nhẹ nhàng,
sung sướng, hình thành được
thế giới đẹp,
trong sáng, từ cọng cỏ,
cho đến dòng suối, con cá, con chim, hòn đá... không có gì không đẹp. Hàng
trí thức bỏ
ngoại đạo trở về theo Phật cũng vì nhận được
hạnh phúc vô giá ấy. Họ cảm đức của Phật, nhận được
tình thương bao la của Ngài và
Thánh chúng tạo thành
thế giới an vui
giải thoát.
Trái lại, theo
ngoại đạo họ luôn kẹt trong
tham vọng, nghĩ đến khống chế, mua chuộc người, nên
tâm hồn không yên tĩnh thì
thế giới của họ luôn
đen tối.
Đức Phật không bắt ai theo, người tự nguyện theo Ngài vì họ được
an lành,
thanh thản.
Nhập pháp giới hay
đi vào thế giới bao la của Phật,
thế giới của
tình thương, của
trí tuệ. Bấy giờ, cũng là rừng
Thệ Đa mà hàng
nhị thừa và
Phật tử thấy nơi đó
an lành nhất,
hoàn toàn khác với
thế giới khổ đau bên ngoài. Đó là cái nhìn về
Đức Phật vaø
đạo Phật của người
xuất gia và
tín đồ.
Tiến hơn một nấc, cái nhìn của bậc
cứu thế Văn Thù Sư Lợi và
Phổ Hiền Bồ tát tiêu biểu cho trí và hạnh
đi vào cuộc đời. Trong thêá giới yên tĩnh, tâm sáng, tức
trí Văn Thù
chỉ đạo, mở ra cho
chúng ta thấy nơi có đạo đáng quý hơn bất cứ nơi nào. Và nhìn
xa hơn, thấy
mọi việc trên
cuộc đời tốt đẹp hay không đều do
phước đức,
trí tuệ quyết định. Thấy như vậy là thấy
thế giới Báo thân của Phật hieän ra.
Trí Văn Thù hướng dẫn
kết hợp với hành động dấn thân vào đời làm
lợi ích chúng sanh của hạnh
Phổ Hiền, tạo
thành kinh Hoa Nghiêm với phần quan trọng là
Nhập pháp giới.
Đức Phật cho biết mười phương Phật thuyết pháp đều
phóng quang đến đỉnh đầu của VănThù
Sư Lợi Bồ tát.
Văn Thù tiêu biểu cho
Trí thân Phật, một thân quan trọng theo
kinh Hoa Nghiêm. Nhìn
thế giới qua lăng kính của
Văn Thù hay
trí tuệ, khác với người
tham vọng nhìn đời bằng cặp kính hẹp của
vô minh.
Người
vô minh,
chấp trước nghe ai nói động tới là
tự ái,
nổi giận, mất khôn.
Trái lại, người trí
thế gian lắng nghe,
suy nghĩ xem
lời nói của người
tác động có hại hay lợi cho họ, theo đó mà
giải quyết. Điển hình như các chính khách Nhật gặp khó thường
tĩnh tâm để
sáng suốt, thấy được cách
đối phó nào lợi nhất. Đó là người trần gian dùng
thủ đoạn chọi với
thủ đoạn.
Nhưng cao hơn là cách
xử trí của Phật,
Bồ tát, thấy rõ mối
liên hệ sâu xa của họ và người trong
vô lượng kiếp trước và
cả đời sau, nên
chuyển hoá khổ, ác thành vui, tốt. Muốn như vậy,
Đức Phật phải
trải qua quá trình tu
Bồ tát đạo, chứng được
Trí thân, hay
trí tuệ viên mãn mới
giáo hoá người trở nên
sáng suốt,
đạo đức và
biến đổi thế giới trần lao ô nhiễm của họ thành
pháp giới của Phật.
Từ Trí thân Phật đầu tư cho
hữu tình và vô tình
chúng sanh, biến tất cả thành một phần
tương ưng với Phật, gọi là
Pháp thân.
Trí thân và
Pháp thân ấy
hợp lại thành
Tỳ Lô Giá Na Phật chi phối và điều động được muôn người, muôn vật trong
vũ trụ.
Về phần
chúng ta, vì
vô minh, sống với nghiệp thân,
giải quyết theo nghiệp và
phiền não, nên
phiền não cứ lần lần bao vây, xiết chặt ta lại. Đầu tiên, ta chỉ
đối phó với người bên ngoài và với
hoàn cảnh xa, nhưng vì
vô minh chi phối, lần lần
thế lực xấu ác
thâm nhập vào
gia đình, làm con cháu,
phá hại chúng ta đến tàn mạt.
Thực tế lịch sử cho thấy rõ điều này. Một người mới dựng nghiệp có nhiều
quyến thuộc tốt,
trung thành, nhưng vì
nghiệp ác, khiến họ hành động
ngu muội, giết lần những người thân cận giỏi,
trung tín.
Cuối cùng chỉ còn
thế lực ác theo họ và
sử dụng độc ác để
đối phó,
chống lại họ.
Đức Phật thì
hoàn toàn khác hẳn. Ngài hành động theo
trí tuệ và
lòng từ bi vô hạn nên càng
cứu độ chúng sanh,
tình thương Ngài càng
mở rộng. Người đã thương Ngài thì thương nhiều hơn, người không thương phải thương, người ghét thì thành người thương.
Xá Lợi Phất nhắc
đại chúng phải
quan sát việc làm của người trí, kinh
diễn tả phải nhìn
viên quang của
Văn Thù Sư Lợi.
Viên quang là
trí tuệ tuyệt luân của
Văn Thù, Ngài
hiểu biết mọi việc.
Ý này gợi nhắc
chúng ta tu hành, phải nhìn lại giới
cư sĩ, có người
đáng kính trọng là bậc thầy cuûa ta. Trên
thực tế, có
cư sĩ Lê Đình Thám là thầy dạy
chư Tăng. Nhưng trước khi dạy, ông
đảnh lễ chư Tăng.
Quả thật, có thể nói
trí tuệ và
đức hạnh của ta không bằng bác Thám.
Tuy nhiên, không phải tất cả
cư sĩ đều là
Bồ tát. Phải biết rằng
Bồ tát hiện thân vào
nhân gian thì khác hẳn người thường. Họ
giàu sang,
thông minh, nhưng rất
đức hạnh.
Xá Lợi Phất nhìn thấy
viên quang của
Văn Thù, tức
trí tuệ của
Văn Thù vượt hơn
Thanh văn nhiều. Kinh
diễn tả là
viên quang bất muội, nghĩa là ánh
sáng trí tuệ của
Văn Thù không bao giời tắt,
phiền não không bao giờ nổi dậy. Còn
nhận định của
chúng ta không phải lúc nào cũng
sáng suốt, hễ
nổi giận là mờ ám ngay.
Trí tuệ của
Văn Thù siêu tuyệt, thấy sự việc
chính xác, làm việc
hoàn hảo. Những
thành quả tốt đẹp hoàn toàn do
tâm trí chỉ đạo như vậy,
ảnh hưởng đến
thân tướng, tạo
thành thân Bồ tát có
tướng hảo trang nghiêm thanh tịnh, không
tội lỗi, bợn nhơ,
buồn phiền, nhưng đáng quý, đáng nhìn.
Đặc điểm thứ ba là quang võng của
Bồ tát Văn Thù bao trùm
chúng sanh, tức
trí tuệ của Ngài
ảnh hưởng cho
chúng sanh được giải thoát. Trong khi trí tueä của
Thanh văn chỉ làm cho
bản thân họ
được giải thoát mà thôi. Chính nhờ
tác động của
trí Văn Thù
phổ cập toàn diện, nên việc
giáo hóa chúng sanh của Ngài không
cùng tận.
Đặc điểm kế tiếp của
Bồ tát là có được
chúng hội đạo tràng khác hẳn
chúng hội của
Thanh văn. Phần lớn theo
Thanh văn đạo, không
quan tâm đến
vật chất, cơm ăn, chỗ ở. Thực tu như vậy,
chúng hội Thanh văn được
thanh tịnh, nhưng nghĩ đến
vật chất thì
phiền phức vô cùng, khó
tránh khỏi tranh chấp.
Chúng hội Bồ tát hay
quyến thuộc của
Văn Thù thì khác, họ là người
hằng tâm hằng sản chuyên
cúng dường, đầu tư
trí tuệ và công sức cho
Phật đạo.
Chúng hội Thanh văn, sau
an cư, làm pháp
yết ma,
phân chia vật dụng. Còn
quyến thuộc của
Bồ tát thì
kết hợp lại để cúng cho
Thanh văn hưởng. Người làm, ta hưởng, thì phước sẽ về họ.
Xá Lợi Phất nhắc nhở
đồ chúng, hay đó là
tinh thần Phật giáo Đại thừa muốn
chấn chỉnh việc
tu hành của giới
xuất gia, không khéo rơi vô
tình trạng chỉ
tiêu thụ hơn là đóng góp. Hãy
quan sát Văn Thù Sư Lợi xây dựng quyến thuộc lo cho đạo, không lo hưởng thụ, mới
thành tựu được những
Phật sự lơùn lao, mới giữ vững được mạng mạch
đạo pháp.
Kế đến,
Xá Lợi Phất bảo
đại chúng nên
quan sát con đường đi của
Bồ tát Văn Thù khác với đường của
Thanh văn đi.
Văn Thù Sư Lợi đi đến đâu đều làm
lợi ích,
cứu khổ ban vui, nghe chỗ nào có
nghèo khổ,
hoạn nạn thì chuẩn bị cơm áo đến ban phát.
Bồ tát bố thí,
cúng dường là việc chính, không đến để nhờ vả. Đó là
lập trường cố hữu của
Phật giáo Đại thừa.
Ngày nay,
chúng ta đi theo con đường của
Bồ tát Văn Thù, là
con đường mà không có đường. Nghĩa là mỗi người tự vạch ra
con đường cho mình. Tôi gọi đó là đường đời hay cách hành xử khéo léo của chính mình,
mọi việc đều nhằm
mục tiêu mang an vui
hạnh phúc cho đời.
Riêng tôi thường
quan sát đường đi của Phật, của các bậc cha anh, của đồng bạn, của người thuộc giới khác. Từ đó tự vẽ ra
con đường riêng của tôi và
điều chỉnh dần cho
phù hợp với bước đi của
Văn Thù.
Con đường của người chinh lược đầy máu xương, nước mắt,
con đường của
Thanh văn tu
vất vả khổ cực mà không được gì. Chỉ có
con đường của
Bồ tát, của Phật quá đẹp, quá
trong sáng và
vĩnh cửu.
Thiết nghĩ đó là khởi niệm của
chúng ta cũng như của
đại chúng muốn theo
Xá Lợi Phất đến gặp
Văn Thù Sư Lợi.
Đặc điểm thứ sáu là chỗ đứng của
Bồ tát Văn Thù rất
dễ thương. Ngài là thầy của
ba đời các
đức Phật, nhưng đến với Phật, tức học trò của Vaên Thù, Ngài lại đứng chỗ thấp nhất,
cung kính cúng dường học trò.
Học gương của
Văn Thù, khi hành
Bồ tát đạo, dù
năng lực ta vượt hơn người, nhưng
nếu cần làm việc nhỏ có lợi cho đạo, ta cũng không từ chối. Phải khiêm tốn, đừng tự coi mình
xuất gia là thầy của
thiên hạ.
Văn Thù Bồ tát đóng vai thấp nhất, nhưng ai dám
xem thường Ngài. Chỉ sợ mình đứng trên cao, mà
đức hạnh và
tài năng không bằng ai, mới đáng
hổ thẹn. Tu
Đại thừa,
phát tâm bồ đề, làm
mọi việc Phật sự, không từ nan. Đứng ở
vị trí thấp có cái lợi là luyện được tâm
cung kính người khác.
Đặc điểm thứ bảy là hai bên
Văn Thù có
vô số Bồ tát hết lòng hợp tác với Ngài trong mọi Phaät sự. Điều này cho thấy hạnh
Bồ tát khác hẳn
Thanh văn. Tu hạnh
Thanh văn, chỉ lo phần mình, không lo cho người, tất nhiên khó làm được việc.
Văn Thù Bồ tát đã giáo dưỡng
đệ tử thành Phật, những người được Ngài
cưu mang tế độ sẵn sàng đến
hợp tác khi Ngài cần họ.
Văn Thù hành
Bồ tát đạo, "nhứt hô bá ứng", toàn người giỏi,tốt, đầy
quyền uy kính nể,
hợp lực với Ngài, việc khó nào mà không thành. Còn ta có
một mình, hay chỉ có ngươøi
ăn hại theo, đành phải thua.
Chẳng những người
trí thức,
dòng dõi cao quý, trời rồng phủ phục dưới
chân Văn Thù, mà còn có
chư Thiên đến
cúng dường,
nhân vương kính trọng.
Bồ tát được việc là vậy.
Chư Thiên cúng dường nên kho báu của Ngài không bao giờ
cùng tận. Vua phải
kính trọng vì Ngài
giải quyết được việc cho
chúng sanh.
Và
đặc điểm thứ mười của
Văn Thù Bồ tát là được chư Phật trong
mười phương luôn
phóng quang gia bị và
công nhận Văn Thù là thầy của các Ngài, thì còn ai dám
xem thường Bồ tát này.
10
đặc điểm nêu trên của
Bồ tát Văn Thù có thể tóm gọn thành 3 việc chính :
hiểu biết siêu tuyệt,
việc làm lợi ích cho đời và sức tập họp
quần chúng. Đó là ba điều mà người tu phải học và
thể hiện trong cuộc sống theo
Phật giáo Đại thừa.
Xá Lợi Phất thấy
thực chất của
Văn Thù Bồ tát qua 10 điểm
nổi bật vừa nêu trên, Ngài
khai ngộ cho 500 Thánh
đệ tử, họ mới chịu ra mắt
đảnh lễ Bồ tát.
Đến đây đưa ra
hình ảnh chư Tăng đảnh lễ Văn Thù Bồ tát để cầu học, nhằm chuyển mạch
tinh thần Tiểu thừa sang
Đại thừa, nhắc nhở hàng
xuất gia không nên
tự ái, nếu sợ
xấu hổ, không dám học với
cư sĩ, thì không giỏi được.
Đại chúng được
Xá Lợi Phất hướng dẫn đến gặp
Văn Thù ngầm chỉ rằng trong cuộc sống
cần phải có
trí tuệ chỉ đạo. Hàng
đệ tử Phật tuy đông, nhưng ở đây chỉ nêu 6.000
Tỳ kheo do Xaù Lợi Phất
giáo hóa.
Trong lịch sử không thấy điều này, chỉ ghi rằng
Xá Lợi Phất có 100
đồ chúng.
Cần hiểu rằng 6.000
Tỳ kheo không phải là người thật, nhưng nhằm nói lên
dụng ý từ
Tiểu thừa chuyển sang
Đại thừa. Theo
kinh Pháp Hoa, khi
lục căn thanh tịnh,
hành giả sẽ có được 6.000
công đức, cũng muốn chỉ
Tỳ kheo thanh tịnh lấy
trí tuệ làm
sự nghiệp mới theo
Xá Lợi Phất đi tìm
trí tuệ hay tìm
Văn Thù Sư Lợi.
Nói về
trí tuệ, trong hàng
Thanh văn,
Xá Lợi Phất là người bậc nhất và trong chúng
Bồ tát,
Văn Thù là nhất. Nói cách khác, nhìn
con người ở
hai mặt :
thế gian và
xuất thế gian.
Xá Lợi Phất, người bậc nhất của
thế gian đi tìm
Văn Thù, người bậc nhất của
xuất thế.
Hiểu biết của
cuộc đời dù có giỏi đến đâu cũng có
giới hạn, trong khi
ngũ trí của
Văn Thù là
hiểu biết trọn vẹn.
Vì vậy, theo Phật, không tự mãn, phải
đi lên, không bằng lòng với
hiểu biết thế gian vaø đi tìm cái cao hơn là
hiểu biết xuất thế. Điển hình như
Đức Phật, 16 tuổi,
văn võ toàn tài, không ai có khả năng dạy. Ngài phải tìm cái trên
thế gian, gọi là
xuất gia học đạo.
Xá Lợi Phất có
trí tuệ bậc
nhất thế gian, không ai bằng Ngài. Ngài
dìu dắt được
đại chúng rồi mới dẫn dắt họ tiến
xa hơn, theo pháp
xuất thế.
Rõ ràng kinh này muốn đưa ra mẫu người tu
lý tưởng tiêu biểu cho
vị đạo sư khả kính không phải là người tu ăn bám.
6000
Tỳ kheo đến thăm
Bồ tát Văn Thù được Ngài dạy điều quan trọng nhất là
phát tâm bồ đề.
Bồ đề tức trí giác để thấy được
chân thật pháp, thấy được
công hạnh của các
Đức Phật và
việc làm của
Bồ tát; từ đó tự xét việc của mình để từng bước làm giống Phật và
Bồ tát.
Văn Thù cho biết kinh nghiệm bản thân Ngài trong
vô lượng kiếp theo Phật
tu hành, chỉ làm một việc
duy nhất là
phát tâm bồ đề. Và nhờ
thành tựu trí tuệ, Ngài tạo được muôn ngàn
công đức.
Tu học Phật theo
tinh thần Đại thừa, phải
nỗ lực phát huy
trí tuệ, vì có
trí tuệ là có tất cả.
Trên nền tảng quan trọng của
trí tuệ, theo
Trí Giả đại sư, người có trí mới có
thiền định, có
đạo đức. Không
trí tuệ, mà có
lòng tốt, thì
lòng tốt ấy sẽ
tác hại cho ta và người, giống
như khỉ thương con, ôm con lội qua sông làm cho con chết ngộp.
Ngoài việc phát triển
trí tuệ,
Văn Thù Sư Lợi khuyên
đại chúng phải có sức
kham nhẫn, không nên
mệt mỏi,
buồn phiền, dù Thầy có
hành hạ. Giống như
Đức Phật trong kiếp
quá khứ đã từng khổ cực mà vẫn
quyết tâm theo học với
Đề Bà Đạt Đa.
Tôi cũng có
kinh nghiệm về việc
học đạo. Khi
chúng ta đến học, trước nhất Thầy phải thử xem
chúng ta có
thông minh không, có sức
chịu đựng và có
lòng tốt thực sự hay không. Phải
vượt qua thử thách về
trí tuệ, về
nghị lực,
chứng tỏ chúng ta tốt,
hết lòng cầu đạo, thầy mới
truyền pháp. Người chỉ muốn được đề cao,
ăn ngon, hưởng thụ, chỉ là hạng giá áo túi cơm, không thể dùng được, chẳng ai muốn dạy cho
uổng công.
Hành
Bồ tát đạo phải
liên tục, không ngừng nghỉ mới
thành Phật được. Chư
Phật phát tâm
bồ đề dũng mãnh tinh tấn từ đời này sang đời khác. Có thể nói
tăng thượng duyên rất quan trọng, dừng lại thì về sau tu rất khó.
Ngoài ra,
Văn Thù còn dạy rằng
trải qua vô lượng kiếp tu hành,
tích lũy công đức, Ngài mới được
thành quả như ngày nay. Ngài dạy
Thiện Tài phải
quan sát tập họp
công đức của chư Phật, vì Phật kết tinh bằng
phước đức.
Chúng sanh trong
địa ngục kết tinh bằng
tội lỗi,
trần lao nghiệp chướng.
Trên bước đường tu, hơn nhau ở việc
tích lũy công đức.
Chúng ta thấy rõ quá trình
hành đạo của Phật chứa nhóm toàn là
phước đức. Đối với
việc lành nhỏ bằng cây kim, Ngài không hề
từ bỏ và việc ác dù nhỏ như
hạt cát, Ngài cũng không làm.
Trong
sinh hoạt thực tế, tôi thấy những thầy đồng tu biết
tích lũy phước đức, đều
thành tựu nhiều
Phật sự. Những thầy
bước đầu có
điều kiện vật chất hơn người, nhưng hưởng thụ thì
cuộc đời họ
dần dần đi xuống; vì phước cạn, đòi hỏi tăng, không
đáp ứng được, tất nhiên phải bị
suy sụp. Số bạn của tôi không ít người vấp phải
sai lầm này, tiêu hết
công đức, nhưng tạo thêm nhiều
tội ác, khó
tiến tu.
Thực tế chúng ta thường thấy nhiều thầy
tri sự cực khổ lo cho
chư Tăng; dù họ không giỏi, nhưng nhờ
tích lũy được
công đức, sau cũng làm
trụ trì, cũng được kính mến. Còn giỏi mà không làm
lợi ích gì, chỉ hưởng thụ thì
cuộc đời cũng
mai một.
Dứt khoát rằng muốn hành
Bồ tát đạo phải
tích lũy công đức.
Phước đức không có không thể nào cứu giúp người. Thật vậy,
chúng sanh nhiều
vô cùng và đòi hỏi của họ thì
vô tận. Điển hình
sơ sơ một việc
trước mắt như
chúng ta đến vùng
nghèo khổ, tất yếu phải đem
tiền của đến giúp đỡ,
xây dựng. Có như vậy mới
dễ cảm hóa họ.
Kinh nghiệm bản thân tôi không làm được việc lớn vì phước có
giới hạn, nên
việc làm cũng
giới hạn. Chư Phật thì
phước đức vô hạn, vì thế những việc của Ngài
thành tựu siêu tuyệt
vô tận.
Ý thức như vậy, đòi hỏi
chúng ta nỗ lực tu tạo nhiều
phước đức để sau này dùng
phước đức trang nghiêm thân, còn toàn
nghiệp chướng thì không tự cứu nổi mình, nói chi đến
độ người.
Riêng đối với
Văn Thù,
công đức lớn nhất của Ngài là
kính trọng người, không bao giờ
ngã mạn,
xem thường người, cũng giống như hạnh của
Thường Bất Khinh Bồ tát. Có
ý niệm hơn người, sẽ bị tổn đức, dù hơn thật, huống chi là không hơn.
Hạnh
Bồ tát là gieo trồng
thiện căn,
tích lũy công đức bằng cách làm cho đời càng nhiều càng tốt. Tu
Thanh văn mệt mỏi, chán nản thì nghỉ ngơi. Hành
Bồ tát đạo không được quyền nghỉ, tất cả công việc bao vây,
chúng sanh đòi hỏi. Ra làm việc mới thấy điều này, việc đang chờ mà bỏ hay bịnh là hư việc liền.
Công đức phải
tích lũy sẵn, cần tiền
chúng ta đáp ứng ngay, cần công sức,
chúng ta cũng giúp được. Tu
một mình thì khác, nhưng vì
đại chúng thì khác, không lo cho họ không được.
Bản thân ta
không thối chuyển là việc dễ, làm cho người
không thối chuyển không
đơn giản.
Vì vậy,
dìu dắt họ nên người là tạo được
công đức lớn.
Xá Lợi Phất cảm nhận được
công ơn giáo hóa của Phật khiến cho Ngài
đắc quả La hán thật lớn lao
vô cùng, nên
bạch Phật rằng dù đầu đội, vai mang trải
vô số kiếp, Ngài cũng không đáp đền được
ân đức ấy.
Ngày nay,
chúng ta chỉ nhìn
thành quả của Phật, cho rằng Ngài nói
đơn giản vài lời là độ được người. Còn
công lao nuôi dưỡng người
trải qua nhiều đời của Phật cực lắm,
chúng ta đâu thấy. Thử nghĩ một việc nhỏ đối với
chúng ta như có một
thị giả theo đã phát sanh
vấn đề cho ta, có hai
thị giả thì
vấn đề lại khác nữa.
Kế tiếp,
Bồ tát hết lòng thờ kính chư Phật, gần gũi cầu học với Phật để thành người hữu dụng,
hiểu biết rộng.
Văn Thù Sư Lợi đáng lẽ thành Phật từ lâu, nhưng vì
ý thức cầu học mà Ngài làm
Bồ tát. Ngài
cầu pháp không bao giờ
mệt mỏi, không thấy đủ. Vì theo Ngài,
hiểu biết thật không cùng tận, mỗi ngày có phát minh mới,
cần phải cập nhật hóa cho kịp
văn minh thời đại.
Văn Thù siêng tu 6
pháp ba la mật, việc nào cũng
nỗ lực đạt đến thành quả cùng tột. Nhưng trên
thực tế, mỗi ngày đều có cái mới, không thể làm cho cùng toät được.
Vì vậy,
Văn Thù chưa
trọn vẹn 6
pháp ba la mật, nên chưa
thành Phật. Ý này nhằm nhắc nhở
việc làm của
chúng ta còn
giới hạn, còn nhiều mặt khiếm khuyết, cần trau giồi để thăng hoa, không tự mãn.
Khi hành Bồ taùt đạo, tu 6
pháp ba la mật,
Văn Thù nhập
Bồ tát tam ma địa. Nghĩa là
Bồ tát nhập định trong công việc, làm việc nào
trụ tâm trong việc đó. Trong khi
Thanh văn nhập định phải
ngồi yên nơi
thanh vắng.
Bồ tát định trong công việc, nên càng làm, thì trí
Bồ tát càng sáng thêm, tâm càng
yên ổn.
Bồ tát đi, đứng,
thuyết pháp, ăn..., nói chung mọi
sinh hoạt đều luôn ở trong định. Định của
Bồ tát là làm cho
trí tuệ sáng suốt liên tục.
Thanh văn định thì kéo dài
trong khoảng thời gian nhất định nào đó, nên có
nhập định,
trụ định,
xuất định.
Bồ tát nhờ luôn
trụ định, nắm vững cả ba
thời kỳ quá khứ,
hiện tại,
vị lai. Đối với
Bồ tát,
quá khứ không quên, tương lai vẫn thấy để
tiến tới tốt đẹp và
hiện tại vẫn làm được
mọi việc. Một
niệm tâm của
Bồ tát thông cả
quá khứ,
hiện tại,
vị lai.
Thanh văn thì không được vậy, hễ hướng đến tương lai là quên
thực tế hiện tại và nhớ đến
quá khứ thì bị nó
chi phối, cũng không làm được việc
trước mắt.
Bồ tát giáo hóa độ sanh,
thâm nhập được tâm
chúng sanh và làm cho họ
thanh tịnh. Tâm
chúng sanh thanh tịnh là
tịnh độ của
Bồ tát hay
Bồ tát nghiêm tịnh Phật độ bằng
việc làm cứu giúp người.
Sau khi khuyên các
Tỳ kheo,
Văn Thù Sư Lợi từ giã
Ta La song thọ, đi đến phía Đông Phước Thành, nghĩa là có đầy đủ
trí tuệ rồi thì những gì tạo được sau đó, do
trí tuệ chỉ đạo, mới thật laø
phước đức vĩnh viễn của
chúng ta. Chưa có
trí tuệ mà có
phước báo rất nguy hiểm.
Vì vậy các
Tỳ kheo không được giữ
của báu, vì sống rày đây mai đó, không nhà cửa sẽ bị
kẻ cướp chiếm đoạt, giết chết.
Từ
Ta La song thọ đến Phước Thành tìm
Thiện Tài đồng tử, hay tìm người
gánh vác tương lai
đạo pháp sau Phật
Niết bàn. Tất nhiên muốn phú chúc
sự nghiệp phải tìm người trẻ khoẻ, giỏi.
Đạo Phật tồn tại mạnh hay không là tùy ở
thành phần thượng tầng kiến trúc nhiều hay ít. Nếu chỉ toàn người già yếu,
nghèo khổ, dốt nát theo thì chẳng ai hại,
đạo Phật cũng tự chết.
Khi
Văn Thù đến Phước Thành, có 500
Ưu bà tắc, 500
Ưu bà di, 500
đồng tử đứng đầu là
Thiện Tài. Khi ông sanh ra,
tiền của đầy nhà,
vàng bạc châu báu từ đất trồi lên nên đặt tên ông là
Thiện Tài. Đến đây
chúng ta bắt đầu nhìn về mặt vô hình của
con người có
phước báo. Chính
vì vậy mà
Văn Thù Sư Lợi đang
thuyết pháp giáo hóa 500
Tỳ kheo ở rừng
Thệ Đa, Ngài lại bỏ đi để đến thăm cậu bé
Thiện Tài vừa
chào đời.
Kinh Hoa Nghiêm muốn
diễn tả Thiện Tài tiêu biểu cho Phật ra đời có
phước đức trí tuệ đầy đủ, có sức tập trung caùc
Bồ tát lớn, như
Văn Thù Sư Lợi trong
pháp hội này là
đệ tử của Phật
Thích Ca. Nhưng ở
trường hợp khác,
Văn Thù Sư Lợi là Thầy của
ba đời mười phương Phật. Đó là
tinh thần phóng khoáng của
kinh Hoa Nghiêm,
Văn Thù vừa là Thầy của Phật, vừa là người trợ giúp cho Phật.
Kinh Pháp Hoa gọi đó là
Bồ tát thị hiện, tức các
Bồ tát lớn đã
thành Phật,
tái sanh lại trợ hóa cho Phật.
Thiện Tài sanh ra ở Phước Thành là thành được
xây dựng trên
căn bản phước đức, nên
hoàn cảnh tự thay đổi
tốt đẹp,
sung túc. Nhìn
thực tế cuộc sống,
chúng ta cũng thấy được điều này. Người có
phước đức sinh hoạt ở đâu thì nơi đó
trở thành tốt,
của cải và
may mắn tự đến với họ. Các vị
cao Tăng không
sở hữu tài sản gì, nhưng có sức tập trung,
thuyết phục,
đàn việt mang đến cúng dường tạo được chùa lớn. Còn người
tham vọng đến chiếm đoạt, nhưng không
phước đức thì đến ở, cơ
sở bị xuống cấp, không phát triển nổi. Như vậy kết quả lên hay xuống tùy ở
phước báo quyết định, không phải do khôn ngoan,
thủ đoạn mà được.
Đức Phật Thích Ca ra đời, dân chúng sống
sung túc, mùa màng phát đạt. Đó là nhờ phước Phật quaù lớn, được
kinh Hoa Nghiêm diễn tả dưới dạng
Thiện Tài sanh ra thì
bảy báu đầy nhà.
Thiện Tài đồng tử xuất hiện là
thế giới lý tưởng và đem
lý tưởng này đặt vào
hiện thực cuộc sống của
Đức Phật, theo tôi, hai sự kieän này là một.
Phước thành, nơi sanh của
Thiện Tài gợi cho
chúng ta ý thức rằng hành
Bồ tát đạo cần phải có phước. Tu
Thanh văn đạo không cần
phước đức, nhưng cần
giải thoát. Vì
Thanh văn tu hạnh
viễn ly, phải xả ly tất cả
giàu sang vật chất, mặc áo
phấn tảo, tạo phước sẽ thành nghiệp.
Hành
Bồ tát đạo đòi hỏi phải có phước, thiếu phước không thể làm đạo. Phước lớn nhất của người tu là tâm. Người
xuất gia lấy tâm làm chính, nên phaùt tâm
Đại thừa. Nghĩa là phải
mở rộng tấm lòng dung được
mọi người, dung được tất cả
căn tánh hành nghiệp của
chúng sanh Bồ tát chấp nhận được, thương được, dung được mới có thể
độ sanh. Tấm lòng hẹp là
tiểu thừa, chỉ tu
một mình.
Có thể nói tiếp Tăng độ chúng không
bao dung không được, vì ta muốn thì những cái muốn đó không bao giờ theo ý ta. Riêng tôi, biết rằng muốn không được, nên thường lấy ý người làm ý mình, lấy nghiệp người làm nghiệp mình, thì dung được.
Ngoài ra,
hạnh phúc nhất của người tu là có được tâm
hoan hỷ,
trong sáng, không
phiền não. Dù tu
Thanh văn hay
Bồ tát đạo đều
cần phải có tâm
hoan hỷ, người dễ
chấp nhận,
thân thiện với ta.
Có tấm lòng cũng chưa đủ, cần có
sức khỏe tốt và
ngoại hình dễ coi. Không khỏe không làm việc được. Nhiều
sức khỏe, đi nhiều nơi,
giải quyết nhiều việc
rắc rối cho
cuộc đời và có
hảo tướng dễ
thành công.
Phước báo kế tiếp là cần có
quyến thuộc nhiều đời, không phải
một đời. Từ
quyến thuộc thấp kém,
nghèo khó, ta
xây dựng cho họ thành giỏi, khá, có
nếp sống dư dả không phải là việc
đơn giản. Vì hành
Bồ tát đạo, tập họp được người
thông minh,
giàu có, khỏe mạnh thì dễ làm nhiều việc lớn. Nhưng
thành phần tốt như vậy cũng không dễ nghe theo ta, trừ khi ta đã từng
cưu mang, cứu giúp họ ở nhiều đời trước, đời này họ mới
chấp nhận ta là
ân nhân, bằng lòng
hợp tác. Muốn như vậy, tất nhiên ta phải giỏi, giàu,
tốt hơn họ.
Và sau cùng là có đủ
phương tiện trong tay,
thực tế là tiền bạc. Muốn
xây dựng chùa,
bố thí,
cúng dường hay bất cứ
hoạt động nào tất yeáu cũng cần có tiền.
Tu
Đại thừa, có đủ các phước vừa kể thì dễ dàng
hành đạo. Giỏi là điều
cần thiết, nhưng tôi thấy phước
quyết định thành bại, không phải tài
quyết định. Phước cho
chúng ta nhiều
may mắn trên đường hành đạo, còn tài thì dễ bị người
đố kỵ và thường kèm theo
tai họa. Nhiều thầy không giỏi, nhưng làm được nhờ có phước; nhiều người giỏi, nhưng "tài và tai một vần".
Văn Thù Sư Lợi dắt
đại chúng đến Phước Thành
quan sát Thiện Tài là người có đủ phước rồi mới hành
Bồ tát đạo. Chữ thành (Phước thành) chỉ cho
ngũ uẩn thân, chỗ ở của
linh hồn.
Ngũ uẩn thì giống nhau, nhưng khác nhau ở điểm
cấu tạo bằng
phước đức hay bằng
trần lao nghiệp chướng. Hành
Bồ tát đạo, ta phải từng bước thay đổi cấu trúc bên trong, từ nhà
ngũ uẩn trần lao nghiệp chướng biến đổi thành nhà
phước đức hay
vô lậu ngũ uẩn. Để chọn người truyền trao
chánh pháp,
Văn Thù tìm
Thiện Tài có đầy đủ
phước đức,
tâm hồn phóng khoáng,
dễ thương,
sức khỏe tốt, ông đến đâu thì
của báu tự trồi lên.
Phát xuất
từ Phước Thành hay người có phước mới lên được. Với
bản chất thông minh và
phước đức của
Thiện Tài,
Văn Thù dạy rằng trên bước đường cầu
Vô thượng bồ đề, đừng bao giờ tự mãn, thấy đủ, học cùng kiếp
cho đến khi không có gì không biết, tức
thành Phật mới thôi.
Văn Thù cũng nhắc nhở
Thiện Tài cầu học với
thiện tri thức, đừng vội vã
đánh giá họ hay
việc làm của họ. Vì họ hơn ta một cái đầu, ta không thể hiểu nổi
phương tiện thiện xảo của các
thiện tri thức. Thật vậy,
kinh nghiệm tôi thuở bé đã từng đi mua rượu thịt cho ông thầy dạy học, tôi không hề khi dễ ông và học được với ông rất nhiều điều hay.
Con đường tu của tôi thăng hoa cũng nhờ
đi theo hướng mà ông chỉ dạy.
Các
Hòa thượng cũng thường nhắc ta rằng vì viên ngọc quý, đừng chấp caùi đảy da là
y pháp bất y nhơn. Ta giận
trụ trì, ghét
pháp sư mà không tiến thân được, là tự hại mình. Tôi thấm thía điều này. Mình nhỏ mà thấy những
cử chỉ không hay của người lớn, rồi
xem thường họ là tự chuốc họa vào thân, vì họ đuổi ta được, hại ta được dễ dàng. Ta chỉ học điều hay của họ thôi. Còn điều dở xấu nhưng họ chưa bị
quả báo, thì ta nên
suy nghĩ. Họ thọ
quả báo, thì ta học và tránh được điều này. Nếu
bất mãn,
vận động gaây uy thế để lật đổ người, rồi
cuối cùng phải xách gói ra đi. Theo tôi, thất bại hay
thành công của người đều là
kinh nghiệm cho ta học, đó là
thái độ đúng đắn của người học Phật. Trên bước đường tu, có lúc tôi bỏ đi, nhưng thầy nhìn nhận rằng nhờ ra đi mà tôi được
thành quả tốt, vẫn lưu lại
cảm tình với thầy.
Chúng ta nên
cân nhắc cách
xử trí của
thiện tri thức, nghĩa là học khôn của người, không phải học
chữ nghĩa. Học được tất cả hay dở của
thiện tri thức dùng làm
kinh nghiệm cho ta và
trả ơn rồi thì
tạ từ mà đi, đừng ở lâu, mọc gốc rễ. Chùa cao Phật lớn đi không đành là đọa.
Văn Thù Sư Lợi nhắc dù khó mấy cũng gắng học cho xong, dù sướng mấy cũng bỏ đi, tất cả đều nhằm tiến đến
mục tiêu.
Thiện Tài sanh ra đời, việc đầu tiên là phải gặp
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát trước.
Thế giới Hoa Nghiêm gợi cho
chúng ta rõ điểm này.
Chúng ta tu được nhờ
nhân duyên căn laønh, sanh nơi nào có
Bồ tát lớn hiện thân giúp đỡ. Trên bước đường tu, mở đầu không gặp
thiện tri thức chỉ dạy, rất khó tu.
Thực tế thường thấy có người muốn tu không được vì luôn gặp
hoàn cảnh xấu, gặp người xấu dẫn dụ họ theo đường tà.
Nhờ gieo trồng căn lành sâu dày,
Thiện Tài được
Văn Thù tự tìm đến
khai ngộ và khuyên nên đến Đức Vân
Tỳ kheo để
tu học.
Thiện Tài vâng lời, sau khi
học đạo với Đức Vân,
Thiện Tài tiếp tục xả thân cầu đạo khắp nơi,
học hỏi với 53 vị
thiện tri thức. Điều này cho thấy trong quá trình tu, được
khai ngộ, cũng chưa đủ, mà còn đòi hỏi
chúng ta phải
hạ thủ công phu. Không ngại gian lao để tầm sư
học đạo và chịu cực khoå
rèn luyện đức tánh tốt, trau giồi
trí năng mới
trở thành mẫu người có khả năng
giữ gìn giềng mối
đạo pháp.
1- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Đức Vân Tỳ Kheo.
Thiện Tài đồng tử là
Bồ tát tái sanh nên căn lành saâu dày, rộng lớn
vô cùng, mới được Ngài
Văn Thù tìm đến
khai ngộ, dạy cho
đồng tử đạo
bồ đề để
nhận thức được khổ đau
sanh tử trầm luân mà tránh được
nhiễm ô trần thế. Trên bước đường tu, gặp được minh sư hướng dẫn là điều
vô cùng quan trọng. Vì trong
thực tế cuộc sống,
chúng ta thấy nhiều người tuy có căn lành, nhưng không được phước duyên gặp
Bồ tát chỉ dạy, thì sẽ bị người đời nhồi nặn một lúc, họ cũng trôi lăn theo dòng sông meâ bể khổ.
Thiện Tài thì khác hẵn, nhờ
Bồ tát Văn Thù khai tâm, liền nhớ ngay cõi này là chốn giả tạm, khổ đau, không phải là chốn
quê nhà vĩnh hằng của ông.
Nhận thức sâu sắc như vậy,
Thiện Tài một lòng
cầu thỉnh Boà tát
Văn Thù chỉ dạy
phương cách thoát ly trần ai khổ lụy.
Văn Thù Sư Lợi khẳng định chỉ có một cách
duy nhất là tầm sư
học đạo. Thật vậy, khi đã
ý thức rõ
cuộc đời huyễn ảo,
xấu xa,
chúng ta phải hướng tâm đi tìm cái
chân thực,
tốt đẹp vĩnh hằng.
Thiện Tài có cả
gia nghiệp đầy đủ
của báu, không thiếu gì, nhưng Ngài thấy nó chỉ tạo thêm
ràng buộc, nên sẵn sàng
từ bỏ để dấn thân tìm đạo.
Đức Phật Thích Ca xuất gia cũng với
ý thức hoàn toàn buông bỏ dục lạc mới
đạt được quả
Vô thượng đẳng giác. Còn
chúng ta không có gì mà còn muốn tạo thêm, nhiều
tham muốn quá,
chắc chắn cách đạo còn xa, khó lòng đi trọn
con đường giác ngộ.
