THỦ LĂNG NGHIÊM KINH TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Pháp Sư Thích Từ Thông
Tập I
CHƯƠNG THỨ HAI
GẠN HỎI CÁI TÂM
Tâm là căn bản của Bồ Đề Niết Bàn và cũng là căn bản của luân chuyển sanh tử
Ông A Nan cho rằng tâm ở trong thân
Ông A Nan cho rằng tâm ở ngoài thân
Ông A Nan cho rằng tâm núp sau con mắt
Ông A Nan cho rằng nhắm mắt thấy tối là tâm ở trong thân
Ông A Nan cho rằng sự suy nghĩ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó
Ông A Nan cho rằng tâm ở chặng giữa
Ông A Nan cho rằng tâm là cái không dính dáng vào đâu cả
Luân hồi sanh tử không phải là hiện tượng họa gởi tai bay. Bồ Đề Niết Bàn không phải là cảnh giới siêu nhiên do đấng siêu nhân nào ban tặng.
Lại gạn hỏi cái tâm
Tâm thì phải có thể tánh, không thể tánh không phải là tâm
Cái tánh thấy của mắt chỉ là hiện lượng
Gạn hỏi nghĩa khác trần nhằm chỉ rõ hiện tượng vọng tưởng diệt sanh. Ví dụ chủ và hư không để khai thị bản thể chơn tâm thường trú TÂM LÀ
CĂN BẢN CỦA BỔ ĐỀ
NIẾT BÀN VÀ CŨNG LÀ
CĂN BẢN CỦA
LUÂN CHUYỂN SANH TỬKhi gạn hỏi cái tâm, lần đầu tiên ông A-Nan thưa với Phật: Rằng tâm là sự
hiểu biết của ông, là cái sanh ra sự
ưa thích và
ham muốn ở trong ông. Như khi mắt ông nhìn thấy 32 tướng tốt của Phật và từ đó ông
phát tâm xuất gia theo Phật
tu hành mong được
xuất ly sanh tử…
Nhằm để mở mang cho sự nghị luận, khai thị thâm nghĩa
Thủ Lăng Nghiêm,
đức Phật bảo:
- A-Nan ! Ông nên biết, hết thảy
chúng sanh vô thỉ
đến nay sống chết tương tục đều do không biết
CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ,
THỂ TÁNH TỊNH MINH, hàng ngày chỉ dùng các
vọng tưởng; mà
vọng tưởng thì không chơn,
vì vậy nên mới có
luân hồi.
- A-Nan ! Như lời ông nói: Do tâm và con mắt mà có sự ưa muốn, nhưng
nếu không biết tâm và con mắt ở đâu thì không thể
hàng phục trần lao,
ví như ông vua một nước bị giặc xâm lăng phát binh
đánh dẹp, thì binh ấy
cần phải biết giặc ở chỗ nào mới mong dẹp được. Hiện nay ông còn mắc phải
luân hồi là lỗi
tại tâm và con mắt của ông. Vậy ông hãy
chín chắn tìm xem tâm và con mắt của ông hiện ở chỗ nào ?
*
* *
TRỰC CHỈ
Trước khi chỉ dạy
phương pháp tu CHỈ, QUÁN và
THIỀN NA, theo lời thưa thỉnh của ông A-Nan,
đức Phật gạn hỏi về cái tâm. Gạn hỏi ông A-Nan, được
xem như gạn hỏi tất cả những ai có lòng
sùng tín đức Phật, học tu theo nền
giáo lý Phật. Bởi vì
mọi người sùng tín đạo Phật đều
tôn trọng cái tâm, mặc dù chưa được hiểu kỹ về nó. Người ta ngưỡng vọng đặt trọn
niềm tin ở tâm: Rằng "tội phúc do tâm; vui khổ do tâm"
Niết Bàn địa ngục do tâm… Đến như những người chưa biết
đạo Phật là gì, người ta vẫn
quan niệm:
Lương tâm,
lương tri là
căn bản đạo đức của
con người, nó không
thể không có trong cuộc sống của
xã hội loài người.
Đối với nền
giáo lý Phật, tâm là
vấn đề then chốt.
Kinh
tâm địa quán nói:
"Trong
tam giới, tâm là chủ
Người hay
quán tâm sẽ có
giải thoátNgười
không quán tâm
chắc chắn trầm luânTâm
chúng sanh cũng như
đại địaNgũ cốc ngũ quả từ
đại địa sanh
Tứ Thánh lục phàm đều do tâm sanh
Cho nên gọi tâm là "tâm địa"."
Kinh Hoa Nghiêm nói:
"Nếu ai muốn rõ biết
Ba đời mười phương Phật
Nên quán tánh
pháp giớiTất cả do tâm tạo
Tâm như chàng họa sĩ
Vẽ hết thảy
ngũ ấmTất cả pháp
thế gianKhông pháp nào không tạo
Tâm và Phật
cũng thếPhật,
chúng sanh cũng vậy
Tâm, Phật và
chúng sanhTên thì ba mà thể thì một."
Thực vậy, tâm là một
vấn đề không
đơn giản. Không như cái hiểu thông thường của nhiều người
quan niệm.
Nếu không phải
đệ tử Phật dùi mài trong
giáo lý,
thiền quán để
tư duy thì người ta khó có thể hiểu được thế nào là:
Chân tâmVọng tâmTích tập tâm
Tập khởi tâm
Duyên lự tâmTích tụ tinh yếu tâmNhục đoàn tâmTâm VươngTâm Sở…
Cho nên muốn hiểu đượcv tâm, cần có quá trình học Phật và
dụng công tu tập tư duy. Tâm là
căn bản của
Bồ Đề,
Niết Bàn nếu khéo vận dụng sống theo
con đường chánh pháp;
trái lại tâm là nguồn gốc của
luân hồi sanh tử; nếu "đánh mất" hoặc không phát hiện được cái
chơn tâm thường trú sẵn có của mình.
