LƯỢC GIẢI KINH HOA NGHIÊM
Tác giả: HT. Thích Trí Quảng
Nhà xuất bản Thành Phố HCM 2013
Chương II.
Quan Niệm Về Đức Phật Theo Kinh Hoa Nghiêm
I - QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT TRONG THỜI KỲ PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
Đạo Phật bắt nguồn từ
Đức Phật lịch sử, Ngài đản sanh năm 624
trước Công nguyên, là hoàng tử
duy nhất của vua
Tịnh Phạn và Hoàng hậu
Ma Gia ở nước
Ca Tỳ La Vệ, thuộc miền
Trung Ấn Độ.
Với hoài bão tìm một cuộc sống
giải thoát khổ đau
sanh tử cho
con người, Ngài đã
từ bỏ cung vàng điện ngọc, dấn thân tìm
chân lý. Sau 6 năm
học hỏi và thiết thân thực nghiệm các pháp tu của
ngoại đạo, Ngài đến núi
Già Da,
nhập định dưới cội
bồ đề. Qua 49 ngày
tư duy, Ngài
đắc quả Vô thượng Chánh đẳng giác.
Từ đó,
Đức Phật bắt đầu hoằng hóa
lợi sanh. Ngài đến
Lộc Uyển giảng pháp, độ 5 anh em
Kiều Trần Như, hình thành
Tam bảo : Phật, Pháp, Tăng đầu tiên.
Giáo đoàn của Ngài
dần dần mở rộng, tập họp 1.250 vị
Tỳ kheo cùng sống với
Đức Phật. Giữa Ngài và các vị
Tỳ kheo này gần gũi nhau,
gắn bó trong tình thầy trò.
Tuy nhiên, điều cần
lưu ý là những
đệ tử theo
tu học với Phật đều kính nể Ngài như bậc Thầy
sáng suốt nhất.
Phần lớn các
Tỳ kheo đều xuất thaân từ
ngoại đạo hay các tổ chức khác thời bấy giờ, họ
trở về quy phục với
Đức Phật vì Ngài là vị
mô phạm sáng suốt nhất, thường được họ tôn danh là bậc
đại Đạo sư, là vị Thánh cao cả nhất trong hàng Thánh.
Đó là
hình ảnh Đức Phật tại thế toàn giác,
toàn trí được
tôn sùng như vậy trong thời
Phật giáo nguyên thủy. Với
trí tuệ vô lậu,
sáng suốt hoàn toàn, Ngài giảng dạy các pháp khác nhau
tương ưng với
căn tánh,
hành nghiệp của đối tượng cần
giáo hoá.
Vì vậy,
Phật giáo Đại thừa đã chia pháp Phật thành
tam thừa hay
ngũ thừa, nhưng tựu trung, người
hữu duyên tiếp nhận pháp Phật, đều được thăng hoa,
giải thoát.
Phật
tại thế, Ngài là đấng
Đạo sư minh triết bậc nhất, lời dạy của Ngài là
chân lý và người
ứng dụng có kết quả tốt là
Thánh Tăng. Nhưng
Phật diệt độ, thì
Tam bảo mất phần
Phật bảo, vị Thầy
sáng suốt không còn nữa. Từ đó đặt ra
vấn đề ai là người có
đủ tư cách quyết định sinh hoạt của
giáo đoàn.
Trước
tình trạng khó khăn không ai
đủ khả năng thay Phật
lãnh đạo, đã dẫn đến chủ trương
sử dụng giáo pháp Phật làm
tiêu chuẩn quyết định.
Vì vậy,
Thượng tọa bộ đề ra giáo pháp còn, tức Phật còn, không ai có quyền thay đổi
giáo pháp.
Nhưng sau 100 năm, chủ trương này không được
toàn thể Tăng chúng tán thành. Theo họ, Phật
tại thế,
tùy thời, tùy chỗ giảng dạy các pháp khác nhau. Nay, không còn Phật trực tiếp ứng xử các pháp
tương ưng một cách
đúng đắn,
lợi lạc, thì không thể áp đặt lời Phật, khống chế
mọi người.
Từ sự bất đồng này phát sinh ra nhiều
ý kiến khác nhau giữa các
bộ phái, gọi là
thời kỳ bộ phái, nhưng
chính yếu có
Thượng toạ bộ và
Đại chúng bộ.
Thượng toạ bộ cố gắng giữ
y nguyên hình thái
sinh hoạt của thời
Đức Phật tại thế, chỉ có vài thay đổi nhỏ. Họ cho rằng khi không có Phật, nên lấy
giáo pháp làm Phật, gọi là
Phật Pháp thân, nghĩa là Phật
sanh thân không còn nữa, thì
chúng ta nên nương
giáo pháp Ngài để sống, lấy đó làm kim chỉ
nam hành đạo, không được
sửa đổi. Như vậy,
Phật hiện hữu dưới dạng
giáo pháp Pháp thân.
Quan niệm của
Thượng tọa bộ đặt nặng
Phật Pháp thân hay
giáo pháp chính là Phật, đã không được
đại chúng chấp nhận.