Tuy nhiên, việc tầm sư
học đạo không
đơn giản. Riêng tôi, từ lúc mới 12 tuổi đầu, mang chí
xuất gia cũng khổ
vô cùng với
vấn đề tìm chùa để tu, tìm Thầy để theo học đúng
chánh pháp.
Vì vậy, có người tu một lúc rồi cũng quay
trở về. Đi moät đoạn đường tu
tương đối còn nhiều người, nhưng đi cho trọn
Phật đạo thì thật là hiếm.Nếu
may mắn gặp
Văn Thù trên đường tìm đạo thì còn gì
hạnh phúc hơn. Thuở nhỏ, tôi được nhiều người giúp đỡ.
Đặc biệt có một
Hoà thượng rất giỏi về thuốc Bắc và
uyên thâm Hán học. Bất chợt, Ngài gặp tôi ở Đức Hoà và bảo tôi nên về chùa Huê Nghiêm ở Thủ Đức tu với
Hoà thượng Trí Đức, là cố
Viện chủ Tổ đình Huê Nghiêm.
Nghe lời chỉ dạy đó, tôi lội bộ từ Củ Chi đến Đức Hoà, rồi đi ngược
trở về Thủ Đức, không có một đồng xu lận lưng. Với duyên may ấy đã đưa tôi đến nương với
Hoà thượng Huê Nghiêm,
tiến tu đến ngày nay.
Thiện Tài được
khai ngộ và
phát tâm bồ đề rồi,
Văn Thù cho biết việc của ông đến đây là xong và khuyên từ đây về sau
Thiện Tài nên hành
Bồ tát đạo, dấn thân vào đời để tìm chơn
thiện tri thức, không phải ngụy
thiện tri thức.
Văn Thù chỉ dạy
Thiện Tài nên đi về phương Nam, trên đỉnh núi
Diệu Phong học đạo với
Tỳ kheo Đức Vân đang
tu Bồ tát hạnh. Muốn hành
Bồ tát đạo mà lại tìm
Thanh Văn để học là chuyện trái ngược, nhưng
Thiện Tài vâng lời dạy không chút
nghi ngờ, rồi hướng về
hư không lạy,
đền ơn tri ngộ.
Tìm
Tỳ kheo trên đỉnh núi cao, nghĩa là người
cầu đạo phát tâm bồ đề phải hướng
ý chí đến
quả vị cao nhất là Phật. Tìm đạo với
Tỳ kheo vì đó là
đệ tử Phật đang tiến trên lộ trình cầu
thành Phật quả. Thật là
Tỳ kheo thì phải
thể hiện 5 đức tánh
tiêu biểu. Trước nhất,
Tỳ kheo có
hình tướng giải thoát khiến người từ xa trông thấy đã
phát tâm. Khi
đến gần,
nhận thấy lời nói, dáng đi,
cử chỉ cuûa
Tỳ kheo đều đáng cho ta
kính trọng. Và càng
tiếp xúc, gần gũi nhiều năm với
Tỳ kheo, ta chỉ thấy những điều tốt của họ và cuộc sống
thánh thiện ấy
tác động cho ta hưởng hương vị
giải thoát. Tâm
hoàn toàn thanh thoát,
hướng thượng, gần gũi và học với người cao thượng là
con đường mà
Văn Thù dạy
chúng ta phải
trải qua trên bước đường tu, đi tắt vào đời không được.
Tỳ kheo Đức Vân ở trên núi nhiều năm cũng làm bao nhiêu việc
bình thường, nhưng hơn người
thế tục ở 5 đức tánh
thánh thiện trên.
Nghe lời Văn Thù,
Thiện Tài khao khát đến núi
Diệu Phong tìm Đức Vân
Tỳ kheo, nhưng tìm hoài không gặp. Sau khi
đi vòng quanh núi 7 ngày, mới thấy một vị sư đang chậm rãi
đi kinh hành ở đỉnh núi toát ra
đức hạnh cao cả như ngọn núi cao mà Ngài đang sống.
Phải mất một tuần mới tìm được Đức Vân,
hay nói khác,
chúng ta tu hành luôn luôn có giai đoạn
thử thách. Trong một tuần
cầu đạo, lòng
chúng ta thường
quyết tâm đến độ cao, dù tan thân
mất mạng cũng
cam chịu. Khi nghĩ lên núi tu tưởng là
đơn giản, dễ dàng, nhưng
thực tế không như ta mơ tưởng. Chẳng hạn như từ chân núi Thị Vải leo lên, mệt
thở không ra hơi, chẳng thấy
bồng lai tiên cảnh hay
bóng dáng tiên nào cả, chỉ có
nắng chang chang, toàn là đá với đá, khiến ta bắt đầu nản chí tang bồng. Suốt một tuần tìm đạo, người không có căn lành
cảm thấy buồn thiu, chán ngắt và bắt đầu nhớ
gia đình.
Trái lại, với người có căn lành sâu dày nơi
Phật đạo, cảnh u tịch
núi rừng tác động cho
tâm hồn họ trở nên nhẹ nhàng,
trong sáng. Từ một ngày đến bảy ngày, họ quên
hết thế sự, kể cả
gia đình. Lúc đó, chỉ một lòng thiết tha
cầu đạo mới gặp được Đức Vân.
Thiện Tài trong một tuần
quyết tâm tìm thì Đức Vân
xuất hiện. Và với căn lành có sẵn, khi thấy Ngài
đạo hạnh sáng ngời, chỉ trong khoảnh khắc,
thân tâm Thiện Tài liền
thanh tịnh. Người có căn lành tu dễ dàng, chỉ nhìn thấy là
đắc đạo liền, vì đời trước đã từng tu, đã
thực hiện các pháp lành của Phật, nên nay thấy
quen thuộc. Giữa thầy và họ liền hợp nhau, thông nhau và baèng
quyết tâm cầu
giải thoát, chỉ trong chớp mắt
tiếp nhận được sở đắc của thầy.
Văn Thù bảo
Thiện Tài tìm Đức Vân, nhằm nhắc nhở
chúng ta sơ tâm học đạo cần phải tìm một
danh Tăng, một người
đức hạnh để nương theo. Đoù là
ý thức đầu tiên cần có, vì trên đường tu người
sơ tâm mà gặp người
phiền não thì
nghiệp chướng trần lao phát sanh.
Đức hạnh là việc quan trọng chính, trước nhất
xuất gia phải nương tựa với người
phước đức,
ví như cây tùng không bị phong ba bão táp quật ngã.
Bước đầu tu không giữ
đức hạnh thì càng về sau,
cuộc đời tu của
chúng ta càng khó khăn vì bị người bươi móc
tội lỗi.
Riêng tôi
may mắn được
cầu pháp với
Hoà thượng Huê Nghiêm.
Niềm tin của
Hòa thượng đối với Phật rất cao và tấm lòng của
Hòa thượng đối với đạo cũng hiếm người có được. Cách
hành đạo của
Hòa thượng tôi thấy rõ là Ngài không đòi hỏi bất cứ
quyền lợi nào, chỉ mong được đền
trả ơn Phật. Ngài sợ
thời gian trôi qua mà
đạo quả chưa thành nên lúc
đại chúng ngủ,
Hoà thượng vẫn
tiếp tục lạy Phật,
trì chú, khiến tôi sanh
tâm kính trọng và cũng bắt chước
nỗ lực công phu tu tập như Ngài. Nghĩa là tôi đã nương được với
đức hạnh của
Hoà thượng. Ngược lại,
chúng ta theo vị thầy chỉ lo tham đắm
thế gian thì
rõ ràng đang tiến bước trên đường ác.
Để
thâm nhập pháp giới,
kinh Hoa Nghiêm đảo ngược thứ tự, theo đó thứ nhất tu chùa, thứ nhì tu chợ, thứ ba mới tu nhà. Nói khác, vào chùa
học đạo vô thượng của
Như Lai xong, mới đem
Phật pháp vào
xã hội và sau cùng
trở về hướng dẫn
gia đình.
Bước đầu tìm
cao Tăng học đạo, tìm người
đức hạnh sánh bằng trời cao,
tiêu biểu bằng
hình ảnh Đức Vân
Tỳ kheo, để
rèn luyện mình thành người
đạo đức. Từ đây, phải làm theo tất cả
phương tiện mà vị
thiện tri thức dạy.
Ở giai đoạn này, phần lớn
thiện tri thức dạy
chúng ta tích tụ công đức, nên thay
mọi người làm việc
nặng nhọc không biết
nhàm chán, mới là
cầu đạo thật. Như
Huệ Năng bửa củi, gánh nước, giã gạo, sau thành Tổ,
thể hiện rõ nét
gương sáng nhập pháp giới.
Trái lại,
chúng ta thấy phần lớn những người lánh nặng tìm nhẹ, thích làm việc nổi cho nhiều người biết, thì
cuối cùng cuộc đời của họ cũng chẳng ra sao.
Tôi sớm
ý thức sự quan trọng của việc
tích lũy công đức trên bước đường tu, từ thuở ấu thơ mới vào đạo, đã siêng năng làm những việc
nặng nhọc mà người khác thường chê bỏ,
trốn tránh. Nhờ
cực khổ công quả cho Phật lâu ngày,
tích tụ thành công đức, giúp tôi thăng hoa cuộc sống
đạo hạnh đến ngày nay.
Biết nương theo người
đạo đức để tự sửa mình cho
trong sạch, mới dễ tiến xa. Tôi thấy trên
thực tế, có nhiều chùa vắng người ở, nhưng có Thầy lại kiếm không được chùa để ở.
Chúng ta phải tự xem tại sao người không dung chứa mình. Theo ý tôi,
rõ ràng là tại ta không
đức hạnh,
xuất gia tu học không đúng pháp mới ra nông nổi ấy.
Thiết nghĩ lo tu bồi cội đức thì sau này có
điều kiện tốt cho ta phát triển khả năng. Những người thiếu
đức hạnh, dù giỏi cũng không dùng được. Việc
tu hành trước tiên phải lo
rèn luyện đức hạnh tốt khả dĩ thay
Phật giáo hoá độ sanh.
Luyện mình thành người
đức hạnh, tức
ba nghiệp thuần hòa, chỉ
quyết tâm làm đạo, việc
bình thường khác không nghĩ đến và không làm. Một người có
đức hạnh thật,
chắc chắn người khác nhìn thấy phải có
cảm tình ngay. Không
đức hạnh, ăn nói
bừa bãi,
hiện tướng hung dữ, thì có
năn nỉ, người ta cũng không cho mình ở, dù chùa còn phòng rộng
thênh thang.
Thuở nhỏ, tôi
may mắn gặp quý Thầy thường nhắc nhở, dạy tôi phải làm những việc gì để thành người
đức hạnh. Tôi
vâng lời làm đúng vậy, đến đâu cũng được
thương mến. Chỉ nhìn những gì tốt, hay, phải mà bắt chước theo. Tôi thấy những thầy khác thường phạm
sai lầm vì chỉ biết những việc xấu của người, còn việc đáng làm, nên biết thì lại ở ngoài tai, không đụng đến.
Nghe lời Thầy, tôi không maøng
quan tâm đến việc lặt vặt của người khác,
nỗ lực học
kinh điển và sống hoà với
đại chúng. Tôi
công quả, làm được việc thì người mới cho ở và thương được. Tôi làm
hương đăng thì
trang hoàng bông trái
đẹp đẽ, quét doïn sạch sẽ. Làm vệ sinh nhà cầu thì cũng siêng năng làm sạch không ai bằng.
Thiết nghĩ chúng ta hiện hữu nơi nào đều
cần thiết,
lợi ích cho người; nói cách khác, có tài và đức tánh tốt, đó là
đức hạnh.
2-
Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Hải Vân Tỳ Kheo
Khởi đầu bước đường
tu học,
Văn Thù Bồ tát khuyên
Thiện Tài lên núi cao tìm Đức Vân
Tỳ kheo để
học giới đức, tu tạo
đức hạnh. Lên núi cao
hay nói khác là nâng
đức hạnh ta cho cao, tức
thành tựu việc làm lợi tha và
ý niệm tốt nhờ nương tựa với người
đức hạnh. Vì muốn
xuất trần, phải tìm
thượng sĩ. Không
rèn luyện đạo đức,
chúng ta cũng
y như người đời.
Thực tế, không ít giáo sư giảng hay, nhưng không ai theo vì họ thiếu
đức hạnh, thiếu
tư chất của người tu.
Học đạo, tìm người
đức độ thân cận,
nhất định một
thời gian sau, ta cũng
trở thành người
đạo hạnh.
Tìm được thầy có
đạo đức để
học hỏi rồi, khi vị này không có gì để
dạy bảo nữa, thì nếu họ thương đạo,
chắc chắn cũng khuyên ta nên
tiếp tục con đường phát triển
tri thức với một vị thầy khác. Sau đó,
tiếp tục con đường tu bằng cách vào
Phật học đường tìm
tri thức, nhưng lúc naøo trong lòng ta cũng ghi đậm
hình ảnh vị
chân sư khả kính đã
un đúc cho ta
đức hạnh ở bước đường
tu tập ban đầu. Nhờ vậy, hành động,
lời nói,
ý tưởng của ta vẫn
thể hiện đạo đức đã học được với Thầy. Song song với việc mở mang
kiến thức,
chúng ta vẫn giữ được
tinh thần giải thoát và
đạo hạnh trong cuộc sống thường nhật.
Theo tôi, những
Tăng Ni vào trường học mà không có mẫu Thầy
lý tưởng để tôn thờ, để nương tựa
tâm linh, thì dù có
tri thức, cũng khó
tiến tu được. Tôi thấy nhiều người học rất giỏi, nhưng thiếu đức, thường
sử dụng thủ đoạn,
cuối cùng kết thúc cuộc đời thật
bi thảm.
Thiện Tài học với Đức Vân,
rèn luyện thành tựu đức hạnh và đến đâu cũng
thể hiện được việc tốt, thì Đức Vân
cho biết sở đắc của ông chỉ có chừng nấy, còn pháp
Bồ tát thì
vô lượng,
Thiện Tài nên
tiếp tục tham phương
học đạo với vị
Tỳ kheo Hải Vân.
Thiện Tài đảnh lễ Đức Vân taï từ ra đi về phương Nam đến nước Hải Môn tìm Hải Vân để biết thế nào là đạo
Bồ tát và
hành đạo Bồ tát như thế nào.
Giai đoạn hai, học với Hải Vân là học
trí tuệ, sau khi đã
hoàn tất việc
học đạo đức ở giai đoạn đầu. Kinh ghi rằng Hải Vân tu bằng cách
quán sát biển cả.
Quán sát biển rộng
bao la và sâu
thăm thẳm, tâm của Hải Vân cũng
trở thành rộng sâu, dung chứa được muôn loài. Từ loài nhỏ nhất đến lớn nhất,
hình dáng,
sinh hoạt của chúng đều
hoàn toàn khác nhau, nhưng đều dung hoà,
sống yên ổn trong lòng Hải Vân.
Chúng ta sinh hoạt trong
pháp hội đạo tràng ở
nhân gian có người thiện, kẻ ác, đầu tiên
chúng ta chỉ dung được người tốt, không thể thương người xấu. Bước
theo gót chân của
Thiện Tài đến
học đạo với Hải Vân,
chúng ta cũng tập nhìn biển cả để
mở rộng lòng mình. Khi có những trận mưa to, nước nguồn khắp nơi đổ về, mà biển không đầy thêm; lúc không mưa, biển cũng không vơi đi. Từ đó,
chúng ta luyện
tâm bình đẳng, nhìn mọi loài,
mọi người bằng ánh mắt
dung thông và
nỗ lực giúp đỡ những gì nằm trong tầm tay ta.
Ngoài ra,
quán sát biển cả, thấy nhiều
của báu nằm trong lòng biển. Phật dạy trong tâm người cũng có
của báu, nếu biết khai thác thì sẽ đạt
Thánh quả.
Quan sát biển
mênh mông, tâm
chúng ta rộng theo, biển chứa nhiều
của quý, tâm
chúng ta dung chứa được nhiều người.
Đó là pháp thứ hai của
Bồ tát lần
đi vào pháp giới. Hai vị
thiện tri thức đầu tiên
tiêu biểu bằng
hình ảnh hai
Tỳ kheo.
Tỳ kheo là một trong 4 chúng
đệ tử của Phật. Phật đã
diệt độ,
chúng ta không gặp Ngài thì
trước tiên phải tìm vị Tăng cao thượng, có
đức độ, có
tâm hồn bao la dung chứa được muôn loài
hữu tình.
Hải Vân
cho biết Ngài đứng ở bờ
sanh tử thấy cuộc sống
nhân sinh ở dạng như vậy, nhưng
hành đạo phải vào
cuộc đời để trắc nghiệm pháp đã học, thì
Thiện Tài nên tìm
Thiện Trụ Tỳ kheo. Giai đoạn hai học kinh luật với Hải Vân để phát triển
tri thức và giai đoạn ba học với
Thiện Trụ để
ứng dụng trong cuộc sống
tu hành.
3- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Thiện Trụ Tỳ Kheo
Nhờ học với Hải Vân là người
thâm nhập Phật huệ, trí sâu như biển cả,
Thiện Tài quán sát được mọi loài,
phát tâm từ rộng lớn với tất cả
chúng sanh. Từ đó,
Như Lai xuất hiện, thọ học được với
Như Lai,
thành tựu được
công đức hải,
Thiện Tài đi về phương Nam, gặp
Thiện Trụ Tỳ kheo đang
đi kinh hành trong
hư không.
Đi kinh hành trong
hư không hay
an trú pháp Không, lòng
Thiện Trụ hoàn toàn thanh thản, không
cố chấp,
vướng mắc bất cứ điều gì. Vì khéo
an trú trong
Phật pháp như vậy, mới có danh xưng là
Thiện Trụ. Đối với người lòng
không chấp trước thì sống ngay trong
ngũ trược mà chẳng khác
Niết bàn.
Với quá trình đã
vượt qua hai chặng đường trước, sống với bát ngát của biển cả, lòng rộng như trời cao,
đức hạnh bao trùm như mây phủ bầu trời. Từ đó,
Thiện Tài mới nhẹ nhàng bỏ lại phía sau những tầm thường, nhơ bẩn của
thế gian,
thâm nhập Thiền quán, an trụ
pháp Không,
phiền não trần lao không làm hoen ố được. Điều này nhắc nhở
chúng ta nếu chưa
đạt được trí tuệ và
thành tựu đức hạnh mà vào
Thiền định thì chỉ là
giả danh Thiền sư.
Tu tập Thiền quán tức vận dụng
trí tuệ,
hiểu biết của ta, nung nấu đến
tâm thành trống không, đắc được
pháp Không mà kinh
diễn tả là
Thiện Tài đến núi
Lăng Già gặp
Thiện Trụ.
Kinh Lăng Già nói về pháp
Tổng trì, tức
đại định,
tâm Không.
Với
tâm Không,
hoàn toàn an định,
Thiện Tài mới
diện kiến được
Thiện Trụ đang
kinh hành trong
hư không và hiểu được
pháp hành của vị
thiện tri thức này. Ngược lại, nếu tâm còn kẹt những
kiến thức bình thường bên ngoài, thì không theå nào gặp được
Thiện Trụ.
Trước khi vào
Thiền định, đã có
phước đức,
trí tuệ, vào định khỏi phải bận tâm lo việc
ăn mặc chỗ ở hay các thứ lặt vặt khác. Trong
Thiền định,
chúng ta mới có
thời gian quán sát lại
Phật pháp đã học được. Chưa học mà tu, chỉ là tu mù, vì vào định lấy gì để suy tư, nếu chỉ suy tư việc
thế gian là rơi vào
tà định. Còn định để không biết gì là than nguội, cũi mục. Theo
Trí Giả đại sư, phải chuẩn bị 25
phương tiện trươùc khi vào định và pháp thứ 26 là những gì ta học được với Hải Vân, nhờ đó không rơi vào
cảnh giới ma.
Vào
Thiền định rồi, cuộc sống không
liên hệ với
con người bình thường, sống
hoàn toàn với
nội tâm. Người ngoài không thể thấy được
sinh hoạt nội giới ấy, nhưng việc đó mới thực sự quan trọng đối với người tu. Từ đó, đi lần vào
thế giới tâm thức,
Thiện Trụ dạy
Thiện Tài tham quan
thế giới chư Phật mười phương.
Tỳ kheo vào định, tập trung
tư tưởng tạo thành
linh giác đi khắp
pháp giới, thấy được chư
Phật hiện tiền và
nghe được pháp âm Phật. Nhưng người ngoài thấy họ ngồi
bất động, không đi, không tu, nhưng đó mới thật là đi, thật là tu.
Thiện Trụ cho biết Ngài thấy rõ
thế giới Phật. Mỗi
một lần vào định là
một lần tham quan
pháp giới, nhưng tham quan bằng
tâm thức, nên
thực tại vẫn
ngồi yên. Sau khi
thâm nhập thế giới Phật,
trở lại tham quan 6 đường
chúng sanh xem chúng
suy nghĩ và hành động như thế nào. Từ đó, thấy
chúng sanh không theo
hình tướng bên ngoài, nhưng thấy rõ
căn tánh,
hành nghiệp của chúng từ
địa ngục A Tỳ đến Trời Hữu Đảnh, mà chúng không hề hay biết có người gần gũi, sống cạnh chúng.
Đó là
việc làm của
Thiện Trụ tuy ngồi một chỗ, sống trong
đại định, nhưng
tác động tỏa ra ảnh hưởng lợi lạc cho mọi loài. Tất cả
hàm linh đều nhận được
sự giáo hóa của Ngài.
Chư Thiên,
Dạ Xoa,
Càn Thát Bà,
Long vương ... và các loài vô hình đều đến
cúng dường Ngài.
Sau khi học
thành tựu trí tuệ vô lậu với Hải Vân rồi, mới nhìn thấy
pháp hành thực sự của
Thiện Trụ Tỳ kheo.
Nếu không có trí, nhìn chung chung sẽ thấy
Thiện Trụ cũng giống như các
Tỳ kheo khác.
Quan sát bằng mắt huệ thì thấy không ai giống nhau, thấy
Thiện Trụ chẳng làm gì, chỉ
nhiếp tâm tu mà
chư Thiên cung kính cúng dường, là đạo
Bồ tát mà Hải Vân dạy
Thiện Tài đến
Thiện Trụ học cho được.
Chư Thiên vô hình,
chúng ta không thấy, trừ khi phát huệ như
Thiện Tài mới thấy.
Tuy nhiên,
chúng ta có thể hiểu trên
thực tế,
chư Thiên tiêu biểu cho
phước đức, được người
giàu có nhất trong vùng thường đến
cúng dường, không cần đi xin.
Dạ Xoa,
La Sát hung dữ , kỳ khôi nhất cũng
trở thành hiền lành, hộ đạo đối với
Thiện Trụ.
Trên
tinh thần ấy,
học đạo Bồ tát là phải học cho được
pháp hành vô hành của
Thiện Trụ, không cử thân động niệm, nhưng
mọi việc đều
thành tựu, sống nhẹ nhàng,
thanh thản,
giáo hoá chúng sanh mà không hề bị chúng
mê hoặc hay làm trở ngại việc hành
Bồ tát đạo.
Thiện Tài gặp Đức Vân, Hải Vân và
Thiện Trụ Tỳ kheo tiêu biểu cho ba
việc làm kiểu mẫu của người
xuất gia,
thành tựu đạo đức,
tri thức và
pháp vô vi nhơn phục.
Rèn luyện được ba mẫu này rồi, mới có
đủ tư cách dấn thân vào đời
độ sanh, đến học với vị thieän
tri thức thứ tư là
Di Già.
4- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Di Già
Trên lộ trình
cầu đạo,
Thiện Tài đồng tử gặp
Tỳ kheo Đức Vân, Hải Vân và
Thiện Trụ, hay đó là 3 giai đoạn tu
cần thiết cho bất cứ ai muốn hành
Bồ tát đạo.
Có thể hiểu ở giai đoạn thứ nhất,
chúng ta gặp người
đức hạnh quá lớn nên cảm đức mà
nghiệp trần lao của ta tự mất,
phát tâm tu và tự
rèn luyện đức hạnh đến khi
thành tựu, ở thêm cũng không
lợi ích.
Chúng ta cầu phát huy
trí tuệ ở giai đoạn hai, gặp được
Hải Vân Tỳ kheo,
tiêu biểu cho
hiểu biết rộng như biển cả, giải được tất cả thắc mắc cho ta. Và bước thứ ba,
chúng ta học nhiều, nhưng không
giao động, là nhờ gặp
Thiện Trụ Tỳ kheo an tâm.
Tâm
Thiện Tài ổn định rồi,
Thiện Trụ mới khuyên đi về phương Nam, đến
tụ lạc là chợ trời, tìm gặp ông
Di Già để biết rõ
đạo hạnh của
Bồ tát.
Di Già buôn bán ở chợ, nơi đó người buôn bán hơn thua, có đủ loại
ngôn ngữ. Trên bước đường tu,
nếu không học
Thiện Trụ thì những
thứ xấu ác này sẽ làm ta phát sanh
phiền não và
thối tâm bồ đề.
Ý này rất quan trọng. Gặp
Thiện Trụ xây dựng cho ta tâm
kiên cố, từ đó bước chân vào
cuộc đời dù gặp nhiều
cám dỗ,
chúng ta vẫn không bị
ô nhiễm. Trí chưa sâu, tâm chưa
an định,
đức hạnh không có mà vào đời
độ sanh thì chưa độ được ai, đã tan thân
mất mạng. Vì
tâm chưa ổn, gặp việc
cuống cuồng,
sân si; không
đức hạnh thì bị người
xem thường, đánh chết; không
trí khôn thì bị người lường gạt.
Ở chùa, trang bị được tâm
an định,
trí tuệ cao và
đức hạnh lớn. Đầy đủ ba
tư cách này mới dấn thân vào đời,
đi vào chợ, gặp ngay
Di Già là
Bồ tát hành đạo ở chợ với tâm
hoàn toàn thanh thoát.
Ta ẩn tu ở núi, chưa thực
sự giải thoát.
Đức Phật dạy
giải thoát thực sự là
giải thoát ngay trong
cuộc đời.
Đức Phật không dạy
chúng ta thành
người gỗ đá, nhưng luyện
chúng ta thành người cứu đời, làm
lợi ích cho người.
Thiện Tài quan sát thấy
Di Già buôn bán ở chợ nhưng không giống bất cứ người buôn bán nào ở
trần thế. Đó là điều quan trọng khi
chúng ta tìm bạn, tìm được người ở
trong đời nhưng có hành động,
ngôn ngữ, cuộc sống khác đời, cao quý hơn đời. Người buôn bán tốt, có
đạo tâm khác với người đời buôn bán chụp giựt.
Thiện Tài vào
học đạo với
Di Già,
quan sát thấy ông buôn bán giao dịch
đã lâu mà phẩm chất
Phật tử vẫn còn. Ông
nhận thấy nơi
Di Già cái gì cũng hay. Bên ngoài ông buôn bán
bình thường, nhưng
nội tâm hoàn toàn thanh tịnh. Trước ở chùa
thanh tịnh là điều bình thươøng. Nay
tiếp xúc với đời, tâm vẫn bình thản, khác với người ở chùa mà tâm ở chợ.
Bồ tát ở chùa thì tâm cũng ở chùa, vào chợ tâm vẫn ở chùa. Tâm
hoàn toàn không thay đổi, lắng yên và
hành sử không phạm
sai lầm. Đó là điều khó trên đường tu chuyển từ
Thanh văn sang
Bồ tát. Thật vậy, ta sống trên đời nhưng giữ tâm trụ lại thường dễ bị khờ, không nghĩ gì đến đời thì không biết đời.
Tuy nhiên,
Di Già dạy
đồng tử Thiện Tài trụ tâm một chỗ, không kẹt pháp, nhưng vẫn thấy pháp một cách
chính xác.
Từ đó,
Thiện Tài bước vào chợ nhằm
mục tiêu hướng thiện cho người. Ông làm hạt nhân tốt
ảnh hưởng cho người tốt theo. Người buôn bán với ông
dần dần trở thành ngay thẳng,
lương thiện.
Thiện Tài không biết
Di Già làm cách nào mà được như vậy.
Di Già cho biết nhờ vào chợ mới
đạt được Đà la ni, có sự
phản ảnh tốt xấu, động tịnh trong chợ giúp ông phát hiện được pháp aáy. Nghĩa là ông nhìn
cuộc đời, hiểu được người, biết được họ muốn gì và biết cả cách hành xử của họ. Ý này nhắc
chúng ta vào đời
cần phải biết rõ về người là điều quan trọng nhất. Vì biết được tánh và
phản ứng của người,
chúng ta mới cảm hoá được họ, chuyển họ thành người tốt.
Giai đoạn ở chợ chạm với
thực tế, là chỗ
tranh giành,
dối trá, lường gạt,
gây gỗ... Tất cả xấu ác này đập vô mắt,
vô tâm,
Di Già lấy đó làm đối tươïng hành
Bồ tát đạo. Gặp người
ương ngạnh, ông dùng lời êm dịu; ở chợ đầy tham
sân phiền não thì ông luyện được tâm thuần từ nhất; đụng chạm với
cuộc đời quá khắc nghiệt mà ông
thành tựu được
pháp ái ngữ. Chỉ có
Di Già giải quyết được việc nhờ trí
sáng suốt,
lời nói êm tai mát lòng phát xuất
từ tâm thương người,
độ người, không phải
lời nói ngọt trên đầu môi chót lưỡi. Luyện tánh này đến điểm cao nhất, chứng được
Đà la ni, ai trông thấy ông đều
hoan hỷ, đều
vâng theo lời chỉ dạy, dù người hung hăng mấy cũng trở nên
hiền lành với ông.
Tu ở chùa gặp việc tốt, bình ổn là điều
bình thường, nhưng
đi vào chợ thì
hoàn toàn khác hẳn.
Di Già ở chợ buôn bán, không phải để kiếm ăn nhưng vì đạo là việc
chính yếu của
Bồ tát. Nghĩa là đối với
Bồ tát,
chơn đế và
tục đế đều
dung thông. Ở
tục đế thì đời muôn mặt, nhưng người
hành đạo phải
hoàn toàn thanh thản, không vươùng bận gì. Trên
tinh thần ấy, đối với người tu
tiểu thừa, Phật dạy người tu không được
liên hệ đến chính trị, buôn bán. Nhưng với người theo
Đại thừa, hành
Bồ tát đạo, Phật
cho phép làm tất cả, nhưng phải giữ được
tâm hồn giải thoát.
Tiếp xúc cuộc đời,
chúng ta biết tất cả mánh khoé của đời, không ai lừa được. Nhờ giai đoạn trước đã học, tu có
trí tuệ,
chúng ta thấy được
cạm bẫy và dạy cho người
tránh khỏi. Đó là mẫu
Di Già mà
kinh Hoa Nghiêm đưa ra cho những ai muốn dấn thân vào đời
hành đạo.
Di Già thấy
Thiện Tài đến
vội vàng đảnh lễ Thiện Tài 3 lạy và mang những
kinh nghiệm sở đắc nói cho
Thiện Tài. Điều này cho thấy khi
chúng ta tu hạnh
Thanh Văn, tự
rèn luyện thành người cao cả,
trí tuệ rộng lớn, không
nhiễm trước. Sau đó, bước vào đời chẳng những không bị hại mà còn gặp người đối xử
tốt hơn.
Di Già lấy
hải ngạn chiên đàn dâng cúng
Thiện Tài, cũng có nghĩa là nhập được
pháp giới, tất cả đều
biến thành Phật quốc.
5- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Trưởng Giả Giải Thoát
Di Già dạy
Thiện Tài nên học thêm nhiều
lãnh vực sống khác, như ở phương Nam có
tụ lạc Trúc Lâm, nơi đó
Trưởng giả Giải Thoát sinh sống. Oâng có một
sự nghiệp rất lớn,
giàu có nhưng không hề
quan tâm đến mà
tài sản vẫn không bị mất mát.
Chúng ta thường thấy có 3 hạng người
giàu có ở
thế gian.
Hạng thứ nhất do
lừa đảo mà giàu, thì ngày trước sống
sang trọng như ông hoàng, ngày sau vô nhà đá. Trong thoáng chốc,
sự nghiệp tan như mây khói.
Phật tử không nên làm giàu theo kiểu ấy. Việc tạo
của cải,
phước báo theo Phật đòi hỏi
chúng ta phải có đức tánh
chân thật, mới có thể tiến xa
lâu dài được. Người xưa thường nói chỉ có thể lừa được một người, không lừa được tất cả, lừa được
một lần, nhưng không lừa được
suốt đời. Tôi có một người bạn giỏi, khôn, nhưng không lừa được ai nữa vì tướng
lừa đảo đã hiện rõ.
Hạng thứ hai
giàu có là do sức lao động tay chân và trí óc của họ.
Tuy nhiên, ráng sức tạo được
sự nghiệp thì mệt
hết hơi, mắt mờ,
tóc rụng. Nhìn thấy cách làm giàu theo kiểu
suốt đời làm tôi mọi cho
vật chất,
chúng ta cũng khiếp sợ.
Kinh Dược sư nhắc những người đã chết,
bỏn xẻn lo giữ
của cải, phải
sám hối những
lỗi lầm ấy để nhẹ nhàng đi
đầu thai.
Loại người kiểu mẫu
giàu có mà Phật đưa ra cho các
Bồ tát là
trưởng giả Giải Thoát. Theo Phật, tu được phước, tạo được đức thì
phước đức đó
quyết định cuộc sống nghèo giàu của
chúng ta. Và chỉ có
phước đức mới
gắn liền với linh hoàn
chúng ta,
chúng ta đi đến đâu thì
phước đức đi theo đó.
Đức Phật chia ra 5 loại phước mà
chúng ta nên tạo. Phước thứ nhất, sống trên
cuộc đời không gì
tốt hơn là tâm được an vui. Các
Tỳ kheo không có
tiền của nhưng là người
hạnh phúc nhất vì
tâm giải thoát an vui, chẳng khởi
tham muốn gì.
Phước thứ nhất, tâm
chúng ta luôn
thanh thản, không phải tính lo gì.
Tuy nhiên, người không biết lo, không biết tính, chẳng có
sự nghiệp gì, đó không phaûi là mẫu
trưởng giả của Phật dạy cho
Bồ tát.
Trưởng giả theo Phật,
tâm không lo, nhưng nắm trong tay cả một cơ nghiệp lớn lao,
tốt đẹp.
Từ khởi điểm
phước báo là tâm
thanh thản, có được phước thứ hai là thân khoẻ mạnh. Tâm
thanh thản và thân khoẻ là nội tài hay hạt nhân đưa ta đến
chân hạnh phúc Niết bàn.
Được hai phước này,
chúng ta vào đời sẽ có bạn tốt. Tôi thấy rõ điều này, người khó tánh thì ít ai dám
kết bạn. Người
hiền lành,
rộng lượng mới có nhiều bạn tốt, làm được nhiều việc. Hoặc tuy nghèo nhưng có được bạn tốt cũng làm được việc. Phước
kế tiếp là có được
của cải và
nhận thức không
sai lầm.
Trưởng giả Giải Thoát giàu có không phải do lừa dối, chụp giựt. Ông là người có phước, đầy đủ 5 điều : tâm an, thân khoẻ, bạn đối xử tốt,
tiền của dùng không hết và
quyết định đúng đắn. Từ đó,
của cải tự tìm đến ông.
Nhưng nếu hết phước, 5 thứ này tự ra đi, ta thường nói hoạ lai thành ám. Hoạ đến thì trí không còn
thông minh,
quyết định sai lầm, thường được kinh
diễn tả là hoa trên đầu
chư thiên bị
héo tàn. Vì quyết
đoán sai,
tài sản bị mất thì người
cộng tác cũng sa vào
nghèo đói,
bất mãn chống đối, ta phải
đối phó, sanh tâm
buồn bực,
đau khổ đến ngã bịnh và chết.
Cuộc đời tốt đẹp,
đi lên cũng từ 5 phước trên và xuống dốc, mất đi cũng theo hướng đó.
Chúng ta nhìn
cuộc đời mình và người như
vậy mà rút ra
kinh nghiệm sống.
Thiện Tài nhìn thấy
cách sống của
trưởng giả Giải Thoát làm giàu nhờ
phước báo,
mọi việc của
trưởng giả đều có người
lo liệu, làm thay tất cả. Oâng thật
an nhàn, không phải làm gì mà vẫn
thành công.
Dưới mắt của người thường thấy
trưởng giả Giải Thoát không làm gì. Nhưng
Thiện Tài nhờ
Di Già khai ngộ thấy
trưởng giả không làm bên ngoài, nhưng thật làm bên trong.
Việc làm trong
nội tâm mới quan trọng hơn.
Thiện Tài thấy
trưởng giả Giải Thoát dưới 3 dạng :
trí tuệ,
phước đức và
lòng tốt. Ông làm việc bằng 3 nội tài ấy, không giống người đời, mới là
Bồ tát. Điều này gợi cho
chúng ta nên nhìn người qua
phước đức,
trí tuệ, tấm lòng của họ, nếu mất những thứ này sẽ mất tất cả.
Phước nhiều đời mà ta đã khổ công tạo nên, đời này ta mới có đủ 5 phước thì phải
gìn giữ. Giữ phước dưới dạng
tu hành. Kinh nói rằng trong
nội tâm,
Trưởng giả Giải Thoát thường
suy nghĩ về
thế giới Phật. Ông nuôi
phước đức,
trí tuệ bằng cách nay thấy
thế giới Phật, mai nghe
Phật thuyết pháp, ngày nọ thấy
Đức Phật khác.
Có thể hiểu rằng
trưởng giả tu hành,
đọc tụng kinh điển,
hình dung được
thế giới Phật, nhận chân được
chân lý Phật dạy thì
trí tuệ sanh, bắt đầu có cái nhìn gần giống Phật. Trí sanh nên
nhận thức cuộc đời không còn
lỗi lầm sai trái, làm sao
sự nghiệp sụp đổ được. Nhờ tiếp cận chư Phật, luôn
nghe pháp Phật nên
hiểu biết tăng;
trở lại cuộc đời thì ông là Phật, không ai hơn được ông. Từ đó,
trưởng giả Giải Thoát không phải
đối phó, nhưng không ai dám
tranh chấp với ông. Vì bằng
trí tuệ nhìn thấy
căn tánh của người, chỉ một khởi niệm thay đổi trong lòng họ là ông đã
nhận ra và ngăn chận được hành động xấu. Học Phật,
nghe pháp để nhìn
cuộc đời thấy
chính xác, càng
chính xác càng quý, giúp
chúng ta bảo vệ được tất cả.
Giải Thoát trưởng giả cho
Thiện Tài biết
sở dĩ người thấy ông không làm vì những chuyện không đáng làm, ông chẳng làm. Việc đáng làm là tiếp cận
chư Phật mười phương để học
trí tuệ Phật và dùng
trí tuệ đó
lãnh đạo việc
thế gian thì ông đã
hoàn thành.
Lãnh đạo theo Phật khác với
thế gian; tuy sống
nhàn hạ, nhưng hành động
đạt được kết quả
chính xác, không ai có thể
che dấu, lường gạt được là mẫu
hành đạo của
trưởng giả Giải Thoát.
Trưởng giả nhờ
Phật hộ niệm,
quyết định sáng suốt,
thành công mọi mặt mà vẫn coi
như không, xem là
huyễn hoá, không
để tâm tham
chấp sự vật, người đời tưởng ông không làm. Trên bước đường tu, nhìn gương
trưởng giả,
chúng ta tu sao để được
Phật hộ niệm, mới có được quyết
đoán đúng đắn,
dần dần thành công, tạo thêm những
phước báo khác.
Phước đức có thì sanh ở đâu,
của cải tự tìm đến với ta.
Hình ảnh Giải Thoát trưởng giả là mẫu người
lãnh đạo ung dung tự tại theo
kinh Hoa Nghiêm ngầm chỉ cho nhân vật sống thật là ông
Cấp Cô Độc, một vị
trưởng giả nổi tiếng hộ đạo thời Phật
tại thế.
Bề ngoài thấy
Cấp Cô Độc không
quan tâm đeán công việc, chỉ dành
thì giờ nghe
Phật thuyết pháp, dốc cả
tài sản để
cúng dường mà
phước báo vẫn
tăng trưởng,
của cải không bị cạn kiệt.