Đạo Phật, cũng như nền
giáo lý Phật, xem trọng, rất trọng
giá trị của tâm trong
nghĩa tâm tánh của
con người. Muốn
sử dụng tốt cái tâm đó
cần phải dụng công tu tập giới, định, tuệ để
thân chứng. Nói đến sự
tu tập phải đúng
chánh pháp, không khéo ý những mong vẻ cọp, nhưng kết quả lại là con chó vện khẳng khiu ! Bởi vì người ta rất dễ lầm tâm… Sự thấy nghe
hiểu biết, sự ưa muốn, sự ghét thương… Những
tác dụng tâm lý đó, nó không rời tâm, nhưng nó không phải
chơn tâm, nó là
vọng tưởng, là cái
bóng dáng còn sót lại của
tiền trần, của "ngũ câu ý thức" (là
pháp trần vậy).
Người khéo biết
tu tập sẽ có được
chân tâm thường trú hiện ở cõi đời nầy. Phật chỉ là một người, nhưng có khác với nhiều người ở chỗ: Phật sống bằng
chơn tâm thường trú ấy.
Thế cho nên biết rằng:
Chân tâm thường trú không phải là cái gì xa rời
thực tế. Nó là cái
dữ kiện căn bản đem lại
sự giải thoát giác ngộ cho
con người khi người có biết
sử dụng đến, phát
hiện ra Chơn Tâm Thường Trú Của Mình.
*
* *
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở TRONG THÂN(
)
Ông A-Nan thưa: Bạch
Thế Tôn ! Không riêng gì tôi mà tất cả
mọi người trên
thế gian đều cho cái tâm
hiểu biết ở trong thân, còn con mắt thì ở trên mặt.
Phật bảo: A-Nan ! Ông nói rằng tâm
hiểu biết ở trong thân là
không có lý. A-Nan ! Nay tôi hỏi ông: Phỏng có
chúng sanh nào ngồi trong
giảng đường nầy mà không thấy không biết
Như Lai và
đại chúng mà lại thấy biết
mọi vật bên ngoài
giảng đường không ?
- Bạch
Thế Tôn ! Không thể có sự việc như thế được. Nếu ngồi trong
giảng đường, trước hết phải thấy biết trong
giảng đường, rồi sau nhìn ra cửa mới thấy biết
cảnh vật bên ngoài.
- Thật vậy, A-Nan ! Ở trong
giảng đường, trước hết phải thấy bên trong, nhìn ra cửa mới thấy biết hoa lá vườn rừng, sự vật bên ngoài. Nhưng theo lời ông nói: Cái tâm
hiểu biết ở trong thân thì lẽ ra khi người bị bệnh thổ huyết, cái tâm phải biết gốc bệnh xuất huyết do tỳ, phế hay viêm loét dạ dày. Nầy, A-Nan !
Mọi người trên
thế gian không một ai biết được gốc bệnh của mình như vậy.
A-Nan ! Người ngồi trong
giảng đường mà không thấy biết
Như Lai và
đại chúng, lại thấy biết
mọi việc bên ngoài đã là
vô lý thì cái tâm
hiểu biết ở trong thân mà không
hiểu biết thương tật của tâm cang tỳ phế thận, lại biết rõ hết
trần cảnh bên ngoài, hai
sự kiện này đều
vô lý như nhau !
Thế cho nên ông nói Tâm Ở Trong Thân là không đúng lý.
*
* *
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở NGOÀI THÂN(
)
Ông A-Nan thưa: Bạch
Thế Tôn ! Vừa
nghe lời Phật dạy, tôi nghĩ ra rằng: Tâm tôi thiệt ở ngoài thân. Bởi vì tất cả
mọi người không ai thấy biết bên trong thân,
ví như ngọn đèn để ở ngoài phòng thì chỉ sáng bên ngoài mà không thể sáng bên trong phòng được. Bạch
Thế Tôn ! Nghĩa nầy thật quá
rõ ràng chắc không còn lầm nữa !
Phật bảo: A-Nan ! Vừa rồi tôi và
đại chúng cùng đi
khất thực trong thành Thất La Phiệt, nay đã về rừng Kỳ Đà. Vậy ông hãy xem trong các hàng
tỳ kheo, khi một người ăn, các người khác có no không ?
- Bạch
Thế Tôn ! Không. Dù các
tỳ kheo là A La Hớn, nhưng
thân thể khác nhau, không thể người nầy ăn mà người khác no được.
- Cũng vậy, A-Nan ! Nếu cái tâm
hiểu biết của ông ở ngoài thân thì thân và tâm riêng cách, tất không
dính líu gì nhau. Vậy cái gì tâm biết thì thân không thể biết, cái gì thân biết thì
tâm không thể biết. Thế mà, này A-Nan ! Khi tôi đưa tay tôi lên cho ông xem, mắt ông vừa thấy thì tâm ông liền biết.
Thân tâm biết cùng một lúc
với nhau, thì sao lại bảo là tâm ở ngoài thân cho được.
Vậy nên biết rằng: Ông nói tâm
hiểu biết ở ngoài thân, hẳn là không phải vậy.
*
* *
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM NÚP SAU CON MẮT(
)
Ông A-Nan thưa: Bạch
Thế Tôn ! Như
lời Phật dạy: Vì không biết trong, cho nên
tâm không phải ở trong thân. Vì
thân tâm cùng biết nên không phải tâm ở ngoài thân. Nay tôi
suy nghĩ: Cái tâm
hiểu biết đã không biết bên trong mà lại
nhận biết rõ sự vật bên ngoài, vậy là nó núp sau con mắt,
ví như người lấy chén
thủy tinh úp vào hai con mắt, con mắt dù có vật úp vào, nhưng không làm ngăn ngại sự thấy. Và vì tâm núp sau con mắt nên khi mắt thấy thì tâm liền
phân biệt.