Tư tưởng Đại thừa từ đây nảy sinh với
lập luận rằng từ
Lộc Uyển đến
Sa La song thọ, hơn 300 hội,
Phật thuyết pháp không giống nhau.
Vấn đề đặt ra cho người
hiện tại nên
lựa chọn,
sử dụng pháp nào
thích hợp và những gì không thể
thích nghi, có thể tự
quyết định cách khác.
Từ ngả rẽ này,
Đại chúng bộ lấy
chư Tăng làm chuẩn, cho rằng
Phật hiện hữu trong
Tăng đoàn. Khi cần
sửa đổi điều gì trong
sinh hoạt Phật pháp,
ý kiến được tập thể
chư Tăng tán đồng kể như có
giá trị quyết định.
Như vậy, từ
niềm tin tuyệt đối vào
giáo pháp, đã
biến đổi thành chủ trương tin
Tăng đoàn. Vì Phật
tại thế,
sinh hoạt chắc chắn phải khác
hiện tại;
thời đại và
quốc độ khác, tất yếu dẫn đến
sinh hoạt phải khác.
Những gì Phật dạy hay chưa nói đến, khi có
sự kiện xảy ra, phải họp Tăng
quyết định;
đại chúng bằng lòng thì Phật
hoan hỷ. Trên
tinh thần lấy Tăng làm chính, phạm Phật, Tăng cứu được, nhưng
phạm Tăng, Phật không cứu.
Ngày nay, trên
thế giới,
tinh thần này
vẫn có giá trị,
chúng Tăng thay Phật đưa ra
quyết định chung. Phật không nằm trong
giáo pháp nữa, nhưng nằm ngay trong
suy nghĩ của
Tăng đoàn.
Tinh thần Phật giáo Đại thừa sử dụng giáo pháp Pháp thân của
Phật giáo nguyên thủy,
kết hợp với
hiểu biết của
chư Tăng trong
hiện tại,
sửa đổi thành
Pháp thân của
Đại thừa, gọi là
thanh tịnh Pháp thân, mà về sau được
kinh Hoa Nghiêm diễn dịch là
thanh tịnh Pháp thân Tỳ
Lô Giá Na.
Giáo pháp là di chúc và
chư Tăng thanh tịnh là sự sống.
Vì vậy,
chư Tăng hoà hợp nhau
thanh tịnh chế định ra
giáo pháp, tức nguyên tắc sống
phù hợp,
lợi lạc an vui, được coi là
Pháp thân Phật thuyết ra, khác với
Pháp thân theo
Phật giáo nguyên thủy là
giáo pháp gồm có một số điều không
thích nghi với
sinh hoạt mới của
thời đại.
Thực tế cho thấy những gì
chư Tăng họp lại, chế định ra, dễ được
chấp nhận hơn là theo
truyền thống. Mặc dù cần
trân trọng truyền thống, nhưng cũng không
thể không quan tâm nhiều đến
nhận thức, tình cảm của người đang sống. Bỏ qua điều này sẽ đưa đến thất bại
trầm trọng.
Ý thức như vậy,
Phật giáo Đại thừa chủ trương lấy
thanh tịnh Pháp thân làm chuẩn mực
tu hành.
Tuy nhiên, cần chú ý phải
hoà hợp thanh tịnh thực sự từ
đáy lòng, không phải chỉ hòa ngoài mặt hay hòa trên đầu môi chót lưỡi.
Thiết nghĩ khi
chư Tăng hoà hợp thanh tịnh, chế định được gì, thì cái đó
tồn tại.
Tóm lại, khi Phật
tại thế, Ngài
hiện hữu như đấng
toàn giác,
toàn trí,
toàn thiện.
Tư cách tuyệt mỹ ấy
soi sáng tâm trí mọi người thăng hoa, đã được
lịch sử ghi lại
rõ ràng.
Vấn đề quan niệm về
Đức Phật như thế nào chỉ đặt ra sau khi Ngài
diệt độ. Ở
thời kỳ Phật giáo nguyên thủy (tính từ Phật
tại thế đến sau Phật
nhập diệt 100 năm), ngoài
sanh thân Phật đã không còn nữa, người ta
hình dung ra
Đức Phật vẫn
hiện hữu trong
giáo pháp Pháp thân,
Tăng đoàn Pháp thân, tức Ngài còn hằng hữu qua lời dạy trong
kinh điển, qua
sinh hoạt hòa hợp thanh tịnh của
chư Tăng ở khắp năm châu.
II - QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO
Đức Phật tại thế, Ngài là đấng
toàn giác,
toàn trí, hướng dẫn
mọi người thăng hoa
tri thức và
đạo đức. Sau khi
Phật diệt độ, nảy sanh nhiều
quan niệm khác nhau về Ngài.Ở thời
Phật giáo nguyên thủy, khi
sanh thân Phật không còn, người ta nghĩ Phật vẫn
hiện hữu trong
kinh tạng của Ngài lưu lại, gọi là
giáo pháp Pháp thân.