Giải Thoát trưởng giả không làm giống như
Cấp Cô Độc nhưng kết quả
hành sử thì giống nhau.
Thật vậy,
Giải Thoát trưởng giả sống trong
thiền định, không
để ý đến bên ngoài, nhưng ông thấy được
thế giới Phật
mười phương, thấy
tâm niệm của người làm việc cho ông, không ai qua mắt ông được. Ông không
tiếp xúc,
ràng buộc người,
tâm thanh tịnh của ông
tác động cho người tự
phát tâm đến làm. Ông chỉ ở trong
thiền thất, không
quản lý, cũng không có người
quản lý dùm,
vậy mà công việc vẫn
thành tựu tốt đẹp.
Người Nhật chịu
ảnh hưởng kinh Hoa Nghiêm, các xí
nghiệp thường áp dụng cách sinh hoạt như vậy. Họ
đúc tượng Phật bằng đồng lớn
nhất thế giới cũng mang
tinh thần này. Nghĩa là người
lãnh đạo ung dung, nhưng có lực
chi phối vô hình. Bên ngoài không
tiếp xúc mà thực sự tâm yên tĩnh của họ đến với tất cả người
quen biết. Đó là
lãnh đạo ở dạng
tinh thần, tâm rất
linh hoạt, đồng một lúc
chi phối được tất cả người
liên hệ, trong khi
hành sử theo vọng động thì chỉ
chi phối được một người, không thể
ảnh hưởng hai người đồng một lúc. Trong
thiền định, một
niệm tâm có sức
linh hoạt truyền đến tất cả người, như
Đức Phật nói trong yên lặng với
vô số người, chẳng những trong
hiện tại mà cả quá khứ và trong tương lai. Chính
điều kỳ diệu của
vô tác diệu lực là pháp Phật muốn dạy
Bồ tát trong
kinh Hoa Nghiêm.
Thiện Tài đồng tử thấy được
đời sống tâm linh của
trưởng giả Giải Thoát, vì
đồng tử cũng có
đời sống tâm linh như vậy và cũng nhờ
Thiện Tài học đạo với các vị
chân tu, qua
kinh nghiệm của
Di Già dạy nhìn về chiều sâu của
linh giác. Nhờ vậy,
Thiện Tài và
trưởng giả Giải Thoát hiểu nhau qua
tâm linh.
Trưởng giả không nói gì, nhưng
Thiện Tài nhận được tiếng nói
truyền thông qua tâm,
cho biết trưởng giả đang tham quan
học đạo với
mười phương Phật và đem về
áp dụng cho người
liên hệ. Đó là cách
lãnh đạo theo tinh thaàn
Đại thừa, không tổ chức mà thật là tổ chức tốt, vì việc đâu vào đó một cách nhẹ nhàng, không
ép buộc hay mua chuộc người.
Thiện Tài học được pháp
lãnh đạo của
Giải Thoát trưởng giả trong
Thiền định xong, ông khuyên
Thiện Tài nên đến cầu học với
Hải Tràng Tỳ kheo, vì
Thiện Tài thông minh có thể tiến
xa hơn. Điều này rất quan trọng đối với
Đại thừa Phật giáo, dạy người để giúp họ
đi lên, không phải để bắt họ
lệ thuộc ta. Học Phật, cần nhớ
tinh thần ấy. Đừng nghĩ
chúng ta giúp người thì ta và họ
gắn bó nhau, không được tách rời. Không dạy người để
nô lệ hoá họ, bắt họ
kế nghiệp ta. Phật dạy khác, giúp được người theo
yêu cầu của họ rôài,
chúng ta không bận tâm nữa. Họ
tiếp tục con đường của họ, việc của họ, đừng bắt buộc người theo ta.
Thật vậy, các vị Thầy của
Thiện Tài từ bước khởi đầu là
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát cho đến Hải Vân, Đức Vân,
Thiện Trụ,
Di Già,
Giải Thoát trưởng giả và các vị
kế tiếp sau nữa, không có người nào muốn giữ chân
Thiện Tài và đều bảo
Thiện Tài tiếp tục con đường riêng, đừng làm việc của họ.
6-Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Hải Tràng Tỳ Kheo
Sau khi thọ học với
trưởng giả Giải Thoát,
Thiện Tài nghe lời chỉ dạy của
trưởng giả tiếp tục đến
cầu đạo với
Hải Tràng Tỳ kheo tiêu biểu cho mẫu
Tỳ kheo Bồ tát vào đời
độ sanh,
giải thoát ngay trong
trần thế.
Thiện Tài đến
đúng lúc Hải Tràng đang nhập
thiền định.
Thiện Tài kiên trì đứng chờ từ một ngày đến 7 ngày, chờ ông
xả định để
hỏi đạo. Nhưng
Thiện Tài càng chờ thì ông càng nhập Thiền lâu hơn.
Thiện Tài quan sát,
theo dõi,
chịu đựng đến 6 tháng vụt bừng ngộ.6 tháng
thử thách mà
Thiện Tài cố công mài dũa là
phương cách để Hải Tràng luyện tập cho
Thiện Tài tu thiền định, khác với
tu Thiền theo
hình thức, chỉ dạy ngồi suông,
Thiền Đại thừa nhắm vào việc quan trọng là
tiếp tâm. Hải Tràng nhập thiền toả ra lực thu hút
Thiện Tài chú mục vào,
nhiếp tâm theo dõi đến độ tâm vụt bừng sáng.
Cách
truyền đăng tiếp tâm này cũng được
Đạt Ma Tổ sư thể hiện qua 9 năm ngồi xay mặt vô vách, tạo thành sức thu hút
Huệ Khả cao đến mức ông đứng
ngoài trời băng giá mà không biết lạnh, tuyết ngập đến đầu gối mà không hay biết.
Với cách giáo dưỡng bằng tâm, không dùng
lời nói,
tác động cho
Thiện Tài sáng tâm. Và
đắc đạo rồi,
Thiện Tài thấy được cái vô hình, không chỉ
đơn giản thấy Hải Tràng ngồi như cũi mục. Nhưng từ bên ngoài tiến sâu vô
thế giới nội tâm, thấy được chân linh của Hải Tràng và học với chân linh, mới là người thật tâm
cầu đạo.
Nhìn bằng mắt,
Thiện Tài thấy
Tỳ kheo Hải Tràng không làm gì;
tuy nhiên, nhìn bằng tâm thấy vị
Tỳ kheo này học được với
mười phương Phật.
Vì vậy, Hải Tràng
im lặng mà
Thiện Tài thấy được đạo. Đạo này là gì ?
Trước tiên, kinh ghi rằng
Thiện Tài thấy dưới hai bàn chân của Hải Tràng có
vô số trưởng giả và
cư sĩ . Nếu
chúng ta nghĩ từ chân của Hải Tràng có nhiều
trưởng giả cư sĩ vọt lên, thì thật là
mê tín. Theo tôi, điều này cần nhìn ở dạng vô hình, thấy được lực vô hình của
Hải Tràng Tỳ kheo tác động đến
vô số trưởng giả,
cư sĩ khiến họ
phát tâm làm tay chân,
quyến thuộc của ông. Đó là cách nhìn để
chúng ta đi sâu vào đạo. Trên bước đường tu,
thâm nhập yếu nghĩa
Hoa Nghiêm,
chúng ta mới hiểu tại sao có những vị
Hoà thượng hiền lành, không làm gì mà
Phật tử cung kính,
tôn trọng, sẵn lòng tận tụy với họ.
Trưởng giả là người
giàu có,
hằng tâm hằng sản đóng góp
tích cực cho đạo;
cư sĩ là người sống
trong sạch, làm tất cả việc
thế gian, nhưng tâm vẫn chí đạo. Hai
thành phần này
hết lòng gánh vác Phật sự thì việc khó cũng hoaøn thành.
Thiện Tài đầu tiên bắt gặp được chân linh của
Tỳ kheo Hải Tràng, nghĩa là
nhận ra được người
thân tín của Hải Tràng toàn là
cư sĩ,
trưởng giả, nên ông
ngồi yên,
mọi việc có
đệ tử giỏi,
giàu có,
đạo đức đảm trách
toàn bộ.
Thực tế,
chúng ta cũng thấy vị
Tỳ kheo nào được
thành phần tốt, giỏi theo thì họ
thành công nhiều việc.
Trái lại,
thành phần xấu,
ăn hại theo thì một lúc chùa sập, thầy cũng
thành thân tàn ma dại.
Sau đó,
Thiện Tài thấy từ đầu gối của Hải Tràng
xuất hiện trăm ngàn ức
Sát đế lợi,
Bà la môn.
Bà la môn thuộc giới
trí thức vì tự cho rằng họ sanh trên đầu
Phạm Thiên.
Sát đế lợi được xếp vào hàng
quý tộc, từ
trên trời xuống.
Chúng ta không nên hiểu là từ đầu gối Hải Tràng có
trí thức và
quý tộc chui ra.
Ý này nhằm
diễn tả người
trí thức và
quý tộc kính phục
hiểu biết của Hải Tràng đến độ quỳ gối
chắp tay, cúi đầu,
công nhận ông là bậc thầy.
Chúng ta thấy trong
sinh hoạt đời thường, việc
ảnh hưởng cho giới
trí thức và
quý tộc kính trọng là điều không
đơn giản vì hai giới này rất
kiêu ngạo. Hải Tràng không nói gì mà họ kính nể, đó là mẫu ngươøi
tiêu biểu làm nên
đạo nghiệp.
Vì vậy, tôi thấy rõ nếu người đời còn khinh thường người tu thì
chúng ta khó
hành đạo.
Khi được 4 giới :
trưởng giả,
cư sĩ,
trí thức,
quyền quý quy phục, tất nhiên dễ dàng làm được việc lơùn. Các
Tổ sư lập giáo khai tông cũng vậy, đến nơi nào lập chùa đều được chính quyền địa phương
kính trọng. Điển hình như ở Tổ đình
Giác Lâm, Tổ
Viên Quang về ở trên đồi, tu trong
am tranh nhỏ,
văn nhân, thi sĩ, giới trí thưùc kính phục, tìm đến thỉnh ông chỉ giáo, khiến cho Tổng trấn Trịnh Hoài Đức cũng phải kính nể.
Ngoài ra,
Thiện Tài nhìn thấy hai bên vai của
Hải Tràng Tỳ kheo có
vô số A tu la vương và
Dược Xoa vương
xuất hiện. Đó là hai
thế lực mạnh làm hiệp sĩ
bảo hộ. Trên bước đường tu,
chúng ta hiền, nhưng phải có người mạnh
bảo vệ, thường được gọi là
Hộ pháp long thiên. Trên vai có thần
A tu la theo
hộ vệ thì
tà ma quỷ quái không thể
tác hại được.
Thiện Tài nhìn thấy sức
bảo hộ đối với
Hải Tràng Tỳ kheo rất lớn. Đó là
thế lực vô hình của
A tu la hỗ trợ và
sức mạnh hữu hình của người trên
cuộc đời bảo vệ. Nhờ đó, ông
ngồi yên mà
thế lực ác không dám quấy raày, chọc phá.
Đạo pháp cần người giỏi, mạnh, nhanh,
xả thân gánh vác Phật sự được
tiêu biểu bằng
hình ảnh thần
La sát,
Dược Xoa ở trên hai vai Hải Tràng.
Trên mặt của Hải Tràng,
Thiện Tài thấy
vô số Trời Đế Thích, Phaïm Thiên
xuất hiện. Từ chân là
cư sĩ, nay đổi
thành Đế Thích và từ
Bà la môn đổi thành
Phạm Thiên. Theo
Ấn Độ giáo,
Phạm Thiên là cha đẻ của muôn loài,
Đế Thích là
Thượng đế. Cả hai cùng
cung kính hướng về
Hải Tràng Tỳ kheo.
Từ hai mắt của Hải Tràng
xuất hiện Nhựt
luân vương chiếu khắp
mười phương thế giới,
tiêu biểu cho ánh sáng
mặt trời soi sáng khắp nơi. Nói cách khác, tầm nhìn của
Tỳ kheo thấu suốt
mọi việc của
chúng sanh. Trên đỉnh đầu của Hải Tràng
xuất hiện vô số Bồ Tát,
Như Lai.
Nói chung, Hải Tràng
thiền định, không nói, không làm, nhưng
mọi việc đều
thành tựu tốt đẹp vì đã được ông
thực hiện trong
thiền định, tạo thành
tác động trong yên lặng, mới là điều quan trọng. Trên
tinh thần ấy, kinh
diễn tả từ đầu xuống chân của
Thiện Tài có đủ
thành phần tốt
xuất hiện, nhằm nói lên
ý nghĩa từ chân là
địa ngục A Tỳ cho đến đầu là
trí tuệ Như Lai tuyệt vời, hay từ chỗ thấp
nhất trần gian đến cao nhất trong
thiền định, chỗ nào cũng có lực của
Hải Tràng Tỳ kheo chi phối đến. Dưới mắt người ngoài chỉ thấy Hải Tràng
ngồi yên và
Thiện Tài đứng trơ ra, nhưng thực sự đối với
Thiện Tài thì trong yên lặng thấy được Hải Tràng đang
chi phối cả
vũ trụ pháp giới. Đó là ý mà
kinh Hoa Nghiêm ngầm chỉ.
Học đạo phải học cho được
thực chất của đạo ở dạng này và tầm sư cần tìm cho được vị
đắc pháp như vậy.
Thiện Tài không học
ngữ ngôn văn tự, nhưng đã học được
tác động sâu xa của
thiền định với
Trưởng giả Giải Thoát và
ứng dụng pháp này để học
tuệ giác với
Hải Tràng Tỳ kheo.
Truyền pháp môn
Bát Nhã ba la mật cho
Thiện Tài xong, Hải Tràng khuyên
đồng tử nên
tiếp tục đi về phương Nam để học
Bồ tát đạo với
Ưu bà di Hưu Xã ở khu viên lâm tên là
Phổ Trang Nghiêm của nước Hải Triều.
7- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Hưu Xã Ưu Bà Di
Trên bước đường
cầu đạo, ngoài các vị
Tỳ kheo phạm hạnh,
sáng suốt như Đức Vân, Hải Vân,
Thiện Trụ, Hải Tràng,
Thiện Tài còn
tu học với hàng
cư sĩ như
Di Già và
Trưởng giả Giải Thoát là mẫu người buôn bán,
giàu có, nhưng
ung dung tự tại, sống
đức hạnh, mang
lợi ích cho người. Những nhân vật kiểu mẫu trên mà
kinh Hoa Nghiêm đưa ra nhằm nói lên
tinh thần Phật giáo chẳng những không
tiêu cực,
yếm thế mà
trái lại, luôn mang
lợi lạc cho đời.
Tiến
xa hơn nữa để vượt khỏi
cố chấp về giới tính,
kinh đề ra nhân vật
kế tiếp được
Thiện Tài tìm đến học là Hưu Xã
Ưu bà di. Phải nói đây là một thay đổi lớn được
Đức Phật đề xướng.
Thật vậy,
xã hội Ấn Độ thời baáy giờ trọng nam khinh nữ, không bao giờ đàn ông lại lóng tai nghe đàn bà dạy.
Nhiệm vụ của người
phụ nữ chỉ là cái máy đẻ. Nhưng
Đức Phật đã hướng
mọi người về một tầm nhìn
chính xác hơn, theo đó, có người đàn bà không nên gần, nhưng cũng có người
đáng kính trọng, không thể nói chung đàn bà là xấu. Nếu theo
Hồi giáo hay
Ấn Độ giáo coi thường đàn bà, thì
Tây phương kính trọng hoàn toàn đàn bà, cả hai đều không đúng.
Để nói lên điều quan trọng ấy, phải mượn
Hải Tràng Tỳ kheo là một vị
toàn năng, có
uy tín, có sức
thuyết phục mới có thể khuyên
Thiện Tài tìm học với Hưu Xã
Ưu bà di,
cho đến học với
Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa và Thắng Nhiệt
Bà la môn.
Đó là
hình ảnh các vị thầy hướng dẫn,
hoàn toàn trái với tinh thần Phật giáo nguyên thủy, nhưng
kinh Hoa Nghiêm lại coi như
tiêu biểu. Điều này không có nghĩa khẳng định rằng
Bà la môn,
ngoại đạo hay
tiên nhân hoàn toàn tốt. Nhưng phải hiểu
con người là
quyết định. Ai giỏi, tốt,
chúng ta học. Đừng đóng khuôn, mang
thành kiến,
tự ái, không học sẽ dốt
suốt đời.
Dẹp bỏ ý thức ngoại đạo, điều nào hay, tốt,
chúng ta học. Đó là
tinh thần caàu tiến của
kinh Hoa Nghiêm đưa ra.
Tâm đắc tư tưởng này,
trong đời tôi, ngoài bạn tu đồng màu áo, tôi còn có bạn tu khác
tôn giáo và học được những nét
thiện mỹ của họ.
Thiện Tài tin, học, tôn thờ
thiện tri thức không
mệt mỏi,
tin Hải Tràng không bao giờ dối gạt, vì đạo
Bồ tát thì người thường không thể hiểu được, quan trọng là
tư cách của người hướng dẫn.
Hiểu biết,
tu hành và
quyến thuộc của
Tỳ kheo Hải Tràng có những điều ưu vieät, nên
Thiện Tài tin tưởng hoàn toàn ở chỉ giáo của Hải Tràng, xóa tan tâm
do dự để đến
học đạo với
nữ cư sĩ Hưu Xã, học những gì chưa biết, chưa đắc.
Học được với
Hải Tràng Tỳ kheo pháp
tam muội giải thoát thì ông laïi chỉ cho
Thiện Tài đi tìm học pháp khác cao hơn.
Học đạo theo
nhị nguyên luận,
phân biệt tốt xấu,
thiện ác, không thể vào
tri kiến Như Lai. Đạo
Bồ tát không phải
nhị nguyên, nhưng dùng
phương tiện để
dần dần đưa đến đồng
nhất thể.
Bước đầu Thiện Tài gặp
Tỳ kheo Đức Vân tu
giải thoát, không
dính líu cuộc đời. Nay gặp Hải Tràng là người
tu xuất thế nhưng
ảnh hưởng quan trọng đến
cuộc đời, làm gạch nối giữa
chúng sanh và Phật. Từ trên đỉnh cao của mẫu
Tỳ kheo Bồ tát giới là Hải Tràng, hạ xuống thấp nhất, học với
nữ cư sĩ Hưu Xã.
Trong
kinh Pháp Hoa,
Xá Lợi Phất nói người nữ có 5 điều
chướng ngại, không thể
thành Phật.
Đức Phật xoá bỏ
hoàn toàn cố chấp ấy bằng cách đưa ra
hình ảnh Long Nữ thành Phật tức khắc, không cần qua quá trình
tu học như
Xá Lợi Phất.
Đến đây thấy rõ mối
liên hệ quan trọng giữa
Pháp Hoa và
Hoa Nghiêm.
Kinh Pháp Hoa nhờ
kinh Hoa Nghiêm giải thích laøm sáng hơn. Hưu Xã
cho biết ai nhìn thấy bà thì dù
đau khổ thế nào,
phiền não cũng tan biến và
trở thành quyến thuộc của bà, từ đó đến
thành Phật, họ không bao giờ thối thất tâm
bồ đề.
Thiện Tài hỏi Hưu Xã làm gì mà có được
công năng lớn mạnh và
hiểu biết vượt hơn Hải Tràng như vậy. Hưu Xã
cho biết rằng thấy được lực của bà là điều không
đơn giản. Nhưng
Thiện Tài đã thấy được lực của Hưu Xã là đã
phát tâm bồ đề rồi.
Theo Hưu Xã, muốn thấy được bà thì phải
phát tâm Vô thượng bồ đề và phải có
Phật gia bị. Nhưng muốn
phát tâm bồ đề cần có
trực tâm,
tức tâm tánh ngay thẳng, diệu hoà. Còn nhìn thấy
nhị nguyên đối đãi nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, giỏi dở thì không thể nào thấy Hưu Xã.
Kế tiếp phải hướng toàn tâm
cầu đạo vô thượng, không tiếc
thân mạng và mang
hạnh nguyện độ tận
chúng sanh. Có như vậy, ta và Hưu Xã đồng hạnh, đồng nguyện, mới thấy nhau và
trở thành pháp lữ của Hưu Xã, thấy được 84000
Bồ tát đồng hạnh với Ngài. Ta là
quyến thuộc của
Bồ tát và
Bồ tát thành
quyến thuộc với ta, nghĩa là
hỗ tương bất nhị. Một người một hạnh, nhơn lên thành 84000
hạnh lành, nên tất cả
việc làm thế gian thực sự do bạn lữ của Hưu Xã làm. Và ngược lại, trong
thế giới quan khác, tưởng rằng 84000
Bồ tát làm, nhưng sự thực là Hưu Xã làm.
Hưu Xã nói rằng trong kiếp
quá khứ, từ thời Phật Nhiên Đăng, Ngài đã
phát tâm bồ đề,
xuất gia làm
Tỳ kheo, làm tất cả việc
công đức trong
pháp giới. Ý này được
Phổ Hiền Bồ tát nhắc trong
kinh Pháp Hoa rằng trồng căn lành với các
Đức Phật và được
Phật hộ niệm.
Kinh Hoa Nghiêm thì dạy rằng phải
phát bồ đề tâm và được
Phật hộ niệm.
Vì vậy, thấy
việc làm của Hưu Xã là hiểu được
ý nghĩa Long Nữ thành Phật, không phải
tự nhiên thành, mà đã
trải qua quá trình thân cận,
cúng dường,
thọ trì vô lượng pháp Phật. Trên nền tảng xứng tánh
thành Phật như vậy, Hưu Xã vượt hơn
Hải Tràng Tỳ kheo.
Hưu Xã dạy rằng từ khi
phát tâm bồ đề,
trải qua vô lượng kiếp quá khứ, Ngài đã thờ kính,
cúng dường, tịnh tu
phạm hạnh,
thọ trì pháp với 36 ức hằng ha sa Phật. Nghĩa là Ngài đã
thành tựu viên mãn hạnh
Bồ tát, đạt
quả vị Vô thượng đẳng giác rồi. Vì thế, tuy bên ngoài mang thân người nữø bên trong đã
thành tựu Phật thân.
Tinh thần Hoa Nghiêm dạy rằng không có
hiện hữu nào của
chúng sanh không phải là Phật.
Hưu Xã còn
cho biết trong quá trình tu
vô lượng đạo pháp với 36 ức
hằng hà sa Phật, chư Phật phương Đông thường đến trụ xứ của Ngài mà
thuyết pháp và chư Phật chín phương khác cũng vậy. Không lúc nào Ngài không thấy Phật, không
nghe pháp.
Nhân hạnh
Bồ tát mà Hưu Xã gieo trồng với 36 ức
hằng hà sa Phật trong
vô lượng kiếp và
quả vị Phật mà
Long Nữ thành tựu trong chớp mắt,
tuy hai mà một, tuy một với nhiều không khác,
thể hiện lý
viên dung vô ngại của
pháp giới Hoa Nghiêm.
Từ
thế giới giải thoát của Hải Tràng đi ngược về
cuộc đời để
quan sát, thấy được những cái trước ta cho là tầm thường, nhưng nay biết đạo, thấy quý.
Ví như chưa có
tri thức, không thể biết
của báu phục tàng trong đất.
Chưa ngộ đạo, chưa vào
pháp giới thì tất cả vật đối với ta đều
chướng ngại.
Tuy nhiên,
ngộ đạo rồi, cũng cùng một vật đó mà ta thấy đổi khác. Và thấy đổi khác được là biết chính ta đã thay đổi. Thật vậy, ngày trước còn là
phàm phu, thì người nữ nguy hiểm. Nhưng
ngộ đạo thì Hưu Xã dẫn ta
thâm nhập pháp giới. Hưu Xã trở thaønh
thiện tri thức, không phải là người nữ tầm thường của
trần thế.
Thể hiện tinh thần cầu học,
Thiện Tài tìm đến Hưu Xã
Ưu bà di. Nơi Ngài ở là khu vườn tên
Phổ Trang Nghiêm. Đúng với tên gọi, vườn ấy
trang nghiêm, nhẹ nhàng,
thanh thản, tươi mát.
Trên đường hành đạo, đến nơi nào tôi
thường lưu tâm đến
phong cảnh. Nếu cảnh
sắc hữu tình, làm
chúng ta thấy vui,
thanh thoát thì nên
lui tới. Ở chùa có bậc
chân tu hiền lành thì cảnh cũng deã thương theo. Cảnh
tùy thuộc người, nhìn cảnh của một
quốc gia, một thành phố, một ngôi nhà,
chúng ta biết được người chủ như thế nào. Điều này
dễ hiểu. Ví dụ đến một
quốc gia mà rác xả đầy đường là biết ngay rằng nươùc đó
lạc hậu. Hoặc đến một
quốc gia như Pháp có nhiều
hoa viên,
cho đến cột đèn, bao lơn các nhà lầu, chỗ nào cũng nở hoa hoặc đến thành phố
Nhật Bản rất sạch sẽ, ai mà không
cảm tình.
Nhìn thấy cảnh vườn nhà của Hưu Xã
đẹp đẽ,
thanh tịnh như
vậy thì đoán được Ngài là người như thế nào. Cảnh đẹp có được là nhờ
tâm hồn người chủ sống nơi đó
chi phối và cảnh đẹp cũng
tác động lại cho khách tham quan.
Học đạo,
chúng ta nên tìm đến những nơi như vậy để lòng lắng yên.
Tâm hồn Hưu Xã
Ưu bà di cao quý,
thanh thản, không
rắc rối như các bà khác ở
thế gian, nên
Thiện Tài đến được. Đàn bà
bình thường thì
tham lam, ghét ganh, nhưng Hưu Xã, nghĩa là bỏ hết. Tâm bà không
vướng mắc buồn phiền,
âm mưu,
thủ đoạn, mới có tên như vậy và có
đủ tư cách làm
Ưu bà di.
Ưu bà di, tức nữ
cận sự Tam Bảo, tuy chưa
xuất gia, nhưng gần kề với đức tánh tốt của
Tam Bảo là
sáng suốt, bình đaúng,
hoà hợp. Khi người đàn bà không
sáng suốt thì hay nghĩ bậy, tin bậy, nói bậy, gần họ
chắc chắn bị khổ lây.
Trái lại, họ đã gần với
Tam Bảo, tức gần với Phật nên
sáng suốt, gần pháp nên nhìn đúng
sự thật và gần Tăng nên
hoà hợp. Đó là mẫu người tốt, mới tạo được cảnh đẹp
thanh tịnh ở
nhân gian, có thể thân cận.
Thiện Tài thấy cảnh
trang nghiêm và người sống
với nhau đầy an vui,
thể hiện hình ảnh Phật vào
nhân gian. Cảnh
nhân gian hạnh phúc,
giải thoát thì
biến thành chùa, nhưng chùa mà
tranh chấp thì đó là
địa ngục của trần gian.
Điều này khiến tôi nhớ đến
Hoà thượng Trí Tịnh nhắc cho tôi
nghe lời nói của cụ Mai Thọ Truyền rằng ở ngoài đời cụ thấy người ít nóng nẩy hơn các thầy ở chùa. Các thầy ngồi lần chuổi trông
hiền lành vậy mà đụng chuyện dữ không ai bằng. Đó là điều quan trọng
chúng ta phải thấy.
Các sư nổi
cơn giận hay
liều mạng hơn người đời vì họ không bị
ràng buộc bởi
của cải,
gia đình, nên xem nhẹ
sống chết, dễ
bực tức, nổi nóng. Tôi có
kinh nghiệm về việc ấy. Ở chùa
quanh năm nghe tiếng bảng
báo hiệu giờ
tụng kinh, giờ ăn, giờ ngủ, không ai chọc phá chuùng ta; nhưng ra ngoài, gặp việc không
như ý,
phiền não cuồn cuộn nổi dậy ngay.
Trong khi đó, người đời thường
tiếp xúc với
phiền não, họ
trở thành quen hoặc chai lì, không
phản ứng, hay vì có
kinh nghiệm nên họ biết cách khắc phục. Còn người tu
không kinh nghiệm, bước đến thì bị kẹt chân, đưa tay thì bị kẹt tay.
Theo
Đại thừa, chỉ cho
chúng ta nhận rõ ở chùa hay ở ngoài đời đều có người hiền, người dữ, người tốt, người xấu. Biết rõ để không bị
mắc lừa kẻ xấu và học được với người tốt.
Trên
tinh thần ấy, bước chân vào đời
hành đạo,
Thiện Tài thấy được yên lành và
tốt đẹp của Hưu Xã
Ưu bà di thì học cái ấy. Hưu Xã dạy
Thiện Tài tùy duyên làm đạo, không
tham vọng. Người đời phải tính toán
lo nghĩ để
tồn tại, nhưng Hưu Xã lại bảo
Thiện Tài bỏ cho việc
tự nhiên.
Theo
kinh nghiệm của Hưu Xã, việc xảy đến hay rời bỏ,
chúng ta ghi nhận nó như vậy, không
ham muốn, mong cầu. Hãy để cho sự vật
tự nhiên,
con người dễ thương nhờ
tự nhiên, cảnh vật đẹp cũng nhờ
tự nhiên.
Hưu Xã tức bỏ đi
ý niệm gò ép, gò ép người, gò ép cảnh đều
bất lợi. Vì
tư tưởng gò ép, bị buộc lại sẽ nảy sinh
tư tưởng bung ra,
phản ứng lại. Như người mẹ có ý
ép buộc con thì nó sanh
phiền muộn và người mẹ cũng
không vui được,
mẹ con lại có
vấn đề.
Hưu Xã có
nếp sống cao quý và người
xung quanh tự bắt chước, tự theo, không bảo, không
ép buộc.
Thiện Tài nhận thấy người đến với Hưu Xã được sống
thoải mái,
an lành, tạo thành một tập thể
hoà hợp,
thanh tịnh,
thể hiện đúng nghĩa một tổ chức
Phật giáo không tổ chức, không có kỹ luật
ràng buộc maø
mọi việc tự ổn. Tôi đã từng sống trong những
tu viện mà mỗi người
ý thức được việc của mình, tự vào khuôn khổ, không ai rầy, không ai thắc mắc, giận buồn.
Nhờ Hưu Xã không có
ý thức khống chế người, không
cố chấp, khó khăn,
buồn phiền, người tự nguyện đến học.
Tâm hồn Hưu Xã yên vui như vậy tạo thành cảnh sắc sống đẹp
tự nhiên. Nhìn cảnh mà
Thiện Tài cảm nhận được an vui đó.
Hưu Xã
cho biết bà chỉ được một pháp
duy nhất "Ly ưu
an ổn tràng", nghĩa là không
tham vọng khống chế người, chỉ
thanh thản sống theo
nhân duyên. Ai nhìn thấy bà thì
không thối chuyển đạo
Vô thượng bồ đề,
phiền muộn không thể
sanh khởi và an trụ
giải thoát.
Bà khuyên
Thiện Tài nên
tiếp tục tham vấn vị
tiên nhân tên
Tỳ Mục Cù Sa. Giai đoạn trước,
Thiện Tài học với Hưu Xã
Ưu bà di, tức
tín đồ cùng đạo và nay sang học với
tiên nhân ngoại đạo.
8 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Tiên Nhơn Ty Ở Mục Cù Sa
Sau khi dạy cho
Thiện Tài tu được pháp
giải thoát này, Hưu Xã
Ưu bà di chỉ
Thiện Tài đi về phương Nam, đến tìm học
Bồ tát hạnh với tiên nhơn
Tỳ Mục Cù Sa.
Đến đây khởi đầu cho giai đoạn
đi vào ngoại đạo, tiếp cận với người có
tư tưởng khác. Trước khi
nhập đạo, tâm còn
phân biệt giữa ta theo đạo này và người theo đạo khác,
hiểu lầm ngoại đạo nên bị họ chống trái. Nay
thâm nhập Hoa Nghiêm, có cái nhìn cởi mở,
Thiện Tài được
cung kính đón tiếp.
Tỳ Mục Cù Sa ca ngợi Thiện Tài đã
phát tâm Vô thượng chánh giác, có chí lớn, vì
Thiện Tài đến với
tư cách đi tìm
thiện tri thức, khao khát
chân lý. Nhân cách
tốt đẹp này đã
tác động đến tiên nhơn, ông mới thương kính và trao truyền sở đắc bằng cách xoa đảnh và nắm tay
Thiện Tài.
Đồng tử được tiên nhơn
Tỳ mục Cù Sa xoa đầu và nắm tay thì thấy
hoàn toàn đổi khác, thấy các
thế giới Phật hiện ra và
nghe được pháp aâm chư Phật.
Tác động này khiến cho
Thiện Tài nhận ra tiên nhơn Tỳ Mục là người
đắc đạo. Nếu chỉ nhìn
bề ngoài theo
mắt thường, không thấy được người
đắc đạo. Nhưng dưới mắt
Thiện Tài, thấy được Tỳ Mục tham quan
lễ bái mười phương Phật, thấy Tỳ Mục đi mà không đi và hơn thế nữa
ngồi yên tại chỗ mà có khả năng đưa
Thiện Tài đi tham quan tất cả
pháp giới trong chớp mắt.
Tỳ Mục nắm tay và xoa đầu tạo sự
an lành và
tri thức cho
Thiện Tài ngay trong khoảnh khắc và buông tay ra thì cũng trả ngay
Thiện Tài trở về thế giới bình thường.
Thiện Tài vào đời tìm được
thiện tri thức có đủ trong tất cả
thành phần xã hội, không nghĩ
thành phần này tốt,
thành phần khác xấu.
Thiện Tài nhận biết chân thực và
kết hợp thành
thế giới tốt, không bị óc bè phái làm sai lệch
tri kiến, không phủ nhận việc tốt của người, không binh vực người cùng
môn phái.
Thiện Tài vào rừng thấy tiên nhơn cùng
đại chúng sống
đơn giản, không nhà ở, họ mặc áo vỏ cây hay áo da nai. Đó là
quan sát theo
bề ngoài thấy
ngoại đạo như vậy. Nhưng nhìn vào chiều sâu cũng
tìm thấy cái hay của họ, thấy được người nào cũng có
quyến thuộc. Người xấu có
quyến thuộc xấu, giỏi có quyến thuôäc giỏi.
Quyến thuộc là
nhân duyên của họ.
Dưới mắt
tiểu thừa, người tu ở rừng, mặc áo lá cây, hình thù kỳ quái là
ngoại đạo. Nhưng nhìn theo
Đại thừa như
Thiện Tài, thấy tiên nhơn
Tỳ Mục Cù Sa là
Bồ tát hiện thân lại, khác với
ngoại đạo thật sự. Vì
ngoại đạo tu, luyện bùa chú để dẫn người vào đường tà; trong khi
Bồ tát bằng lòng sống với
ngoại đạo để
dìu dắt họ lần ra khỏi đường mê.
Bồ tát với lòng
đại bi,
thương xót ngoại đạo, mới
hiện thân vào sống với họ, thì phải
sinh hoạt y hệt như họ, cũng mặc áo vỏ cây, cũng mang hình thù kỳ dị, ở
núi rừng, để họ
chấp nhận Bồ tát,
dần dần chịu nghe theo.
Bồ tát thấy rõ những người
ngoại đạo tu chọn
nếp sống khổ hạnh cũng là người tốt.
Nếu không hướng dẫn, bỏ mặc họ cho người khác
lợi dụng, sẽ dẫn họ
đi vào đường ác. Tiên nhơn hay
Bồ tát khởi tâm cưùu giúp, dạy dỗ họ từng bước hướng đến
đời sống cao đẹp.
Ý thức này rất quan trọng mà
chúng ta cần nhận chân theo
tinh thần Đại thừa. Nếu sống theo
tiểu thừa, phải theo y khuôn
hình thức ăn,
mặc như thế nào mới được chaáp nhận là người tu. Đối với
Đại thừa, theo
tinh thần mở rộng, muốn hướng dẫn người, phải sống gần gũi và làm giống họ,ï gọi là
đồng sự nhiếp, họ mới nghe và
dần dần ta mới
khai ngộ cho họ được. Điển hình như
Long Thọ Bồ tát hiện thân tu theo
ngoại đạo. Ngài rất
thông thái, làm
giáo chủ Bà la môn và
trở về với
Phật đạo,
biên soạn nhiều bộ luận
nổi tiếng, ngày nay vẫn còn
giá trị.
Hưu Xã
Ưu bà di nhận biết được tiên nhơn Tỳ Mục beân ngoài mặc áo tiên, bên trong ẩn hạnh
Bồ tát, mới dạy
Thiện Tài tìm đến
học đạo. Và
Thiện Tài cũng
nhận ra vị tiên này tu
Bồ tát đạo, dù bên ngoài
bình thường là
ngoại đạo.
Nội tâm tiên nhơn
truyền thông với tâm
Thiện Tài,
Thiện Tài học được với ông pháp
Bồ tát vô thắng tràng
giải thoát, hay
tự tại giải thoát trong mọi tình huống. Tuy
sinh hoạt với
ngoại đạo, nhưng
Thiện Tài sử dụng được
Phật đạo, nên
tốt hơn ngoại đạo thật.
Theo
tinh thần Đại thừa,
thể hiện lời Phật dạy rằng ở trong tầng lớp nào,
chúng ta cũng phải
tốt hơn người, giỏi hơn người. Tiên nhơn Cù Mục
hiện thân sống với lớp người
ngoại đạo, làm thầy họ, hướng dẫn họ cách tu tieân, nhưng cũng nhằm
mục tiêu thuần hoá họ thành tốt
cho đến thành Phật.
Không giới hạn
tu Phật mới
thành Phật, ở đây
tu tiên cũng
thành Phật.
Tôi thấy các
cao Tăng truyền bá đạo Phật thường
sử dụng hình thức này. Vì người
Việt Nam tin 5 bà, nên chùa cũng
phương tiện đặt miểu thờ 5 bà để dân chúng có sẵn
niềm tin ấy tìm đến
lễ lạy, nhân đó
Hoà thượng nói pháp hướng dẫn họ dần
trở về chánh đạo.
Như vậy từ
cốt lõi Phật đạo, mượn
hình thức ngoại đạo để từng bước
chuyển tâm họ theo
Phật đạo, điều này cũng tốt. Nhưng, ngược lại,
chúng ta đem
ngoại đạo vào
Phật đạo để
mê tín hóa người, đưa người vào
con đường sống với
tà pháp là
hoàn toàn sai, khoâng được phép làm.
Tiên nhơn
Tỳ Mục Cù Sa sống với
ngoại đạo,
nổi bật hơn họ về
đạo đức và
tri thức, dùng vốn quý giá ấy dạy dỗ người tu về với
Phật đạo.
Thiện Tài tìm
Bồ tát hiện thân ngoại đạo để học, không phải theo
ngoại đạo thật.
Tiên nhơn
Tỳ Mục Cù Sa cho biết ông sống với
ngoại đạo mà không đánh mất
tâm Phật,
đồng thời hiểu rõ ngoại đạo hơn để dẫn họ quy về
Phật đạo.
Việc làm của tiên nhơn chỉ có vậy,
Thiện Tài nên
tiếp tục học
Bồ tát hạnh với Thắng Nhiệt
Bà la môn ở
tụ lạc Y Sa Na.
9- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Thăng Nhiệt Bà La Môn.
Thiện Tài học với tiên nhơn
Tỳ Mục Cù Sa pháp tu chuyển được tâm của
ngoại đạo về với
Phật đạo, kế đó vị này chỉ
Thiện Tài đến tìm học với
ngoại đạo khác là Thắng Nhiệt
Bà la môn, vì trong hàng
Bà la môn cũng có
Bồ tát thị hiện.
Vì vậy chỉ tìm học với Thắng Nhiệt, không phải học với tất cả
Bà la môn.
Thiện Tài thấy Thắng Nhiệt đang
tu khổ hạnh, bốn phía đốt lửa, ngọn cao như núi lớn, ở giữa có
núi đao cao nhọn và thấy Thắng Nhiệt leo lên
núi đao nhảy vào lửa. Điều này khiến ta
hình dung ra mỗi người có pháp tu riêng mang
ý nghĩa của nó, nếu ta chỉ bắt chước làm theo, không được chơn truyền thì
thân tâm sẽ bị hại hơn là
thành công.
Thắng Nhiệt bảo
Thiện Tài leo lên
núi đao, nhảy vào lửa để
Bồ tát hạnh thanh tịnh.