Sở dĩ tâm không biết tạng phủ trong thân, vì nó không ở trong thân; nhưng tâm lại
nhận biết cảnh vật bên ngoài, vì nó ở trên cái mặt.
Phật bảo: A-Nan ! Ông nên nhớ rằng: Con mắt núp sau chén
thủy tinh như lời ông nói, thì khi ông trông thấy núi sông cảnh vật,
đồng thời cũng trông thấy chén
thủy tinh. Nếu tâm núp sau con mắt, thì khi
nhận thấy núi sông cảnh vật lúc đó cũng phải
nhận thấy con mắt. Nầy, A-Nan !
Thực tế không phải vậy, khi ông
nhận biết núi sông cảnh vật, tâm ông không
nhận biết được con mắt của ông.
Do đó, biết rằng: Ông nói cái tâm núp sau con mắt, như con mắt núp sau chén
thủy tinh là không
hợp lý.
*
* *
ÔNG A-NAN CHO RẰNG NHẮM MẮT THẤY TỐI LÀ TÂM THẤY TRONG THÂN(
)
Ông A-Nan thưa: Bạch
Thế Tôn ! Giờ đây tôi
suy nghĩ thế nầy:
Thân thể con người trong có
ngũ tạng lục phủ, ngoài có thất khiếu cửu huyệt. Tạng phủ có tánh che ngăn nên tối, khiếu huyệt có tánh rỗng không nên sáng. Nay tôi xin thưa với Phật rằng: Nhắm mắt thấy tối, tôi gọi là tâm thấy biết bên trong thân;
mở mắt thấy sáng, gọi là tâm thấy biết bên ngoài.
Phật bảo: A-Nan ! Đã gọi là thấy thì cái bị thấy phải "đối" ở
trước mắt. Không "đối"
trước mắt thì cái nghĩa thấy không còn.
Nếu cái tối đã đối
trước mắt mà cứ cho là thấy biết trong thân, vậy khi ở trong một phòng tối, không có ánh sáng, bấy giờ cái gì có ở trong phòng tối ấy đều là tạng phủ của ông cả hay sao ?
Vả lại khi nhắm mắt thấy tối, ông cho là thấy bên trong thân, vậy khi
mở mắt thấy sáng, sao ông không thấy cái mặt ?
Đã không thấy mặt thì không thể nói con mắt đối vào trong mà thấy. Còn như thấy được mặt thì cái tâm và con mắt ắt đã lơ lững giữa
hư không rồi, còn tương quan gì đến ông nữa ?
Vậy nên biết rằng: Nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân, chỉ là một ngụy thuyết không
thành lập được.
*
* *
ÔNG A-NAN CHO RẰNG SỰ
SUY NGHĨ HỢP VỚI CHỖ NÀO THÌ TÂM LIỀN CÓ Ở CHỖ ĐÓ(
)
Ông A-Nan thưa: Bạch
Thế Tôn ! Tôi thường nghe Phật dạy
tứ chúng: Rằng tâm sanh nên các pháp sanh, các pháp sanh nên tâm sanh. Nay tôi
suy nghĩ thì sự
suy nghĩ đó là tâm của tôi. Nó hợp với chỗ nào, tâm liền có ở chỗ đó, nó không ở trong, ở ngoài hay ở chặng giữa.
Phật bảo: A-Nan ! Ông cho sự
suy nghĩ là tâm, sự
suy nghĩ hợp chỗ nào, tâm liền ở chỗ đó. Nay tôi hỏi ông: Cái tâm có
suy nghĩ hòa hợp sanh ra, vậy nó có tự thể hay không ? Nếu nó không tự thể thì không thể hợp được với cái gì. Cũng như giới thứ 19 và trần thứ 7 thì làm gì có chuyện hợp nhau ? Bảo rằng nó có tự thể, vậy ông thử thí nghiệm: Lấy tay gãi vai, rồi
để ý xem cái tâm "biết đã ngứa", nó từ trong thân ông ra hay từ bên ngoài chạy vào ? Nếu từ trong thân ra thì nó phải biết
ngũ tạng lục phủ trong thân ông, nếu từ ngoài vào thì trước hết nó phải thấy biết cái mặt.
Vả lại, tự thể ấy là một hay là nhiều ? Nó khắp thân hay chẳng khắp thân ?
Nếu tự thể có một, khi lấy tay gãi một chỗ, lẽ ra khắp mình đều đã ngứa. Nếu biết đã ngứa khắp mình thì lại không còn biết gãi chỗ nào ! Còn như nhiều tự thể thì hóa ra của nhiều người, còn biết tự thể nào là thể của ông ?
Bảo rằng tự thể khắp mình thì không còn biết được chỗ gãi…
Bảo rằng không khắp mình, tại sao khi đầu chạm xà nhà, dưới chân đạp đinh lại cùng một lúc biết đau ?
Do vậy, bảo rằng: Sự
suy nghĩ hợp chỗ nào, tâm ở chỗ đó là
không có lý.
*
* *
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở CHẶNG GIỮA(
)
Ông A-Nan thưa: Bạch
Thế Tôn ! Tôi nhớ lại có lần nghe Phật dạy
Bồ Tát Văn Thù về nghĩa
thật tướng: Rằng
tâm không ở trong cũng không ở ngoài. Nay tôi
suy nghĩ: Nếu tâm ở trong thân sao lại không biết bên trong, tâm nếu ở ngoài thân sao
thân tâm đồng biết.
Tâm không biết bên trong nên không thể nói trong thân. Thân và tâm đồng biết nên không thể nói tâm ở ngoài thân. Do lẽ đó, tôi phát minh rằng: Tâm ở chặng giữa.
Phật bảo: A-Nan ! Ông nói chặng giữa, thật khó mà nêu một chặng giữa
nhất định. Giữa thân hay giữa cảnh ? Nếu giữa thân thì đồng như tâm ở trong thân. Bảo rằng: giữa cảnh thì làm sao nêu cái giữa ra được ?