Quan niệm giáo pháp Pháp thân được
Đại chúng bộ triển khai thành
Tăng đoàn Pháp thân nghĩa là Phật vẫn sống trong
sinh hoạt của tập thể
hoà hợp Tăng. Từ đó, mỗi người tin Phật, học Phật,
thể hiện cuộc sống theo Phật thì
Phật hiện hữu trong suy tư, trong
việc làm của họ.
Vì vậy có bao nhiêu người hướng tâm về Ngài, thì có bấy nhiêu Phật, dẫn đến hình thành
tư tưởng thiên bá ức
hoá thân Phật của
Phật giáo Đại thừa.
Theo
tinh thần Đại thừa,
Đức Phật Thích Ca là một
ứng thân ở
Ta bà, để khai thị cho
chúng sanh con đường vào
Phật tri kiến. Sau khi
ứng thân Phật
Niết bàn, nhưõng
Tỳ kheo mang
hình thức giống Phật và
truyền bá chánh pháp,
tiêu biểu cho Phật tại trần gian, gọi là
hóa Phật.
Tư tưởng hóa Phật được dân
Tây Tạng đổi
thành Phật sống, người ta tin và gần gũi với Phật sống hơn là Phật vô hình. Theo họ, chỉ có
Lạt Ma mới có khả năng tiếp cận với Phật, và vị này là nhịp cầu
tâm linh truyền thông giữa
mọi người và Phật.
Vì vậy, theo
truyền thống Phật giáo Tây Tạng, đức
Đạt Lai Lạt Ma tiêu biểu cho Phật
tại thế, được
kính trọng tuyệt đối.Mỗi vị Tăng
suy nghĩ về Phật, thì
hiện hữu Phật;
hóa Phật là Phật do
chúng ta hình dung,
nghĩ tưởng mà có. Từ góc độ ấy,
Phật giáo Đại thừa đưa ra
quan niệm Báo thân Phật hay thân
phước đức trí tuệ của Phật.
Báo thân Phật không phải là một thân lạ lùng ở nơi xa xôi nào, nhưng
tồn tại ngay trong
sanh thân Ngài, được
cấu tạo từ sự
kết hợp trí tuệ và những
việc làm thánh thiện,
lợi ích của Ngài đoái với đời.
Thật vậy, trên bước đường hoằng
hóa độ sanh, với
tri kiến thấy đúng
như thật, Ngài
hiểu rõ khả năng,
hoàn cảnh của từng người và
tùy theo đó mà chỉ dạy; họ đều thăng hoa trên đường
đạo hạnh,
tăng trưởng phước lạc.
Với nhân cách
toàn thiện,
trí tuệ toàn bích,
đạo đức toàn mỹ,
đức Phật dễ dàng
thành công trong việc
giáo hoá.
Báo thân hay
hành vi đạo đức, không chút
lỗi lầm và
trí tuệ siêu tuyệt của Ngài đã
ảnh hưởng,
tác động cho người,
xây dựng thành một tập thể
xuất gia và
tại gia đạo đức,
sáng suốt. Hướng dẫn và dung hóa
giáo đoàn gồm 12.000
Tỳ kheo thuộc
trình độ khác nhau,
thành phần phức tạp, không phải là điều
đơn giản.
Trong 80 năm trụ thế,
Đức Phật cảm hóa từ hàng vua chúa
quyền quý, người
giàu sang,
học thức,
cho đến người
thứ dân nghèo khổ, thất học, từ người
hiền lành đến kẻ sát nhân; tất cả đều được
chuyển đổi, thăng tiến
tốt đẹp.
Từ
Báo thân viên mãn, đầy đủ
phước đức,
trí tuệ,
Đức Phật dùng vốn quý giá ấy để
cấu tạo một thân thứ ba gọi là
Pháp thân.
Pháp thân không phải là cái gì siêu hình,
trừu tượng ở trong
hư không. Bằng
trí tuệ của bậc
Chánh Biến Tri,
Đức Phật biết rõ và vận dụng được nguyên lý tạo nên
con người và
thế giới. Từ đó,
mọi vật, mọi
hiện tượng trong trời đất,
mọi việc của các loài đều không
chướng ngại đối với Ngài. Và hơn theá nữa,
Đức Phật chi phối toàn bộ các pháp,
sử dụng chúng một cách
tự tại; các pháp
trở thành thân Ngài.
Đức Phật sử dụng Pháp thân chuyển hoá xã hội đương thời,
lúc ấy sanh thân Phật
trở thành Pháp thân hay được coi là
Pháp thân.
Chúng ta cũng có
Pháp thân, nhưng vì không có
Báo thân viên mãn, tức không đầy đủ
trí tuệ,
đạo đức nên
Pháp thân không
hoạt động được, kinh gọi là
Như Lai tại triền;
ví như vàng bạc có trong quặng mỏ, nhưng không biết khai thác, không dùng được.
Đức Phật cũng mang
thân tứ đại ngũ uẩn như
mọi người, nhưng Ngài biết dùng
sanh thân ấy để tạo thành
Pháp thân và
Báo thân và đạt
quả vị Vô thượng Đẳng giác. Trong khi
chúng sanh phát triển nghiệp và
phiền não,
đời đời kiếp kiếp trôi lăn trong
sanh tử khổ đau.