Thiện Tài chùn bước vì nghĩ rằng
đức Phật từng dạy
thân người khó được,
phải chăng đây là ma giả
Bồ tát để
phá hoại sự
tu hành của ông.
Trong lúc đang phân vân,
suy nghĩ thì
Thiện Tài nghe tiếng của
Trời Phạm Thiên bảo rằng : "Thiện nam tử, chớ nghĩ như vậy. Đức Thánh đây đã được
Kim cang diệm
tam muội quang minh, phát đại
tinh tấn độ chúng sanh,
tâm không thối chuyển, muốn cạn tất cả biển
tham ái, muốn thiêu tất cả củi
phiền não... Ta là
Phạm Thiên, tự cho mình là đấng làm ra tất cả, là
tối thắng trong
thế gian. Khi thấy
Bà la môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, lòng ta không còn
ưa thích cung điện của mình,
diệt trừ tất cả
kiêu mạn,
phát bồ đề tâm, thường thấy chư Phật, hằng nghe
diệu pháp..."
Thiện Tài cũng nghe
Tự Tại Thiên vương,
Hoá Lạc Thiên vương,
Đâu Suất Thiên vương,
Đao Lợi Thiên vương,
Long vương,
Dạ Xoa,
Càn thát bà,
A tu la,
Ca lâu la,
Khẩn na la ... và
quyến thuộc của họ đều nói rằng họ thấy năm lửa đốt thân thì rời bỏ
dục lạc,
phát tâm cầu
Vô thượng bồ đề.
Điều này có nghĩa là nhờ căn lành đời trước nên khi gặp việc khó, ta thường
nghe được tiếng nhắc nhở từ trong lòng, sách tấn ta
tinh tấn hơn. Mỗi lần được sách tấn,
chúng ta lại có thay đổi
tốt đẹp thêm.
Nếu không có sự
đánh thức của
tự tâm, ta dễ bỏ cuộc lúc gặp
chướng nạn.
Ý này cũng gợi
chúng ta liên tưởng đến việc
Thái Tử Tất Đạt Đa định
xuất gia thì cảnh vợ đẹp con ngoan
hiện ra, nhưng Ngài cũng
nghe được Trời Đế Thích trổi nhạc nhắc nhở rằng nay tuổi đã lớn, sao không sớm
quyết định đi
tìm đường giải thoát.
Trên bước đường tu, có lúc ta
mệt mỏi, không muốn
tiếp tục Thánh đạo, nhưng
may mắn gặp bạn tốt khuyên nhủ, ta thay đổi được
ý định xấu ấy.
Nếu không có căn lành, đang chán nản mà gặp bạn ác
thúc đẩy thì ta dễ
bỏ đạo.
Sự thức tĩnh bên trong và sự
trợ lực bên ngoài được kinh
diễn tả bằng tiếng nói trong
hư không của
Trời Phạm Thiên,
Đế Thích,
Đao lợi,
Long vương,
Dạ Xoa,
A Tu La... Có sự tĩnh giác của tự thân và được
trợ lực của
thiện tri thức,
chúng ta mới vững
niềm tin,
tiến tu được.
Thiện Tài liền xin
sám hối thiện tri thức và trèo ngay lên
núi đao, nhảy vào hầm lửa thì liền
đắc đạo, chứng được
Bồ tát thiện trụ tam muội và
Bồ tát tịch tịnh lạc thần thông
tam muội.
Ở đây, không phải
núi đao, hầm lửa thật mà các phù thủy luyện tập
sử dụng. Leo lên
núi đao và nhảy vào hầm lửa
tiêu biểu cho
hành trình đi vào pháp giới hay sự
tu chứng của
tự tâm.
Núi đao mà
chúng ta phải
vượt qua trên
con đường dấn thân vào
tự tâm, được
diễn tả trong
kinh tạng Pali rằng :
Chúng ta hãy mạnh tiến trên đường
phạm hạnh, thẳng tiến vào đường giáo mác, gươm đao. Nghĩa là
trên đường hành đạo,
chắc chắn gặp vô vàn khó khăn chào đón
chúng ta, làm ta bị tan thân,
mất mạng dễ dàng. Nhưng
chúng ta vẫn
quyết chí vượt qua khó khăn, bất chấp gian nguy
thử thách để
thực hành lý tưởng cao cả mà
chúng ta đã
lựa chọn.
Tâm không bao giờ khiếp sợ trước những
châm chọc, chống phá
việc làm của ta.
Một bên là
sức mạnh chống phá, một bên là sức
cám dỗ của
ngũ dục tượng trưng bằng năm thứ lửa. Lửa
ngũ dục hay năm điều
ham muốn luôn
chi phối, đốt cháy
con người. Thắng Nhiệt
Bà la môn vượt khỏi mọi
phiền toái,
bức bách của
cuộc đời, không bị
lửa dục thiêu đốt.
Thắng Nhiệt
thành tựu pháp ấy và chỉ dạy
Thiện Tài cũng luyện như vậy. Trước
Thiện Tài đã gặp
thử thách, nhưng đến đây
thử thách lớn hơn,
cụ thể hoá bằng
núi đao và hầm lửa.
Thiện Tài vốn có căn lành,
từ bỏ những thứ
của báu ở đời để
xuất gia, nay gặp khó khăn cũng gợn lên trong lòng;
Thiện Tài liền nhớ lại
chí nguyện hướng thượng.
Của cải quý báu của oâng trước khi
xuất gia so với tạng báu
Như Lai hiện nay thì thấm vào đâu mà
ham thích. Nhớ lại được như vậy dễ vững tâm tiến bước
hành đạo Bồ tát.
Hình ảnh Thắng Nhiệt và
Thiện Tài an nhiên ra khỏi
núi đao lại gặp hầm lưûa nhằm nhắc nhở
chúng ta trên bước đường tu,
vượt qua khó khăn và
thành công rồi,
chúng ta lại bị mua chuộc. Nhưng mua chuộc mà ta không
sa ngã, gặp chống phá mà không khiếp sợ thì người không thể
não hại, ta mới
tiến tu đạo nghiệp được.
Theo
lời Phật dạy,
Thiện Tài từ bỏ lợi danh,
tình ái. Nhưng nay đến với Thắng Nhiệt
Bà la môn thấy ông này đang sống với lợi danh
tình ái.
Rõ ràng lợi danh
tình ái là những thứ gây
đau khổ, chết chóc cho người.
Vậy mà Thắng Nhiệt luyện tập để những thứ này không
lôi cuốn,
sát hại được ông.
Bà la môn khác sống với lợi danh
tình ái để hưởng thụ rồi sa đoạ. Nhưng Thắng Nhiệt thì
trái lại, ông không bị
lửa tình ái,
tham dục thiêu đốt, không bị
núi đao danh lợi cắt đứt
thân mạng, tức sống giữa bọn gươm giáo
ác độc mà chúng không hại được, mới thực sự
an lành giải thoát.
Võ
Thiếu Lâm của Thiền phái
Đạt Ma thể hiện tinh thần này. Vì
cuộc đời sử dụng toàn đao kiếm, muốn cứu đời phải mạnh hơn họ, giỏi hơn họ. Từ đó, luyện tập võ
Thiếu Lâm để
đủ sức chống đỡ tất cả đao kiếm và nhất là có khả năng ngăn chặn tất cả ác hại, nhằm bảo
toàn thân mạng mình và cứu người giúp người.
Thiện Tài học được với Thắng Nhiệt hay cũng nhằm gợi ý cho ta
tu tập thế nào để
lửa tình ái,
tham dục không thiêu đốt, gươm
danh lợi không chém chết được. Những cái đáng
ham muốn,
bực tức,
buồn phiền mà ta không
ham muốn,
bực tức,
buồn phiền. Dấn thân vào đời
tiếp xúc với mọi
thành phần, nhưng ta vẫn là ta, không phạm
sai lầm nào
cho đến khi đầy đủ
Bồ tát hạnh, mang
công đức ấy
trở về diện kiến đưùc Tỳ
Lô Giá Na.
10 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Từ Hạnh Đồng Nữ
Theo
tinh thần Đại thừa,
không giới hạn việc học
giáo lý Phật với hàng
chư Tăng, nhưng học tất cả
kinh nghiệm sống trên
cuộc đời của đủ
thành phần xã hội mới hiểu
trọn vẹn giáo lý; vì pháp Phật dạy không riêng rẽ,
thiên lệch.
Người
cố chấp không thấy khách quan, chỉ thấy một phía thì chỉ
đạt đến quả vị A la hán, tức mẫu người
đạo đức,
hiền lành ở
thế gian. Họ không thể
thành Phật vì Phật là đấng
Chánh biến tri, biết tất cả và là bậc
Minh hạnh túc, làm được tất cả.
Kinh
diễn tả Thiện Tài cầu pháp với mọi
thành phần tu học ở
thế gian. Đầu tiên học với Đức Vân, rồi vào chợ học với
Di Già, với
ngoại đạo Thắng Nhiệt
Bà la môn. Thắng Nhiệt
Bà la môn dạy
Thiện Tài trèo lên
núi đao, nhảy vào hầm lửa mà không chết, nghĩa là vào đời, không bị
núi đao danh lợi đâm thủng, không bị lửa tham duïc,
tình ái đốt cháy.Sống trong
hồng trần mà không
tham muốn nên
hoàn toàn tự tại, được
thể hiện qua
gương sáng của vua Trần Thái Tôn xem ngai vàng như chiếc giày rách, muốn bỏ lúc nào cũng được. Danh là ngôi vua, lợi laø cung vàng, chẳng cần cả hai; nhưng ở lại ngôi vị vì
yêu cầu của số đông, không bị hại vì
danh lợi.
Thắng Nhiệt dạy
Thiện Tài sống với
danh lợi, không bỏ; nhưng sống cho hợp tình, không bị chúng
tác động, mới thực
sự giải thoát. Thắng Nhiệt
cho biết ông chỉ được một pháp đó và khuyên
Thiện Tài nên tìm người tài khác để học. Học hết với những người
thông thái và tổng hợp
tri thức cho mình rồi mới có
vị trí đứng trên
cuộc đời.
Thắng Nhiệt chỉ
Thiện Tài ở phía Nam có thành
Sư Tử Phấn Tấn, nên đến đó tìm
đồng nữ Từ Hạnh để học
Bồ tát hạnh, vì
Bồ tát đa hạnh, mỗi người chỉ biết một việc, làm một việc.
Ngoài ra, tuy có thể đồng hạnh, nhưng
hoàn cảnh mỗi người khác nhau, cấu trúc cơ thể cũng khác và hướng
đi vào đời cũng khác, từ đó mỗi người chỉ
sử dụng được một khía cạnh của
cuộc đời. Ví dụ như tôi
xuất thân từ giới
nông dân,
tu hành trở thành pháp sư, thì tôi biết rõ
phương cách làm thế nào phá bỏ kiếp
nông dân để
chuyển đổi thành
pháp sư.
Hiểu biết ấy khác với
hiểu biết của hàng công tử phá bỏ cuộc sống họ để thành
pháp sư. Hoặc có là
nữ giới mới biết được khó khăn và
thuận lợi của phái nữ như thế nào để từ đó vươn lên.
Thắng Nhiệt thuộc nam giới, vượt
chướng ngại, lên
núi đao vào hầm lửa, tức những
việc làm của
tính khí đàn ông. Phái nữ có cái hay riêng của họ, ở
vị trí này giỏi,
vị trí khác dở.
Tuy nhiên, theo
tinh thần Hoa Nghiêm, tất cả người giàu nghèo, khôn dại đều
lần lượt tiến đến
Vô thượng đẳng giác.
Thắng Nhiệt
thể hiện trọn vẹn tính khí người nam
đắc đạo, nhưng người nữ cũng
đắc đạo được. Tôi không là người nữ, nên các
cư sĩ nữ có thể tự
kinh nghiệm biết được mình.
Trong kinh này, người nữ học được gì ? Ở
thế gian, thường gọi người nữ là phái yếu.
Tuy nhiên, Phật dạy
chúng ta biết mình yếu thì cũng có thể
trở thành mạnh;
trái lại, người mạnh mà không biết
sử dụng cái mạnh của mình cũng thành yếu. Trong
đạo chúng ta thường xếp mạnh nhất là trẻ con, mạnh thứ nhì là người nữ và mạnh thứ ba là
Sa môn; còn lại tất cả đều là phái yếu. Ba hạng người này có thế mạnh riêng nếu biết
sử dụng.
Chúng ta đã học được cách tìm mạnh trong thế mạnh với Thắng Nhiệt
Bà la môn và bây giờ
Đức Phật muốn dạy
chúng ta tìm mạnh trong thế yếu với Từ Hạnh
đồng nữ.
Đồng nữ chỉ cho người đồng chơn, từ nhỏ đã sống thuần với đạo, không bị
cuộc đời làm
ô nhiễm, họ không nói, không nghĩ những chuyện tầm thường của
thế gian.
Ở đây đưa ra
hình ảnh cô bé Từ Hạnh
trong sạch hoàn toàn từ thể xác đến
tinh thần, nâng đến đỉnh cao là
nhập pháp giới được kinh
diễn tả là
đồng nữ này ở cung điện Tỳ
Lô Giá Na.
Tỳ
Lô Giá Na nghĩa là
chơn tâm hoàn toàn sáng suốt. Từ
chơn tâm thanh tịnh phát xuất
tình thương tất cả
chúng sanh, mới có tên Từ Hạnh, đó là thế mạnh của
nữ giới. Không biết
sử dụng lòng từ này để sống với người, mà
sử dụng tham lam, ghét ganh thì người nữ
trở thành yếu thêm. Nếu
chúng ta đến, người an vui, nghe tên mình, người vui, tất nhiên
chúng ta phải mạnh, vì người cần có ta họ mới được vui, họ phải
bảo vệ ta.
Vì vậy, biết tổng hợp
sức mạnh của thế nhân,
chúng ta trở thành mạnh; không làm được như vậy,
anh hùng cũng chết
thảm thương, không phải họ hết mạnh, nhưng vì
mất lòng tin yêu của
quần chúng.
Phái yếu có điểm hay là thuận với việc
phát tâm từ bi.
Thực tế chúng ta cũng thấy
từ bi tâm dễ có nơi người nữ. Theo
tinh thần ấy,
Bồ tát Quan AÂm
hành sử tâm
đại bi luôn
cứu khổ, tâm
đại từ luôn mang vui làm
pháp chính yếu. Sống ở đâu cũng nhằm
cứu khổ, ban vui, nghe tên Ngài, nhìn thấy Ngài liền hết khổ, an vui thì Ngài là
biểu tượng mạnh nhất.
Thiện Tài được
giới thiệu đến gặp
đồng nữ Từ Hạnh là
công chúa, con gái của vua
Sư Tử Tràng có 500
đồng nữ hầu hạ, ở điện Tỳ
Lô Giá Na Tạng, ngồi trên toà Long Thắng
Chiên đàn mà thuyết
diệu pháp. Nghe qua thân thế và
y báo của thầy như vậy là
Thiện Tài biết mình sắp gặp
thử thách khác lớn hơn nữa.
Ở đây nói rõ
đồng nữ thuyết
diệu pháp. Kinh của Phật có hai phần :
Diệu pháp và
Liên Hoa. Phần
diệu pháp không nói được, nhưng thật là pháp.
Liên hoa hay
pháp diễn tả bằng
ngôn ngữ,
văn tự thì tùy chỗ,
tùy thời, tùy người mà diễn nói không đồng.
Vì vậy đó là
phương tiện nhằm
giải quyết vấn đề nào đó, với một đối tượng nào đó.
Chính vì
giá trị nhứt thời của pháp
phương tiện,
Đức Phật khẳng định rằng
trong suốt 49 năm
thuyết pháp, Ngài chưa từng
nói một lời. Điều này nhắc nhở ta đừng chấp đó là thật pháp. Tất cả những gì Phật nói đều là
phương tiện để giúp
chúng ta chứng
diệu pháp. Ngài dùng
vô số ngôn từ,
thí dụ,
hình ảnh để
chúng ta xa rời lòng chấp, có
ý niệm về pháp và tự
thân chứng được pháp của mình, kinh gọi là
nhập Phật tri kiến. Và khi đã
thâm nhập Phật huệ,
sử dụng được
Phật tri kiến,
chúng ta cũng nói
vô số pháp như Phật.
Diệu pháp của Từ Hạnh thuyết trong điện Tỳ
Lô Giá Na.
Thiện Tài đã nhập vào
pháp giới, thấy tánh của vật, mới thấy được điện Tỳ
Lô Giá Na và nghe Từ Hạnh
thuyết pháp. Học với Từ Hạnh ở Tỳ
Lô Giá Na tạng thì trở vào đời lần thứ hai,
Thiện Tài có thêm pháp mới, vì Tỳ
Lô Giá Na nghĩa là
phổ quang minh trí, tức
Như Lai huệ thấy vật ở dạng thể, thấy
rốt ráo,
chính xác.
Diệu pháp này không nói được, nhưng nắm được
diệu pháp thì biến nó thành
phương tiện làm đạo.
Diệu pháp hay pháp
vô ngôn mà
Thiện Tài chứng được ở điện Tỳ
Lô Giá Na với Từ Hạnh, khi mang
sử dụng trên
cuộc đời để
độ sanh gọi là khai
phương tiện môn, nên cũng thay đổi tùy nơi, tùy người.
Trên
tinh thần khai
phương tiện, tất cả pháp Phật nói không đồng nhau để ứng với
căn tánh hành nghiệp chúng sanh, nhưng chứng được
pháp chân thật thì đồng nhau. Từ Hạnh học pháp
sai biệt mà
chứng pháp vô sai biệt, nhập Tỳ
Lô Giá Na tâm và những người đến nghe
đồng nữ thuyết pháp cũng
chứng pháp giống nhau.
Thiện Tài đến cửa thành gặp nhiều người đi nghe Từ Hạnh
thuyết pháp.
Chắc chắn Từ Hạnh không
giảng kinh suông bằng
ngôn ngữ, quan trọng là
diệu pháp tiềm ẩn bên trong. Từ đó,
thể hiện ra
thân tướng của Ngài
tác động cho
mọi người an vui. Mặc dù người đến chưa học được gì mà cảm nhận
giải thoát an vui là
cứu nhân độ thế theo
tinh thần Đại thừa. Ngược lại, nghe
giải thích đủ thứ nhưng đầy ắp
phiền não là
phi pháp. Pháp
Đại thừa tuy không
sử dụng ngôn ngữ văn tự, nhưng
ảnh hưởng cho người
tiếp thu được
an lành,
thể hiện bằng
pháp hành của Từ Hạnh
đồng nữ.
Đồng nữ dắt
Thiện Tài vào nhà mình, là vào
Như Lai tạng tâm.
Thiện Tài thấy 36 ức
hằng hà sa Phật trong nhà
đồng nữ, thấy rõ mỗi Phật có 8 tướng
thành đạo và thấy suốt
cuộc đời của các Ngài
thuyết pháp.
36 ức
hằng hà sa Phật đều
xuất hiện trong điện Tỳ
Lô Giá Na là điều
đặc biệt vì đồng có mặt nhưng không
chướng ngại nhau. Mỗi vị có một quá trình
hành đạo khác nhau, nhưng
hình ảnh không trùng lấp lên nhau và
thuyết pháp cũng không đồng nhau.
Thông thường các kinh ghi chư Phật nói pháp đồng nhau,
chân lý chỉ có một. Nhưng ở đây,
thuyết pháp không giống nhau mà
tác động cho
đồng nữ chứng được
Bát Nhã môn.
Bát Nhã môn nghĩa là
trí tuệ đồng nhất,
quan sát được tất cả, nhưng thu lại chỉ có một, nên ngoài
Như Lai tạng tâm không thể có được.
Đồng nữ dạy
Bồ tát hạnh cho
Thiện Tài bằng một câu nói
đơn giản : Hãy
quán sát cung điện
trang nghiêm của ta, nghĩa là chỉ cần nhìn
đồng nữ, nhìn cột, đèn, vách tường... trong cung điện của Từ Hạnh thì đó là
Bồ tát đạo. Điều này nhằm chỉ
Bồ tát đạo là
tích lũy công đức nhiều đời.
Từ Hạnh tuy là cô bé nhưng được người trong
thành kính trọng nhất vì đã
tích lũy phước đức,
trí tuệ từ bao đời.
Học đạo là nhìn thấy được điều ấy, đừng nhìn những thứ khác. Như có người muốn biết tôi làm gì để thành
pháp sư, phải nhìn quá trình tôi
tu học từ nhỏ
đến nay.
Nhìn
thành quả của người biết được họ thiện hay ác, phước hay tội, đó là bài học thật. Có người dại khờ khuyên người khác làm đủ thứ, nhưng tự xét
thân phận mình có làm được hay không.
Thiết nghĩ lời khuyên thiết thực, đúng nhất là
chúng ta tự làm và có kết quả tốt.
Bài
thuyết pháp của Từ Hạnh chính là cuộc sống của
đồng nữ được người
quý trọng và vật
sở hữu được
trang nghiêm bằng báu vật, bằng
công đức.
Lòng từ bi của
đồng nữ ẩn chứa trong tâm,
thể hiện thành
hảo tướng bên ngoài cùng đền đài cung điện và người đến được an vui.
Con người như
vậy thì sự nghiệp vaø
quyến thuộc phải như vậy, đó là
chân lý, nhìn vô biết liền, khỏi cần nói dài dòng. Pháp này trong Thiền gọi là
vô ngôn.
Chúng ta quán sát thấy được như vậy, từ đó tự
xây dựng cho mình
một thế giới.
Từ Hạnh và
Thiện Tài, cả hai người còn nguyên
bản chất tốt đẹp thanh tịnh, chưa bị
nhiễm ô.
Vì vậy chỉ
duy nhất có
Thiện Tài tham quan được
pháp giới và bước vào cung điện Tỳ
Lô Giá Na, thấy được những điều bất tư nghì, tức
thế giới quan
đặc biệt khác với
thế giới suy nghĩ biết được theo
căn trần thức.
Những gì Từ Hạnh
chứng đắc thì
Thiện Tài cũng ghi được đầy đủ trong tâm, mở ra có đủ
pháp giới của 36 ức
hằng hà sa Phật
diễn thuyết, nhưng thu lại chỉ có một
điểm tâm,
thể hiện tinh thần Hoa Nghiêm : Một là tất cả, tất cả ở trong một.
Thiện Tài hỏi Từ Hạnh còn pháp gì khác không.
Đồng nữ trả lời rằng Ngài
trải qua 36 ức
hằng hà sa Phật mới chứng được một pháp ấy. Còn
Thiện Tài mới tham quan đã được, thật đáng phục và chỉ
Thiện Tài nên
tiếp tục đi
tham học nơi khác.
Theo
tinh thần Hoa Nghiêm, thầy gặp học trò giỏi,
dễ thương, thì truyền hết sở học, không dấu nghề; nhưng dạy xong không kìm giữ ở lại với mình, chỉ họ
tiếp tục con đường tiến thân. Về phần học trò tìm được nơi
sang trọng,
sung sướng thì không
khởi tâm tham đắm. Nghĩ chùa đẹp, ở lại là đọa.
Quán sát biết được ai là chủ, nhìn thấy được
thực chất của ta đang
cầu đạo, thì phải
tiếp tục đi
tham học.
11- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Thiện Kiến Tỳ Kheo.
Sau khi học được pháp
quán sát thấy đúng
như thật với Từ Hạnh,
Thiện Tài được
đồng nữ chỉ đến phương Nam tìm thầy khả kính để theo
tu học, đó là
Tỳ kheo Thiện Kiến. Tuy còn trẻ, vị này đã
thâm nhập Phật pháp rất sâu.
Ý này gợi
chúng ta suy nghĩ trên
thực tế, người ta thường tìm thầy lớn tuổi để học
kinh nghiệm của họ. Nhưng theo
tinh thần Đại thừa, rất sợ
kinh nghiệm. Thật ra,
kinh nghiệm hiểu biết của các vị lớn tuổi cũng cần cho
chúng ta ở giai đoạn đầu.
Tuy nhiên,
kinh nghiệm thường làm
chúng ta e dè,
nghi ngại, không
khám phá được
chân lý. Vì sẵn có
kinh nghiệm, thường theo đó mà
giải quyết. Và khi giải
vấn đề thực tế theo
kinh nghiệm của người xưa, thì không thể đúng vì
hoàn cảnh khác, người khác,
thời gian khác, không còn
thích hợp.
Tôi
để ý thấy ngườiù nhiều
kinh nghiệm thường ít dám làm, nên không
khám phá ra điều mới lạ, không thành
Thiền sư được vì Thiền đòi hỏi
chúng ta hành sử bằng
trực giác gọi là
hốt nhiên đại ngộ, không phải rơi vào khung
kinh nghiệm thuộc về thức.
Trên bước đường tu, tôi
suy nghĩ nhiều càng
nặng đầu mà
không giải quyết được
vấn đề. Nhưng không
suy nghĩ,
bất giác giải đáp tự
xuất hiện, tôi
nhận ra Bát Nhã ba la mật đa đến lúc nào thì đáp án tự
bung ra, cho
chúng ta hiểu biết vượt hơn
suy nghĩ bình thường.
Chúng ta học đạo với
Thiền sư là học điều đó.
Ở đây,
Thiện Tài tìm thầy
Tỳ kheo trẻ để học
trực giác bung ra từ chơn tánh.
Thiện Kiến Tỳ kheo tuy sống ở
núi rừng,
tướng hảo quang minh không mất; sống
khổ hạnh nhưng không giống những người
khổ hạnh khác.
Kinh
diễn tả Tỳ kheo trẻ
Thiện Kiến, ngầm chỉ
Đức Phật Thích Ca. Từ khi còn là vị
Sa môn trẻ, Ngài đã khuyên
vua Ba Tư Nặc không nên giết
súc vật để tế thần. Lời dạy của Ngài phát xuất từ
thể đại bi, từ
chơn tâm đã
tác động khiến vua
thức tỉnh và khẩn khoản xin Ngài
đắc đạo thì nhớ
trở lại độ ông.
Từ Hạnh
giới thiệu Thiện Tài đến
học đạo với
Tỳ kheo trẻ đầy đủ
tướng hảo.
Tướng hảo là kết tinh
công đức tu hành từ bao đời, không phải mới tu mà được. Nhìn thấy
Tỳ kheo Thiện Kiến dung mạo xinh đẹp, mắt sáng, có
vô kiến đảnh tướng,
bạch hào tướng và ngưïc có chữ Vạn. Đó là ba
phước tướng của bậc
đại nhân, từ
địa vị Chuyển luân thánh vương trở lên mới có.
Tướng chữ Vạn hay
kiết tường tướng
tiêu biểu cho
tâm từ bi
trọn vẹn, chỉ dùng đức cảm hoá người khiến họ phục tuøng.
Bạch hào tướng là
trí tuệ vượt trội hơn người, mới có thể
lãnh đạo, người không dám trái ý.
Vô kiến đảnh tướng
tiêu biểu cho đức tướng, tuy giỏi hơn người nhưng vẫn khiêm cung với tất cả, người
cảm phục mới theo.
Học
Đại thừa,
chúng ta không căn cứ trên tuổi tác, tu lâu hay mới tu; nhưng
căn cứ vào đức hạnh,
hiểu biết,
lòng từ bi của họ để theo học. Vì cầu học là cầu ba điều ấy, nên phải tìm người có
ba tướng phước đó.
Đức Phật dạy có 3 cách định
vị trí cao thấp của
con người như sau : Cách thứ
nhất tính theo
thời gian, lấy tuổi tác và
thời gian để định thứ vị, ai lớn tuổi hoặc tu lâu là đàn anh, nhỏ tuổi hoặc tu sau thuộc hàng con cháu. Tính như thế thì Ngài
Kiều Trần Như đứng đầu.
Nhưng cách tính như vậy không ổn vì có người thắc mắc hỏi Phật rằng mặc dù lớn tuổi hay tu lâu nhưng tánh tình, hành động của họ không có gì đáng làm gương thì sao.
Đức Phật cho biết cách định vị như vậy chỉ nhằm
thuận theo thế gian mà thôi.
Tiến bộ hơn là cách tính thứ hai, cũng lấy
thời gian tu và tuổi tác để định vị, nhưng phải xét thêm về
hiểu biết và
đạo đức của người ấy. Tu lâu nhưng
căn tánh ám độn, không có
đạo đức thì cũng phải đứng sau. Với cách tính này thì
Xá Lợi Phất đứng đầu vì Ngài là
trí tuệ bậc nhất.
Trí tuệ chỉ đạo cho hành động và hành động có kết quả
lợi ích, nên người đứng
kế tiếp là
Mục Kiền Liên. Như vậy, ai
thông minh và
đạo đức là người lớn, không có hai đặc tánh này là nhỏ.
Đến cách tính thứ ba
dựa trên tộc tánh, tức
dòng họ. Nếu
xuất thân từ vua chúa, dù họ mới vào đạo, cũng có được
vị trí Thươïng tọa. Điều này
dễ hiểu vì ở ngoài đời họ có
địa vị quan trọng, vào chùa tu bắt quét lá đa thì ai chịu tu.
Trường hợp một, tính đủ tuổi đời,
tuổi đạo thì làm
Thượng tọa.
Trường hợp hai, xét
căn tánh thông minh và
đạo hạnh tốt, làm được việc thì dù tuổi còn trẻ cũng được phong
Thượng tọa.
Thực tế cho thấy cách xét trên
năng lực làm việc và sức
thuyết phục hơn người, thì
xưa kia tông
Trúc Lâm của
Phật giáo Việt Nam đã từng
sử dụng. Vua
Trần Nhân Tông trước khi
viên tịch mời Trần Anh Tông đến và trao
y bát cho
Pháp Loa, mới 24 tuổi. Đây là
trường hợp thuộc về ngộ tánh
Thượng tọa, nghĩa là mặc dù tuổi nhỏ, nhưng đã
đắc đạo, tánh sáng bên trong đã
hiển lộ.
Chúng ta cầu đạo, phải tìm học với những người ngộ tánh, hoặc người có
trí tuệ,
đạo hạnh, không phải học với tuổi tác hay số năm tu
thâm niên của họ. Vì họ
ngộ đạo, hay có
trí tuệ,
giải thoát,
đạo đức,
chúng ta thân cận,
tu học dễ cảm nhận
an lành kỳ diệu.
Trái lại, họ dạy nhiều, nhưng không xoá được
phiền não cho ta thì chẳng
ích lợi gì.
Thiện Tài đến gặp
Thiện Kiến Tỳ kheo đang
đi kinh hành trong rừng. Nhờ sở đắc
tu chứng được từ khi
học đạo với Từ Hạnh ở giai đoạn trước, nên thấy
Thiện Kiến khác hẳn các thầy tu khác.
Đã vào Tỳ
Lô Giá Na lâu các thì
Thiện Tài có đôi mắt sáng, thấy
Thiện Kiến là vị
chân tu thạc đức, có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, tay chân đều có
kim cang luân... Vì theo
tinh thần Hoa Nghiêm,
thâm nhập Tỳ
Lô Giá Na rồi, thấy vật ở dạng thể và muôn vật đều đồng
một thể, nên tất cả đều là Phật, không có gì không phải là Phật mơùi là Phật.
Thiện Kiến mang danh xưng như vậy vì Ngài thấy 36 ức
hằng hà sa Phật rõ hơn
Thiện Tài thấy.
Trong một niệm tâm của Ngài chứa đủ tất cả, tất cả đều
hiện tiền trong một niệm. Mỗi niệm có đủ 36 ức
hằng sa Phật, mỗi
Phật giáo hóa bao nhiêu
chúng sanh Ngài đều thấy rõ. Trong khi
Thiện Tài chỉ thấy Phật, không dám thấy
chúng sanh, vì thấy
chúng sanh thì
phiền não.
Thiện Kiến thấy Phật và
chúng sanh với tất cả
căn tánh hành nghiệp sai biệt một cách
chính xác, không
sai lầm. Thấy có
chúng sanh thì mới đặt
vấn đề giáo hóa chúng sanh.
12 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Tự Tại Chủ Đồng Tử
Theo
tinh thần Đại thừa, không
căn cứ vào một đời hieän tại, phải xét đến 3 đời hay nhiều đời trước để
nhận xét con người. Việc
phân chia người lớn hay nhỏ trong
một đời không đúng hẳn. Có thể đời này họ nhỏ vì mới
tái sanh lại, nhưng
thực chất đã có quá trình
tu hành từ nhiều đời, nên tuy tuổi nhỏ mà
đạo lực và
trí tuệ họ lớn.
Đại thừa căn cứ vào phước đức,
trí tuệ để định vị lớn nhỏ.
Theo
tinh thần ấy,
Thiện Tài cầu đạo, tìm học với người giỏi, có
đức hạnh, không
phân biệt tuổi tác.
Thiện Tài đến
học đạo với cô bé Từ Hạnh về khả năng
giáo hóa và học với
Tỳ kheo Thiện Kiến, tuy trẻ nhưng
hiểu biết vượt hơn
mọi người.
Thiện Kiến lại chỉ ông đến
Tự Tại Chủ
đồng tử là cậu bé còn bốc cát chơi, nhưng có
hiểu biết mà
Thiện Kiến chưa
đạt được.
Tự Tại Chủ
đồng tử đang chơi cát với các trẻ khác, nhưng dưới mắt
Bồ tát cầu đạo thấy đây là
Bồ tát lớn. Người thường chơi cát thì không
đáng kể, trong khi
Bồ tát cũng làm như vậy lại thành quan trọng.
Tự Tại Chủ
đồng tử nhờ học toán pháp với
Văn Thù Sư Lợi, tức pháp toán của
Bồ tát, tính biết được
pháp giới, biết
trên trời có bao nhiêu vì sao, trong biển
sanh tử này có bao nhiêu
chúng sanh và tánh
thiện ác của họ, bao nhiêu người
đau khổ mà ông
cứu độ được. Từ Tỳ
Lô Giá Na tâm mà lần ra ngoài,
Tự Tại đồng tử biết được tất cả. Tu trong
Như Lai tạng tâm nhưng biết được ngoài
trần thế, hành sưû
tốt đẹp trên
cuộc đời, đó là
việc làm của
Bồ tát.
Từ sở đắc toán pháp của
Bồ tát Văn Thù và
ngộ nhập nhất thiết công xảo
thần thông trí
pháp môn,
Tự Tại Chủ
đồng tử hiện thân hành đạo biết tất cả,
giải đáp dễ dàng những bài toán khó của
con người.
Tự Tại Chủ
đồng tử cũng khéo kinh doanh, tính toán không
sai lầm, biết rõ khả năng từng người
hợp tác nên phân bổ
việc làm chính xác.
Ngoài ra,
đồng tử cũng tính toán được caáu tạo hệ
thần kinh từng người, theo đó người nào đáng dùng pháp
Thanh văn hay
Duyên giác thừa hoặc đáng nhập
nhất thiết trí địa. Vì biết rõ
nguyên nhân gây bệnh nên chế thuốc cho
mọi người sử dụng đều
lành mạnh. Tóm laïi, từ toán pháp của
Bồ tát mà
đồng tử Tự Tại hình thành ra
vũ trụ quan.Tự Tại Chủ
đồng tử còn nhỏ nhưng biết nhiều.
Tri thức này không do học, không do
suy nghĩ, cũng không do
kinh nghiệm có được. Cái biết do
kinh nghiệm là của
thế gian. Theo Phật dạy,
chúng ta chỉ tạm dùng nó, vì cái biết ấy thuộc
phiền não, không giúp
chúng ta giải thoát. Biết do
suy nghĩ là biết của
nhận thức, khi đúng khi sai vì còn bị tình cảm và
tham vọng chi phối.
Nhận thức thế gian hay
hiểu biết của người khôn
bằng kinh nghiệm và
suy luận không
bảo đảm đúng.
Chúng ta bình tâm thấy rõ trên
thực tế, có người
chúng ta đánh giá họ dở hoặc còn nhỏ sẽ không được việc, nhưng kết quả họ lại
thành công.
Nhận thức chúng ta cần có trên bước đường tu là
trực giác,
tiêu biểu bằng
hình ảnh Tự Tại Chủ
đồng tử còn bốc cát chơi, không biết gì. Không biết nghĩa là không biết bằng thức, nhưng biết bằng tâm.
Đức Phật mượn
Tự Tại Chủ
đồng tử để nhắc nhở
chúng ta dẹp bỏ suy luận,
trở về chơn tâm, mới gặp
chân lý.
Trên bước đường tu, tôi
nhận ra ý này. Có lúc lắng lòng,
trở về trạng thái không
suy nghĩ thì bất chợt lóe lên được
tia sáng đúng. Nhiều khi
suy nghĩ thì lại thấy khác và làm theo
kinh nghiệm, thường sai hơn là đúng.
Tuy nhiên, quý vị đừng lầm rằng làm không
suy nghĩ với làm càn.
Tĩnh tâm, quên tất cả và làm theo điều gì loùe lên trong lòng ta, tức theo
trực giác thường đúng nhiều hơn.
Qua pháp Phật dạy cho
Tự Tại Chủ
đồng tử,
chúng ta không dùng
thủ đoạn, không mong cầu. Cái gì đến tự đến, quả chín tự chín,
chúng ta ép nó phải như thế này hay như thế khác sẽ bị
phản ứng. Cần
trở về với chính mình, sống với
tâm hồn bình ổn nhất, bằng
trực giác thấy được
chuyển biến mà hành động.
13 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Cụ Túc Ưu Bà Di.
Tự Tại Chủ
đồng tử nói ông chỉ biết như vậy, nếu muốn
tiếp tục học thì nên đến với
Cụ Túc Ưu bà di.
Ưu bà di này sống trong thành
Thiện Trụ mới có tâm
bất động.
Thiện trụ tức khéo tìm pháp để
chúng ta an trụ.
Đức Phật khuyên
chúng ta trên bước đường tu, muốn có kết quả tốt phải nương pháp Phật. Chọn pháp mà
chúng ta ưa thích để
hành trì thì tâm mới
yên tịnh được, vì rời xa pháp vào
cuộc đời,
chắc chắn sẽ bị đời làm
ô nhiễm.
Đức Phật có hai pháp : pháp
phương tiện và
pháp chân thật. Người mới
phát tâm tu, nên an trụ pháp
phương tiện, tức
tùy duyên, ở đâu
tùy thuận chỗ đó thì cũng có thể
trở thành vô động, đòi hỏi khác thì
chắc chắn gặp
phiền toái không nhỏ.
Riêng tôi, sang Pháp
giảng kinh, luôn ghi nhớ ý này.
Ý thức rằng mình đang làm đạo ở chùa
Trúc Lâm Paris, không phải là chùa Aán Quang hay
Xá Lợi thì phải trụ pháp
phương tiện và
tùy duyên làm đạo. Từ đó, tôi
quán sát xem
yêu cầu của
chư Tăng và
tín đồ Phật tử nơi đây như thế nào, rồi theo đó mà hành xử. Không nương theo
phương tiện, khó lòng
được giải thoát.
Thiện Tài vào nhà
Cụ Túc, thấy
Ưu bà di này
oai đức quang minh, trừ Phật và
đại Bồ tát, không ai bằng được.
Thiện Tài quan sát thấy nhà của Ngài
hoàn toàn trống không, tất cả đồ vật
cần dùng trong cuộc sống đều không có, trong khi tôn xưng của Ngài lại là
Cụ Túc, tức đầy đủ.
Cụ Túc ngồi treân toà báu, tuổi lớn, nhưng
xinh đẹp đoan trang.
Trước mặt Ngài chỉ có một cái bát nhỏ. Lại có 10.000
đồng nữ xinh đẹp đoan chánh như
thiên nữ vây quanh. Các
đồng nữ này đồng hạnh với Ngài,
thường thân cận, cúi đầu khom mình chờ Ngài
sai khiến. Nơi thân các
đồng nữ toả ra mùi hương, ai ngửi thấy đều được
bất thối chuyển, hết giận, hết buồn. Người thấy thân họ đều lìa
tham nhiễm, nghe tiếng họ thì đều
vui mừng.
Cụ Túc không
sở hữu tài saûn gì, chỉ có một cái bát nhỏ, nhưng từ nơi bát ấy, Ngài có thể ban phát cho
chúng sanh tất cả thứ mà họ
ưa thích.
Vô số người tu hạnh
Thanh văn trong
vi trần số thế giới, nếu dùng
thức ăn trong bát của Ngài thì đều
chứng quả A la hán, người tu
Duyên giác thì chứng
Bích Chi Phật và người
tu Bồ tát hạnh thì
thành Đẳng Chánh giác.