Ví như có người lấy một cành cây cắm nêu làm một chỗ giữa, nhưng giữa thế nào được ? Nếu người đứng ở phương Đông thì thấy cây nêu ở phía Tây; đứng ở phương Nam lại thấy cây nêu thuộc về hướng Bắc. Cái giữa đã
lẫn lộn như thế, thì cái tâm ở chặng giữa
rắc rối bời rời thì làm thế nào
nhận biết được sự vật cho
chính xác ?
Ông A-Nan thưa: Tôi nói chặng giữa là giữa
nhãn căn và
sắc trần,
nhãn thức sanh ra ở chặng giữa ấy.
Phật bảo: Nếu tâm ông ở giữa
nhãn căn và
sắc trần, vậy cái tâm giữa ấy có gồm cả hai hay không gồm cả hai ? Nếu gồm cả hai thì vật và tâm xen lộn lẫn nhau, còn biết cái gì là tâm cái gì là vật ? Và đã lộn lạo
với nhau thì không có cái giữa. Còn
như không gồm cả hai bên thì là một. Đã là một bên thì cái chặng giữa ông định đặt nó vào đâu ?
Vì vậy, biết rằng: Ông nói tâm ở chặng giữa là một điều không
hợp lý.
*
* *
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM LÀ CÁI KHÔNG
DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU CẢ(
)
Ông A-Nan thưa: Bạch
Thế Tôn ! Tôi nhớ trước đây có lần Phật
chuyển pháp luân cùng
bốn đại đệ tử:
Mục Kiền Liên,
Tu Bồ Đề,
Phú Lâu Na và
Xá Lợi Phất, khi đó Phật dạy: Cái
tâm tánh hiểu biết nó không ở trong, không ở ngoài, không có chặng giữa và không chỗ trụ, tất cả không
dính dáng.
Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi lấy cái không
dính dáng ấy gọi là tâm có được không ?
Phật bảo: A-Nan ! Ông nói cái tâm
hiểu biết của ông không
dính dáng, vậy tôi hỏi ông: Biển cả,
đất liền,
núi rừng, hoa, cỏ… nói chung mọi sự vật
hiện tượng trên
thế gian mà ông cho là không
dính dáng, chúng có hay là không có ? Nếu chúng là không, thì ông khỏi đề cập: Rằng
dính dáng hay không
dính dáng. Bởi vì có ai dính với chuyện
lông rùa sừng thỏ bao giờ ! Nếu đã có cái "không dính dáng" thì không thể nói sự vật
hiện tượng là không. Đã không phải không thì có tướng. Đã có tướng thì có
dính dáng, làm sao không
dính dáng được ?
Vậy nên biết rằng: Ông nói cái không
dính dáng là tâm, lại càng không
hợp lý.
*
* *
TRỰC CHỈ
Cho rằng tâm ở trong thân, đó là sự
hiểu biết thông thường
mọi người cùng hiểu giản đơn như vậy. Cho rằng tâm ở ngoài thân là một
ý nghĩ táo bạo lạ thường chẳng mất ai đồng tình, còn có thể bị cho là
ngờ nghệch ! Cho rằng tâm núp sau con mắt, như con mắt núp sau chén thủy tinh… Rằng tâm bị tạng phủ che thì tối, khiếu huyệt mở thì sáng…
thực chất là chủ trương tâm ở trong thân bằng
hình thức lý luận khác. Bảo rằng cái
suy nghĩ là tâm,
thực chất là
trở lại chấp: Tâm ở ngoài thân vậy. Rằng tâm ở chặng giữa điều này nói lên sự bí lối, chạy càng !… Bảo rằng: Tâm là cái không
dính dáng, càng
chứng tỏ lý cùng trí kiệt, chỉ
hy vọng chút ánh sáng
mơ màng ở cuối đường hầm lý giải.
Ông
A Nan được Phật khen là
đa văn đệ nhất,
vậy mà qua bảy chỗ gạn hỏi cái tâm, lý đã cùng, trí đã kiệt, vẫn chưa xác định được tâm là cái gì và hiện ở đâu. Là
đệ tử Phật, ai nghe mà chẳng băn khoăn soát lại tâm mình, ai mà chẳng quạt tim mọc óc.
Thật vậy, thuyền đi thì thấy bờ chạy, mây bay người ta thấy trăng
xê dịch, mắt giật nhìn mặt nước thấy
rung rinh. Thuyền chưa đậu, mây chưa tan, mắt chưa hết giật mà muốn cho bờ đừng chạy, trăng đừng
xê dịch, mặt nước đừng
rung rinh, hãy còn không thể được, huống hồ đem cái
ý thức sanh diệt vọng tưởng,
bóng dáng tiền trần mà suy lường thường trú
chơn tâm, thì làm sao hội nhập được ư ?
Ông
A Nan luận tâm
sai lầm là phải, vì ông chưa
tu học Xa ma tha… cho nên nông nổi, vướng vào tà thuật của
Ma Đăng Già. Còn
Phật tử chúng ta, không
chuyên cần học hỏi giáo lý, chẳng
dụng ý tinh tấn tư duy mà
thích luận đàm, nầy tâm, kia vật, đây vọng, đó chơn của
vấn đề vật tâm, thì phỏng có nói… bậy đi nữa, tưởng cũng nên
tha thứ, không có gì
đáng trách !
Cái kho tàng
bí mật ! Thường trú
chơn tâm,
đức Phật chưa vội mở cửa ở đây, cho nên ông
A Nan chưa sao hiểu được, mà phải nhiều lần tha thiết
cầu xin Phật chỉ dạy sau nầy. Bởi lẽ, một
kiến thức về kỹ thuật khoa học, trong môi
trường sinh hoạt
vật chất thế gian, muốn hiểu nó phải có quá trình
học hỏi,
tư duy chuyên môn
nghiên cứu. Ở đây ngoài
điều kiện văn tư ra, còn đòi hỏi nhiều ở
vấn đề thể nghiệm,
tu tập,
thực hành, trong
lãnh vực tu chứng của
đạo Phật nữa.