Trên nền tảng cuộc sống
bình thường của
sanh thân,
Đức Phật phát triển
tinh thần,
tăng trưởng trí tuệ và
đạo đức để nuôi lớn
Báo thân. Và từ
tinh thần này hội nhập lại
sanh thân,
tác động đến
mọi người,
mọi việc. Nói chung là Ngài điều động được các pháp một cách
tự tại, tức
sử dụng được
Pháp thân.
Tuy
ba thân :
sanh thân,
Báo thân và Pháp thaân, thực sự chỉ là một thân,
hiện hữu trong
con người thật,
Thích Ca Mâu Ni, được
lịch sử ghi nhận.
Tóm lại,
Phật giáo nguyên thủy quan niệm Đức Phật có
sanh thân và
Pháp thân.
Phật giáo trong
thời kỳ bộ phái lại chủ trương
Báo thân và
ứng thân.
Sau đó,
Phật giáo Đại thừa kết hợp hai
tư tưởng này lại để hình thành
quan niệm tam thân Phật :
ứng hóa thân,
Báo thân và
Pháp thân. Nghĩa là
quan niệm sanh thân của
Phật giáo nguyên thủy vaø
Phật giáo thời
bộ phái giống nhau, vẫn giữ nguyên, nhưng mang tên khác là
ứng hóa thân.
Ứng thân chỉ cho Phật
Thích Ca,
hóa thân là những vị
gìn giữ chánh pháp Phật
tồn tại trên
thế gian.
Ngoài ra,
Phật giáo Đại thừa đặt nặng
vấn đề tri thức và
đạo đức nên lấy
Báo thân viên mãn hay
phước đức trí tuệ làm thân. Đây là điểm quan trọng khác biệt giữa Phật và
chúng sanh, vì không tu đầy đủ hạnh
Bồ tát và tâm
đại bi, không thể nào đaït
quả vị Phật.
Sau cùng,
Đại thừa kết hợp giáo pháp Pháp thân của
quan niệm nguyên thủy với
Tăng đoàn Pháp thân của thời
bộ phái,
biến đổi thành
thanh tịnh Pháp thân. Như vậy, danh
từ Pháp thân tuy giống nhau, nhưng
tư tưởng cốt lõi bên trong khác nhau.
Theo
tinh thần Đại thừa, ngày nay
sanh thân Phật
vắng bóng trên
cuộc đời,
tri thức và
đạo hạnh của Ngài đầu tư cho
loài người vẫn là mô hình kiểu mẫu hướng dẫn cho những người đồng hạnh đồng nguyện với Ngài trên khắp năm châu.
Sanh thân không còn
hiện hữu mà
Pháp thân vẫn
thường trụ vĩnh hằng, được
vô số tâm hồn lớn nối tiếp, tạo thành mạng mạch
Phật giáo lưu truyền,
lợi lạc cho
chúng hữu tình qua suốt 25 thế kỷ.
III - QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
Kinh Pháp Hoa và
kinh Hoa Nghiêm là hai
bộ kinh nòng cốt của
Phật giáo Đại thừa.
Kinh Pháp Hoa đặt nặng về pháp, trong khi
kinh Hoa Nghiêm triển khai về Phật là vị có đầy
đủ tư cách để
tuyên thuyết diệu pháp.
Quan niệm về
Đức Phật theo
Hoa Nghiêm tất nhiên cũng khởi đầu từ Phật
nguyên thủy là đức
Thích Ca. Ngài cũng mang
thân tứ đại giống như
chúng ta và
trải qua quá trình
tu hành,
đắc quả Vô thượng Bồ đề.
Quan điểm cho rằng Phật là người giống như ta và
tiến tu thành bậc
chánh giác, được xét lại trong thời
Phật giáo phát triển. Vì câu hỏi được đặt ra là tại sao người đều giống nhau, nhưng chỉ
duy nhất có Phật
thành tựu quả vị toàn giác, còn những vị
tu hành khác thì có người thành Tổ, có người làm
trụ trì hoặc người chẳng
đạt được quả vị nào.
Phật giáo phát triển bắt đầu mở tầm nhìn về chiều sâu, nhìn bên trong cái thực của
con người, tức chân linh để định
giá trị khác nhau của mỗi người. Theo
tư tưởng Phật giáo phát triển, phần
cốt lõi quan trọng hơn vì lõi thế nào thì
hiện ra bên ngoài thế đó. Bên trong hàm chứa coát cách của Phật, Tổ, tất yếu bên ngoài phải
hiện tướng hảo
trang nghiêm. Đó là do các Ngài đã
tích lũy công đức tu hành nhiều đời, không phải một kiếp làm được,
một đời thành Phật được như
chúng ta lầm tưởng.
Chúng sanh tạo
nghiệp ác,
chất chứa trong nhiều đời cũng giống như vậy.