Quan sát dưới dạng
bản tâm thanh tịnh mới thấy được
hành đạo bất khả tư nghì của
Cụ Túc và
quyến thuộc của Ngài. Điều này gợi nhắc
chúng ta muốn hiểu được người như thế nào, cần
quan sát cuộc sống của họ và của người
xung quanh liên hệ đến họ. Có người nói đủ thứ, nhưng
chúng ta thấy cuộc sống họ không ra chi,
quyến thuộc hoï lụn bại, khổ đau thì không nên nghe theo.
Trên bước đường tu, tất cả những gì
dễ thương,
phước báo hiện ra trên
thân tướng, trong cuộc sống của người. Phải biết đó là kết quả của
tâm lượng bên trong mà
hiện thành bên ngoài là
phước tướng, cuộc sống và
quyến thuộc tốt lành.
Chánh báo,
y báo của
Cụ Túc Ưu bà di tạo thành
một thế giới quan đặc thù như vậy khiến cho
Thiện Tài thắc mắc.
Cụ Túc cho biết Ngài
được giải thoát Bồ tát vô tận công đức tạng mới có khả
năng hành đạo,
đáp ứng yêu cầu của
chúng sanh một cách
tự tại như vậy, tức phải
trải qua quá trình tu. Ai cũng tốt, nhưng vì ta chưa tốt đối với họ, nên thường
chiêu cảm quả báo xấu.
Trước tiên, ta phải tự tịnh hoá
nội tâm, mới có cái nhìn
chính xác. Lắng sâu
tâm hồn để
kiểm tra hành vi tạo tác của ta,
cố ý làm khổ người thì không có, nhưng làm sao ta
tránh khỏi vô tình làm
mất lòng người.
Trên bước đường tu, phải học với Từ Hạnh
đồng nữ,
phát tâm từ
đi vào đời, luôn
tâm niệm hiện hữu của ta chỉ nhằm làm
vui lòng người. Khi chưa làm được như vậy là ta đã có lỗi, lòng ta không
trong sạch nên
hiện thân nghiệp chươùng khiến người trông thấy phải
buồn bực.
Ý thức sâu sắc điều ấy, ta
nỗ lực tu để xoá
dư nghiệp.
Cụ Túc Ưu bà di cũng khởi tu từ chỗ này,
sửa đổi ba nghiệp trải qua 36 ức
hằng hà sa Phật. Mỗi
một đời theo Phật, làm được một số việc tốt cho một số người. Và cứ như thế, trong khắp
pháp giới, không có chỗ nào Ngài không
xả thân hành đạo. Từ đó mới kết
thành quả báo hiện đời, chỉ trong một cái bát nhỏ mà có
đủ sức cung cấp cho tất cả
chúng sanh, bằng
từ tâm thông được mọi loài. Ai có
nhân duyên căn lành thì tự tìm đến, tập họp được
vô số quyến thuộc đồng hạnh đồng nguyện với Ngài.
Khi
Cụ Túc nghĩ mời 10.000
thiên nữ đến, họ liền có mặt và khi nghĩ có
vô số chúng sanh đến thọ thực, họ cũng đến đủ, hình dạng của họ không giống nhau nhưng
sở cầu đều
mãn nguyện.
Trong nhà
Cụ Túc chỉ có một
bình bát, nhưng cần thì
biến thành đầy đủ vật cho mọi loại khác nhau. Ý này giống như có
tính cách phù phép
ma thuật, dễ gây
hiểu lầm là
mê tín dị đoan. Đối với
vấn đề pháp thuật, thường được gọi là
thần thông,
chúng ta đều biết
Đức Phật luôn cấm kỵ. Mặc dù
Đức Phật sở đắc
vô số thaàn thông, nhưng Ngài không bao giờ dạy
đệ tử sử dụng nó, vì tà thuật dễ luyện, nhưng không phải là
chánh đạo.
Đức Phật e ngại
chúng ta còn đầy tham
sân phiền não, dễ rớt vào
con đường tội lỗi, nên Ngài ngăn cấm tập
luyện ma thuật.
Đức Phật dạy
chúng ta việc
chính yếu là
rèn luyện nhân cách
trở thành cao thượng trong
loài người. Trước nhất,
cần phải phát huy
lòng từ bi,
gánh vác khổ đau và mang niềm vui cho người.
Ngoài ra,
chúng ta phải phát triển
trí tuệ, tức sự
hiểu biết càng rộng càng tốt, mới có thể
cải thiện đời sống cho người. Việc thứ ba là trang bi
dũng lực, gặp việc đáng làm dù khó khăn nguy hiểm đến
bản thân, ta cũng không từ chối. Đoù là 3 đức tính mà hàng
đệ tử Phật phải
trang nghiêm thân tâm, còn
ma thuật thần thông không có
giá trị bền chắc và càng
tu luyện nó,
chúng ta càng rời xa
chánh đạo.
Khả năng
đáp ứng yêu cầu của
chúng sanh do
Cụ Túc Ưu bà di thi thố không phải thuộc về tà thuật.
Trái lại, đó là một pháp Phật dạy mang
ý nghĩa sâu xa mà Phật phải dùng
thí dụ nhân duyên để
diễn tả cho
chúng ta hiểu.
Cụ Túc có
thần biến và khả năng làm được như vậy vì đã
trải qua nhiều đời trồng căn lành, tu cội phúc, mới kết
thành quả báo bất tư nghì.
Thật vậy,
công đức của
Cụ Túc quá rộng lớn, đầy đủ, nên tuy không chứa nhóm
của cải mà
tài sản có đầy trong
pháp giới. Trải
vô lượng kiếp, Ngài đã dùng toán pháp của
Bồ tát để
giáo hóa chúng sanh,
mang đến cho họ
tri thức và
của cải vật chất.
Ân đức giáo hoá của Ngài
gieo rắc tình cảm
tốt đẹp trong lòng họ,
tác động họ
trở thành pháp lưõ đồng hạnh. Họ luôn
mong mỏi được Ngài giao việc để họ
trả ơn giáo dưỡng, thì tất nhiên
phương tiện cần có để
giáo hoá dù lớn bao nhiêu cũng
đủ sức cung ứng vậy.
Điều này hiểu theo
thời đại ngày nay,
chúng ta thấy có nhiều nhà
từ thiện trên
thế giới không có tiền riêng.
Tiền của họ gởi cho
chúng sanh trong khắp
mười phương là do
công đức đã tu
Bồ tát đạo, hành 6
pháp ba la mật nhiều đời.
Khởi đầu của tu
lục độ là trồng căn lành ở các
Đức Phật, nghĩa là làm
lợi ích cho
chúng sanh.
Trải qua vô số kiếp, họ đã giáo dưỡng cho người
phát tâm bồ đề,
trở thành người tốt, có
phước đức,
trí tuệ,
đào tạo được những
nhà trí thức,
trưởng giả,
quốc vương khắp
thế giới.
Vì vậy, tuy không nắm giữ tiền, nhưng
tiền của họ ở khắp
mười phương. Những người
giàu có,
quyền thế, nói chung không biết bao nhiêu người trên
thế gian được họ cứu vớt, giúp đỡ, nghe thấy nhà
từ thiện định làm việc gì thì
hết lòng tùy hỷ, đóng góp. Nhờ vậy, họ
sử dụng được số tiền nhiều
không tưởng nổi,
sự nghiệp của họ không ai bằng, dù thực sự họ không có tiền.
Cụ Túc Ưu bà di có một vạn
quyến thuộc đồng hạnh, gợi
chúng ta thấy điều này ít có trên
thực tế. Phần nhiều người
quản lý hay buộc người khác làm theo, nên họ
buồn phiền và ít
hợp tác lâu dài. Nhất là trong giới
phụ nữ, hiếm khi
thương yêu tin tưởng nhau thực sự.
Ưu bà di chỉ có một
bình bát thôi, nhưng được coi là
Cụ Túc, tức đầy đủ tất cả. Đó là điều
chúng ta cần học,
thực tế thường cho thấy nhiều người có
tài sản lớn, nhưng phải khổ sở vì giữ của.
Cụ Túc thì chỉ cần một
bình bát mà dư đủ, vì những gì làm được trong hạnh
Bồ tát, Ngài gom lại để trong một
bình bát. Người nào có
nhân duyên căn lành với Ngài, đến
học đạo, không đòi hỏi, không mong cầu, nên
tranh chấp không xảy ra,
tìm thấy an lành trong cuộc sống,
tri thức tự thăng hoa, cứ như
vậy mà họ
đi lên, thoả mãn được mọi
yêu cầu .
Trái lại, người có
tham vọng tìm đến, không lấy được một xu, vì chỉ có
bình bát, có thấy gì đâu mà cướp được. Ý này
diễn tả bằng
hình ảnh Cụ Túc lấy trong
bình bát đưa cho người những gì đều đúng mong muốn của họ.
14 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Cư Sĩ Minh Trí.
Thiện Tài học đạo Bồ tát với
Cụ Túc Ưu bà di là vị đắc được môn
giải thoát Bồ tát vô tận tạng công đức,
tài sản không có gì ngoài một
bình bát nhỏ, nhưng từ bát này mà
đáp ứng đầy đủ
yêu cầu của
chúng sanh trong khắp
mười phương.
Cụ Túc dạy
Thiện Tài nên
tiếp tục đi về phương Nam, đến tìm học với
cư sĩ Minh Trí.
Vô lượng chúng sanh trong
mười phương tập trung đến
cầu xin ông,
cư sĩ chỉ ngửa mặt lên
hư không, đọc
thần chú thì mọi thứ
cần dùng của
đại chúng đều từ
trên trời rơi xuống.
Cụ Túc chỉ có một
bình bát mà đựng đồ cho hoài không hết và
Minh Trí chỉ ngửa mặt lên trời xin là
của cải rớt xuống. Hai việc ấy
chúng ta có tin được không và phải hiểu như thế nào ?
Đọc kinh Hoa Nghiêm,
nếu không hiểu
nghĩa lý sâu xa trong kinh,
chúng ta dễ rơi vào
mê tín. Vì
chúng ta chưa
thâm nhập thế giới Phật, chưa biết rõ
thần thông tự tại của Phật, nên khó hiểu, khó thấy được.
Vì vậy,
Đức Phật khuyên
chúng ta nỗ lực tu, phát triển 6
pháp ba la mật sẽ biết được những điều bất tư nghì.
Hiện tại,
chúng ta chưa qua được cánh cửa thứ nhất của
phàm phu thì khó suy lường được ý
chân thật diễn tả trong kinh.
Tuy nhiên, có thể kéo về
thực tế để
chúng ta học được phần nào
ẩn ý trong phẩm này và
ứng dụng trong cuộc sống sẽ nhận được
lợi ích.Khi
diễn tả danh xưng của
cư sĩ Minh Trí,
Đức Phật dụng ý nhắc
chúng ta rằng nếu
đạt trí tuệ
sáng suốt thì sẽ làm được tất cả.
Bồ tát thường dùng haïnh để đặt tên, vì thế có thể hiểu
Minh Trí cầu
trên trời ban xuống, nghĩa là ông phát triển được
trí tuệ ở độ cao nên thấy và khai thác được tất cả kho tàng trong
thiên nhiên mà
cung ứng cho mọi loài đầy đủ.
Theo tôi, hiểu như vậy
hợp lý hơn ở
thời đại chúng ta.
Thực tế cho thấy ta có thể dùng
trí tuệ hướng dẫn cho người sống
hạnh phúc, có đủ
vật chất của cải.
Minh Trí sử dụng trí tuệ, biết giúp người nào mà họ phấn đấu
đi lên mới giúp; không giúp để người
lợi dụng,
thủ tiêu sức phấn đấu và
trở thành người
ăn hại.
15 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Trưởng Giả Pháp Bửu Kế.
Học xong với
Minh Trí,
Thiện Tài tìm đến
trưởng giả Pháp Bửu Kế.
Trưởng giả là người làm ăn đàng hoàng, đã
áp dụng lời Phật dạy trong đời sống và
trở thành người
giàu có.Ông dắt
Thiện Tài vào nhà ông làm bằng
thất bảo, có 10 tầng. Ở vào thời xa xưa, chưa
văn minh mà
hình dung căn nhà 10 tầng hơi khó.
Thiết nghĩ, kinh này
ứng dụng ở
thời đại chúng ta dễ
nhận ra hơn. Nhà
trưởng giả có 10 tầng gợi
chúng ta liên tưởng đến các đại siêu thị ngày nay.
Nhà Pháp Bửu Kế
trưởng giả được thiết kế 10 tầng, tức 10
địa vị tu chứng của
Bồ tát thập địa. Tầng thứ nhất
bố thí thực phẩm, ai cần gì đều được
cấp cho no đủ. Hạnh này ứng với
sơ địa Bồ tát tu hành bố thí là chính,
giải quyết được
đời sống con người.
Tầng thứ hai
bố thí những bửu y. Bửu y hay áo
giới luật, áo
pháp bảo vệ cho người thật
an toàn. Thật vậy, nương
pháp lực của
Bồ tát, cuộc sống của
chúng ta nhẹ nhàng đổi khác, thăng hoa. Tùy
trình độ tới đâu thì
thọ lãnh được
pháp lực của
Bồ tát đến đó.
Tầng thứ hai là
giới pháp tương ưng với
Bồ tát nhị địa
trì giới, dùng
giới pháp hay
pháp y để
che chở giới thân huệ mạng. Đó là vật trang sức đẹp nhất. Về
giới luật của Phật, tùy thân, tùy phaän mà
giữ gìn, tệ nhất giữ được một trong 5
giới cấm cũng đã tốt, vì chỉ giữ một
giới không gian tham trộm cắp đã được người
tin tưởng,
kính trọng.
Từ một giới cũng tốt
cho đến trang nghiêm trọn vẹn 3000
oai nghi. Áo
giới luật là áo
Như Lai có trong toà nhà của
trưởng giả Pháp Bửu Kế. Kiểu áo nào của
Như Lai cũng đẹp hay có thể hiểu rằng
đức hạnh của
con người toàn thiện toàn mỹ thì ở khía cạnh nào cũng có
tướng hảo.
Tầng thứ 3 và thứ 4,
Bồ tát tu hạnh
tinh tấn và
nhẫn nhục. Vào đó,
chúng ta thấy
mọi người sống hài hoà
với nhau,
thể hiện pháp Phật dạy là
đồng sự. Tất cả người đồng nhất qua hạnh của
trưởng giả Pháp Bửu Kế, mỗi người
tùy thời, tùy phận mà tự tìm việc để làm. Sống ở đó ai cũng như ai, không hề có
ý niệm nhân ngã bỉ thử, tốt xấu, sang hèn.
4 tầng này nằm trong
tứ sanh lục đạo, là 4 tầng thấp mà Pháp Bửu Kế nhắm vô dạy
con người. Lên tầng thứ 5,
mọi người đều sống trong
Thiền định, đồng ngồi một chỗ, nhưng
ảnh hưởng qua
lục đạo tứ sanh.
Bồ tát đệ ngũ địa đắc định mới qua được tầng này.
Đến tầng thứ sáu,
Bồ tát sống với
trí tuệ, kinh ghi
Bồ tát lục địa tu
Bát nhã ba la mật, mỗi người biết được một pháp. Tất cả tập họp trong nhà Pháp Bửu Kế
cùng chung luận bàn. Đi lần đến
thập địa, thì thấy
mười phương chư Phật thường nhóm họp.
Trên bước đường tu, tùy
trình độ của ta đến mức nào thì tự động vào tầng đó tham quan. Khi ta còn cần
thức ăn, áo mặc thì không tài nào lên tầng thứ năm của nhà Pháp Bửu Kế được.
Pháp Bửu Kế
cho biết ông
thành tựu như vậy vì
vô lượng kiếp quá khứ, có Phật
Vô biên Quang minh Pháp giới
Phổ trang nghiêm Vương Như Lai. Ông đã đốt một nén hương
cúng dường Đức Phật này và
phát nguyện có đủ
của báu, thường gặp Phật, hằng nghe
chánh pháp.
Chúng ta cần
hiểu ý nghĩa cúng hương như thế nào mà chỉ có một nén hương lại
thành tựu pháp
vô cùng lớn như vậy.
Hương dù
quý báu như hương
chiên đàn,
trầm thủy... nhưng không có
tâm hương dâng cúng cũng không thành pháp.
Trưởng giả Pháp Bửu Kế đốt nén
tâm hương dâng Phật,
tiêu biểu cho
lòng tốt, hành động tốt của ông,
tác động cho người có
cảm tình với ông và
phát tâm bồ đề. Đó mới là
tối thượng cúng dường chư Phật.
Tâm hương gồm :
giới hương,
định hương, huệ hương,
giải thoát,
giải thoát tri kiến hương. Trước nhất,
đệ tử Phật là người
trong sạch,
tốt lành. Đem dâng
cúng Phật tâm
trong sạch và hành động
tốt đẹp của mình gọi là đốt
giới hương.
Kế đến, tâm ý tập trung, không nghĩ
tán loạn,
thể hiện ra
thân tướng giải thoát, cuộc sống định tĩnh. Dùng
định hương ấy dâng cúng. Nhờ tâm
an định,
trí tuệ phát sanh, làm
lợi ích cho người, khiến người
kính trọng Tam Bảo,
sử dụng được huệ hương.
Sau cùng đốt lên giaûi thoát,
giải thoát tri kiến hương, nghĩa là trong cuộc sống, làm được
mọi việc khó mà lòng không vướng bận một mảy trần, được
tự tại trong mọi tình huống. Và dùng
tri kiến của
chánh pháp để
hàng phục tà ma ngoại đạo, đưa họ
trở về con đường thánh thiện,
giải thoát.
Trưởng giả Pháp Bửu Kế có khả năng
cúng dường tâm hương như vậy mới có sức thu hút, cảm hoá
mọi người thâm nhập vào 10 tầng của nhà
Bồ tát đạo.
16 - Thiện Tài Cầu Đạo Với Trưởng Giả Phổ Nhãn.
Sau khi vào nhà 10 tầng của
trưởng giả Pháp Bửu Kế để
học đạo Bồ tát,
Thiện Tài lễ tạ ra đi về phương Nam đến thành
Phổ Môn, học với
trưởng giả Phổ Nhãn.
Phổ Nhãn là
bác sĩ dùng
phương pháp chữa bịnh
hoàn toàn khác với thầy thuốc thông thường.
Với danh xưng là
Phổ Nhãn, Ngài có đôi mắt
quan sát, biết rõ tất cả bệnh của
chúng sanh mười phương. Nơi nào có người
bệnh khổ, đau buồn thì Ngài đến chữa trị cho họ được
lành mạnh. Lại
ban cho họ đồ ăn
thức uống,
y phục đẹp, đồ trang sức,
cho đến vàng bạc, tất cả được đầy đủ. Họ mang trọng ơn Ngài đã
cứu mạng sống,
nuôi dưỡng và nhân đó, Ngài tùy
hoàn cảnh thuyết pháp giáo hoá. Vì người
tham dục nhiều, Ngài dạy họ
quán bất tịnh. Vì người
sân hận nhiều, dạy họ
quán từ bi. Vì người
ngu si nhiều, dạy họ
phân biệt các
pháp tướng. Vì muốn họ
tăng trưởng công đức, nên
tán thán tu tập vô lượng phước trí. Vì muốn họ thân
rốt ráo thanh tịnh vi diệu, nên
tán dương lìa hẳn tất cả pháp
bất thiện....
Cách
hành đạo của
Phổ Nhãn rất
thực tế, vì người đói thì không thể
nghe pháp được. Ý này trong dân gian thường nói là "Có thực mới vực được đạo". Người bị bịnh hoành hành cũng khó mà lắng tâm
nghe pháp.
Trưởng giả giải quyết đời sống vật chất đầy đủ cho người và chăm lo sức khoẻ của họ tốt rồi, từng bước
xây dựng họ phát triển. Noùi chung
trưởng giả đi khắp nơi để
giải quyết tất cả
vấn đề, chữa lành được
thân bịnh cũng như tâm bịnh của
chúng sanh, nên họ rất
hoan hỷ.
Trưởng giả nói với
Thiện Tài rằng Ngài chỉ biết
pháp môn làm cho tất cả
chúng sanh thấy chư Phật
hoan hỷ và dạy
Thiện Tài tiếp tục cầu học với vua Vô Yểm Túc.
17 - Thiện Tài Cầu Đạo Với Vua Vô Yếm Túc.
Vua này tàn nhẫn, đặt nhiều hình phạt
trừng trị nặng nề, là vua hung ác thì
học đạo với họ là học gì. Và nếu nghĩ
học đạo Bồ tát tức
cứu nhân độ thế, nhưng ông này
sử dụng hình phạt cực ác,
kinh khủng như móc mắt, xẻo tai, lột da,
hành hạ người
đau khổ cùng cực, làm sao có đạo
Bồ tát để học.
Thiết nghĩ,
chúng ta phải
quan sát xem
tội ác mà vua hành hình phạm nhân là thật hay giả. Nếu làm ác thật, vua Vô Yểm Túc cũng phải bị lật đổ và chết
thảm thương như việc ông đã làm.
Thực tế lịch sử đã
chứng minh điều này.
Chúng ta thấy rõ các nhà
độc tài trên
thế giới làm ác phải
lãnh thọ quả báo ác.
Quy luật này không trừ bất cứ ai.
Tuy nhiên, riêng đối với vua Vô Yểm Túc, không phải như vậy.
Thông thường, người có căn lành không thích gần gũi người ác vì thấy việc ác thì đau nhói trong lòng. Ở đây, kinh
diễn tả là
Thiện Tài phát tâm đại bi cứu hộ chúng sanh mà lại thấy Vô Yểm Túc bức hại
chúng sanh cho đến chết, khiến
Thiện Tài hoảng sợ, định bỏ đi.
Đây là lần thứ hai ta thấy
Thiện Tài chùn bước. Lđần thứ nhất gặp Thắng Nhiệt
Bà la môn bảo trèo lên
núi đao, nhảy vào hầm lửa,
Thiện Tài hoảng sợ. Nhưng
nhận ra thâm ý mà
thiện tri thức muốn dạy rằng không dấn thân vaøo đường hiểm
sanh tử làm sao cứu vớt
chúng sanh.
Thiện Tài liền
phát tâm cầu đạo không tiếc
thân mạng.
Vượt được chặng thứ nhất rồi,
Thiện Tài tự nghĩ chẳng lẽ học với người ác là
Bồ tát hạnh hay sao. Lần này ông lại nghe
chư Thiên nhắc nhở rằng : "Phải tin
thiện tri thức,
trưởng giả Phổ Nhãn không nói sai đâu.
Bồ tát pháp không thể hiểu được, đừng
suy nghĩ, đừng
đánh giá, dễ
sai lầm."
Trên bước đường tu,
chúng ta hiểu
Hoa Nghiêm là hiểu từ
tự tánh, trong lòng ta
cân nhắc,
cảnh tỉnh, chứ không phải gặp
chư Thiên thật.
Thiện Tài nghe
chư Thiên nhắc, nghĩa là từ
bản tánh thanh tịnh của Ngài mà loé sáng lên
trung đạo đệ nhất nghĩa. Bằng
nhận thức thì
Thiện Tài thấy Vô Yểm Túc tàn nhẫn, nhưng theo
trực giác lại cảm nhận bên trong vua có cái gì
bất khả tư nghì, không thể nói được.
Nghe tiếng nói trong
hư không, có thể hiểu là khi
sử dụng nhận thức thì tâm
chúng ta bị mờ đặc. Nhưng xoá sạch
nhận thức,
tâm thành trống không,
chân lý mới
hiện ra.
Một niệm
bất giác nổi dậy, không thể thấy
chân lý, vì đầu óc
chúng ta dầy đặc
dữ kiện.
Tuy nhiên,
trở về trạng thái vô tư hồn nhiên cuûa
Tự Tại Chủ
đồng tử, tức
trở về tâm trống không mà
Đức Phật thường
so sánh với
hư không,
chân lý mới
hiện ra cho ta.Theo tôi, ta thấy người xấu, nghe nói họ xấu và dùng
suy nghĩ phân tích cũng thấy họ xấu. Nhưng nếu ta không nghĩ họ xấu, dừng
ý niệm xấu về họ khi sống chung, làm việc chung với họ, thì họ không xấu với ta nữa, dù trên
thực tế cuộc sống, họ vẫn xấu với người khác.
Đó là
kinh nghiệm tu của tôi, dù xấu mấy, ác mấy, họ cũng
ước mong có người tin để nương tựa. Có thể nói bất cứ ai cũng có một điểm lành. Trên đường tu, tôi không thấy ai xấu với tôi. Nếu
cầu đạo bằng tâm đó,
chúng ta thấy
cuộc đời đẹp biết bao và bằng đôi mắt đẹp như
đồng tử Thiện Tài cầu đạo, lần lần
cuộc đời trở thành đẹp thật với
chúng ta. Điều đó được Phật dạy rằng tất cả pháp do tâm tạo. Trên
tinh thần ấy,
Thiện Tài nhìn mặt ngoài thấy vua xấu ác, nhưng lắng lòng, thấy được vua tốt. Có cảm nhận như thế mới
tiến tu được.
Trong cuộc sống luôn có
hai mặt đối lập, nhìn thoáng qua, thấy tốt, nhìn kỹ lại thấy xấu, hai cái tốt xấu thường chập chờn
hiện hữu.
Ý thức sâu sắc điều đó,
chúng ta nên cho cái xấu trôi về
quá khứ để
hiện tại tốt hơn, vì nếu cứ ghim chặt cái xấu
quá khứ, nó sẽ
trở thành hiện tại và mỗi ngày thêm lớn hơn. Và
cố gắng giữ
tâm niệm tốt,
nuôi dưỡng nó mỗi ngày, mỗi đời phát triển hơn.
Vua Vô Yểm Túc
xét xử tội nhân xong, ông dẫn
Thiện Tài vào xem cung điện và
cho biết bề ngoài thấy làm ác như vậy, nhưng thật trong lòng vua từ khi
phát tâm tu
Bồ tát đạo, một con muỗi cũng không giết.
Vì thương
chúng sanh đầy
tham lam, ghét ganh,
mê muội,
độc ác, nên ông trừng trịï để ngăn chặn
tội ác cho họ, giúp họ thành người tốt. Với
ý niệm không phải vì ác nhưng vì
lòng từ răn đe, dạy dỗ người; nhờ pháp tu ấy mà ông
đạt được như huyễn tam muội, thì ông cần cái gì liền hiện cái đó.
Khi vua nhập
như huyễn tam muội, thì những người ác
hiện ra để ông
thuyết pháp. Người
bị giết và người giết đều do
biến hoá ra, không phải người thật. Duøng hình phạt nặng
trừng trị người
huyễn hoá nhằm
giáo dục người thật hung dữ trên
nhân gian, cho họ thấy
quả báo đau khổ mà không dám làm việc ác nữa. Đây là
việc làm của
Bồ tát lớn, tạo
dữ kiện để Ngài lấy đó làm bài
thuyết pháp sống.
Cuộc đời của
Đức Phật Thích Ca hành
Bồ tát đạo cũng đã dùng
huyễn thân tam muội hiện thành các loại hình
nghịch thuận, tốt xấu để
tuyên dương chánh pháp. Điển hình như
Bàn Đặc không thuộc nổi hai chữ mà đắc
La hán, là do
đức Phật huyễn hoá ra để người dốt nghĩ rằng họ còn giỏi hơn
Bàn Đặc, nếu tu sẽ
đắc quả mau hơn.
Chúng ta biết rõ
Đức Phật dùng
huyễn hoá vì về sau không ai
đắc đạo dễ dàng như vậy, dù họ laø Tăng sĩ rất giỏi.
Hiển nhiên là người
huyễn hoá thì muốn làm gì cũng được, họ
đắc đạo mau lẹ, dễ dàng vì có phải tu thật đâu, có thể tạm
ví như đóng kịch trên sân khấu vậy. Họ đóng vai ngu dốt mà
đắc quả thì kịch hết, màn hạ xuống, họ
trở về con người thật, chứ có còn là vị
La hán nữa đâu.
Dưới bàn tay của người đắc
huyễn thân tam muội, họ sắp xếp cho người
huyễn hoá thành công việc gì
tùy ý muốn;
trái lại, trên
thực tế, người xấu thật thì khó mà
chuyển hoá họ thành tốt được.
Bồ tát nương theo Phật làm việc
giáo hoá chúng sanh, vua Vô Yểm Túc ác thật thì ông không thể nào có
phước báo lớn lao
vô cùng. Thật vậy,
Thiện Tài thấy cung điện của vua rộng lớn không gì có thể
so sánh, đều làm bằng
thất bảo và có mười ức thị nữ
đoan trang xinh đẹp.
Vua bảo
Thiện Tài nếu ông thật gây
ác nghiệp thì sao được
quả báo tốt đẹp, thân không bệnh,
tâm giải thoát, giaøu sang như vậy,
quyến thuộc hết lòng phục vụ, không trái ý. Thấy
bề ngoài ác mà thật là thiện.
Làm ông ác khó hơn làm ông thiện. Toàn người hiền thì ai giữ của
Tam Bảo.
Vì vậy,
Quan Âm Bồ tát hiền nhất nhưng đóng vai ông Tiêu
mặt dữ hoặc
Vi Đà Bồ tát cũng đầy
lòng từ mà
hiện thân Hộ pháp để doạ người ác.
Vua Vô Yểm Túc dạy
Thiện Tài nên
quan sát người ác giả mà trong tâm họ tốt như
Đề Bà Đạt Đa mặt quỷ nhưng chứa
tâm Phật. Và ngược lại, mặt ngoài
hiền lành ẩn chứa tâm
ác độc, gọi là khẩu
Phật tâm xà. Tâm bên trong chủ động,
quyết định quả tốt xấu. Tâm ác thật thì đương nhiên phải thọ
quả báo khổ, không thể nào
thoát khỏi lưới
nhân quả; nhưng
chúng ta thấy họ ác mà vẫn sống
sung sướng thì còn phải xét lại có điểm gì hay mà
chúng ta phải học, không nên
nói xấu họ.
Vua Vô Yểm Túc dùng hình phạt nặng để
xã hội được bình yên. Và hơn thế nữa
Thiện Tài học được cách nhìn bề trong, thấy được pháp
Bồ tát như huyễn giải thoát.
18 - Thiện Tài Cầu Đạo Với Vua Đại Quang.
Thiện Tài học với vua Vô Yểm Túc
pháp như huyễn,
sử dụng cực hình ác để
giáo hoá chúng sanh trong
thế giới ác. Nhưng sang
học đạo với vua
Đại Quang ở
thế giới hiền lành, dân chúng toàn người tốt thì thấy cách
giáo hoá của vua
Đại Quang hoàn toàn khác hẳn Vô Yểm Túc.
Học đạo với một ông hung dữ nhất và ông
hiền lành nhất, để nói lên
tinh thần Đại thừa không theo mô hình cố định, phải
tùy thời, tùy chỗ
áp dụng pháp
thích hợp.
Trong
trường hợp nào cần hiền như bột cho họ nắn, để họ tu
đắc đạo; nhưng gặp
cô hồn lộng hành thì phải mặc áo ông Tiêu vô và
phun lửa mới trị được chúng. Đến khi xong việc rồi,
trở lại vị trí vua
Đại Quang, nghĩa là
trở lại tâm
hiền lành nhất.
Vua
Đại Quang cai trị không dùng hình phạt, nhưng
quan tâm đến việc
giải quyết cơm ăn áo mặc cho người, ai gặp khó khăn, cần gì vua sẵn sàng cho đủ. Điều này gợi ý
chúng ta rằng nếu sức cung lớn hơn cầu thì việc
giải quyết dễ dàng.
Lịch sử Nhật Bản cho thấy ở thời Minh Trị, tội
trộm cắp bị
xử phạt rất nặng, nhưng người dân vẫn cứ
phạm tội này. Đến khi đất nước họ
văn minh rồi,
vật chất quá đầy đủ, tự động không ai làm điều xấu ấy.
Vua Vô Yểm Túc quá tàn nhẫn và vua
Đại Quang quá
đạo đức. Hay đó là
hai mặt của
cuộc đời cho
chúng ta bài học phải có
phước báo,
đạo đức,
thông minh tài giỏi mới lo được cho
mọi người. Và có như vậy mới
chỉ đạo đất nước
đi lên, chỉ dùng hình phạt suông không đủ.
Khi
bản thân chúng ta chưa được những điều tốt, giỏi như vua
Đại Quang, phải
nỗ lực đoạn tuyệt tánh xấu, trau giồi đức tánh tốt,
cố gắng làm được những điều khó làm.
Vô Yểm Túc
giới thiệu Thiện Tài đến học với vua
Đại Quang, cũng có nghĩa là khi
xây dựng người, ngăn chặn xấu thì
thiện sanh, trấn át được
tội lỗi, người mới yên tâm làm ăn, cuộc sống mới chuyển thành tốt,
lúc ấy kỹ luật không còn
cần thiết nữa. Ai cũng muốn
bố thí mà không muốn nhận, làm gì còn
trộm cắp.
Xây dựng cho người
trở thành tốt, họ tự phấn đấu
đi lên, làm cho
xã hội an lành. Bằng
từ tâm tam muội mà vua
Đại Quang đến với người, nghĩa là
tình thương yêu của
Bồ tát có sức cảm hoá người.
Lúc trước,
tình thương của Vô Yểm Túc phải ẩn dấu bên trong và
thể hiện ra những hình phạt ác. Nay,
mọi người tốt rồi,
tình thương của
Đại Quang thể hiện thực trong cuộc sống.
Đặc biệt là
tình thương Bồ tát đạt đến độ cao,
tác động cho người
tội lỗi nghĩ đến
Bồ tát liền
phản tỉnh,
hồi tâm.
Thực tế lịch sử nước ta cho thấy tấm gương
đạo đức của vua Lý Thánh Tông. Ông thương dân như con đẻ.
Lòng từ của vua trải ra cho dân, lấy
đức hạnh cảm hoá dân,
dẹp bỏ các hình phạt
dã man,
nâng cao nhân phẩm của người dân. Vua đã
xây dựng được đất nước an vui, thuần từ.
Vua
Đại Quang dùng đức trị dân vì ông ra đời trong
hoàn cảnh tốt, nước giàu, dân tốt, giỏi,
phước đức đầy đủ như vậy,
mọi việc tự động tốt. Ngược lại, sanh vô
thế giới chiến tranh,
lạc hậu,
nghèo khổ,
ác độc thì phải dùng
pháp luật để trị cho yên.
Thiện ác, tốt xấu là hai thể
tương đối của
cuộc đời mà
chúng ta cần khéo vận dụng trên đường hành
Bồ tát đạo. Hai mẫu vua này được
kinh Hoa Nghiêm đề ra nhằm dung hoá tốt xấu, cả hai đều là đạo.
Theo
tinh thần ấy,
chúng ta học với người
xuất gia và cả
cư sĩ tại gia, thậm chí học với trẻ thơ chưa biết suy tư.
Hành đạo theo
Hoa Nghiêm, có người
đau khổ đến nhờ tôi giải khổ. Tôi dạy họ nên học với đứa trẻ an vui
tự tại mà bà đang bồng trên tay. Bà chỉ cần
dẹp bỏ ý thức xấu về người chồng là được
an lạc liền.
Giải thoát và
vô minh phiền não cùng ở một chỗ, biết thì
giải thoát, không biết thì khổ.
Tóm lại, qua
hình ảnh hai vua ác và thiện cho
chúng ta ý thức kết hợp thiện và ác, trong ác có thiện và ngược lại trong thiện có ác. Biết như vậy mới có thể
tu hành đắc đạo. Ví dụ như có
Phật tử tu hành tốt,
cúng dường nhiều, nhưng lớn tuổi lại sanh tật, hung dữ, nhiều đòi hỏi thì chết sẽ đọa. Đó là
con đường tu cùng tột thiện để
trở thành ác. Ngược lại, có người rất ác, nhưng cuối
cuộc đời, họ
ăn năn hối cải,
trở thành thiện và chết
sanh Thiên.
Vì vậy, Phật dạy
chúng ta đã làm thiện, phải cố nuôi
thiện tâm cho phát triển,
nếu không phát huy được thì cũng không nên làm mất tâm tốt.
Theo
kinh nghiệm tu hành, tôi lỡ làm gì
mất lòng người, thì thường thao thức,
suy nghĩ về
lỡ lầm ác của mình mà nuôi
thiện tâm. Ngày nay,
chúng ta được duyên lành đến chùa, sống với
bạn đạo, nên gieo vào lòng người
cảm tình tốt, để
đời sau gặp lại nhìn nhau trong
thiện cảm, cùng làm thiện nhiều hơn nữa, cứ như vậy
tiến tu dễ
thành Phật.
Chính nhờ
quá khứ chúng ta đã
xây dựng được
tốt lành với bạn bè, nên đời này họ mới thương ta,
hợp tác với ta; nhưng
dại dột đánh mất mối tương quan
thiện cảm ấy thì gặp lại trong mối
thâm thù, quả là uổng phí và
đáng sợ.
Đức Phật dạy rằng tu
Bồ tát đạo phải biết tổng hợp để biến tất cả thành
thiện căn công đức. Theo
tinh thần ấy, vua Vô Yểm Túc sống trong nước
tội lỗi phải
xử trí bằng những hình phạt khủng khiếp để
xã hội yên lành. Nhưng
mọi việc đều
yên ổn rồi, không cần làm như vậy nữa,
cộng thêm đức hạnh của vua, không cần làm mà việc thành vì được nhiều người giúp sức, như vua
Đại Quang, thì càng siêng năng càng dễ thăng hoa.
19 - Thiện Tài Cầu Đạo Với Bất Động Ưu Bà Di.
Trên bước đường tu,
quyến thuộc trở thành quan trọng, không dễ tạo được, phải
cố gắng gìn giữ. Vua
Đại Quang thành công được nhiều
việc thiện vì ông có nhiều người tốt giúp sức, trong đó phải kể đến
Bất Động Ưu bà di.
Vì vậy, vua
giới thiệu Thiện Tài đeán học với
Bất Động Ưu bà di.
Ưu bà di này không
lập gia đình nên gọi là
đồng nữ, chơn tánh còn nguyên vẹn, không bị
trần thế làm
nhiễm ô.
Đặc biệt của
đồng nữ Bất Động là không hề
giao động trước
mọi việc trần gian, vì sống trong thành
Thiện Trụ mới có tâm
bất động. Ý này rất quan trọng.
Thiện Trụ nghĩa là khéo tìm pháp để an trụ.
Phật khuyên
chúng ta tu muốn đạt kết quả tốt
cần phải nương pháp Phật,
lựa chọn pháp mà
chúng ta taâm đắc để sống,
hành trì,
chúng ta mới
thanh tịnh được. Còn rời xa pháp vào đời,
chắc chắn bị đời lôi kéo, làm
ô nhiễm. Đó là
phương cách dành cho hàng sơ và
trung căn, nên an trụ pháp
phương tiện.
Đức Phật có hai pháp : pháp
phương tiện và
pháp chân thật. Pháp
phương tiện tức
tùy duyên mà
hành đạo,
chúng ta cũng có thể
trở thành vô động. Ở đâu,
chúng ta phải
tùy thuộc chỗ đó, ở nước này mà muốn giống chỗ khác, không bao giờ được.
Trước khi đi Pháp, tôi
suy nghĩ kỹ ý này. Tôi luôn nhớ phải an trụ pháp
phương tiện của Phật, nghĩa là
tùy duyên mà sống, ở chùa
Trúc Lâm không phải là Aán Quang hay
Xá Lợi và trăm người trăm ý, làm sao
vừa lòng tất cả, mình mới yên thân.
Tôi
lạy Phật để lòng
thanh tịnh và
phương tiện tìm được ở đây là
mọi người đều xa quê hương, ngày Vu Lan gợi họ nhớ
tổ tiên ông bà; nên tôi
triển khai điểm chung là mối
liên hệ thân thương của
chúng ta với
cửu huyền thất tổ như thế nào theo Phật dạy để mà đáp
đền ơn đức ấy. Trong thời pháp,
mọi người đều
cảm động đến
rơi lệ và tôi đã
được giải thoát thật !