Cái tâm mà ông
A Nan thưa trình lên Phật qua bảy chỗ; đó mới chỉ thuộc
phạm vi ý thức mà thôi. Đối với
bát thức tâm vương, với thường
trú chân tâm, còn phải tiến lên những bước khá dài mới có cơ may gặp gỡ !
*
* *
LUÂN HỔI
SANH TỬ KHÔNG PHẢI LÀ
HIỆN TƯỢNG HỌA GỞI TAI BAY. BỔ ĐỀ
NIẾT BÀN KHÔNG PHẢI
CẢNH GIỚI SIÊU NHIÊN DO
ĐẤNG SIÊU NHÂN NÀO
BAN TẶNG(
)
Phật bảo:
A Nan ! Rằng tất cả
chúng sanh vô thỉ
đến nay,
điên đảo nhiều cách, giống nghiệp
tự nhiên gắn bó với nhau như chùm nho chen chúc trái. Những người
tu hành không thành
vô thượng Bồ Đề mà lại thành
ngoại đạo,
chư thiên,
ma vương hoặc
Thanh Văn,
Duyên Giác đều do không biết hai thứ
căn bản cho nên
tu tập sai lầm, chẳng khác nào nấu cát mong được thành cơm, dù
trải qua nhiều kiếp như
vi trần,
rốt cuộc vẫn không kết quả.
Những gì là hai thứ
căn bản ?
Một, là
căn bản sanh tử vô thỉ. Như ông hiện nay và tất cả
chúng sanh cũng thế,
hằng ngày sử dụng cái tâm
phan duyên mà lầm cho là
tự tánh của chính mình.
Hai, là
căn bản Bồ Đề, Niết
Bản vô thỉ. Như ông hiện nay, cái tánh
thanh tịnh bản minh vốn có, nó
nhậm vận tùy duyên, nhưng ông và tất cả
chúng sanh lại
bỏ sót mất đi, cho nên tuy cả ngày sống ở trong tánh
thanh tịnh bản minh mà không hay không biết. Đành
oan uổng lặn lội trong
lục đạo chuyển luân !
*
* *
LẠI GẠN HỎI CÁI TÂM(
)
Phật bảo:
A Nan ! Ông muốn biết đường tu
Xa ma tha để ra khỏi
sống chết, ông hãy
trả lời tôi.
Phật liền đưa cánh tay co năm ngón bảo
A Nan rằng: Ông có thấy gì không?
Ông
A Nan thưa: Tôi thấy
Như Lai đưa cánh tay và co ngón tay lại thành cái nắm tay, nó phản ánh
tác động vào tâm và con mắt của tôi. Tôi và
đại chúng đều do con mắt mà thấy.
Phật bảo:
A Nan ! Ông
trả lời với tôi: Rằng:
Như Lai co ngón tay làm thành nắm tay, phản ánh
tác động vào tâm và con mắt của ông. Con mắt của ông thì thấy việc đó tất nhiên. Còn ông lấy cái gì làm tâm để
nhận biết cái nắm tay tôi ?
- Bạch
Thế Tôn:
Như Lai gạn hỏi tâm tôi, tôi dùng tâm
suy nghĩ để
trả lời Phật, thì rõ là cái
suy nghĩ ấy là tâm tôi vậy.
*
* *
TÂM THÌ PHẢI CÓ
THỂ TÁNH, KHÔNG
THỂ TÁNH KHÔNG PHẢI LÀ TÂM(
)
Phật bảo: Sai rồi !
A Nan ! Cái
suy nghĩ ấy không phải là tâm của ông.
Trong dáng vẻ
kinh ngạc, ông
A Nan đứng dậy chấp tay thưa:
- Bạch
Thế Tôn ! Cái
suy nghĩ ấy không phải tâm tôi thì gọi nó là cái gì ?
Phật bảo: Đó là cái tưởng tượng tướng
hư vọng của
tiền trần. Chính cái đó làm
mê lầm chân tánh của ông. Từ vô thỉ
đến nay, ông nhận tên giặc ấy làm con, bỏ mất
tâm tánh bản lai thường trú, nên phải chịu
luân hồi.
Ông
A Nan thưa: Tôi là em của Phật, vì tâm
yêu thương Phật nên mới
xuất gia. Tôi
cúng dường chư Phật mười phương,
phụng sự thiện tri thức,
phát tâm đại dũng mãnh, làm tất cả
pháp sự khó làm, đều dùng cái tâm ấy.
Giả sử có hủy
báng Phật pháp,
đoạn diệt thiện căn, bất tin
tam bảo cũng đều dùng đến cái tâm ấy. Nay
Phật phát minh cái
suy nghĩ đó không phải là tâm, thì tôi thành ra không có tâm, như gỗ, như đất. Bởi vì, ngoài cái
suy nghĩ nhận biết ấy ra, tôi không còn có
gì nữa ! Sao
Như Lai lại
bảo cái đó không phải là tâm ? Tôi kinh sợ quá ! Và cả
đại chúng nầy không ai là không hoang mang
dao động ! Xin Phật rủ
lòng từ chỉ dạy cho
chúng tôi những điều chưa
liễu ngộ ?
Bấy giờ
Thế Tôn rời
sư tử tòa, xoa đầu ông
A Nan và bảo:
- Nầy
A Nan !
Như Lai thường nói: Các pháp sanh ra
duy tâm biến hiện. Tâm là cái thể của tất cả
thế giới vi trần, của mọi
nguyên nhân và kết quả…
A Nan ! Tất cả
hiện tượng có trong
thế giới, lớn như biển cả, núi cao, nhỏ như lá cây ngọn cỏ… gạn xét căn nguyên đều có
thể tánh. Cả đến
hư không cũng còn có tên và dáng mạo; huống chi cái tâm
sáng suốt nhiệm mầu
thanh tịnh,
thể tánh của sự vật mà tự mình không có
thể tánh sao ?