Từ đó, hình
thành kinh Bổn sanh,
Bổn sự, nói về
vô số tiền kiếp của Phật
xả thân hành
Bồ tát đạo. Thân xác giống như chiếc áo mặc cho chân linh. Đó là
quan niệm mới của
Phật giáo phát triển bắt đầu
quán sát người ở
hai mặt : mặt
bề ngoài là
sanh thân hay
thân mạng hữu hình và
thân mạng vô hình bên trong là
Báo thân, tức
hành vi tạo tác của
chúng ta.
Do
công đức tu hành tạo nên
con người là
Bồ tát,
Thánh hiền, Phật.
Nghiệp chướng trần lao thì tạo thành
chúng sanh trôi lăn trong
sáu đường sanh tử. Như vậy,
chúng ta có hai
con người :
con người bằng xương thịt và
con người bằng chân linh.
Đại thừa chú trọng đến phần chân linh,
căn cứ vào sanh thân Phật để
tìm hiểu chân linh hay
nhận ra Báo thân Phật.
Theo
Đại thừa,
Báo thân là
phước đức,
trí tuệ của Phật. Ngài
giáo hóa người
thành tựu dễ dàng vì
lời nói, hành động,
việc làm đều phát xuất
từ trí tuệ siêu tuyệt và
đạo đức hoàn toàn thánh thiện.
Đại thừa nhìn về Phật qua
tri thức và
đức hạnh của Ngài và
triển khai Báo thân.
Suy nghĩ về
Báo thân, nương
Báo thân Phật tu hành nhằm
mục tiêu phát triển
Báo thân của chính mình. Trên bước đường tu,
chúng ta xem Phật, Tổ,
Bồ tát làm gì, ta cũng làm vậy để nuôi lớn
Báo thân của riêng mình.
Đức Phật dạy rằng ai cũng có thể
thành Phật nếu
tu tập cho đầy đủ tâm
đại bi,
viên mãn hạnh
Bồ tát.
Vô lượng kiếp quá khứ, Phật,
Hiền Thánh đều trải
thân hành Bồ tát đạo, làm
lợi ích chúng hữu tình, mới
đạt đến Vô thượng Đẳng giác. Ngày nay, muốn
thành tựu quả vị như Phật,
chúng ta cũng phải
phát tâm bồ đề, dấn thân tu
Bồ tát đạo. Đó là
tư tưởng nồng cốt của
Phật giáo Đại thừa.
Tiến đến đỉnh cao của hệ
tư tưởng này là
kinh Hoa Nghiêm.
Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu Đức Phật và cách tu thế nào để
thành Phật, tức
Bồ tát pháp.
Tinh thần Hoa Nghiêm cho
chúng ta ý niệm về
Đức Phật hoàn toàn mới, khác hẵn các
bộ kinh Đại thừa khác.
Đức Phật không bị
giới hạn trong một loại hình cố định nào.
Thật vậy,
Hoa Nghiêm mở ra cho
chúng ta tầm nhìn
phóng khoáng, theo đó không có gì không phải là Phật, đó mới là
Đức Phật chân thật. Phật này là
Phật huệ,
trí tuệ Phật hiện vô thân
đồng nữ thì
đồng nữ đó là Phật, hiện trong thân
trưởng lão thì
trưởng lão là Phật, v.v...
Tư tưởng đặc biệt của
Hoa Nghiêm về sự
hiện hữu vĩnh hằng của một
Đức Phật toàn diện đòi hỏi
chúng ta phải
đạt đến trình độ nhất định nào đó mới có thể hiểu, sống và
hành đạo như vậy.
Đứng trên
lập trường bao quát, thấy Phật là tất cả, là
pháp giới, được
kinh Hoa Nghiêm tiêu biểu qua
hình ảnh Phật với 10 loại thân :
Ngũ ấm thân,
Quốc độ thân,
Chúng sanh thân,
Thanh văn thân,
Duyên giác thân,
Bồ tát thân,
Như Lai thân,
Trí thân,
Pháp thân,
Hư không thân. Hay có thể nói 10 loại hình này là
diễn tiến sự sống từ thấp nhất tiến đến
quả vị Phật và từ
Phật giới chi phối ngược xuống
toàn bộ các loài hưõu tình, vô tình.
1-
Ngũ ấm thân :
Trái với quan niệm thông thường cho rằng
Thượng đế tạo ra
con người và
vũ trụ, theo
Hoa Nghiêm,
trước tiên lấy
ngũ ấm làm
căn bản, vì tất cả muôn vật đều phát xuất từ
ngũ ấm : sắc, thoï, tưởng, hành, thức.
Đức Phật cũng
hiện hữu từ
ngũ ấm, Ngài tiến đến
quả vị toàn giác vì Ngài không bị
ngũ ấm chi phối.
Chúng sanh cũng mang thân
ngũ ấm, nhưng bị nó
ràng buộc triệt để, luôn gánh chịu khổ đau sanh tưû.
Đức Phật khẳng định rằng
ngũ ấm cấu tạo nên
con người và
con người bị
lệ thuộc nó. Chính vì còn kẹt vào thân
vật chất, tức
sắc uẩn,
chúng ta còn bị bốn thứ : đói, khát, nóng, lạnh
hành hạ. Khi sống với
thức uẩn, mặc dù chưa phải là
chơn tâm,
chúng ta cũng đã
thoát khỏi sự
ràng buộc của bốn tướng này.