Thuở
quá khứ xa xưa,
Bất Động Ưu bà di phát tâm bồ đề trong
hoàn cảnh cũng thật
đặc biệt, lúc đó
đồng nữ là
công chúa. Vua cha sanh nhiều con trai, nhưng chỉ có
đồng nữ là con gái, nên được cả triều đình
quý mến. Một hôm,
công chúa ở trên lầu ngắm xem
tinh tú. Hướng nhìn trời và muôn vì sao đến độ xa thẳm, tức tập trung
tư tưởng đến độ cao nhất, thì thấy
thế giới Phật hiện ra với
Đức Phật đầy đủ
uy nghiêm tướng tốt, thấy Phật
hành đạo, thấy
Thánh chúng và tất cả
chúng sanh đang
sinh hoạt.
Thấy như vậy rồi
trở lại cuộc sống
trần thế,
công chúa không còn
ham muốn gì và
tâm không còn
mê muội. Những pháp
Phật thuyết và
Bồ tát hành đạo, bà không bao giờ quên và mọi thứ không còn khả năng
lôi cuốn, nên mới có danh xưng là
Bất Động.
Và dẫn đến
đời nào, kiếp nào, tâm cũng không
chao đảo vì tâm này sống dưới dạng
pháp giới,
sinh hoạt ở dạng
thể tánh của muôn vật vốn
bất động, nên
đồng nữ này trụ
bất động.
Chúng ta giao động vì đã rời bỏ chơn tánh,
đi vào sanh tử. Ta gá tâm trong
sanh tử nên bị nó
mê hoặc, không còn
sáng suốt, chủ động được việc gì.
Ý thức như vậy, trên bước đường tu, dù gặp
sóng gió ba đào đến đâu,
chúng ta phải cố
trụ tâm. Một khi tâm ta
giao động theo sóng triều
trần thế là
biết mình đang rời xa
chơn tâm, phải kéo lại bằng cách
thọ trì đọc tụng lời Phật dạy để tìm lại sự
an lành cho chính mình.
Cần
tâm niệm rằng trong
thế giới xô bồ nhiều khổ đau này,
nếu không làm được gì cho ai thì chính
bản thân ta cũng đừng
loạn động, làm được như vậy là ta đã đóng góp cho sự
an tâm của người khác.
Trong quá trình tu,
đồng nữ Bất Động tu định, thươøng trụ ở
thể tướng vắng lặng, vượt ngoài sự
chi phối của
hiện tượng sanh diệt. Đối với
Bất Động, lúc còn trong thai mẹ thọ
ngũ uẩn thân, tâm cũng không mờ tối. Trong khi các
Bồ tát khác vào thai mẹ, chịu
ảnh hưởng tư duy của mẹ và khi mang
ngũ ấm thân cũng bị nóng lạnh
đói khát của thân
chi phối; chỉ trừ khi họ sống gần Phật mới
trở về trạng thái sáng suốt được.
Bất Động Ưu bà di cho biết đời đời kiếp kiếp chỉ tu một pháp giữ cho tâm yên tĩnh, không
mê muội, không để
cuộc đời lôi cuốn, kinh ghi là tâm như
kim cang, tất cả
phiền não không
phá hoại được. Trải
vô số kiếp, bà chẳng khởi một
niệm tâm ái dục, huống là làm việc ấy. Vì không quan taâm đến
của cải cho đến thân mạng, những thứ này có hay không, đối với
Bất Động Ưu bà di cũng không thành
vấn đề.
Bất Động Ưu bà di hành đạo Bồ tát trên
nhân gian bằng cách tĩnh lặng, không
giao động trước
hoàn cảnh vaø cái chết.
Tâm định tĩnh ấy
tác động cho người
xung quanh bình ổn theo,
thể hiện bài pháp sống.
Từ tâm định tĩnh nhiều năm, nhiều đời mà
Bất Động hiện tướng giải thoát, hiền dịu,
dễ thương, tạo thành cuộc sống
an lành trong một
xã hội không
an lành.
20 - Thiện Tài Cầu Đạo Với Biến Hành Ngoại Đạo.
Khi
con người chưa
giác ngộ,
thường có cái nhìn về
cuộc đời, về
thần linh khác nhau, nên sanh
tư tưởng khác biệt
cho đến chống đối nhau. Từ đoù,
con người nhân danh thần linh mà chống nhau thì Phật coi đó là
ngoại đạo.
Ở
xã hội Aán Độ thời Phật
tại thế có đến 96 thứ
ngoại đạo,
chống báng nhau kịch liệt đến
sát hại nhau. Phật dạy trong
kinh Hoa Nghiêm nhìn
ngoại đạo như thế nào và sống với họ ra sao. Nếu
chúng ta có cái nhìn
đúng đắn sẽ không bị chống và
chúng ta cũng có thể hài hoà với mọi
tôn giáo.
Những người
bình thường luôn
giao động trước
phải trái tốt xấu, nếu thấy người không giống họ thì sanh khó chịu liền.
Bất Động Ưu bà di không như vậy, nhờ
tâm thanh tịnh,
sáng suốt, thấy rõ
cuộc đời, thấy người khác đạo cũng có điểm hay, không phải chỉ có đạo của ta mới tốt, còn người thì xấu.
Bồ tát tìm học cái hay, cái tốt của người. Với tầm nhìn
chính xác,
Bất Động thấy
ngoại đạo Biến Hành là một người
tu hành lợi ích cho đời, bà
giới thiệu Thiện Tài đến cầu học.Biến là thay đổi, hành là hành động; hành động luôn thay đổi, không cố định.
Ưu bà di thì
bất động, còn
ngoại đạo này thì
biến đổi không ngừng. Nếu biết
sử dụng thì
biến hành hay
bất động cũng đều tốt cả.
Bất động hay
biến hành đều phải có
ý nghĩa, đó là
hai mặt của
cuộc đời, động hay tĩnh cũng là pháp.
Tu xong với
Bất Động và
tiếp tục học với
Biến Hành, nghĩa là đang ở chỗ tịnh và bước qua chỗ động, thay đổi luôn. Có vậy,
đạo hạnh mới
mở rộng.
Đi thẳng về phía Nam, tìm cùng tột chỗ
ồn ào náo nhiệt để gặp
Biến Hành; nhưng
Thiện Tài lại bắt gặp
Biến Hành đang
kinh hành trên núi vắng vẻ.
Ưu bà di bảo
Thiện Tài vào chỗ động tìm, nhưng lại tìm gặp
Biến Hành trong chỗ
bất động,
tiêu biểu cho
tinh thần Nhập pháp giới. Nghĩa là ở chỗ động mà
tâm không động, nâng tâm cao đến mức tột cùng mới thấy được
Biến Hành trên đỉnh núi.
Biến Hành cho biết ông
hành đạo ở chỗ đông người, trong khi ông đang
kinh hành chỗ không người. Điều này gợi nhắc
Thiện Tài sống nơi đông người mà tâm
hoàn toàn không động loạn, hay đang ở trên ngọn đồi thứ 13 của
Pháp Hoa,
tác động cho người
an tâm. (Ngọn đồi thứ 13 vượt cao hơn 12 ngọn đồi :
tham lam,
sân hận,
si mê,
kiêu mạn,
nghi ngờ,
ác kiến, tật đố,
phiền não...)
Biến Hành ở trên đỉnh núi thấy được 96
dị kiến ngoại đạo, có thể hiểu đó là
lập trường của các
triết học khác nhau ở Aán Độ thời bấy giờ. Thấy như vậy, ông
hành đạo ở
nhân gian, đến với
mọi người như một người bạn đồng tình. Họ làm gì, suy tư gì, ông cũng có suy tư, hành động giống như vậy, nên họ cảm mến ông, nhờ đó ngày qua ngày, ông
dìu dắt họ từng bước, đưa họ
trở về Phật đạo. Bên ngoài đóng vai
ngoại đạo, nhưng thực
sự thể hiện
Bồ tát đạo.
Biến Hành cho biết ông làm tất cả việc và sống gần
mọi người, nhưng họ không biết ông từ đâu đến. Đây là một cách
hành đạo của
Bồ tát, vào đời
cứu độ, không
nhân danh đạo nào.
Tùy theo tâm
chúng sanh mà
Bồ tát thể hiện tương ưng, còn
bản chất thực sự của
Bồ tát là
bồ đề tâm,
đại bi tâm. Nói rõ hơn,
Bồ tát đứng cùng một
quan điểm của họ, lấy thao thức của họ làm tâm trạng mình và
lần hồi khai mở
ý thức mới mà họ
chấp nhận được, đưa đến
giải quyết tốt đẹp mọi khó khăn cho họ.
Qua
hình ảnh Biến Hành ngoại đạo,
kinh Hoa Nghiêm minh định lại
lập trường, theo đó, nếu là
chánh đạo thì phải dung được
mọi người. Phật dạy
chúng ta nhìn
ngoại đạo với cách nhìn rộng mở,
khoan dung để chung sống.
Trên bước đường tu, tôi cảm nhận sâu sắc lời dạy ấy của Phật. Qua kỳ
hội nghị về Hòa bình tại Milan, nước Ý, tôi
quan sát sinh hoạt của các
tôn giáo khác, thấy được nhiều người, nhiều việc đáng cho ta
kính trọng. Theo tôi, người có chí
tu hành thì ở
tôn giáo nào cũng tốt. Tôi có dịp
tiếp xúc vơùi một vị tu
Kỳ Na giáo là một
tôn giáo có
đồng thời với Phật, thấy được họ cũng có điểm đáng
thán phục. Ông này chỉ ăn toàn trái cây, không ăn gì khác, quý vị thử nghĩ ăn như vậy nổi không, không có tinh bột thì chaéc chắn là bị xót ruột, khó chịu nổi.
Vậy mà họ vẫn khoẻ,
an lành,
điềm đạm là biết họ có
trạng thái thiền định rất sâu.
Thiển nghĩ người làm
tôn giáo không phải nói hay, nhưng điều quý nơi họ là
trạng thái tinh thần lắng sâu. Họ hiểu người qua cuộc sống
tâm linh hơn là
ngôn ngữ, chỉ nhìn nhau đã
cảm thấy hiểu nhau. Tôi nghĩ tất cả người
tu chân chính đều rất tốt, còn
bài bác nhau vì họ tu chưa đến nơi hoặc
lợi dụng tôn giáo. Tu thật thì phải
cảm thông nhau, như
ngoại đạo cũng thấy Phật là Thầy.
Tôi
tìm thấy nguồn vui kỳ lạ khi được sống chung với các bạn khác
tôn giáo. Nhất là trong giờ phút
thiêng liêng cầu nguyện cho Hoà bình,
ý thức tôn giáo khaùc biệt đều được dẹp sạch, chỉ nghĩ mình có
trách nhiệm là người trên trái đất phải
thương yêu nhau.
Các
giáo chủ tôn giáo đều dấy lên niềm
thông cảm, dù sắc tộc,
ngôn ngữ,
tôn giáo hoàn toàn khác nhau. Tất cả dường như thông nhau bằng thứ
ngôn ngữ phát xuất tận
đáy lòng, nối kết nhau bằng
tình thương và lòng kính mến. Điều quan trọng tôi
nhận ra trong
sinh hoạt lúc ấy là
mọi người đã
vượt qua ý thức bảo thủ tôn giáo mình để hoà nhập cùng
cộng đồng nhân loại trong
vũ trụ bao la.
Cảm nhận ấy gợi tôi nhớ đến
kinh Hoa Nghiêm, nhớ đến
hành đạo của
Đức Phật.
Phải chăng đấng
Đạo sư của
chúng ta đã nhiều lần cảm hoá được hàng
ngoại đạo, vì Ngài
sử dụng được
tâm hồn bao la dung chứa muôn loài mà
kinh Hoa Nghiêm gọi là
Nhập pháp giới, tức thông được mọi loại hình
chúng sanh, mọi
ngôn ngữ, tất cả hiểu nhau, cảm mến nhau trong yên lặng.
Từ ý này, tôi cảm nhận được
kinh Hoa Nghiêm và
hình ảnh Biến Hành ngoại đạo liền
hiện ra trước mặt tôi.
Biến Hành hay
Bồ tát lớn tu
đắc đạo, tùy
nhân duyên hiện thân tương ưng với
hoàn cảnh để
cứu độ, đưa người về đường
thánh thiện.
Tôi
nhận ra ý này rõ khi
sinh hoạt ở Milan, nơi đó Thánh S.Egidio được
kính trọng tuyệt đối vì dấn thân lo cho người nghèo. Tôi cũng tự
giới thiệu là Hội trưởng Hội
Từ thiện Nhân dân Quận 10, tức ta và họ có
hoạt động từ thiện xã hội giống nhau, để
dễ cảm thông nhau.
Sau cùng tôi
phát biểu được
mọi người tán thành :
Thiết nghĩ ở trần gian có nhiều
hình tướng khác biệt, nhưng trên
thiên thượng chắc chắn phải giống nhau. Ở đó, Phật,
Bồ tát, các vị Thánh không hề chống nhau;
trái lại, các Ngài
gặp nhau trong suy tư, trong hành động
tốt lành nhất.
Hy vọng rằng tôi sẽ gặp quý vị ở
cảnh giới chân thiện mỹ ấy.Học được với
Biến Hành, nghĩa là tôi tìm được điểm hay của
ngoại đạo. Ở chơn
tánh không có tốt xấu, nhưng hiện trên
cuộc đời có tốt xấu, từ đó
Bồ tát thương nhân gian
thị hiện sanh lại
cuộc đời dưới mọi loại hình; đó là góc độ mà
chúng ta nhìn về
ngoại đạo.
Và khác hơn
ngoại đạo nữa là
chúng ta tìm
tri thức ngay trên
cuộc đời, không phải tìm trong
giấc mộng.
Trong đời sống thường nhật,
xung quanh tôi không ít những người bạn có điểm tốt mà tôi học được.
Phật dạy
chúng ta tu nhìn mọi ngươøi trong
xã hội, từ thấp đến cao, từ xấu đến tốt, trong tốt
chúng ta tìm được tốt đã đành, mà trong xấu vẫn tìm được tốt. Tu theo
tinh thần ấy của
kinh Hoa Nghiêm mới sống thật với
ý nghĩa bình đẳng của
đạo Phật.
Phật daïy
tinh thần bình đẳng trong các kinh, nhưng ở
kinh Hoa Nghiêm,
chúng ta mới
triệt để thực hành ý này; tất cả đều là
tri thức của
chúng ta nếu biết
ứng dụng tốt và tất cả đều do nghiệp khiến ta làm xấu hay tốt, tức do taâm là động cơ bên trong
thúc đẩy.
Theo
kinh nghiệm tu, khi tôi gặp
ác nghiệp có thể
sanh khởi thì phải chận lại ngay. Gặp người mà ta khó chịu, sao làm lành được, phải tránh mặt. Người mà ta không thương được,
tốt hơn chúng ta đừng nói, đừng nhìn. Chỉ gặp người
chúng ta thương,
tâm hồn ta dễ
an lạc.
Có người bị
mọi người ghét, nhưng sao
chúng ta thương họ được, là biết ta và họ có
thiện nghiệp, ta đã tìm được điểm tốt trong người xấu.
21 -Thiện Tài Cầu Đạo Với Trưởng Giả Ưu Bát La Hoa.
Trên đường
cầu đạo,
Thiện Tài học với
Bất Động Ưu bà di rồi tiến qua học với
Biến Hành ngoại đạo và nay lại đến với
trưởng giả Ưu Bát La Hoa. Quá trình
tu học này thể hieän
ý nghĩa khi gặp
hoàn cảnh động, thì phải
trụ tâm bất động, đểø không bị đời làm
ô nhiễm.Nhưng
hoàn cảnh đổi khác,
tốt hơn,
Thiện Tài không nên khoanh tay,
ngồi yên để không
giao động; mà
trái lại,
cần hành động, hành động thay đổi nhịp nhàng cho
thích hợp lợi lạc chúng sanh là học được ở
Biến Hành.
Nay, tiến lên, đem đạo vào đời làm đẹp cho đời như
trưởng giả Ưu Bát La Hoa.
Ưu Bát La Hoa chuyên kinh doanh tất cả hương : hương bột, hương xoa, hương đốt.... Ông
biến chế hương và làm giàu bằng nghề này.
Trưởng giả đi khắp
thiên hạ, từ
thiên thượng xuống đến
long cung, tổng hợp tất cả hương, nghĩa là những điều hay đẹp của
mọi người và phát ra loại danh hương mà những
trưởng giả phàm phu khác không thể nào chế biến được.
Thật vậy,
Ưu Bát La Hoa điều chế được một loại hương mà chỉ đốt một viên, cả thành phố đều vui. Những người
ganh tỵ ngửi mùi hương này, tánh ác tự
tiêu diệt. Có loại hương đốt lên, tánh
tham lam ích kỷ cũng biến mất.
Ưu Bát La Hoa là
hoa sen hay mùi hương
đặc biệt trên đời không có,
tiêu biểu cho người tạo nhiều
công đức,
phụng sự cho đời. Điều này cũng nhằm
gián tiếp chỉ
Đức Phật là
vị Đạo sư toàn đức,
toàn trí, giúp biết bao người thăng hoa cuộc sống.
Ưu Bát La Hoa dạy
Thiện Tài hành đạo phải biết lo cho cuộc sống
mọi người. Có giúp đỡ được người, làm những việc giỏi hơn họ, mới có thể khuyên họ. Ta không bằng người thì dạy đạo
giải thoát cũng
vô ích.
Ngoài ra,
Ưu Bát La Hoa nhắc nhở
Thiện Tài nên nhìn người dưới dạng
nghiệp báo của họ, thấy được người nghèo hay giàu đều do nghiệp
quyết định. Không phải do
chúng ta giúp hay hại được. Chỉ có phước cứu họ hay nghiệp hại họ.
Chúng sanh không biết như vậy, chỉ thích được cứu giúp và muốn hại người họ ghét. Hiểu đạo rồi, thấy rõ không ai có thể hại người có phước và nghiệp.
Thực tế, có người
chúng ta giúp hoài, nhưng họ cứ lụn bại dần, không ngóc đầu lên nổi. Không phải nhờ ta giúp mà họ giàu, biết như vậy rồi,
chúng ta tìm cách giúp cho người phát triển tốt, không giúp để họ
lợi dụng,
tăng trưởng lòng tham.
Khi giúp người đúng pháp,
của cải ta lại tăng thêm, không vì
bố thí mà
trở thành thiếu hụt,
nghèo khổ. Càng
bố thí, nguồn nước
chúng ta càng trong, không giúp người, nước
trở thành ao tù. Đó là
cách sống của mẫu người giàu, có
điều kiện tốt để làm phước, làm đẹp
cuộc đời, người sanh
cảm tình quý mến; không làm như vậy quả là uổng phí.
Đức Phật đưa ra mẫu
trưởng giả giàu có, sống đẹp, đáng được
kính trọng. Giúp người nhưng không có ý
xem thường họ,
Bồ tát chẳng
thiệt thòi gì,
trái lại người nhận càng quý
Bồ tát hơn và sau họ sẽ bắt chước, làm thay
Bồ tát. Họ không có ý ăn đậu ở nhờ thì nghiệp của họ hết và họ lại khởi
ý niệm tốt giúp lại người,
cuộc đời họ từ đó sẽ đổi mới
tốt đẹp hơn. Cách
bố thí của
Bồ tát là như vậy.
Giúp người là
phương tiện mà
Ưu Bát La Hoa sử dụng để dẫn đến
cứu cánh giáo hóa người trở thaønh tốt,
lợi ích cho đời. Ông
bố thí thì người tìm đến, từ đó nhìn thấy được
việc làm tốt của ông, khiến họ
kính trọng và
phát tâm làm tốt như ông. Thực sự ông đã
thuyết pháp bằng hành động, bằng
cuộc sống cao quý.
Maëc dù giúp được người,
Bồ tát luôn
tâm niệm rằng nhờ có người xin, mới có dịp
bố thí và lấy đó làm hạnh tu, sanh tâm
hoan hỷ theo
việc làm thiện. Hoặc tu theo
Bồ tát,
chúng ta cũng cảm nhận sâu sắc rằng có người chống phá, ta mới có
điều kiện nhẫn nhục.
Trên bước đường tu suốt 50 năm, ngày nay tôi được
như vầy nhờ đụng chạm với
hoàn cảnh không mấy dễ dàng, mới luyện được
ý chí.
Thiết nghĩ nếu tôi sống trong tháp ngà,
chắc chắn cũng có đủ tật xấu.
Trưởng giả Ưu Bát La Hoa giúp đỡ người, làm họ vui, từ đó ông mới
giới thiệu pháp cao hơn mà ông cũng mơ ước, nhưng
nhận thấy Thiện Tài thông minh, có thể tiến
xa hơn ông, nên khuyên
Thiện Tài đến học với Thuyền trưởng Bà
Thi La.
22 - Thiện Tài Cầu Đạo Với Thuyền Trường Bà Thi La.
Bề ngoài, Bà
Thi La cũng giống như các thuyền trưởng khác, nhưng bên trong ông có điểm
đặc biệt mà người
bình thường không thể vói tới. Bà
Thi La nói rằng ông biết trong biển cả, chỗ nào có
của báu, chỗ nào có quỹ
La Sát và dắt chúng nhân đến tìm
của báu,
trở về ai cũng giàu. Bà
Thi La dùng
phương tiện ấy để
giáo hoá vì biết rõ
chúng sanh ở
Ta Bà, lòng tham
ngũ dục còn tràn đầy.
Sống trên
cuộc đời này, ai cũng muốn
giàu sang,
sung sướng, được
của báu. Muốn
giáo hoá họ phải
tùy theo ham muốn ấy, không thể làm khác. Họ đang muốn làm giàu thì phải tạo
điều kiện cho họ làm giàu, còn bảo họ cạo đầu, đi
khất thực,
chắc chắn họ không nghe.
Trên đường hành đạo, tôi có
kinh nghiệm này.
Một sinh viên đến tuổi
bị bắt đi quân dịch, sợ quá, "Nhờ thầy cứu con". Tôi khuyên anh
ăn chay, tuïng
kinh Pháp Hoa,
lạy Phật thì anh
răm rắp làm theo. Nhưng khi
thoát khỏi nạn khổ
sanh tử ấy, thì chẳng thấy
bóng dáng anh ta. Một hôm,
tình cờ gặp lại, anh
cho biết lúc này
ăn chay hết nổi,
tụng kinh lạy Phật mệt quá, khoâng có
thì giờ !
Hiện hữu trong
sanh tử,
chúng ta phải học theo cách
giáo hoá của thuyền trưởng Bà
Thi La, tức
đáp ứng yêu cầu của người, họ mới có
cảm tình,
nghe lời ta.
Tuy nhiên, khi họ
tinh tấn tu hành sẽ nhận được sưï
gia trì,
vượt qua khó khăn đến chỗ an vui. Nhưng giàu rồi,
an ổn,
sung sướng rồi, họ lại quên tu. Nếu
chúng ta có lực
gia trì mạnh thì giúp mặt này xong, phải chận mặt khác, đó là cách thuyền trưởng
hành sử. Họ sướng, không tu,
chúng ta cũng có lực
gia trì áp xuống cho họ. Khi họ hưởng hết phước,
tai họa thứ hai giáng xuống, khiến họ có dịp
nhận ra rằng nhờ tu mới
thoát nạn được. Nhưng họ còn đang hưởng phước lạc, ta nói gì cũng không nghe, cứ thả cho họ sống đến ngày họa tới, tự động phải nghe ta.
Việc làm của thuyền trưởng Bà
Thi La là của
Bồ tát giáo hóa phải
theo dõi họ đến nơi đến chốn,
cho đến khi họ
giải thoát thật sự. Ở đây, Bà
Thi La đưa người tìm
châu báu, ngầm chỉ
chúng ta tùy người,
tùy phương tiện giúp họ rồi mới có
điều kiện đưa họ ra khỏi
sanh tử.
Kinh Hoa Nghiêm đưa ra nhiều mẫu người hành
Bồ tát đạo không mang
hình thức xuất gia, nhưng vẫn
thể hiện tinh ba
Phật pháp,
lợi lạc quần sanh.
Bà
Thi La dắt chúng nhân đến lấy
của báu, còn ông thì không có gì, gợi cho họ suy tư, may ra bắt gặp được
Bồ tát Pháp thân của Bà
Thi La. Và từ đó nghĩ đến phát triển
Pháp thân của chính họ. Ông thoả mãn
yêu cầu của
chúng sanh và
lần hồi đưa họ vào bể cả, chỉ rõ chỗ nào có
La Sát, chỗ nguy hiểm có quỹ dữ ....nhằm gợi ý
cuộc đời họ đang sống là biển khổ
sanh tử. Chính
vì vậy mà ông không
ham thích việc lấy
của báu, dù biết rõ.
Chúng sanh ưa thích thì dẫn họ đi, nhưng ông không lấy. Ông
dìu dắt họ nhìn biển cả mà thấy được biển khổ
sanh tử và từ đó
ý tưởng ham muốn châu báu vơi lần đi,
dần dần họ hướng tâm mong cầu cái cao hơn mà Bà
Thi La đang tu là biển
trí tuệ.
Bà
Thi La dùng
trí tuệ Như Lai thấy rõ chỗ nào an nguy, chỗ có
châu báu hay quỹ dữ để đưa người tránh xa và đến nơi
an lành. Rồi ông
cho biết không còn ở đây lâu,
mọi người phải bước vào biển
trí tuệ để tự đi. Nói cách khác,
bước đầu,
Bồ tát hướng dẫn ta và từng bước,
chúng ta phát sanh
trí tuệ để tự
giải thoát và hướng dẫn lại người khác.
Tóm lại, từ quá trình thấy biển khơi,
hình dung ra biển
phiền não,
nhàm chán nó để phát
hiện ra biển
trí tuệ, không còn gặp khó khăn nào
trên đường hành đạo là
thâm nhập vào biển
pháp tánh. Bà
Thi La bề ngoài là thuyền trưởng, nhưng bên trong là Bồ taùt có khả năng lái
thuyền Bát Nhã, dùng
trí tuệ đặc thù hướng dẫn người phát huy
tri thức đạo đức, ra khỏi biển
sanh tử.
Đó là
phương cách hành đạo của
Bồ tát nhập pháp giới,
thị hiện trên
nhân gian, làm các ngành nghề giống
mọi người để
cuối cùng đưa tất cả về bờ giác.
23 -THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ CẦU ĐẠO VỚI VÔ THƯỢNG THẮNG HAY DI LẶC BỒ TÁT.
Thuyền trưởng Bà
Thi La dạy cho
Thiện Tài thấy rõ
cuộc đời là biển khổ và chỉ
phương cách vượt
sanh tử để vào
pháp giới.
Thâm nhập pháp giới tánh mới thấy
xuất xứ của
lục đạo tứ sanh. Từ đó, Bà
Thi La mới bảo
Thiện Tài tiếp tục đến
học đạo với
trưởng giả Vô Thượng Thắng.
Vô Thượng Thắng hay
Vô Nan Thắng là tên khác của
Di Lặc Bồ tát.
Vô Thượng Thắng là người có
hiểu biết vượt bực và
đặc biệt có sức
thuyết phục,
tác động mọi người.
Tương truyền Ngài
Vô Trước nằm mơ thấy lên
cung Trời Đâu Suất và nghe
Di Lặc Bồ tát giảng về những
chuyển biến trong
nội tâm con người. Sau đó,
trở về nhân gian, Ngài
hệ thống hóa, hình thành
pháp môn Duy Thức học giải thích nguyên nhân tạo nên
hình tướng và tâm trạng khác nhau của
con người trên
cuộc đời : xấu đẹp, giàu nghèo, giỏi dở,
hạnh phúc hay khổ đau,
thông minh hay khờ khạo, v.v...
Sau khi sở đắc
trí tuệ siêu tuyệt của
Vô Thượng Thắng, thấy được
cốt lõi cấu tạo nên
con người hay muôn pháp trong
vũ trụ,
Thiện Tài mới đến
diện kiến Tỳ kheo Ni Sư Tử Tần Thân.
24- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân.
Về
vấn đề nam nữ, trong
thời đại chúng ta, phần nhiều
luật pháp các nước đều
công nhận bình đẳng. Maëc dù được
thừa nhận như vậy, nhưng
thực chất của người nữ có
ngang hàng với phái nam hay chưa, mới là điều quan trọng. Trong
đạo Phật đặt nặng
thành quả tu hành, từ đó xét ở góc độ
tài năng,
đức hạnh,
tâm tưởng của người nữ có thực sự giống như người nam hay không.
Thiết nghĩ để được ngang bằng với người nam, người nữ cần phát huy ưu tánh của mình.
Sư Tử Tần Thân là
biểu tượng chỉ cho sự
bình đẳng bên trong, không phải
bình đẳng bên ngoài. Nghĩa là trên
Phật tánh thì
bình đẳng, nhưng
thực tế cuộc sống có khác nhau. Chính vì
Phật tánh bình đẳng nên ta phấn đấu
tu hành đều sẽ
thành Phật.
Sư Tử Tần Thân
tiêu biểu cho
Phật thân,
bề ngoài mang
hình tướng Tyø kheo Ni nhưng khả năng vượt hơn
Bồ tát Di Lặc.
Di Lặc cho biết Ngài không bằng
Sư Tử Tần Thân vốn là Phật rồi, nhưng
thị hiện thân hình Tỳ kheo Ni đang ở trong vườn
Đại Quang.
Tỳ kheo Ni này được vua
Thắng Quang kính trọng hơn tất cả
pháp sư khác và đem dâng cúng vườn ngự của vua để
hành đạo. Điều này gợi
chúng ta suy nghĩ vị
Ni sư này phải có khả năng
phi thường nào đó. Chính
Di Lặc nói với
Thiện Tài rằng
bề ngoài thấy
hình dáng người nữ, nhưng bên trong thật là vị Phật; đó là điều mà
Thiện Tài đáng học với
Tỳ kheo Ni Sư Tử Tần Thân.
Bằng
trí huệ học được với thuyền trưởng Bà
Thi La và
Vô Năng Thắng, mới thấy được
Đức Phật tiềm ẩn bên trong
Tỳ kheo Ni Sư Tử Tần Thân. Do học được pháp phân tích tâm theo
Di Lặc Bồ tát, tức
phân biệt được những
nguyên tố tạo nên
con người.
Vì vậy, không thấy
Sư Tử Tần Thân là cô Ni tầm thường như bao người, nhưng thấy được sức thu hút mãnh liệt của Ngài khiến vua phải
quy ngưỡng.
Ngoài ra, cả
Bồ tát từ
sơ địa đến
thập địa cho đến chúng hội từ
Tịnh Cư Thiên,
Tha Hoá Tự Tại Thiên,
Đâu Suất Thiên... và các loài
chúng sanh đều
tụ họp đến nghe
Sư Tử Tần Thân
thuyết pháp. Tất cả
Bồ tát và
chúng sanh trong vườn Nhựt Quang đều do
Sư Tử Tần Thân
Tỳ kheo Ni khuyên
phát tâm thọ trì chánh pháp, đều được
bất thối chuyển nơi đạo
Vô thượng chánh giác.
Trong khu vườn, dưới mỗi cội cây có một toà sen và mỗi toà sen có một
Sư Tử Tần Thân và
chúng hội vây quanh. Như vậy,
Sư Tử Tần Thân không phải là một người, một
Ni cô. Mỗi toà sen đều có một
Tỳ kheo Ni mang
hình dáng giống y
Sư Tử Tần Thân. Trong
chúng hội, mỗi người có
yêu cầu riêng, không giống nhau, nhưng tất cả đều
nghe được pháp đúng theo tâm ý họ. Đây là việc khó làm, kinh gọi là ưng hiện
sắc thân, nghĩa là
chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, cõi
Vô sắc,
loài người, loài quỹ, rồng, chư Thần... sống như thế nào thì
Sư Tử Tần Thân
hiện hình tương ưng thuyết pháp, thoả mãn tất cả
mong ước của họ.cũng không giúp được người có
Thiện Tài quán sát theo
trí tuệ của Bà
Thi La và theo
tâm pháp của
Vô Năng Thắng, không thấy
pháp hội bình thường như
mắt thịt phàm phu thấy, mà thấy
Sư Tử Tần Thân
chi phối tất cả muôn loài,
biến hoá được tất cả
thân hình chúng sanh. Ngài
cho biết sở đắc chứng được gọi là
pháp ý sanh thân. Ngài
phổ hiện khắp
nhân gian, ai nghĩ thế nào,
yêu cầu điều gì, sẽ thấy Ngài đúng như vậy. Ý này cho
chúng ta bài
học thuyết pháp không phải là chỉ nói suông, phải thoả mãn được
yêu cầu của người và đưa họ về sống với
chánh đạo.
25- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Bà Tu Mật Đa Nữ.
Học xong với
Sư Tử Tần Thân là vị
xuất gia có đầy đủ
ba ngàn oai nghi, tám muôn
tế hạnh, vị
Tỳ kheo Ni này lại
giới thiệu Thiện Tài đến
cầu đạo với mẫu người
hoàn toàn trái ngược. Đó là
Bà Tu Mật Đa làm kỹ nữ. Đến cầu học với
Bà Tu Mật Đa vì trên bước đường
học đạo Bồ tát,
Thiện Tài không từ chối bất cứ
việc làm nào ở trần gian. Làm được nhiều việc khó là
Bồ tát lớn, làm được tất cả là Phật.
Bà Tu Mật Đa là
Bồ tát lớn mà
kinh Hoa Nghiêm giới thiệu rằng bà
hiện thân vào tầng lớp
xã hội, làm nghề bán hương sắc cho người mua vui. Nhưng đối với
Sư Tử Tần Thân, vị này
hoàn toàn đáng kính trọng.
Có người nghĩ
Thiện Tài đạo đức trong sạch, không nên để cho
Bà Tu Mật Đa cám dỗ, phải
tìm cách ngăn chặn. Nhưng có người hiểu được hạnh của
Bà Tu Mật Đa, bảo
Thiện Tài nên nghe
Sư Tử Tần Thân tìm đến vị này
học đạo.
Từ trong
tâm tưởng,
Thiện Tài nghe
Bà Tu Mật Đa nói bà chứng được pháp
vô tham dục tế.
Quả thật, vì
Bà Tu Mật Đa chứng pháp vô tham dục,
hoàn toàn thanh tịnh nên sắc đẹp của bà không làm cho người khởi lên lòng
tham dục.
Hảo tướng của Bà có
tác dụng giúp người
hướng thượng, về với đạo, sống trong
giải thoát; trong khi sắc đẹp của người
thế gian khiến người
khởi tâm nhiễm ô, dùng để khuyến duï người vào
con đường tội lỗi.
Những người theo
Bà Tu Mật Đa không còn sanh tâm
tham dục, người trông thấy hoặc nghe bà
thuyết pháp liền
xa lìa lòng
tham ái, sống với
phạm hạnh thanh tịnh. Điều này
chứng minh tác động của
sắc thân Bồ tát đã
hiển hiện, còn sắc đẹp khêu gợi cho người
si ám thì chẳng
tốt lành gì.
Đứng ở
vị trí chư Thiên quan sát,
Bà Tu Mật Đa biến thành thiên nữ đẹp nhất, nhưng nếu
Dạ Xoa nhìn thì thấy bà là
Dạ Xoa nữ đẹp nhất, bất cứ loài nào cũng thấy bà
hiện thân đẹp nhất theo
tâm tưởng của chúng.
Tuy nhiên, ai thấy cũng đều
xa lìa tham dục.Chỉ dưới mắt
Thiện Tài đắc đạo mới thấy và hiểu được điều kỳ đặc ẩn chứa bên trong
con người như vậy, người
bình thường khác chỉ thấy một
con người không ra gì tập họp những
thành phần đáng khinh chê.
Trên bước đường
hành đạo, tôi đã gặp một người dưới dạng
Bà Tu Mật Đa. Một số Thầy trong chùa khuyên tôi
cẩn thận, vì bà này ghê gớm, có nhiều chồng. Nhưng dưới mắt tôi,
con người thật của bà ta từ trẻ đến già đã từng
trải qua biết bao
đen tối của
cuộc đời.
Hiện tại vì tràn ngập khổ đau,
hối hận, nên
phát tâm tu, cầu học phaùp
giải thoát để vơi bớt
phiền muộn. Tôi thấy rõ bà ta
phát tâm nên
giáo hoá để bà ấy tu tạo được nhân lành, còn
nghiệp ác quá khứ thì không nên phê phán. Nhìn
bề ngoài thấy họ xấu, nhưng trong lòng còn chút
tâm đạo biết giúp người tu. Và chính bà đã
ủng hộ tiền gạo giúp cho
đạo tràng tu trong những ngày khởi đầu còn nhiều khó khăn.
Theo tôi,
chúng ta cần thấy rõ một người lúc nào họ xấu, lúc nào tốt. Và từ cùng cực của hành động xấu ác, họ dễ
trở thành người tốt nhất. Điển hình như
vua A Dục nổi tiếng ác, nhưng khi
phát tâm tu, không ai tốt bằng ông,
hộ pháp đắc lực bằng ông. Từ cùng cực của việc ác, có cái
thiện sanh ra, vì họ
hối hận hành động ác nên dễ làm điều tốt. Và cùng cực thiện lại sanh ra ác, như người
bố thí cúng dường nhiều thường
kiêu mạn. Họ cúng nhiều, giúp người nhiều và sanh ra tánh khinh người,
nhất định mai kia họ cũng sẽ
sa cơ thất thế bị người khinh lại.
Tu hành theo
tinh thần Hoa Nghiêm, trên chơn tánh
hoàn toàn bình đẳng, tốt xấu không khác. Và trên
hiện thực cuộc sống, người có hành động tốt,
tâm tưởng tốt vì
hoàn cảnh phải làm việc xấu,
chúng ta vẫn
trân trọng, không nên
xem thường họ.
Thí dụ điển hình như tấm gương
hiếu thảo của Thúy Kiều trong truyện Kiều của Nguyễn Du, ai mà không
khởi tâm thương xót thân phận khổ đau của người nữ bán mình để cứu cha.
Thiết nghĩ nhìn người
bề ngoài không
đáng tin cậy, nhưng
chúng ta thấy được
bồ đề tâm của họ và chỉ
giáo hoá bồ đề tâm ấy,
chắc chắn sẽ cải hoá được họ.
26- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Cư Sĩ Tỳ Săc Chi La
Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La là
trưởng giả. Có thể nói
thành phần trưởng giả là
tiền thân của
giai cấp tư bản ngày nay. Thời
phong kiến xưa kia, vua chúa cầm đầu
quốc gia, bộ lạc. Có những vị anh quân hay
minh quân, nhưng thông thường mỗi
triều đại,
chúng ta thấy chỉ được một vài ông vua
ban đầu lãnh đạo tốt, những ông
kế tiếp không tài giỏi, thường
áp bức quần chúng để
củng cố ngôi vị. Họ cũng không có
đạo đức, thường
ăn chơi, sa đoạ, dẫn đến
hậu quả là nền kinh tế
suy sụp. Từ đó, vua phải
thừa nhận những người có khả năng làm giàu cho đất nước. Đó là mấu chốt sản sinh ra
giai cấp trưởng giả nắm phần kinh tế, có quyền hơn vua.
Kinh Hoa Nghiêm là
bộ kinh dung hoá tất cả
hệ thống tư tưởng từ Tiểu sang Đại, dung nhiếp các
tư tưởng của
chánh giới,
triết gia và cả
tôn giáo. Việc nào phải, tốt, đúng, dù không phải của
Phật giáo, cũng được
công nhận, không
cố chấp, hẹp hòi.
Theo
tinh thần phóng khoáng, khách quan ấy,
kinh Hoa Nghiêm dung nhiếp những
trưởng giả tốt, đưa ra mẫu
trưởng giả theo
Đại thừa là
biểu tượng người giàu,
nhân từ,
đức độ, hay cứu giúp người,
hoàn toàn khác với loại
trưởng giả ác độc ở
thế gian,
tham lam,
ích kỷ, đối xử tàn tệ với công nhân. Theo
Hoa Nghiêm, hàng
trưởng giả đạo đức, tài giỏi được định vị
ngang hàng với
Bồ tát,
vượt trội hơn
Thanh văn.
Tỳ Sắc Chi La là
cư sĩ lăn lóc với đời, không phải thuộc hàng
xuất gia học đạo; nhưng
trình độ tu chứng và
hiểu biết thì
ngang hàng với
Bồ tát lớn. Điều này gợi
chúng ta hình dung ra Phật thường trú
Pháp thân được đề cập trong
kinh Pháp Hoa.