Nếu ông
quả quyết cho cái tính hay biết, cái
suy nghĩ phân biệt là tâm của ông thì cái tâm ấy rời sắc, thanh, hương, vị, xúc ra, nó phải còn tính
độc lập riêng của nó
tồn tại.
Hiện giờ ông đang nghe tôi nói pháp, đó là nhân tiếng mà có
phân biệt.
Nếu không tiếng thì sự
phân biệt của ông không còn.
Giả sử diệt hết cái thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết, chỉ nắm giữ cái u nhàn
lặng lẽ bên trong, thì đó cũng là sự
phân biệt bóng dáng pháp trần mà thôi.
A Nan ! Chẳng phải tôi bảo ông phủ nhận cái
tính tư duy
phân biệt ấy không phải là tâm, nhưng ông phải
chín chắn suy nghĩ: Rời
tiền trần mà
vẫn có cái biết, thì đó mới thật là tâm của ông. Còn nếu tính biết rời
tiền trần không còn tự thể, thì nó chỉ là sự
phân biệt bóng dáng tiền trần.
Tiền trần không phải thường còn, khi thay đổi diệt mất đi rồi, thì cái tâm nương
tiền trần ấy cũng đồng như
lông rùa sừng thỏ. Thế thì
pháp thân của ông cũng thành
đoạn diệt, còn gì mà
tu chứng vô sanh pháp nhẫn !
*
* *
TRỰC CHỈ
Chúng sanh mà gọi là
chúng sanh,
sự thật họ không phải là
chúng sanh,
Như Lai gọi
chúng sanh vậy thôi. Khi mê thì gọi
chúng sanh, hết mê thì
mọi người đều là Phật. Mê thì vô minhh hiển, Phật chất ẩn. Giác thì Phật chất hiển
vô minh ẩn và tự hóa giải
diệt vong.
Căn bản Bồ Đề,
Niết Bàn từ vô thỉ
chúng sanh nào cũng sẵn có. Thế mà
chúng sanh mãi
luân hồi trong
sanh tử khổ đau.
Sự thật,
luân hồi sanh tử không phải là
hiện tượng họa gởi tai bay mà là do sự
vô minh bất giác của
con người chiêu cảm lấy, thông qua những
bất thiện nghiệp của
thân khẩu ý của
con người.
Bồ Đề,
Niết Bàn không phải
cảnh giới siêu nhiên do
đấng siêu nhân nào
ban tặng, mà nó sẽ
hiện hữu khi
con người phải giũ sạch hành động
bất giác vô minh sai trái ấy.
Con người hoàn toàn có khả năng cải tạo những
tư tưởng hành động của mình. Muốn được vậy phải
tu học Thủ Lăng Nghiêm tam muội để tạo
điều kiện cho
chân tâm thường trú sẵn có
hiện ra.
Căn bản Bồ Đề,
Niết Bàn cũng như
căn bản luân hồi sanh tử, vốn không phải là
cảnh giới khổ vui cố định do ai đó tạo ra, để khi
sử dụng uy quyền, tùy hứng thưởng cho
chúng sanh nào trông thấy
dễ thương và phạt những
chúng sanh nào nhìn qua mà lòng mình không hạp nhãn.
Nền
giáo lý trác tuyệt thượng thừa đã phát hiện:
… "Thật tánh
vô minh là
Phật tánhẢo hóa thân nầy tức
pháp thânPháp thân nhận rõ
không vương chấp
Phật tánh chơn thường lộ
bản nguyênNgũ uẩn mây thưa chi để dạ
Bọt bèo
tam độc bận lòng chi…"
(
Vô minh thật tánh tức
Phật tánhẢo hóa không thân tức
pháp thânPháp thân giác liễu vô nhất vật
Bản nguyên tự tánh thiên
chơn PhậtNgũ uẩn phù
hư không khứ lai
Tam độc Thủy bào hư xuất một…)
HUYỀN GIÁC THIỀN SƯ.
Thông thường người ta
quan niệm: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, năm
cơ quan vật chất ấy
hợp lại thành một
con người.
Con người vật chất ấy được gọi là thân. Còn cái
tác dụng tư duy phân biệt, không rờ mó nắm bắt được, người ta gọi nó là tâm, cũng có
trường hợp gọi là
ý thức. Ông
A Nan đại diện cho
Phật tử chúng ta, đóng
vai trò một người có
quan niệm nhận thức thông thường đó, để cùng Phật
luận bàn tìm hiểu cái tâm. Nhưng sự
tranh luận giữa Phật và ông
A Nan ở đây, không phải nhằm để xác định các dạng
nhận thức tư duy ấy là tâm hay là
ý thức. Bởi vì tâm hay
ý thức, với
giáo lý đạo Phật, không có gì
cần phải tranh luận. Mỗi khi
thuyết pháp Phật đề cập
vấn đề tâm, ý, bàn bạc ở các kinh là một việc thông thường.
Đức Phật há chẳng răn dạy
đệ tử mình hãy đề cao
cảnh giác,
Tâm viên ý mã, đó sao ?
Vấn đề Phật muốn dạy ông
A Nan và
Phật tử chúng ta là: Hãy phát hiện
chơn tâm thường trú sẵn có của mình. Nó là
căn bản Bồ Đề Niết Bàn đó. Không phát hiện được
chân tâm thường trú, dù có
lý luận: Rằng nó là cái nầy, nó là cái kia, nó ở trong thân, nó ở ngoài thân hoặc ở chặng giữa… đều không đem lại
lợi ích gì.