Thí dụ như trong giấc mơ,
chúng ta không ăn cũng không thấy đói.
Hương vị
giải thoát đầu tiên của người đắc được
sơ quả là
xa lìa được
đói khát, nóng lạnh.
Vì vậy,
Thiền sư trong lúc
nhập định không cần
ăn uống, ngủ nghỉ, mà không
cảm giác đói khát,
mệt mỏi, vì họ đang sống với chân linh, vượt ngoài sự
chi phối của thân xác.
Thân của
Đức Phật khởi đầu cũng phát xuất từ thân
ngũ ấm như
chúng ta và Ngài cũng
sử dụng nó. Nhưng
chính yếu là Phật điều khiển được thân
hoàn toàn theo
mục tiêu mà Ngài đặt ra.
Đối với Phật, Ngài mang thân
ngũ ấm trang nghiêm bằng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thành
Vô thượng Đẳng giác để
giáo hóa chúng sanh. Khi việc đáng làm đã làm, người đáng độ đã độ, Ngài rời bỏ thân một cách nhẹ nhàng.
Đức Phật khác hơn
chúng sanh là như vậy.
Chúng sanh thì bị thân
ngũ uẩn dày xéo,
hành hạ, sống khổ với thân, chết cũng không yên với nó.
Đức Phật thì
tự tại hoàn toàn vì
biến đổi được
ngũ uẩn thành
Pháp thân mà kinh
diễn tả là : "Nhược năng
chuyển vật tức đồng Như Lai".
Đưùc
Phật sử dụng và phát triển
ngũ uẩn thành
ngũ phần Pháp thân,
đạt đến đỉnh cao Tỳ
Lô Giá Na chi phối muôn loài.
Vì vậy,
ngũ uẩn được
kinh Hoa Nghiêm coi là một trong 10 thân của
Phật Tỳ Lô Giá Na.
2-
Quốc độ thân :
Từ
ngũ uẩn làm gốc, nảy sanh ra sự sống,
hiện thân thứ hai là
quốc độ thân, chỉ cho sơn hà
đại địa. Nói chung, sự sống đơn bào tiến lên đa bào, phát triển lần đến các sinh vật
hữu tình và vô tình.
Theo
tinh thần Hoa Nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa
mơn mởn, cá bơi chim liệng hay thấy
tượng Phật trang nghiêm, cảnh chùa
thanh tịnh, khiến ta
phát tâm; đó là
vô tình thuyết pháp. Thân Tỳ
Lô Giá Na đã
tác động vào caûnh quang, tạo thành lực
hấp dẫn đưa ta đến với
Phật đạo.
Trong kinh thường
diễn tả quá trình hành
Bồ tát đạo,
Phật hiện thân trong tất cả các loài, không riêng gì
loài người, Ngài đã từng làm nai, chim,
sư tử ... Trong vuõ trụ, cỏ cây hoa lá
cho đến động vật đều có Tỳ
Lô Giá Na ảnh hưởng đến và trong các
hữu tình chúng sanh thuộc
tứ sanh lục đạo cũng chịu lực
chi phối của Tỳ
Lô Giá Na để
tồn tại.
3-
Chúng sanh thân :
Loại
thân hình thứ hai của thân
Phật Tỳ Lô Giá Na là trải thân ra làm đất đai, làm cây cỏ, làm núi sông để
che chở, nuôi sống, dung nhiếp muôn loài. Không loài nào mà tâm
đại bi Phật không
tác động đến,
thể hiện sự
hiện hữu loại thân thứ ba của Phật gọi là
chúng sanh thân.
Dưới mắt người
hành đạo theo
tinh thần Hoa Nghiêm, con ong cái kiến
cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không
dễ thương, không phải là Phật. Ngược lại, mọi sự vật trên
cuộc đời đều
chướng tai gai mắt với
phàm phu,
ràng buộc họ, làm cho khổ đau.
Trên
tinh thần tất cả đều đẹp, những người thật dạ
tu hành ở bên phiến đá, cạnh dòng suối trong
núi rừng, nhưng có cảm nghĩ nơi đó
hiện diện ba đời mười phương Phật, họ dễ dàng
tiến tu giải thoát. Nhưng nếu khởi
vọng tâm đòi hỏi phải ở chỗ này mới tu được, ở chỗ kia buồn khổ, thì không thể nào sống trong
thiền môn. Riêng tôi, vào thời niên thiếu, có lúc
hành đạo, ở
dưới gốc cây, sống thật
đạm bạc, cảm nhận
hạnh phúc kỳ diệu.
Thiết nghĩ, người nào
vân du hành đạo dễ
nhận ra ý này. Khi
trụ tâm tu hành, cái gì cũng đẹp, nhưng bắt đầu xây cất
tinh xá, chùa chiền,
thu nhận đồ chúng thì cũng bắt đầu khổ với
trần duyên. Thật vậy,
tâm hồn chúng ta thoáng,
không chấp vật, cái gì đối với ta cũng tốt. Nhưng chấp một cái là
trùng trùng duyên khởi phiền não sanh ra.