Tỳ Sắc Chi La có cái nhìn về
đạo pháp khác hơn giới
xuất gia. Thật vậy, các
Tỳ kheo thấy Phật
Niết bàn, tất cả đều than khóc vì
Đức Phật là cội
đại thọ, núp bóng
từ bi của Ngài thì sống bình ổn ở
thế gian, được vua chúa
kính trọng.
Phật diệt đoä, không còn
nơi nương tựa.
Tinh thần này trong
kinh Pháp Hoa, phẩm
Như Lai thọ lượng ví như người con mất
bản tâm, thấy Phật không còn thì hốt hoảng
sợ hãi. Đến phẩm
Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát ghi rõ sau khi
Như Lai diệt đoä, chỉ những người mang
tâm hồn Đại thừa mới tu được. Vì hàng
Bồ tát lìa tướng mà tu, các Ngài
hiện thân tướng
tương ưng theo
yêu cầu thế gian, nên không gặp
chướng ngại.
Thanh văn kẹt
hình thức, cứ nghĩ Phật
Niết bàn là người tu bơ vơ, chẳng còn ai
che chở.
Kinh Hoa Nghiêm nâng lên một nấc cao hơn, nói lên
tinh thần Bồ tát đạo,
thể hiện bằng
hình ảnh cư sĩ Tỳ Sắc Chi La. Tỳ Sắc Chi La khẳng
định không thấy có một
Như Lai nào vào
Niết bàn. Nếu có
Niết bàn chăng là
thị hiện để
giáo hoá chúng sanh. Ý này được
kinh Pháp Hoa diễn tả rằng đối với người con uống lầm thuốc độc, bị mất
bản tâm,
lương y mới
nói dối rằng ông đã chết. Ông thật còn sống mà nói chết. Thật còn sống là Tỳ
Lô Giá Na Pháp thân thường hằng,
bất tử. Chỉ có
sanh thân Thích Ca Mâu Ni vào
Niết bàn.
Tỳ Sắc Chi La
hiện thân cư sĩ, nhưng thấu tột nguồn tâm và khế ngộ
chân lý; giữa Tỳ Sắc Chi La và Phật thông nhau, mới thấy không có Phật
Niết bàn và chứng bất
bát Niết bàn tế. Chẳng những
Thích Ca Mâu Ni không
Niết bàn mà tất cả Phật
quá khứ như
Ca Diếp,
Câu Na Hàm Mâu Ni,
Câu Lưu Tôn..., ông cũng thấy không vào
Niết bàn.
Và chư Phật trong
hằng hà sa số pháp giới cũng vẫn
hiện hữu. Cả
Phật vị lai cũng
hiện hữu. Đối với Tỳ Sắc Chi La, trong tất cả
pháp giới đều có chư
Phật hiện hữu. Cốt tủy của
kinh Hoa Nghiêm ở chỗ đó.
Thích Ca Mâu Ni là Phật đã thành và
chúng ta là Phật sẽ thành. Sẽ thành vì có
Phật chủng ở bên trong. Khi đọa
tam đồ,
Phật chủng ấy không mất, không thay đổi và lúc
thành Phật,
hạt giống Phật ấy cũng không tăng thêm. Rất tiếc,
chúng ta không thấy
hạt giống Phật của mình và của người. Đối với Tỳ Sắc Chi La, vì đã
thể nhập vào
pháp giới Hoa Nghiêm, tất cả đều là Phật, không có người nào không là Phật.
Phật chủng nằm trong thân xác hữu hạn maø kinh
ví như đảy da đựng ngọc quý hoặc lau sạch gương thì
hình ảnh hiện lên. Ta bị
phiền não nhiễm ô ngăn che bên ngoài,
Phật chủng không
hiện ra được. Ngài bảo
mọi người đều là Phật, nhưng tại sao ta không vận dụng cái cao quý ấy mà cứ tự nhận lấy cái khổ. Đối với
phàm phu thì điều này kỳ lạ, nhưng đối với Tỳ Sắc Chi La thì
hoàn toàn đúng. Hễ ngừng
vọng tưởng điên đảo là có
chân hạnh phúc, giống như ta chưa đói nghèo, nhưng sợ đói nghèo mà tự khổ.
Người nhiều
phiền não,
lo lắng đè kín
chơn tâm làm cái thấy họ sai lệch. Khi
vô minh ngăn che, không thấy
sự thật, tạo thành
ảo giác.
Vì vậy, người nào cởi bỏ
phiền não bao nhiêu, tâm họ
sáng suốt bấy nhiêu, gần Phật bấy nhiêu. Phật này là
chân lý, là
sự thật trên
cuộc đời.
Tỳ Sắc Chi La tuy mang thân
cư sĩ nhưng đã tiếp cận
chân lý, thấy được
hiện hữu vĩnh hằng của Phật, Phật không
Niết bàn và
mọi người đều là Phật. Vì Tỳ Sắc Chi La nhìn người qua lăng kính Phật và
xử trí với họ như vậy, tạo thành độ cảm, người cũng thấy Ngài là Phật,
xây dựng thành
cộng đồng hiểu biết,
thương yêu, người
hết lòng hợp tác, tạo
sự nghiệp tốt đeïp cho
trưởng giả mà họ coi là
sự nghiệp chung.
Nhật Liên thánh nhân cũng lảnh
hội ý này, sau 49 ngày
thiền định, Ngài
cho biết chẳng những Phật
quá khứ,
hiện tại hiện hữu mà cả những người
vị lai cũng là Phật, không phải là Phật sẽ thành. Theo
Nhật Liên, không có Phật đã thành, đang thành và sẽ thành mà tất cả đều
hiện hữu ở nhứt điểm
thời gian. Thấy
thế giới quan như vậy, tạo cho ta và người cùng
an lành,
hỗ tương nhau
tu hành.
Theo Tỳ Sắc Chi La, tất cả đều là Phật, nhưng vì ta là
chúng sanh nên không thấy Phật. Ngược lại, nếu
chúng ta là Phật thì không ai không phải là Phật. Tùy mức độ
tu chứng, phá vỡ
phiền não của ta tới đâu thì điều tốt đeïp sẽ đến tới mức ấy. Trên
cuộc đời này không có người xấu, người tốt. Xấu hay tốt là tùy ở ta, không phải ở người. Còn thấy xấu thì nên tự trách ta vụng tu.
Đến chỗ khó hiểu, khó thấy,
không chấp nhận mình là Phật, cứ nhận mình
thấp hèn, khổ sở.
Vì vậy, Tỳ Sắc Chi La bảo hãy
chắp tay cầu đức
Quan Âm. Nói cách khác, từ
chân lý của Tỳ Sắc Chi La chỉ cao quá, không bắt kịp thì phải rớt xuống tìm
Quan Âm ở núi
Phổ Đà cứu giúp.
27 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Bồ Tát Quán Tự Tại.
Tỳ Sắc Chi La tuy là
cư sĩ nhưng đã
thâm nhập pháp giới, thấy
mọi người đều là Phật hay
ba đời các
Đức Phật đều
hiện hữu.
Chân lý này khó
diễn tả bằng
ngôn từ, khó hiểu được bằng
vọng thức điên đảo. Ông bảo
Thiện Tài nên
tìm hiểu bằng
cách đi về phương Nam, đến núi
Phổ Đà tìm
Bồ tát Quán Tự Tại.
Quán Tự Tại là vị
Bồ tát chứng trí Bát Nhã, thấy được
thật tướng các pháp,
mọi việc trần gian không thể làm
chướng ngại việc hoằng truyền
chánh pháp của Ngài.
Đạt được như vậy,
từ tâm chơn như Bồ tát Quán Tự Tại phát lòng
đại bi, thương
chúng sanh, thấy chúng thực sự không khổ, nhưng cứ nghĩ tươûng là khổ. Ngài mới
thể hiện tâm từ bi bằng cách
quán sát, lóng tai nghe tiếng than van,
kêu cứu của người
trần thế, nên Ngài còn có danh xưng là
Quán Thế Âm Bồ tát.
Quan Âm kết hợp hạnh tu trong 3
bộ kinh :
Bát Nhã,
Hoa Nghiêm và
Pháp Hoa. Trong kinh
Bát Nhã,
Quan Âm sử dụng nhĩ căn, luyện tánh nghe đến mức
viên thông, không có tiếng than,
cầu cứu nào của
chúng sanh mà Ngài
bỏ sót, nên được tôn là
Quán Tự Tại Bồ tát.
Thâm nhập trí
Bát Nhã,
Quán Tự Tại thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không; từ
tri kiến ấy,
cuộc đời đối với Ngài không khổ, khổ lụy của
cuộc đời không
chi phối Ngài được.
Quán Tự Tại thanh thản trước
sóng gió ba đào vì
ý thức sâu sắc
ngũ ấm hay
mọi việc đều do nghiệp mà
tác thành.
Kinh Hoa Nghiêm cũng dạy từ nghiệp sanh ra
thân tướng của
chúng sanh và từ thân tạo thành
quốc độ.
Trên bước đường tu,
chúng ta theo gót Quan Âm, thấy được
sự thật nên không còn gì phải
sợ hãi. Ta
cầu nguyện Ngài và
thâm nhập được
trí Quan Âm thì
chúng ta không còn
đau khổ nữa. Vì thế, Ngài
tiêu biểu cho
Bồ tát thể hiện hạnh
thí vô úy.
Quan Âm chứng
Bát Nhã, tuy không làm gì, nhưng thật Ngài giúp
chúng ta hết
điên đảo vọng tưởng.
Thâm nhập Phật trí ở kinh
Bát Nhã, thấy pháp đều không, bước sang
kinh Hoa Nghiêm,
Bồ tát Quan AÂm là
pháp lữ đối với
mọi người. Theo
tinh thần Hoa Nghiêm, không coù một
Bồ tát cố định nào
hiện thân ở
trần thế.
Chúng ta sẽ rơi vào
vọng tưởng nếu cho rằng có
Quan Âm thật
hiện ra. Có thể nói lúc nào đó, tâm
chúng ta hoàn toàn thanh tịnh và
chánh niệm Quan AÂm,
tự nhiên không
cảm thấy sợ sệt gì. Theo tôi, đó chính là
Bồ tát Quan AÂm hiện thẳng vào tâm
chúng ta.
Kinh nghiệm tu hành của riêng tôi, trên chặng đường nguy nhiểm nhất, tưởng chừng như chết; nhưng nhờ niệm Quan AÂm
tương tục, tôi
cảm thấy bình ổn lạ thường và
vượt qua sóng gió hiểm nguy một cách nhẹ nhàng.
Thiết nghĩ Bồ tát Quan AÂm đã ngự trị ngay trong lòng tôi, không phải một Quan AÂm
hữu hình ở bên ngoài nhìn thấy bằng mắt.
Cảm nhận
tinh thần Hoa Nghiêm, từng bước chân đi có bạn
đồng hành giúp tôi
trưởng thành đạo nghiệp. Tỳ Sắc Chi La cũng bảo
Thiện Tài rằng
Quan Âm Bồ tát luôn
thị hiện làm bạn
đồng hành với
chúng ta, không phải Ngài là một
Bồ tát chiếu rực ánh sáng
hiện hữu cho
chúng ta quỳ lạy. Đối với tôi, những
pháp lữ đồng hành nhắc nhở tôi từng câu kinh, từng
bài kệ,
trợ lực cho tôi
vượt qua khó khăn,
tiến tu đạo hạnh, thì đó là
hiện thân của
Bồ tát Quan Âm.
Quan Âm ở trong tâm, nên từng
trường hợp biến dạng không ngừng. Ngài
tùy theo nhu cầu mà biến hiện khác nhau,
hiện thân già trẻ, sang hèn hay
hình thức gì, nghịch cũng như thuận đều
tác động cho
chúng ta trưởng thành trên đường hành đạo.
Danh xưng
Quán Tự Tại để
diễn tả sự
tu chứng và tên
Quan Âm diễn tả việc làm.
Bồ tát tu nhân theo
Hoa Nghiêm, đối với các pháp được
tự tại và khởi lên tâm
đại bi, nghe tiếng kêu trầm thống của
chúng sanh. Trong 32
trường hợp ứng thân của
Quan Âm thể hiện quyền năng diệu dụng của Ngài. Tu
Hoa Nghiêm và
đắc đạo ở
Pháp Hoa nhằm
diễn tả hai mặt : Nhân và quả của
Bồ tát.
Quán Tự Tại Bồ tát cho biết Ngài
tu pháp quán sát các pháp được
tự tại như vậy, còn
việc làm kỳ diệu thì nói không cùng, nên Ngài
giới thiệu Thiện Tài đến học với
Bồ tát Chánh Thu.
28 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Bồ Tát Chánh Thư.
Từ
thế giới Diệu Tạng của Chánh Thu
Bồ tát đến
cõi Ta Bà phải
trải qua bất khả thuyết thế giới. Tuy xa
vậy mà chỉ
trong một niệm tâm Ngài tới được liền,
chúng ta chỉ khởi một niệm
tương ưng với Chánh Thu
Bồ tát, Ngài
hiện ra ngay.
Việc làm của
Bồ tát như vậy rất khó tin, khó làm.
Thiện Tài đảnh lễ Chánh Thu và
cho biết ông nương theo
Phật huệ và
Bồ tát lực thì chẳng những tin mà còn
nguyện học và làm như Ngài. Pháp của
Bồ tát phô diễn cho
chúng ta tin được đã khó,
tiếp thu và làm được như Ngài càng khó hơn nữa.
Thiện Tài nhờ có căn lành nhiều đời mới tin và
tiếp nhận được pháp
Bồ tát. Và Chánh Thu cũng
cho biết vì
Thiện Tài có tâm
bồ đề như thế, Ngài mới truyền dạy pháp
Bồ tát cho ông được.
Theo
Bồ tát Chánh Thu, Ngài từ
thế giới Diệu Tạng đi qua
vô số thế giới,
diện kiến vô số Đức Phật và
đảnh lễ,
cúng dường,
tu học pháp với các
Đức Phật xong, mới đến
Ta bà. Tất cả
việc làm ấy chỉ caàn
thời gian một
niệm tâm là đủ.
Vì vậy, pháp Ngài chứng gọi là
Giải thoát Bồ tát phổ tật hành, có thể đến
mọi nơi nhanh như ánh sáng. Có bao nhiêu người
nghĩ tưởng đến
Bồ tát, Ngài liền
xuất hiện làm
pháp lữ với họ.
Chỉ có
pháp như vậy mới có thể hành
Bồ tát đạo đúng nghĩa. Việc của
chúng ta làm bằng
ngũ ấm thân trên
cuộc đời, cứ việc này xong, đến việc khác, thiết tưởng như thế thì cả
một đời, ta làm chẳng được bao nhiêu. Ý này được
Phổ Hiền dạy rằng tu 60 kiếp hàm chứa
trong một niệm tâm, có đủ cả 3 thời :
Quá khứ,
hiện tại,
vị lai.
Bồ tát theo
Hoa Nghiêm học và
hành pháp một
niệm tâm hoàn thành đầy đủ tất cả việc, trong khi
Bồ tát nhân gian mang thân người, phải dứt việc này mới sang việc khác.
Thiện Tài nghe pháp thì
tiếp thu và vận dụng được trong cuộc sống giống như Chánh Thu
Bồ tát. Riêng
chúng ta, có người nghe
việc làm của
Bồ tát thì nghĩ rằng điều đó nhằm
diễn tả ước mơ của người xưa.
Tuy nhiên,
thiết nghĩ, ở
thời đại chúng ta, bằng trí
thực tiễn của người hiểu khoa học
quan sát thì pháp của
Bồ tát Chánh Thu
chứng đắc là có thật.
Ngày nay nhờ phát minh vô tuyến truyền thanh hay truyền hình,
chúng ta dễ dàng hiểu tại sao
Bồ tát trải qua nhiều
thế giới, làm đủ các
Phật sự rồi đến
Ta bà mà chỉ mất một
niệm tâm.
Thực tế như
sự kiện tranh giải các môn thể thao ở Sea Games được truyền qua vệ tinh rồi từ vệ tinh truyền đến
Hoa Sen 2. Và chỉ trong chớp mắt, khắp nước ta, nơi nào có máy truyền hình đều nhận được
hình ảnh,
âm thanh đang diễn ra ở Inđônêxia do
Hoa Sen 2 trực tiếp truyền tải đến. Có thể tạm
so sánh cho
dễ hiểu là
Bồ tát Chánh Thu
ví như vệ tinh
viễn thông, có khả năng
tiếp thu tất cả
hình ảnh các
Đức Phật ở
vô số Phật quốc. Từ vệ tinh ấy truyền xuống
Hoa Sen 2 hay có bao nhiêu
hoa sen đều nhận được
hình ảnh chuyển tải đến. Cũng vậy, Chánh Thu truyền lực đến các
Phật quốc,
đảnh lễ chư Phật, làm các
Phật sự ở
vô số thế giới, tất cả đều nằm trong
phạm vi hoạt động của Chánh Thu
Bồ tát. Và bao nhiêu người có
nhân duyên,
khởi tâm nghĩ đến thì Ngài
xuất hiện đồng một lúc đầy đủ; giống như có bao nhiêu máy Tivi cũng đều có đủ
hình ảnh từ
Hoa Sen truyền đến.
Chánh Thu
Bồ tát xuất hiện ở
Ta bà và đồng lúc có Ngài trong toàn
pháp giới thể hiện ý nghĩa của
kinh Hoa Nghiêm một là tất cả và tất cả có đủ trong một.
Hai
Bồ tát, một vị là
Quán Tự Tại tiêu biểu cho trí và Chánh Thu
tiêu biểu cho hạnh,
thể hiện ý nghĩa biết tất cả và làm tất cả, nhưng làm
trong một niệm tâm thôi. Nói về
quốc độ thì Chánh Thu
trải qua vô số thế giới trong một niệm, nói về
thời gian thì
quá khứ,
hiện tại,
vị lai đều thu nhiếp thành một
niệm tâm.
29 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Thần Đại Thiên.
Nói đến
thần linh, các dân tộc trên
thế giới đều
quan niệm khác nhau.
Tuy nhiên, tất cả đều nghĩ rằng
thần linh tiêu biểu cho một
hiện hữu thiêng liêng vượt ngoài tầm
hiểu biết của
con người.
Riêng
kinh Hoa Nghiêm, phẩm
Nhập pháp giới đề cập rất nhiều về
thần linh. Các vị thần này được
diễn tả dưới dạng
tu hành đạo
Bồ tát, mang lại
tình thương và
hiểu biết cho
chúng ta, để rồi từng bước chư thần tiến đến
Vô thượng đẳng giác. Và
chúng ta được họ giúp đỡ cũng
dần dần sửa đổi tâm tánh,
tiến tu thành Phật. Đó là điểm
chính yếu khác biệt giữa
quan niệm thần linh theo
Phật giáo và các
tôn giáo khác.
Thật vậy,
kinh Hoa Nghiêm phổ cập trên
thế giới vì dung nhiếp tất cả
tín ngưỡng cổ đại và mang tính
triết học. Trong khi phần lớn các
tôn giáo nặng về
tín ngưỡng, thờ thần nhưng không biết rõ lai lịch của thần, không lý giải được
việc làm của thần.
Trái lại,
giới thiệu các
thần linh,
kinh Hoa Nghiêm cho
chúng ta biết rõ
việc làm của họ,
xuất xứ của họ,
nguyên nhân đưa họ đến
vị trí thần linh.
Thiện Tài đồng tử được
Bồ tát Chánh Thu dạy đến cầu học với Thần
Đại Thiên. Thaàn này chỉ cho
thiên thần, là
hình thức tín ngưỡng mà
chúng ta quen gọi là Trời. Không biết Trời là ai, có người
hình dung ra đó là đấng tạo hoá hay
Ngọc hoàng thượng đế. Người
Nhật bản thì gọi là Thiên Chiếu. Nói chung, thần là đấng
hiện hữu ở trên ban xuống mà
chúng ta không biết.
Người ở
nhân gian không thấy Trời, nhưng
Thiện Tài gặp được ông, nói lên
tinh thần giữa
nhân gian và
thiên thượng có
liên quan mật thiết với nhau. Những gì
chúng ta mới biết
sử dụng tưởng là mới có, nhưng thật sự hàng ngàn năm trước tất cả
hiện tượng trong trời đất đã có sẵn. Người có
trí tuệ khám phá được nguyên lý ấy, người
mê muội thì chẳng có gì.
Không phải
Đại Thiên mới
hiện hữu, nhưng nhờ gặp Chánh Thu
Bồ tát khai
huệ nhãn,
Thiện Tài phát sanh
trí tuệ, mới thấy được
Đại Thiên.
Đại Thiên xuất hiện, dạy cho
Thiện Tài Bồ tát hạnh, tất nhiên
Đại Thiên đã là
Bồ tát.
Bồ tát ở trong
loài người làm
lợi ích cho
mọi người,
Đại Thiên là
Bồ tát ở trong loài trời.
Đại Thiên là vị thần
chi phối nhân gian, tạo ra
con người. Vị thần này được
kinh Hoa Nghiêm diễn tả là người
tác động để
chúng ta trở thành tốt. Oâng thần mà người Nhật hay
Việt Nam thờ cúng trước kia
quấy nhiễu, đòi hỏi đủ thứ, đòi cả đồng nam
đồng nữ. Nay
kinh Hoa Nghiêm diễn tả nếu thật là
Đại Thiên thì phải thương người, lo cho người nên được
kính trọng; đó chính là
Bồ tát.
Đại Thiên cho
Thiện Tài châu báu quý giá, dù
Thiện Tài không xin. Trong khi nhiều người khác quỳ lạy
van xin mà ông vẫn không giúp. Theo
Đại Thiên,
Bồ tát khó thấy, khó thân cận. Người nào có
ba nghiệp thuần tịnh thì
Đại Thiên hiện ra và
ban cho tất cả.
Thiện Tài có
hạnh nguyện giống
Đại Thiên, nên Ngài cho ông rất nhiều nhằm kết làm
pháp lữ, cùng làm
lợi ích muôn loài. Không riêng gì
Thiện Tài mà những người đã tu
ba nghiệp thanh tịnh,
trí tuệ bừng sáng, thông được tất cả thì
thiên đường hiện ra và được
Đại Thiên ban thưởng. Ngài
cho không phải để họ hưởng thụ, mà để thay Ngài làm
lợi ích cho người khác.
Đại Thiên không
thiên vị,
sở dĩ Ngài không cho người còn đủ
nghiệp ác vì giúp, họ sẽ phá đạo hại đời. Đối với
chúng sanh đó, Ngài hiện nhiều thân, đa dạng, có lúc làm
thiên lôi để
đe dọa cho họ sợ, không dám làm việc
tội lỗi.
Học vơùi
Đại Thiên, biết được việc của
thiên đường và tìm được tất cả
phúc lạc, thì đến chuyện
dưới đất phải hỏi
địa thần An Trụ.
Thiên thần và
địa thần, hay
tín ngưỡng trời che đất chở đã có từ lâu theo
tôn giáo cổ truyền, nhưng
không giải thích được. Phải đến
kinh Hoa Nghiêm mới lý giải sâu sắc về
ý nghĩa của hai
thần minh này.
Có thể nói rằng khi
Phật giáo thịnh hành, các
nhà sư dùng
tín ngưỡng nhân gian có sẵn để giúp
mọi người hiểu lý
trùng trùng duyên khởi của
kinh Hoa Nghiêm; đó là pháp tu sống hài hoà với trời đất và với
mọi người.
30- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Địa Thần An Trụ.
An
Trụ địa thần là
thiện tri thức thứ 30 mà
Đức Phật Thích Ca suy nghĩ,
nhận ra và chỉ dạy. Vị này tập trung tất cả
địa thần khác và chỉ cho họ thấy
Thiện Tài là Phật tạng, nghĩa là kho chứa Phật. Phật này chỉ cho
sáng suốt,
giác ngộ, là
trí tuệ. Trong
con người đơn sơ của
Thiện Tài hàm chứa
trí tuệ bao la, kỳ vĩ. Nói cách khác,
trải qua quá trình
tu hành đến khi trí giác bừng sáng,
chúng ta thấy
mọi việc trong trời đất như thấy vật để trong bàn tay, tức tận dụng được
trọn vẹn chất xám của
chúng ta, thaáu biết
toàn bộ vũ trụ. Hiểu theo
tinh thần ấy, An
Trụ địa thần mới nói
Thiện Tài là kho tàng
vô giá.
Địa thần hỏi
Thiện Tài muốn thấy kho tàng mà ông đã gieo trồng nhiều đời hay không. Kho báu của ông mà ông lại không biết, phải nhờ người khác chỉ.
Kinh Pháp Hoa gọi là
Phật tri kiến.
Tri kiến Phật của
chúng sanh y như Phật, không khác; nhưng vì họ không biết, không thấy, nên phải chịu
thân phận nô lệ,
nghèo nàn.
Thiện Tài nhờ An
Trụ địa thần chỉ kho tàng
trí tuệ, thấy được
Phật tri kiến, nghĩa là ở ngay
nhân gian tu hành, sống chung với những người
thấp kém, tệ ác, vận dụng được
trí tuệ, vượt khó. Đó là môi trường để ta hành
Bồ tát đạo,
thể hiện loøng
từ bi, phát huy
đạo đức. Chung quanh toàn người
ganh tỵ, thù hiềm mà ta
sử dụng trí khôn, hoá giải được thì
cuối cùng ta
thành Phật.
Chúng sanh có khổ thì ta mới phát
bi tâm, tận tụy với người khổ thì ta mới
thành tựu đaïo hạnh.
Vì vậy Bồ tát bỏ
thế gian đi tìm Phật là tìm
lông rùa sừng thỏ, không bao giờ có.
Địa thần cho biết xưa kia Ngài được
Đức Phật Diệu Nhãn dạy pháp
tu thiền định, chứng được
trí tạng, tức kho tàng
trí tuệ. Khi đắc được pháp này, Ngài muốn
nhập diệt ngay. Nhưng thấy người khác cũng có kho tàng
trí tuệ ấy mà không biết, nên nguyện ở lại để chỉ dạy họ.
Tâm niệm vì lợi ích chúng sanh của
địa thần cao cả như vậy, đã
biến đổi thần thành
Bồ tát.
Tất cả
kinh Đại thừa gặp nhau ở điểm ai
tu hành cũng
thành Phật.
Địa thần An trụ hay sống ở đây để tìm người có
nhân duyên căn lành mà
nâng đỡ họ lên.
Vì vậy,
địa thần nói với
Thiện Tài rằng ông đã gieo troàng căn lành thì kho tàng này thuộc về ông.
Có thể nói
Thiện Tài chính là
Đức Phật Thích Ca và
bảo tàng vô giá của
Đức Phật là nước
Ma kiệt Đà. Thật vậy, ở ngay mảnh đất hung tàn bạo ngược nhất của
A Xà Thế mà đức
Thích Ca đã phô diễn được
trí tuệ tuyệt vời,
thể hiện diệu pháp, cảm hoá vua
ác độc thành người
hộ pháp đắc lực.
Tóm lại,
địa thần An Trụ chỉ dạy
Thiện Tài pháp
tu đạt được
trí tuệ vì có
trí tuệ là có tất cả. Trí tueä phát triển đến độ cao, khai thác được tất cả thì không có gì
không hữu ích. Còn
nghèo đói, khổ đau chỉ vì
con người không
phước huệ.
31- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Đế.
Học đạo Bồ tát và
tu Bồ tát hạnh,
chính yếu cần
quan sát công hạnh của các Ngài để
ứng dụng vào cuộc sống của
chúng ta. Ở đây, tên của vị thần này hơi lạ.
Tuy nhiên, đọc kỹ kinh,
chúng ta thấy
công hạnh Ngài cũng khá
quen thuộc. Trong
kinh Pháp Hoa,
chúng ta có thể bắt gặp Dạ thần này mang tên là
Nguyệt Quang Bồ tát hay
Mãn Nguyệt,
Bảo Nguyệt Bồ tát.
Phải khẳng định rằng tất cả
thần linh được
diễn tả trong
kinh Hoa Nghiêm không mang
tính chất thần đạo đã có ở các nước.
Truyền thuyết cổ xưa dựng nên những vị thần và các vị này được nhào nặn theo
tinh thần Hoa Nghiêm, tạo
thành thần minh kiểu mẫu
hành đạo Bồ tát.
Bồ tát là người sống ở
nhân gian vì lợi ích và phuùc lạc cho người khác. Với
ý nghĩa ấy,
Bồ tát trong
kinh Hoa Nghiêm được
truyền bá đến đâu thì người ta
hình dung ra đó là những vị thần có từ trước. Từ đó, vị phúc thần được
kết hợp với
Bồ tát trở thành những
minh thần của
Hoa Nghiêm và tống xuất các hung thần đi. Được
xây dựng trên
tinh thần vì
phúc lạc cho Trời người,
Bồ tát và phúc thần
tuy hai mà một hay đó là
hai mặt khác nhau được
diễn tả thành một và chỉ
hiện hữu trong
kinh Hoa Nghiêm.
Thiện Tài phải gặp
địa thần An Trụ rồi mới thấy dạ thần, vì học với
địa thần,
vấn đề trí tuệ được đặt trên hết. Thật vậy, đối với người tu,
trí tuệ là
cốt lõi.
Hiện tượng trong trời đất có sẵn, nhưng người không có
trí tuệ chẳng thể thấy biết. Riêng
Đức Phật giác ngộ và bằng
trí tuệ thấu suốt mọi
hiện tượng của
vũ trụ.
Đức Phật dạy nếu ta không biết thì thân này là một khối
phiền não, nhưng nếu biết thì cũng nhờ thân nguõ uẩn mà ta phát sinh
trí tuệ hay tu
thành Phật được.
Tất cả quý giá tiềm tàng trong lòng đất cũng như mọi
hiểu biết tiềm ẩn trong tâm
con người, đó là
ý nghĩa gặp được
địa thần, tức phát hiện
trí tuệ có sẵn trong
chúng ta.
Đức Phật thành bậc
Vô thượng đẳng giác vì phát hiện và
sử dụng được
trí tuệ có sẵn. Và Ngài
hiện hữu trên
cuộc đời này chỉ nhằm
mục tiêu chỉ
chúng ta cách thức khai thác khả năng sẵn có của mỗi người. Khai thác bằng cách nhờ
thiện tri thức khơi dậy căn lành, giúp
chúng ta hiểu biết mọi việc trên
cuộc đời.
Nhờ
thiện tri thức là
địa thần An Trụ,
Thiện Tài thấy được Dạ thần
Bà San Bà Diễn Để. Theo
tín ngưỡng cổ xưa, dạ thần này là
Đại Phạm Thiên vương hay đấng tạo hoá. Theo
thời đại ngày nay,
chúng ta có thể hiểu đó là nguyên lý tạo nên
vũ trụ và
con người, tức lý
duyên sinh.
Đức Phật dạy người nào thấy
nhân duyên là thấy pháp, thấy pháp là thấy
Như Lai hay nguyên lý tạo ra
vũ trụ.
Kinh Hoa Nghiêm cho biết không phải người nào hay đấng tạo hóa nào áp đặt cho ta, chính cộng nghiệp của
chúng sanh tạo nên chúng và
thế giới của chúng.
Thế giới loài người do coäng nghiệp
con người tạo nên, các loài khác cũng vậy.
Tuy nhiên, trong cộng nghiệp cũng có
biệt nghiệp, nên cùng là
loài người nhưng không ai giống ai.
Biệt nghiệp hay cá tánh là những
đặc điểm riêng không thể phủ nhận. Trên đường tu
Bồ tát đạo,
chúng ta cầu
thiện tri thức giúp đỡ để loại trừ cá tánh
tác hại người khác khổ đau và phát huy cá tánh tốt nhằm tạo
thế giới tốt đẹp.
Thiện Tài đồng tử qua 53 chặng đường
cầu đạo cố
khám phá triệt để mặt tốt này.
Sau khi phát hiện được
quý báu nhất là
trí tuệ mà
địa thần chỉ dạy và phát triển
trí tuệ đến độ cao nhất thì
mọi việc trên
cuộc đời trở thành quý giá, ở ngay
thế gian này mà
tiến tu. Từ
yếu tố chính là
vật chất tức tận dụng những cái có trong tầm tay hay trong lòng đất,
Thiện Tài mới bắt đầu
quan sát vũ trụ, tìm nguyên lý tạo nên
vũ trụ và
con người.
Lúc ấy,
Thiện Tài thấy Dạ thần, hay nhìn vào đêm dài
sanh tử của
chúng sanh, tìm trong
vũ trụ bao la từ kiếp này sang kiếp khác hay những
biến chuyển trong trời đất. Ngày nay, với
phương tiện khoa học, có thể
hiểu ý nghĩa gặp dạ thần, được thần dạy nghĩa là
chúng ta sử dụng những gì có trong tầm tay để phát triển
hiểu biết,
quan sát thế giới bên ngoài. Từ đó, biết được nguyên lý tạo nên cuộc sống, mà người xưa coi đó là đấng tạo hoá.
Trong kinh
diễn tả Thiện Tài nhìn vào thân của Dạ thaàn thấy nhựt
nguyệt tinh tú hiện vào. Tạo ra một vị thần ở trong đình miếu cho người thấy được thì không khó. Nhưng hình thành một
thần linh mà trong người họ có
mặt trời,
mặt trăng, ngôi sao,
quả thật khó
hình dung nổi.
Vì vậy, trong kinh bảo rằng gặp được
địa thần An Trụ rồi mới thấy Dạ thần
Bà San Bà Diễn Để. Có thể hiểu rằng khi
trí tuệ chúng ta đã phát triển cao độ,
cho phép chúng ta quan sát rộng hơn. Không còn thấy hạn hẹp trong thân
con người, nên thấy vị thần này
biến hoá thành rộng lớn, lấy
vũ trụ và
pháp giới làm thân. Rồi thấy tất cả
biến hoá không ngừng, trong mỗi lỗ chân lông phóng
vô số ánh sáng đến tất cả
chúng sanh.
Đến đây,
chúng ta trở về kinh Pháp Hoa có ví dụ
Đức Phật đối với
chúng sanh ví như ánh sáng
mặt trời chiếu đến muôn loài. Tất cả cỏ cây, muôn thú,
loài người...
hoàn toàn khác nhau, nhưng không loài nào sống ngoài
định luật tồn tại cuûa
vũ trụ. Nguyên lý ấy
chi phối chúng ta từng phút giây, mà không ai biết, chỉ có
Thiện Tài thấy rõ tương quan tương
duyên thuận nghịch của muôn loài nương nhau
tồn tại trong trời đất. Bằng
trí tuệ,
Thiện Tài quan sát Dạ thần, tức
quan sát vũ trụ như vậy.
Dạ thần dùng lực
chi phối mọi loài
chúng sanh, nhưng
chúng sanh không biết luật
chi phối ấy. Kinh
diễn tả là người thích tu
Thanh văn thì Dạ thần
hiện thân Thanh văn nói pháp, họ nghe liền
khởi tâm vui thích,
được giải thoát. Ý này nếu được hiểu mộc mạc rằng vị thần
uy quyền lớn như đấng sáng thế, chỉ
chắp tay cầu xin thì Ngài sẽ hiện cái gì
chúng ta ưa thích. Nghĩ như vậy, dễ rớt vào
mê tín, nhất là đối vơùi người nhiều lòng tham và
chẳng may lại gặp thêm
ác nhân khai thác,
nhất định đưa họ vào đường
tội lỗi.Theo tôi, những ai có
nhân duyên,
thiện căn công đức sẽ gặp được dạ thần. Không có thần từ
hư không hiện đến, nhưng tất cả người đến với tôi đều là
thiên thần,
địa thần, dạ thần,
Bồ tát đồng hạnh.
Chúng ta tìm
thiên thần vô hình không bao giờ gặp, đó là
ma thuật mà
Đức Phật thường phủ nhận.
Tuy nhiên,
chúng ta có
pháp lữ đồng hành; khi khởi lên
tâm niệm thiện thì
thiện căn công đức đã gieo trồng
kết hợp được với
Bồ tát đồng hạnh.
Thiện căn công đức của
chúng ta và của người
gặp nhau,
biến thành tâm thiện,
việc làm thiện. Vì thế,
chúng ta tìm
thiện tri thức ngay trong
cuộc đời này là những
Tỳ kheo,
Tỳ kheo Ni,
nam nữ Phật tử, những người có
lòng tốt... Nếu bỏ những người này, tìm người vô hình cũng giống như tìm
lông rùa sừng thỏ. Nhưng
quan sát sinh hoạt thưïc tế,
chúng ta thấy người tu
xung đột với nhau, đó là vì
xung đột nghiệp thân, từ đó
thiện tri thức biến thành ác ma.
Trên bước đường tu, điều này rất quan trọng. Khi
chúng ta tìm
thiện tri thức là
phát khởi từ nhân duyeân căn lành,
chúng ta có lòng thương người, lòng
khoan dung,
phản ứng tốt
tự nhiên cũng sẽ đến với
chúng ta.
Trên nền tảng phát xuất
từ thiện căn và được
đáp lại bằng
thiện căn, nếu
chúng ta đến với người mà trong lòng không sanh
thiện căn, nhưng sanh
ác nghiệp, thì
chúng ta phải tạm tránh; chỉ nên đến nơi nào khơi dậy căn lành mà thôi.
Vì vậy Thiện Tài cho biết nhờ
thiện tri thức khai ngộ mà
bản tâm thanh tịnh.
Tới gặp
thiện tri thức, tất cả thắc mắc từ ngàn xưa tự
giải đáp,
kiêu căng, tật đố,
ngã mạn tự biến mất.
Chúng ta lạy Dạ thần hay
Bồ tát Nguyệt Quang, được ánh quang Ngài
soi sáng đến, bao nhiêu
phiền não nhiễm ô đè nặng lên
kiếp người,
nhứt thời tan hoại, lòng được
mát mẻ. Nhất là
trí huệ khai phát, khiến
chúng ta sáng suốt, cái thấy mỗi ngày
đúng đắn hơn. Trước lầm tưởng có
Trời Phạm Thiên, nhưng nay thấy được thuyết
duyên sanh nhờ
Bồ tát khai mở cho
chúng ta.
Thiện tri thức là bất cứ người nào giúp ta
thành tựu 4 việc : bớt
phiền não, tâm
mát mẻ, trí
sáng suốt và
đến gần quả vị Như Lai.
Trái lại,
ác ma làm
chúng ta phiền não,
tham lam,
ích kỷ, ghét ganh.
Chúng ta tìm
thiện tri thức, những người cùng
ý chí, cùng
hạnh nguyện ngay trên
cuộc đời này. Ngài
Nhật Liên dạy rằng người cầm gươm giết Ngài là
thiện tri thức vì họ làm Ngài khởi niệm lành và họ cũng có niệm lành. Trong khi người tâng bốc ta, nhưng ta khởi niệm ác thì người đó là
ác ma.
Đối với
chúng ta, tìm
thiện tri thức ở ngay trên
cuộc đời; nhưng
xa hơn, đối với
Thiện Tài, tầm
quan sát của ông là
vũ trụ.
Thiện Tài mượn tất cả
hiểu biết của
thiện tri thức trên đời dồn lại để ông có
kiến thức siêu việt hơn.
Thiện Tài nương vào các
thiện tri thức trên đời và các
phương tiện trên mảnh đất này mà đi xa vào
vũ trụ bao la. Ông
tìm thấy thiện tri thức dưới dạng thức khác, không phải là người nói bằng
ngôn ngữ hay hành động khuyến thiện. Mọi
hiện tượng thiên nhiên như cánh chim, ánh trăng soi bên dòng suối, hay một bông
hoa dại, một ráng ban mai, v.v... đều phát triển
thiện căn cho
Thiện Tài, dẫn đến tâm
thánh thiện nhất,
việc làm lợi lạc nhất cho đời, đều là
hình ảnh tiêu biểu của Dạ thần.
32 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Dạ Thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa Và Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sanh.
Sau khi cầu học với nhiều
thiện tri thức thuộc mọi
thành phần xã hội,
Thiện Tài bắt đầu tham quan
thế giới vô hình để
học đạo với
thiên thần,
địa thần, dạ thần.
Dạ (Dạ thần) là ban đêm. Ban đêm thì khó
nhận thấy sự vật
chính xác.
Cuộc đời đối với người còn trong
sanh tử cũng vậy, khó mà
nhận biết mọi việc tường tận, nên thường gọi là đêm dài
sanh tử.