Giả sử có
nói đúng thực đi nữa, cái đó cũng vẫn là căn nguyên của
tai họa, là động cơ của mọi
phiền não: Tham, sân, si, mạn… cái
hiện tượng tư duy mà ta gọi là tâm hay ý ấy vốn là
vọng tưởng. Mà
vọng tưởng thì không chơn. Nó là vang bóng của
tiền trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Rời
tiền trần, cái gọi là tâm hay
ý thức ấy sẽ tan biến mất theo. Cho nên
trọng tâm tranh luận giữa Phật và ông
A Nan không phải ở chỗ
tìm kiếm cái tâm qua
hình dáng: lớn, nhỏ, rộng, hẹp, dài, ngắn, vuông, tròn… cũng không phải cần thấy cái tâm qua màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, lục hay sô-cô-la… mà
tranh luận để phát hiện cái
trong sáng, cái
thanh tịnh, cái
giải thoát an lành, cái
giác ngộ bất động, cái
tự tại như như vốn có ở trong mọi
con người. Những cái đó, dù
con người đang bị
phiền não vô minh che phủ, mà
bản chất tiềm tàng cố hữu của nó ở trong tâm thể
mọi người thì vô thỉ vô chung không lúc nào
gián đoạn.
Do vậy, Phật nói rõ với ông
A Nan rằng: Không phải tôi bảo ông phủ nhận cái
tánh thấy nghe
nhận thức không phải là tâm; nhưng ông hãy
chín chắn nghĩ suy, làm thế nào rời cái
vọng tưởng đến đi, ông phải còn một cái: cái không
vọng tưởng đến đi. Cái đó nó ở luôn với ông, nó ở trong ông, nó thật là của ông đấy. Còn muốn gọi nó là tâm hay là
ý thức, không quan trọng, việc đó tùy người và hồi sau sẽ còn phân giải…
*
* *
CÁI
TÁNH THẤY CỦA MẮT CHỈ LÀ
HIỆN TƯỢNG(
)
Ông
A Nan và
đại chúng chưa nhận rõ thế nào là
chơn tâm thường trú, lòng còn
bối rối ngẩn ngơ.
Phật bảo:
A Nan ! Trong
thế gian những người
tu học tuy đã được chín thứ
thiền định, nhưng không diệt hết được
mê lầm chỉ thành A La Hớn đều do lầm chấp cái
vọng tưởng tử sanh là chơn thật. Thế nên, ông nay tuy
học rộng nghe nhiều mà không
thành chánh quả.
Ông
A Nan khóc lóc
bạch Phật: Từ khi tôi
phát tâm theo Phật
xuất gia, thường
ỷ lại lòng thương của Phật, tự nghĩ rằng rồi đây
Như Lai sẽ
ban cho tam muội, chia sớt
đạo quả cho. Giờ đây mới biết:
Thân tâm không ai có thể thay
thế cho ai. Từ lâu tôi đã bỏ mất
bản tâm của tôi rồi. Thân tuy
xuất gia mà tâm chưa vào đạo. Như đứa con hoang
cùng khổ, bỏ cha
bỏ nhà ra đi. Ngày nay mới biết, tuy được nghe
Phật pháp nhiều mà không
tu hành, thì chẳng khác gì người không nghe, như nói ăn mà không ăn
rốt cuộc không thể nào no được.
Kính Bạch
Thế Tôn !
Chúng tôi hiện nay còn bị hai chướng buộc ràng, do vì không biết
tâm tánh vắng lặng thường nhiên, xin
Như Lai thương xót kẻ nghèo cùng rách rưới, phát minh cho cái tâm nhiệm mầu,
sáng suốt và khai mở con mắt đạo cho
chúng tôi !
Bấy giờ
đức Như Lai từ tướng
cát tường hải vân trước ngực phóng ra ánh sáng
rực rỡ soi khắp
thế giới chư Phật mười phương và chiếu khắp đảnh các
Như Lai trong
hằng sa cõi nước, rồi xoay về chiếu đến đảnh ông
A Nan và
đại chúng.
Phật bảo:
A Nan ! Trước ông
trả lời: rằng ông thấy cái nắm tay của tôi, vậy cái nắm tay do đâu mà có ? Và ông lấy cái gì để thấy ?
Bạch
Thế Tôn ! Cái nắm tay có là do bàn tay Phật co các ngón tay lại. Tôi thấy nắm tay của Phật là do con mắt của tôi.
Phật bảo:
Nếu không có bàn tay thì không có nắm tay.
Nếu không có con mắt (mắt bị đui) thì không có cái thấy. Hai sự việc đó có giống nhau chăng ?
Bạch
Thế Tôn ! Đúng vậy.
Nếu không có bàn tay thì không có nắm tay;
nếu không có con mắt thì không có cái thấy.
Phật bảo A Nan ! Ông nói như vậy là không đúng. Không có bàn tay thì
tuyệt nhiên không có nắm tay, chứ không có con mắt (đui) không phải
hoàn toàn không thấy. Ông thử hỏi những người đui xem họ có thấy gì không ? Chắc hẳn họ sẽ
trả lời với ông: Rằng họ thấy tối đen
trước mắt. Lấy nghĩa đó mà
suy nghĩ tiền trần tự tối, chứ cái
tánh thấy nào có hao kém gì ?
Bạch
Thế Tôn ! Những người đui
trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi rằng thấy ?
Phật bảo: Dù thấy tối đen cũng vẫn là thấy còn thấy sáng hay thấy tối là do
tiền trần sáng tối,
tánh thấy vẫn y nhiên. Nếu vì tối mà cho là không thấy,
vậy thì khi người ta ngồi trong nhà tối không thấy gì hết, chỉ thấy
trước mắt tối đen, bỗng nhiên được đèn sáng thấy rõ các vật, chẳng lẽ ông bảo đó là cái đèn thấy hay sao ? Vậy nên suy biết: đèn làm
tỏ rõ các vật, nhưng thấy như vậy là mắt chứ không phải đèn. Mắt làm tỏ các sắc, nhưng thấy là tâm, chứ không phải là mắt.