Bước theo lộ trình
Hoa Nghiêm,
chúng ta cũng tập mang
tinh thần rộng lớn như vậy, tập làm những việc
bao dung, giúp đỡ người phát triển. Đó là
con đường đưa
chúng ta đến
quả vị toàn giác trong tương lai. Nói cách khác,
ngũ uẩn phát triển
đạt đến đỉnh cao Tỳ
Lô Giá Na chi phối muôn loài.
4-
Thanh văn thân :
Từ trong
chúng sanh thân,
nhận ra cuộc đời không bền chắc,
khởi tâm đi tìm hằng hữu.
Từ bỏ đời sống thế nhân,
đi theo lộ trình
Phật đạo, mang thân
tu sĩ, tức
Thanh văn thân, cũng là một loại
hình thân của Phật.
Thanh văn có 4 hạng :
Tăng thượng mạn Thanh văn học nhiều nhưng chỉ để
nói khoác.
Chúng ta cần
cân nhắc, đừng để rớt vô hạng này.
Hạng thứ hai,
thú tịch Thanh văn, học và chấp vào pháp đã được. Họ sống với pháp đó
cho đến lần tách rời
cuộc đời, không biết gì đến
thế gian. Khi
đắc đạo, họ hướng thẳng về
an trú Niết bàn.
Hạng thứ ba là
thoái chuyển Thanh văn,
phát tâm bồ đề, làm lơïi ích
chúng hữu tình, nhưng nghiệp và
phiền não bản thân còn nhiều, bị
chúng sanh gây khó khăn. Họ không thể
tiến tu Bồ tát đạo, phải lui
trở lại tu hạnh
viễn ly. Sau cùng là
Bồ tát thị hiện Thanh văn,ï thực sự là Bồ taùt, nhưng ở trong hàng
Thanh văn để giáo dưỡng họ.
Bốn hạng
Thanh văn trên đều mang
hình thức đệ tử Phật, dù họ tu cách nào,
Phật lực cũng
chi phối đến thân họ. Đối với người
Tây Tạng, hàng
tu sĩ được
quý trọng như Phật sống.
Tinh thần này được
kinh Pháp Hoa diễn tả là
thế gian tướng thường trụ, tức ở trong
loài người, mang thân người
duy trì được
Phật pháp qua hành động và
tư tưởng trong cuộc sống.
Vì vậy, người tu theo pháp Phật, trắc nghiệm 37 phẩm
trợ đạo giữa lòng
cuộc đời, được coi như là
Pháp thân của
đức Phật hay
Thanh văn thân là một phần trong tổng thân của Phật
Thích Ca.
5-
Duyên giác thân :
Trong hàng
đệ tử Phật,
Duyên giác thuộc tầng lớp
trí thức,
tinh thần rất bén nhạy. Họ
quán nhân duyên để thấy được mối quan hệ giữa
mọi người với nhau trong
xã hội. Và theo
lời Phật dạy, người nào thấy
nhân duyên thì thấy được
pháp chân thật, đó là điều
tiên quyết để tiến đến
quả vị toàn giác.
Hàng
Duyên giác hay
Bích Chi Phật ẩn tu,
thâm nhập thiền định, nhận chân được mối quan hệ của
chúng sanh trong
tứ sanh lục đạo và hành xử theo đúng với
lý nhân duyên ấy, thì họ vẫn được coi là một
hiện thân của Phật trên
cuộc đời.
6-
Bồ tát thân :
Thanh văn tu hành tập thể và
Duyên giác hay
Độc giác ẩn
tu quán sát các pháp. Tổng hợp hai cách tu này, có mẫu người thứ ba vừa có
đạo đức, vừa có
tri thức,
đi vào đời
độ sanh gọi là
Bồ tát.
Bồ tát hay bậc giác
hữu tình tức người đem ánh sáng
giác ngộ đến các loài
hữu tình. Họ
phát tâm bồ đề, khởi niệm thương
chúng sanh và đến giúp đỡ, cũng là do
Phật lực chi phối đến.
Trên
tinh thần hành đạo cứu đời vì
tiếp nhận được lực Tỳ
Lô Giá Na, nên
Bồ tát thân cũng là thân của Phật.
Khi người tu tròn đủ hạnh
Bồ tát và tâm
đại bi thì đạt
quả vị Phật, tức
Như Lai thân. Với thân
Như Lai, không còn phải dấn thân vào đời để
cứu độ như
Bồ tát, không phải ẩn tu như hàng
Duyên Giác, cũng không cần sống trong tập thể để
trao đổi sách tấn nhau
tu hành như
Thanh văn. Vì
Như Lai thân không từ đâu tới và cũng khoâng đi về đâu. Chính thân đó
tác động đến các loài
chúng sanh và
giáo hoá được tất cả mà không cần cử thân động niệm.
Từ
ngũ ấm thân,
trải qua quá trình
tu hành tiến lên
quốc độ thân,
chúng sanh thân,
Thanh Văn,
Duyên Giác,
Bồ tát thân và
Như Lai thân là thân thứ 7 của Phật.