Chúng ta không biết lúc nào chết và sẽ đi về đâu. Dạ thần biết rõ diễn biến trong vô hình và có thể giúp
chúng ta vượt qua mọi
chướng ngại trong đêm dài
sanh tử.
Dạ thần cho
Thiện Tài biết rằng họ đã ở trên
cuộc đời này bao nhiêu kiếp, đã từng làm vua, làm tướng, laøm
thương gia, làm đồng nam,
đồng nữ,
làm Phật ..., thấy biết tất cả.
Chúng ta học
kinh Hoa Nghiêm phải
lưu ý điều quan trọng này. Ngày nay cùng tu trong
pháp hội, giúp đỡ nhau là biết
chúng ta đã từng
hoà hợp với nhau trong
quá khứ. Người chống đối ta cũng vậy, đời trước họ và ta cũng từng chống
trái nhau. Bài
pháp điển hình này được
Đức Phật chỉ rõ qua
sự kiện Đề Bà Đạt Đa thường
phá hại Phật từ
vô số kiếp
cho đến hiện đời và có cả 500 người theo
Đề Bà từ
quá khứ để chống Phật,
hiện tại cũng vậy. Nhưng càng phá Phật thì
uy đức Ngài chẳng những không bị giảm sút, mà còn tăng thêm.
Dạ thần nói với
Thiện Tài hay chỉ cho
chúng ta những
sự kiện quaù khứ là nhân dẫn tới
hiện tại. Thấy rõ
nhân tạo tác ấy,
chúng ta mới hiểu được người, biết cách
xử sự đúng đắn cho mỗi
trường hợp. Đối với người giúp đỡ, người chống đối hay người
thờ ơ,
chúng ta phải
xử trí cách nào.
Cuộc đời là đêm tối,
chúng ta đang dò dẫm đi và dạ thần cho những
lời khuyên sáng giá. Hai vị dạ
thần quan trọng mà
Thiện Tài gặp được trong
cuộc đời là Khai phu nhứt thiết thọ hoa và
Đại nguyện tinh tấn lực cứu
nhứt thiết chúng sanh. Dạ thần Khai phu nhứt thiết thọ hoa chỉ
chúng ta sống như thế nào để cuộc sống được phát triển. Dạ thần
Đại nguyện tinh tấn lực cứu
nhứt thiết chúng sanh bằng kinh nghiệm từng trải giúp người
vượt qua mọi tai ách trên
thế gian.
Thiết nghĩ trong đời thường,
mọi người thường cầu mong hai vị thần ấy giúp đỡ để
đạt được hai điều : cuộc sống được phát triển và không gặp tai ách.
Tuy nhiên, muốn
giàu sang, khoẻ mạnh, tài giỏi nhưng
thực tế có mấy ai chịu
ứng dụng phương thức Phật dạy hay những điều dạ thần chỉ. Theo Phật, muốn
giàu có phải hành
bố thí, trải lòng rộng lớn,
che chở người, ban phát tài vật, công sức,
hiểu biết cho người. Thế nhưng
quan sát sinh hoạt thường nhật,
chúng ta thấy rõ nhiều người muốn giàu, nhưng lại sợ
bố thí. Họ chỉ muốn xin và được cho; làm như vậy
chắc chắn không thể nào kết
thành quả báo
giàu có, thường được Phật
ví như ngươøi
tham muốn nấu
cát thành cơm.
Riêng tôi
xuất thân từ gia đình nghèo,
vấn đề cơm ăn, chỗ ở vào thời niên thiếu thật khó khăn
vô cùng. Lúc mới vào chùa, tôi không bằng ai, bị người xem nhẹ.
Tuy nhiên tin sâu sắc ý Phật dạy, lời dạ thần nói, từng bước khắc phục. Với đôi tay và khối óc, tôi
hết lòng phục vụ cho đạo,
nỗ lực tu học để
lập công bồi đức. Nhờ vậy, từ từ
công đức phát sanh và dùng
công đức này
phục vụ lại cho cuộc đơøi, để
tích lũy thêm
công đức, không dám tiêu xài. Trên bước đường tu,
thiết nghĩ cần
để ý điều này. Khi ta nhận của người
cúng dường,
mai kia được người
quý trọng hơn, là biết ta đã
sử dụng đúng tài vật của họ. Ngược lại, nhận của họ rồi, ngày mai họ sanh lòng khinh rẻ thì biết
chúng ta đã
sử dụng sai vật hiến cúng.
Dạ thần khuyên
Thiện Tài phải
hành sử 6
pháp ba la mật trong cuộc sống.
Đức Phật thành tựu quả vị Vô thượng đẳng giác, được tôn xưng là đấng cha lành của muôn loài, hoặc chư
Bồ tát được người
quý trọng vì các Ngài đã
thể hiện trọn vẹn 6
pháp ba la mật. Trên lộ trình tiến đến
Vô thượng bồ đề, 6
pháp ba la mật là cốt tủy mà
chúng ta phải
thực hiện cho được. Trong 6 pháp này, 3
pháp chính yếu quan trọng là
bố thí,
thiền định và
trí tuệ.
Thật vậy, theo
tinh thần Đại thừa, muốn được kính mến chắc hẳn ta phải là người
ban ơn; đừng làm người thọ thí. Ý này dễ
nhận ra trong
thực tế cuộc sống. Khi gặp người ta từng
thi ân, ai lại không
cảm thấy nhẹ nhàng hơn là gặp người mà ta
mắc nợ. Kế đến giữ
tâm bình ổn, dù
hoàn cảnh khắc nghiệt thế nào, ta cũng không thay đổi. Có sưùc
định tâm cao, không để vật
chi phối mới giữ được
công đức đã tu tạo. Và sau cùng, muốn làm Thầy của Trời người, tất yếu phải gieo trồng
hạt giống trí tuệ.
Có thể nói bình tỉnh và
sáng suốt là hai đức tánh quan trọng của
Bồ tát. Vì dấn
thân hành đạo trên
cuộc đời chắc chắn phải
đối đầu với
vô số chướng ngại,
nếu không trang bị hai pháp này không thể nào đi trọn
Bồ tát đạo. Theo gương các Ngài,
chúng ta luôn
tâm niệm hoàn cảnh caøng khó khăn, ta càng bình tỉnh. Có hành trang như vậy, ta mới có thể
tiến tu trong
sanh tử; đụng việc thì
u mê,
cuống cuồng lên là còn cách xa đạo.
Thực tế lịch sử cho thấy bà Ỷ Lan thứ phi
nghe lời vua, đã
nhứt tâm thiền định để
gánh vác triều chính
thành công trọn vẹn. Sức định tĩnh của bà ở độ cao nhất, dẫn đến sự
sáng suốt, thấy được ai là hạng sâu mọt trong
hoàng thân quốc thích
cần phải trị tội, ai là người
tài đức, thấy đúng tưøng người,
giải quyết thoả đáng từng việc.
Tóm lại, dạ thần cho
chúng ta bài học rằng ở trong đêm tối
sanh tử, có gặp địch thủ,
chúng ta mới vận dụng được
trí năng. Nhờ đối mặt với gúc mắt khó khăn, mới có cơ hội
hiểu biết thêm
vô số vấn đề lớn nhỏ,
mặt trái mặt phải, mặt trong mặt ngoài của nó. Không cọ sát với
thực tế cuộc sống như vậy, ắt hẳn
hiểu biết của
chúng ta cũng lụt dần. Chính vì để
đạt được mục tiêu lợi lạc lớn lao ấy mà các vị
Bồ tát thường
thực hành chí nguyện dạo chơi trong
sanh tử .
33- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Thọ Thần Diệu Đức Viện Mãn.
Học với dạ thần và trực diện được với
cuộc đời xong,
Thiện Tài học với thọ
thần Diệu Đức
Viên Mãn (
Lâm Tỳ Ni thần).
Thọ thần là thần cây. Theo
tinh thần Đông phương, người hay vật sống lâu
tiêu biểu cho những gì
tích lũy được của trời đất, là
chứng nhân lịch sử. Cũng vậy, đối với cây cối, ngươøi ta cho rằng cây sống lâu trăm năm
thành thần. Riêng tôi, chưa thấy thọ thần, nhưng tìm các bậc
tôn túc sống lâu,
hiểu biết rộng, có nhiều
kinh nghiệm để cầu học vì các Ngài biết được những việc ngoài tầm
hiểu biết của
chúng ta.
Ở đây, vị
thần quan trọng nhất mà
Thiện Tài tìm học ở vườn
Lâm Tỳ Ni, nơi
đức Phật đản sanh; hay cũng có nghĩa là
chúng ta học đạo, đi tìm những gì có
liên hệ với Phật. Các thọ thần ở
nơi khác nhằm chỉ cho những
học phái ngoại đạo không quan trọng. Thần ở vườn
Lâm Tỳ Ni mới là thần
chúng ta cần học, tức những bậc
tu hành theo
giáo nghĩa Đại thừa. Họ thấy Phật trực tiếp hay qua
kinh điển, qua hành động
tiêu biểu cho thọ thaàn ở
Lâm Tỳ Ni. Ta
tin tưởng,
học hỏi với họ vì họ sống lâu trong
giáo pháp Phật.
Thọ
thần Diệu Đức
Viên mãn cho
Thiện Tài biết khi Phật ra đời, cảnh sắc vườn
Lâm Tỳ Ni thay đổi khác thường. Cây cối xanh tươi đẹp kỳ laï,
cây Vô ưu nở hoa từ gốc đến ngọn, toả hương thơm ngát. Cây quý hiếm nở hoa, cả nh quang đẹp chưa từng thấy tạo thành sức sống
kỳ diệu báo hiệu có bậc
cứu thế xuất hiện trên
cuộc đời.
Hiện tượng này cũng dễ
nhận ra trong
sinh hoạt đời thường của
chúng ta. Tôi đến chùa nào, vào
Thiền thất gặp một
vị danh Tăng nào liền cảm nhận lực
tu hành của họ lan toả
ảnh hưởng đến
phong cảnh nơi đó và cũng
tác động cho
tâm hồn chúng ta thanh tịnh,
an lạc theo.
34 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Bồ Tát Di Lặc.
Thiện Tài trải qua 53 chặng đường
cầu đạo, gặp 110
thiện tri thức, trong đó có 4
Bồ tát quan trọng đã giáo dưỡng,
hộ niệm cho
Thiện Tài trên bước đường tu, đó là :
Văn Thù Sư Lợi, Quan AÂm,
Di Lặc và
Phổ Hiền.
Mở đầu việc
tham học,
Thiện Tài gặp
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, tức
cầu đạo trước tiên là cầu
trí tuệ, vì không có
trí tuệ không thể nào giữ được
phước đức.
Vì vậy khẩu hiệu của người tu là duy tuệ thị nghiệp.
Thiện Tài may mắn gặp
đại thiện tri thức Văn Thù, nhận được lực
gia bị của Ngài và phát huy
trí tuệ theo từng bước
chân hành đạo. Nhờ vậy,
Thiện Tài dấn thân vào đời thấy
gai góc là huy hoàng,
đối diện với đủ
thành phần xã hội không hề thấy chống trái, mà toàn là
thiện tri thức dưới mắt ông. Vì dưới lăng kính
trí tuệ thấy tất cả đều có
hai mặt : tốt và xấu, không có gì hoàn toaøn tốt hay xấu. Tốt xấu
tùy thuộc ở ta.
Thiện Tài nhận chân được cái tốt của người và khai thác mặt tốt nên
đắc đạo.
Dưới ánh
sáng trí tuệ của
Văn Thù,
Thiện Tài đi khắp
thế gian thấy
sanh thân Phật
Thích Ca không còn
hiện hữu, nhưng
Đức Phật quyền năng tồn tại dưới dạng Quan AÂm
phổ hiện thành 32
hiện thân, không có một loại hình Phật cố định. Đối với người đáng
hiện thân nào để
cứu độ thì Ngài
hiện thân đó.
Vì vậy,
kinh Pháp Hoa dạy rằng có người thấy Phật, nhưng cũng có người không thấy.
Đức Phật siêu hình thì người có
nhân duyên đắc độ mới thấy Ngài.
Các vị
Tổ sư, các nhà
truyền giáo thấy Phật, mới dấn
thân hành đạo không tiếc
thân mạng. Theo tôi, từ một
Đức Phật Thích Ca, nhưng mỗi vị
tu hành thấy Phật khác nhau, dẫn đến hình thành nhiều
tông phái khác nhau. Có bao nhiêu vị Tổ thì có bấy nhiêu Phật,
cho đến có Phật 3 đầu 6 tay hay Phật
vạn năng ngàn mắt ngaøn tay
tiêu biểu cho hành động có
trí tuệ chỉ đạo.
Sau khi
Thiện Tài học với
Văn Thù Bồ tát mới gặp được Phật dưới dạng Quan AÂm ban vui
cứu khổ.
Kế tiếp,
Thiện Tài bắt đầu
du hành trong
thế giới siêu hình, gặp những vị
thần minh,
nhận ra lực
chi phối của họ đối với
mọi việc trên
cuộc đời.
Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu với
chúng ta thế giới siêu nhiên ấy và
duy nhất có
Thiện Tài thâm nhập được để
tiếp tục học đạo với
Di Lặc Bồ tát. Theo kinh
nguyên thủy, độc nhất có
Bồ tát Di Lặc được
Phật thọ ký
thành Phật.
Kinh Hoa Nghiêm đặt naàu7841?ng
vấn đề người hành
Bồ tát đạo cần học với
Di Lặc vì Ngài
thừa kế sự nghiệp đức
Thích Ca. Nhưng muốn học với
Di Lặc,
Thiện Tài phải gặp
Văn Thù và
Quan Âm trước.
Thiện Tài gặp
Di Lặc và
Di Lặc khảy tay 3 cái thì
lâu các Tỳ
Lô Giá Na mở ra và
Thiện Tài đi vào lâu các thấy được tất cả việc của
Đức Phật đã làm trong
quá khứ dẫn đến
hiện tại và kéo dài tận
vị lai, tất cả
hiện hữu đầy đủ trong
lâu các. Khi
Thiện Tài tham quan xong,
Di Lặc khảy móng tay
một lần nữa thì
lâu các biến mất.
Lâu các xuất hiện và biến mất
chứng tỏ đây không phải là tòa nhà thật.
Tỳ
Lô Giá Na lâu các tiêu biểu cho
Pháp thân Phật.
Đức Phật sanh thân Niết bàn nhưng Ngài vẫn
tồn tại miên viễn dưới dạng
thanh tịnh Pháp thân. Trên bước đường tu,
trở về với
chơn tâm thanh tịnh mới bắt gặp được
Pháp thân Tỳ
Lô Giá Na.
Di Lặc là người giữ Tỳ
Lô Giá Na lâu các, tức Ngài
sử dụng được phần
linh hoạt diệu dụng của
chơn tâm để thông với
thanh tịnh Pháp thân Phật.
Vì vậy,
Di Lặc được coi là Tổ của tông
Duy thức. Ngài dạy
chúng ta quan sát hiện tượng bên ngoài mà đo được tâm khởi, hay nhờ có cảnh,
chúng ta phát hiện được tâm. Và
chúng ta mới theo tâm
trở về nguồn; từ ngoài lần vào trong đến tận
tiềm thức hay
A lại da thức. Có thể ví nó như một cái kho vô hình chứa đựng những thứ vô hình. Kho vô hình của
Thiện Tài được
Bồ tát Văn Thù khai ngộ, chứa những
hạt giống trí tuệ và học với Quan AÂm nên có
hạt giống từ bi.
Tâm thức của
Thiện Tài đầy đủ
trí tuệ và
từ bi, nên
A lại da thức trắng sạch như gương trong. Còn kho chứa của
chúng ta chỉ có toàn
phiền não nhiễm ô.
Di Lặc mở
lâu các cho
Thiện Tài xem
thành quả của Phật
Thích Ca chứng được và giao cho Ngài
giữ gìn.
Thiện Tài thắc mắc hỏi
Di Lặc tại sao Ngài là người
thừa kế sự nghiệp của Phật mà lại không ra đời,
sử dụng những
của báu đã được
giao phó ?
Di Lặc cho biết Ngài đã đủ
điều kiện thành Phật nhưng chưa ra đời ngồi toà
Long Hoa vì còn phải lo việc
giáo hoá chúng sanh có duyên với Ngài cho
thành thục và tiếp độ những người mà Đức
Thích Ca để lại cũng được
thuần thục.
Theo lời dạy của
Di Lặc với
Thiện Tài như trên,
chúng ta bieát rằng
hiện tại tất cả ai đang từng bước phát triển trên lộ trình
Phật đạo đều được
Di Lặc Bồ tát chăm sóc.
Di Lặc chứng được
từ tâm tam muội, nên người có duyên với Ngài là người cũng phải có
tâm từ.
Tại sao Di Laëc
Bồ tát giáo hoá người có duyên với Ngài trước, rồi mới
độ người của Đức
Thích Ca sau ? Người của Đức
Thích Ca để lại
phức tạp lắm. Thật vậy, thử nghĩ xem trên
thế giới có hàng tỷ người theo
đạo Phật, không ai giống ai, giữa các
tông phái cũng
không chấp nhận nhau. Làm sao xác định ai đúng, ai sai. Đúng thì tất cả đều đúng, mà sai thì tất cả cũng sai. Nếu lo việc này thì
suốt đời chỉ tranh
cãi nhau.
Vì vậy, việc quan trọng đầu tiên là
Di Lặc phải
thuần thục chúng của mình trước.
Thiển nghĩ chúng ta có giỏi mấy nhưng
quyến thuộc của ta toàn người
ăn hại thì cũng chẳng thể làm được việc lớn.
Ý thức sâu sắc như vậy, người thật tu lo
giải quyết bản thân thật tốt,
chắc chắn người
xung quanh cũng tốt theo.
Trên bước đường tu theo
Di Lặc, cần phát triển tâm an vui, vì con Phật mà
phiền não là
biến thành con của ma. Tôi
tâm đắc pháp này, cố giữ cho mình
an lành. Dù
hoàn cảnh thế nào vẫn lấy bình ổn làm
lẽ sống, còn mưa gió là việc của
thiên hạ. Theo Phật dạy, lo cho ta chính là đã lo cho người. Trên
tinh thần ấy, bằng mọi giá,
chúng ta phải tự an lấy tâm, tức
đạt được định.
Từ tâm định ấy,
chúng ta mới bắt gặp được định của Phật và
Bồ tát. Và
công đức lành mới theo
định tâm của ta mà tới, nhưng cũng tới với dạng vô hình.
Chúng ta không thể biết cho
cùng tận công đức này mà đó là
sự thật.
Công đức chỉ có trong
thiền định là
công đức vô lậu.
Từ tâm an nên định sanh, thấy được sự vật không
chướng ngại, vật không
tác động làm phiền
chúng ta là tuệ sanh. Nhờ vậy,
bản thân và
hoàn cảnh chúng ta mỗi ngày tốt thêm hơn. Đó là 3 điều
căn bản chúng ta phải
thực hiện được trên lộ trình
đi theo dấu chân Bồ tát Di Lặc.
Thiện Tài được
Di Lặc dẫn vào Tỳ
Lô Giá Na lâu các, thấy được
thành quả của
Đức Phật từ
vô số kiếp
quá khứ đến tận
vị lai vô cùng.
Kinh Hoa Nghiêm mở ra cho
chúng ta hình ảnh một
Đức Phật thật không phải chỉ còn lưu lại những viên
xá lợi. Nhưng đó là
Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật đang sống, đang
chi phối tất cả muôn loài,
tồn tại miên vieãn theo
thời gian vô cùng,
không gian vô tận, mới thật
quý báu.
Thật vậy, từ Phật
Niết bàn đến nay, các
luận sư tiếp tục triển khai giáo lý theo từng
thời kỳ, từng
quốc gia khác nhau,
thích hợp với cuộc sống
nhân sinh, tức
Pháp thân Phật mở rộng biến chiếu khắp tất cả, không có
trình độ nào không
phổ cập. Người trí thấy Phật
tuyệt luân và người chỉ có
niềm tin cũng thấy Phật
tuyệt vời. Dòng thác
trí tuệ của
nhân loại phát khởi từ ngọn nguồn bước theo
tri kiến Phật, cùng với
vô số cuộc sống
giải thoát,
vị tha của người con Phật, tất cả
tiêu biểu cho
thanh tịnh Pháp thân
Tỳ Lô Giá Na Phật vẫn
đang tồn tại khắp nơi khắp chốn.
35 -Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Qua 3 vị
Bồ tát Di Lặc,
Văn Thù Sư Lợi và
Phổ Hiền mà
Thiện Tài đến
tham học,
chúng ta thấy được
nhân địa tu hành và
thành quả của các
Bồ tát. Có thể nói giữa
Phổ Hiền Bồ tát tu ở nhơn môn và
Phổ Hiền hạnh ở
quả môn có một khoảng cách thật khá xa. Cũng vậy,
Di Lặc được
thọ ký thành Phật là vị đang tu nhơn và
Di Lặc xứng tánh, đưa
Thiện Tài thâm nhập Tỳ
Lô Giá Na lâu các là
Bồ tát ở
quả môn. Như vậy,
Bồ tát hiện hữu ở
hai mặt : sống trên
cuộc đời và ở dạng
pháp tánh.
Đối với
chúng ta, cũng tùy
trình độ thâm nhập Phật đạo mà có kết quả khác nhau trên bước đường tu. Phần nhiều
chúng ta theo
con đường giáo môn, nương vào
kinh điển; đó là
con đường dành cho người ở
trình độ trung bình. Theo
giáo môn,
Đức Phật dạy
chúng ta phương cách sống để
trở thành người tốt. Và nâng lên, Phật mới dạy đạo
xuất thế của
Thanh văn, Duyeân giác,
Bồ tát.
Cuối cùng,
kinh Hoa Nghiêm nói về nhân hạnh của các Ngài.
Thiện Tài nương
giáo lý lần bước tiến lên, tìm được
nhân địa tu hành của Phật,
Bồ tát và theo đó
hành sử cho
bản thân mình, kết
thành quả giống các Ngài. Bấy giờ đứng ở
quả môn mà tu và sau cùng gặp được
Di Lặc Bồ tát.
Chắc chắn không thể có
Di Lặc mang thân người
bình thường ở
thế gian, nhưng
chúng ta chỉ gặp Ngài dưới dạng tâm
hoan hỷ vì Ngài luôn luôn
hoan hỷ với
chúng sanh.
Chúng ta khởi tu từ thấp lên cao, phải luyện cho được
tâm hỷ xả, sẵn sàng
tha thứ cho người
cố ý phá hại ta, mới gặp được
Di Lặc, mới
an trú lâu dài trong đạo.
Thiện Tài nhờ bước
ban đầu được
Văn Thù khai ngộ, dù gặp
vô số người gây khó khăn, ông vẫn không
khởi tâm tham chấp
buồn phiền. Từ đó dấn thân vào đời, giáp mặt với đủ
thành phần xã hội có
thiện tri thức lẫn
ác nhân, mà
Thiện Tài vẫn giữ được tâm
trong trắng.
Thiện Tài trang bị đầy đủ
phước đức như
vậy thì Di Lặc liền mở Tỳ
Lô Giá Na lâu các cho vào. Điều này nhằm gợi ý rằng trên bước đường tu, ở giai đoạn một,
chúng ta học kinh
văn tự, giấy trắng mực đen. Nhưng khi
chứng đắc Bát Nhã ba la mật, mới có kinh thật quan trọng và học với
bản tâm thanh tịnh, tức vô tự chơn kinh trong Tỳ
Lô Giá Na lâu các.
Thiện Tài vào
lâu các đọc kinh vô văn tự, thấy được quá trình
hành đạo của
Đức Phật quả là
bất khả tư nghì, có sức cảm hoá người vượt
không gian và siêu
thời gian. Với
tâm hồn yên tịnh hoàn toàn,
Thiện Tài thâm nhập được
pháp giới bao la vô cùng tận, tức sự sống của muôn loài. Và kinh diển tả rằng khi
Thiện Tài trở về thực tế của đời thường, ông
cảm thấy như vừa tỉnh cơn mộng.
Theo tôi, ai từng say mê
đọc kinh cũng đều ở trong
trạng thái giống như
Thiện Tài vậy. Nghĩa là
chúng ta học kinh ở dạng vượt khỏi năm
giác quan, gọi là xuất thần
thường có được khi ở trong
thiền thất.
Lúc ấy, từ
bản tâm thanh tịnh,
chúng ta phát hiện được yếu
nghĩa kinh mà
bình thường không thể nào thấu đạt.
Di Lặc nhắc nhở
Thiện Tài nên
tiếp tục cầu học với
Văn Thù vì
Bồ tát này là thầy của
ba đời các
Đức Phật. Có thể hiểu Thầy theo 2 nghĩa. Thầy là người dạy được người khác học. Nhưng nghĩa thứ hai,
chúng ta học với Thầy là học
trí tuệ của Thầy, được tieâu biểu bằng
Văn Thù.
Đại trí Văn Thù hay
trí tuệ dẫn đến
Vô thượng đẳng giác.
Đức Phật là bậc
đạo sư tối tôn vì thân, khẩu, ý của Ngài do
trí tuệ chỉ đạo.
Từ
sơ tâm học đạo,
Thiện Tài gặp
Văn Thù là thầy ở
nhân gian. Nhưng vào Tỳ
Lô Giá Na lâu các thì Thầy là
Bát Nhã trí, không phải thầy là
con người bằng xương thịt trên
cuộc đời nữa. Thật vậy, ai
đạt đến trạng thái này mới nhận được, vì không thể có Thầy nào có khả năng chỉ chuùng ta những việc bất tư nghì. Việc
tu hành của
chúng ta ở
tự tánh diễn ra trong chớp mắt,
đạt được trong một niệm tâm, mà
niệm tâm đó thoáng qua rồi,
chúng ta không thể tìm lại được.
Chúng ta tu ở dạng tâm, thì Thầy cũng
hiện hữu ở dạng tâm.
Kinh Pháp Hoa gọi đó là
Phật hộ niệm.
Chúng ta không biết tại sao hiểu, nói, làm như vậy, vì tất cả đã vượt ngoài
thức uẩn hay lưới ma trong
ba cõi. Thầy ở giai đoạn này là Thầy trên
pháp giới.
Di Lặc dặn dò
Thiện Tài nên gặp
Văn Thù Sư Lợi xong, liền thu Tỳ
Lô Giá Na lâu các và biến mất.
Thiện Tài chỉ còn
một mình giữa đồng hoang
sanh tử, liền khởi
ý niệm cầu đạo, thì
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát cách đó 110 do tuaàn đưa tay xoa đầu
thọ ký.
Đỉnh đầu
tiêu biểu cho
trí tuệ, xoa đầu tức Thầy truyền sự
hiểu biết cho
Thiện Tài. Từ ông Thầy dạy bằng
ngôn ngữ, tiến đến vị Thầy dưới dạng tâm trong
pháp giới, tất cả thông nhau không
chướng ngại, không còn chia chẻ từng
quốc độ riêng biệt.
Văn Thù chỉ xoa đầu
Thiện Tài thì thay đổi
hoàn toàn hiểu biết và cuộc sống của
đồng tử .
Chúng ta thật tu sẽ
hiểu rõ điều này. Xưa
chúng ta tham lam,
mê lầm, tạo khoâng biết bao
tội lỗi, khổ đau.
Chúng ta cố gắng xoá khổ này thì khổ khác sanh ra. Nhưng nay
thâm nhập Phật pháp, thấy được
diễn tiến của sự vật và
sử dụng trí tuệ vô lậu để
quyết định việc làm,
suy nghĩ,
lời nói của chuùng ta
theo dấu chân
Bồ tát, không dại khờ làm theo
thế gian nữa.
Chúng ta học khôn ngoan của
Bồ tát, cái đáng làm, đáng nói, đáng
suy nghĩ mới làm, mới nói và
suy nghĩ. Đó chính là việc
tu hành ra khỏi
sanh tử, xứng tánh
thành Phật,
chi phối toàn bộ pháp giới.
Bồ tát nhập pháp giới không nói với ai, chỉ
tu tập trên
pháp tánh mà
tác động cả muôn loài chịu
ảnh hưởng.
Thiện Tài nương lực
Văn Thù, thấy sự vật
đảo lộn, không giống cái thấy của
thế gian.
Hành đạo theo
Bồ tát ở dạng
vô tác diệu lực, tức không
hoạt động ở mặt
hữu hình, nhưng nội lực của
bản tâm thanh tịnh tạo sức
chi phối mọi việc thành tựu. Tuy âm thầm
lặng lẽ mà không có việc gì treân
cuộc đời nằm ngoài tầm
ảnh hưởng của
Bồ tát.
Thâm nhập thế giới siêu nhiên ấy,
Thiện Tài liền thấy suốt quá trình tu
Bồ tát đạo của
Đức Phật từ
phát tâm bồ đề cho đến thành
Vô thượng đẳng giác trải qua vô lượng kiếp. Và cũng thấy bên cạnh
Đức Phật luôn
hiện diện hai vị
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và
Phổ Hiền.
Văn Thù nhắc nhở
Thiện Tài rằng trên bước đường
hành đạo, dù gặp biết bao khó khăn, vật đổi sao dời, nhưng xin đừng nản chí
cầu đạo và
niềm tin đừng thay đổi. Từ thuở
ban đầu gặp
Văn Thù cho đến Di Lặc, đã
lặn lội khắp nẻo đường đời, lúc nào
Văn Thù cũng ở bên cạnh
Thiện Tài đồng tử. Tuy không thấy bằng
mắt thường, nhưng
Thiện Tài vẫn sống trong quỹ đạo của
Văn Thù và nay muốn vào
Phổ Hiền hạnh môn cũng phải
hết lòng như vậy.
36 - Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Phổ Hiền Bồ Tát
Mở đầu việc
tham vấn các
thiện tri thức,
Thiện Tài gặp
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát,
tiêu biểu cho
trí tuệ. Với
trí tuệ mà
Văn Thù chỉ dạy,
Thiện Tài dấn thân vào đời
hành đạo, được 52
thiện tri thức dìu dắt, trong đó phải kể đến
Bồ tát Quan AÂâm
thể hiện trọn vẹn lòng từ bi vô hạn đoái với mọi loài
chúng sanh.
Kết hợp được tâm
đại từ bi của Quan AÂm và
trí tuệ vô lậu của
Văn Thù,
Thiện Tài mới có thể
diện kiến Di Lặc hay
Từ Thị là vị
Bồ tát mang nguồn vui
vô cùng cho muôn loài.
Di Lặc đưa
Thiện Tài vào Tỳ
Lô Giá Na lâu các, trao cho tạng
bí yếu của
Như Lai. Đến đây,
Thiện Tài chấm dứt giai đoạn một của bước đường
hành đạo. Ý này nhằm chỉ trên lộ trình tu của
chúng ta, sau khi
hoàn tất việc
tu học,
đạt được tri thưùc thông qua
giáo lý Phật để lại,
kết thúc giai đoạn ở đậu, ăn nhờ để bước sang giai đoạn hai, chính ta phải tự phát triển
việc làm giống như Phật,
Bồ tát đã làm.
Di Lặc khuyên
Thiện Tài nên đến gặp
Bồ tát Văn Thù moät lần nữa. Lần thứ hai, nhờ trang bị đầy đủ
từ tâm, thâm nhậâp Tỳ
Lô Giá Na,
Thiện Tài thấy
Văn Thù Sư Lợi ở giai đoạn hai
hoàn toàn khác. Bấy giờ, tuy cách xa
Văn Thù 110 thành, nhưng Ngài đưa tay xoa đầu
Văn Thù và daãn đến
tham vấn Phổ Hiền Bồ tát.
Ở
bước đầu hành đạo,
Thiện Tài được
Văn Thù Bồ tát đưa vào
pháp giới gặp Đức Vân
Tỳ kheo và nay đến gặp
Bồ tát Phổ Hiền. Điều này nhắc nhở
chúng ta khi tu, từ việc học
giáo lý hữu hạn trong sách vở, phải
đi vào thế giới vô cùng.
Hiện hữu và
sinh hoạt ở
thế giới bao la ấy mới thực sự quan trọng đối với người tu.
Dưới lực
chi phối của
Văn Thù,
Thiện Tài thấy sự vật ở dạng
vô tác diệu lực, tức
hành đạo theo Phật, tuy không làm nhưng nội lực
chi phối vô hình, tạo thành kết quả không lường được. Và
Thiện Tài cũng thấy
đức Phật từ vô lượng kiếp luôn có
Bồ tát Văn Thù và
Phổ Hiền kề cận.
Văn Thù tiêu biểu cho trí và
Phổ Hiền tiêu biểu cho hạnh.
Kết hợp được
đại trí và
đại hạnh là
cốt lõi của
kinh Hoa Nghiêm.
Từ khi
phát tâm Bồ đề,
trải qua 52 chặng đường, gặp tất cả
thiện tri thức,
Thiện Tài mới vào được Tỳ
Lô Giá Na lâu các, gọi là
nhập pháp giới.
Lúc ấy,
Thiện Tài mới có cái nhìn theo Phật, thấy rõ bề trái
cuộc đời và có
đủ tư cách tham vấn Bồ tát Phổ Hiền.
Khi
Thiện Tài khởi một
niệm tâm cầu
Phổ Hiền làm
thiện tri thức thì Ngài liền
xuất hiện.
Tuy nhiên, có được một
niệm tâm như vậy không
đơn giản. Phải trải
hằng sa kiếp
huân tu các pháp lành, dứt sạch
nghiệp ác, tạo thành
vô lượng công đức,
Thiện Tài mới có được
niệm tâm ấy.
Với thieän căn
công đức tích lũy từ
vô số kiếp, giúp cho
Thiện Tài nhận chân được
Phổ Hiền hạnh thật là
tuyệt mỹ.
Thiện Tài thấy thân
Phổ Hiền trùm khắp pháp giới,
ba đời chư Phật đều nằm trong lỗ chân lông của
Phổ Hiền Boà tát và thấy
Thiện Tài tu
vô số kiếp cũng không ra khỏi lỗ chân lông của
Phổ Hiền.
Thiết nghĩ hình ảnh này là
thế giới tu chứng của người đã
thâm nhập chơn kinh,
chắc chắn nằm ngoài
ngôn ngữ lạm bàn của
phàm phu.
Thiện Tài cảm hạnh
Phổ Hiền,
khởi tâm muốn làm theo
Phổ Hiền, thì liền nhập
Phổ Hiền hạnh, biến khắp
pháp giới, tức
Phổ Hiền hiện hữu ở đâu,
Thiện Tài cũng nương theo lực
Phổ Hiền mà đến đó
hành đạo.
Từ Tỳ
Lô Giá Na lâu các bước ra, nương được lực
Phổ Hiền,
Thiện Tài tu tạo
công đức dễ dàng. Trước kia, chưa
nhập pháp giới,
tu hành thật
vất vả, mỗi ngày phải lạy
thiên Phật vạn Phật, mà khó khăn
buồn phiền vẫn luôn bao vây bức ngaët. Nhưng nay, chỉ có một
niệm tâm thấy
Phổ Hiền, nương lực
Phổ Hiền, có được
công đức nhiều hơn trăm ngàn lần
gia công nhọc sức tu ở chặng đường trước.
Xưa thầy tôi dạy rằng ở thác ghềnh,
chúng ta phải ra sức chống cheøo. Việc
tu hành cũng vậy, giai đoạn đầu tu giống như ở sông, sơ hở một chút, thuyền sẽ đâm vào đá, cơi lên bờ. Nhưng ra biển, mượn sức gió căng buồm, đẩy thuyền đi nhanh không
cực nhọc. Có được một
niệm tâm, mượn được lực
Phổ Hiền thì
hành đạo nhẹ nhàng,
tự tại mà kết quả ngoài sức tưởng.
Thiện Tài nương
Phổ Hiền lực, lấy hạnh
Phổ Hiền làm hạnh mình,
trong một niệm thành tựu đầy đủ
y như Phổ Hiền, dạo chơi tất cả
pháp giới, tham quan
lễ bái chư Phật mười phương.
Cách tu mượn lực
Phổ Hiền có thể
ví như chúng ta đi mượn nợ ở
thế gian. Nếu biết vay mượn đúng chỗ, đúng người, làm đúng việc thì cũng có thể
trở thành giàu có. Nhưng người không biết, có vay cũng tiêu mất vốn.
Tuy nhiên, muốn mượn lực
Phổ Hiền,
tu hạnh Phổ Hiền,
chúng ta phải đồng
hạnh nguyện với Ngài, vì
Phổ Hiền chỉ mong ai có
hạnh nguyện giống Ngài là sẵn sàng giúp ngay. Trên
thực tế cuộc sống, suy
từ tâm niệm của
chúng ta, có thể hiểu được điều này.
Thí dụ như ai có
yêu cầu về học phí, mua sách vở học hoặc làm gì để phát sinh
trí tuệ, tôi sẵn lòng giúp vì những việc ấy đồng với
hạnh nguyện của tôi.
Mượn lực
Phổ Hiền, biến
chúng ta thành
Phổ Hiền hạnh nhân, nên việc của
chúng ta là việc của
Bồ tát, tất nhiên phải được Ngài
gia bị và
chúng ta sẽ
thành công. Cũng giống như
chúng ta tự làm không được, nhưng làm cho người có
đức hạnh,
nhân danh họ, ai cũng kính nể,
tùy hỷ theo thì ta rất dễ
thành công.
Mượn
hạnh nguyện Phổ Hiền, ta và Ngài đồng nhau. Từ đó, ta làm ở
nhân gian thay cho
Phổ Hiền ở
pháp giới. Làm cho
Phổ Hiền để nương Ngài
đi vào pháp giới, vì
chúng ta thấy
pháp giới quan trọng hơn trần gian.
Để kết phẩm
Nhập pháp giới,
Phổ Hiền đặt ra 3 điều rất khó đối với
chúng ta, nhưng lại rất
đơn giản với
Bồ tát hoàn tất giai đoạn một như
Thiện Tài. Tất cả
thế giới chẻ thành
vi trần đều có thể
kiểm soát biết được. Nước bốn biển thu hết vô bụng được. Bầu trời có thể đo được, gió cũng tính được. Nhưng
công đức của Phật thì không thể nào nói hết được.
Công đức của Phật không thấy bằng mắt, nhưng lớn lao
không tưởng được,
ảnh hưởng của Ngài tỏa rộng khắp năm châu. Ngày nay,
chúng ta dễ
nhận ra ý này.
Trải qua thời gian dài hơn 25 thế kỷ
cho đến ngày nay, hàng tỷ người trên thế giơùi vẫn đang hướng tâm về
Đức Phật,
cầu nguyện, lý giải những lời vàng ngọc của Ngài,
phát tâm đi theo con đường thánh thiện,
giải thoát của Ngài.
Vì vậy,
công đức của Phật quá lớn, tuy vô hình mà nói mãi cũng không hết.
Theo
tinh thần Đại thừa,
Đức Phật chưa từng
vắng bóng đối với người
phát tâm Bồ đề. Ngài chỉ
nhập diệt với người không có duyên lành.
Như Lai không đến mà đến với tất cả
tâm hồn có căn lành. Dù
thời gian cách xa,
không gian cách trở, nếu
chúng ta phát tâm tu, đồng hạnh đồng nguyện thì
Phổ Hiền vẫn đến, Phật vẫn
gia bị cho ta.
Thực tế cho thấy
Như Lai không đến, nhưng tất cả
thành phần trong
xã hội thời đó từ Sát đế lỵ đến hàng
cùng đinh, không
giai cấp nào mà Phật không
cứu độ. Những người nghèo cùng hoặc
sang trọng, vua chúa theo Phật tu đều
đắc đạo.
Theo lộ trình
Hoa Nghiêm, từ con ong cái kiến, đến cỏ cây, sông núi, không có loại hình nào không có Phật.
Chúng ta có căn lành,
quyết tâm tu theo hạnh
Phổ Hiền thì không sợ bị đọa, ở đâu tu cũng được
Như Lai gia bị,
Phổ Hiền hộ niệm.
Kết phần
Nhập pháp giới,
Phổ Hiền mở ra cánh cửa gọi là
Phổ Hiền hạnh môn. Bươùc qua cửa này hay
thực hiện Phổ Hiền hạnh thì rất nhiều, nhưng Ngài tóm gọn thành mười
hạnh nguyện. Nương lực
Phổ Hiền, tu mười
đại nguyện theo Ngài mới giúp ta xóa được tất cả
nghiệp ác quá khứ và tạo muôn ngàn
công đức và đó là hành trang đưa ta đến
quả vị Vô thượng đẳng giác.