Ở
quả vị Như Lai, không cần làm tất cả các việc trước nữa, nhưng các loài
hữu tình chúng sanh tự
phát tâm tu và tự
giải thoát. Đó là
đặc biệt của
sự giáo hóa bằng
Như Lai thân, không cần
cứu độ mà mọi loài được
nương nhờ, tự
tôn kính,
quy ngưỡng Phật.Trên bước đường tu,
sử dụng thân của từng giai đoạn tu khác nhau,
thành đạt đến
vị trí Như Lai.
Lúc ấy,
như như bất động, mà vẫn
hoá độ được
chúng sanh.
Hoạt động chính của
Như Lai không phải bằng thân xác
vật chất, bằng
ngôn ngữ bình thường, nhưng bằng
trí tuệ, nên gọi là
trí thân (thân thứ 8 )
Dùng
trí thân, tức dùng
trí tuệ Như Lai tác động chúng sanh, khiến họ
phát tâm bồ đề.
Chúng sanh chịu sự
chi phối của
trí thân gồm cả
hữu tình và vô tình
chúng sanh tức nhứt thiết pháp. Tất cả pháp, không có pháp nào mà
trí tuệ Như Lai không chiếu tới được.
Trí
Như Lai chiếu tới đâu thì biến các pháp ấy thành
Pháp thân của
Đức Phật. Đó là điểm
then chốt của
kinh Hoa Nghiêm quan niệm về
Đức Phật.
Trí tuệ Phật chiếu vào một
tu sĩ hay
cư sĩ,
tác động họ
phát tâm, chiếu vào tất cả sự vật thì làm vật đó
biến chuyển thành pháp của Phật.
Ví dụ
trí tuệ Như Lai tác động vào
chúng ta, khiến
chúng ta phát nguyện theo
Phật đạo và cũng
tác động qua các pháp, biến gạch ngói, đất đá thành chùa chiền.
Tu sĩ,
tín đồ, chùa, cảnh vật,
pháp khí hiện hữu để
Phật pháp tồn tại, phát triển, thì tất cả đều là
Pháp thân của
Đức Phật ( thân thứ 9 )
Quang cảnh thiền môn tuy không phát ra
âm thanh, nhưng
tác động cho người
hình dung ra Phật,
liên tưởng đến
cách sống của Ngài và họ
phát tâm tu theo, tức
Pháp thân của Phật đã
thuyết pháp.
Có thể nói
Pháp thân Phật theo
tinh thần Hoa Nghiêm được
triển khai rộng hơn
ý niệm Pháp thân của
Phật giáo nguyên thủy chỉ hạn hẹp trong
giáo pháp Phật còn lưu lại.
Kinh Hoa Nghiêm quan niệm tất cả pháp, kể cả sơn hà
đại địa đều nhận lực
chi phối của huệ
Như Lai, đều là
Pháp thân Phật. Từ
căn bản ấy, tất cả mọi sự vật trên
cuộc đời đều
biến thành Phật pháp nếu có huệ
Như Lai rọi vào. Một miếng gỗ, cục đá hay đồng chì đều
biến thành Phật khi người tạo ra nó hoặc
chiêm ngưỡng,
kính lễ nhận được huệ
Như Lai, có
ý niệm về Phật.
Trái lại, không có huệ
Như Lai đầu tư vào, thì đất đá vẫn là đất đá.
Triển khai mạnh về
ý nghĩa này,
kinh Hoa Nghiêm chủ trương bằng mọi cách phát huy được
Như Lai huệ để chiếu sáng vào lòng
cuộc đời, vào
vũ trụ, biến tất cả
thành Phật pháp.
Tiến theo lộ trình
Hoa Nghiêm,
đạt đến đỉnh cao nhất là
Hư không thân hay Tỳ
Lô Giá Na thân. Tỳ
Lô Giá Na dịch là
phổ quang minh chiếu, chỉ cho
trí tuệ rọi
vô pháp, biến
pháp thành Pháp thân.
Lúc ấy, trí và lyù
bất nhị,
kết hợp thành một.
Thiết nghĩ đây là loại hình của
thế giới tu chứng, khó
diễn tả bằng
ngôn ngữ bình thường.
10 thân Phật nói trên là tổng thân của
Tỳ Lô Giá Na Phật,
kết hợp giữa
chân lý và
trí tuệ,
chi phối ngược xuống 9 loại hình,
từ hàng Thánh giả đến người thường trên
cuộc đời và cả loài
hữu tình, vô tình.
Trong vô hình, lực Tỳ
Lô Giá Na chi phối xuống
hữu tình chúng sanh và vô tình khí
thế giới, khiến cho tất cả phaùt tâm
bồ đề,
tiến tu đạo nghiệp,
kết hợp thành
pháp giới.
Đó là
thế giới huyền môn của
đạo Phật dành cho những người tiến bước theo
Bồ tát đạo,
đạt đến bằng sự
tu chứng thật sự, nằm ngoài lạm bàn của
phàm phu điên đảo vọng tưởng.