*
* *
TRỰC CHỈ
Ai ăn nấy no, ai ngủ nấy khỏe, thì sự
tu hành, ai tu nấy chứng, không ai tu thế giúp đỡ cho ai được. Có giúp đỡ chăng chỉ làm
tăng thượng duyên, mà
nhân duyên phải là
tự lực của chính mình. Đó là
sự thật hiển nhiên, người trí không ai có thể phủ nhận. Vì đó là
chân lý.
Chân lý đó, nói lên cái
chân lý Nhân quả của
thế gian và
xuất thế gian. Nó bao trùm xuyên suốt hết nền
giáo lý Phật. Ông
A Nan nói lên lần nầy là lần thứ hai, sau khi ông
thoát nạn trở về: Rằng sự
tu hành không thể
ỷ lại tha nhân, dù
tha nhân đó là
Như Lai Thế Tôn Vô thượng. Càng không thể có sự
ân sủng,
ban cho hay tặng thưởng trong tiến trình tiến lên
đạo quả giải thoát giác ngộ. Nếu ai đó làm cái việc tặng thưởng,
ban cho là tự
trái với chân lý,
mâu thuẫn với
quy luật nhân quả khách quan của
vũ trụ vạn hữu, người trí không tin có việc đó xảy ra.
Học
Phật cốt ở
thực hành. Học không hành chẳng khác nào nói ăn mà không ăn, thì không thể no được.
Ánh sáng là biểu trưng cho
trí tuệ. Ánh sáng soi khắp
hằng sa cõi nước Phật và chiếu khắp đảnh chư
Như Lai trong cõi nước
mười phương; sau đó, xoay về chiếu lên đảnh ông
A Nan và
đại chúng.
Sự kiện nầy, nói lên
ý nghĩa: Dùng
trí huệ giác mà nhìn
vũ trụ vạn hữu, thì
vũ trụ vạn hữu trở thành thế giới đại đồng,
thành nhất chân pháp giới.
Trí tuệ giác
xóa bỏ hết
ranh giới, cõi nước đất đai ngăn cách bởi
ý thức hệ
vô minh: Tham, sân, si, mạn… Phật và
hằng hà sa chư Phật trong
mười phương,
cùng chung thọ dụng một ánh sáng báu
rực rỡ, lung linh màu sắc, trong đó có ông
A Nan và
đại chúng cũng có phần
thụ hưởng của phần mình, trong bầu
thế giới đại đồng,
nhất chân huy hoàng ấy. Qua bài học
thậm thâm đó,
Phật tử chúng ta hãy tự
cảnh tỉnh lòng mình:
Thân tại hải trung hưu mích thủy
Nhật hành lảnh thượng mạc tầm sơn…
Ánh sáng
mặt trời lúc nào cũng có, chỉ vì mù trong bụng mẹ nên không
thưởng thức được cảnh trúc biếc, mai vàng, thông xanh, mây bạc,
thường xuyên phô diễn dưới ánh sáng của gầm trời.
Vấn đề nắm tay và cái thấy; cái thấy là mắt hay là tâm, làm cho người
đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm, không
thể không phân vân,
kiểm tra lập trường nhận tức của mình. Ông
A Nan mệnh danh là
con người đa văn đệ nhất, thế mà còn
lúng túng chưa
ngã ngũ được bằng
nhận thức của mình huống hồ
Phật tử chúng ta chẳng mấy tí
đa văn,
giải quyết sự kiện ấy còn khó khăn vạn bội.
Phật tử đừng
xem thường vấn đề thấy, nghe, ngửi, nếm… và
vấn đề tâm vật
trong đời sống
hằng ngày.
Bảo rằng con mắt thấy thì
sai lầm, vì
thiển cận. Bảo rằng không phải con mắt thấy, càng ngớ ngẩn ngô nghê. Bảo rằng tâm thấy, thì đó là
phương tiện của
Như Lai chứ chưa hẳn vậy. Bởi vì: "Quá khứ
tâm bất khả đắc,
hiện tại tâm bất khẳ đắc,
vị lai tâm bất khả đắc".
Vậy thì tâm thấy là cái tâm nào ?
Nói rằng tâm thấy, là ý Phật muốn dạy cho ông
A Nan biết về "ngũ câu ý thức" về
hiện tượng,
tỷ lượng và
phi lượng của
bát thức tâm vương, nói theo
thuật ngữ của
duy thức học. Tiền
ngũ thức,
nhãn thức là một,
tiếp xúc với
ngũ trần, chỉ thông qua
hiện lượng.
Hiện lượng là sự lượng biết còn trong đệ
nhất sát na nghĩa là chưa qua
tư duy phân biệt. Sự
tiếp thu tiền cảnh của tiền
ngũ thức, giống như sự
tiếp thu hình ảnh và
âm thanh của chiếc máy quay phim màu.
Hình ảnh, màu sắc và
âm thanh có đủ, nhưng cuồn phim, chiếc máy, thì
bình đẳng tiếp thu không
mảy may phân biệt.
Vậy mà ông
A Nan cho rằng mắt thấy thì làm sao không bị Phật quở rầy ! Mắt, chỉ
tiếp thu làm
tỏ rõ các vật sắc, mà thấy biết là phải có
ý thức tâm vương cộng vào.
Nghĩa là:
Nhãn thức cộng với
ý thức tâm vương thành nhãn câu
ý thức. Đử ngần ấy
điều kiện mới thành cái thấy biết của mắt.
Vì vậy Như lai nói: Mắt không phải thấy mà thấy là do tâm. Tâm ở đây, chỉ cho
tâm vương ý thức vậy.
Do đó, ta thấy rõ: Cái thấy của mắt, chỉ là
hiện lượng thôi, cho nên chưa đầy đủ
yếu tố để gọi là mắt thấy.
Vì vậy:
Nói mắt thấy đã sai
Nói không phải mắt thấy càng sai
Nói tâm thấy, chỉ là
Như Lai phương tiện !
Mà phải nói: cái thấy của mắt chỉ là
hiện lượng !
*
* *
GẠN HỎI NGHĨA
KHÁCH TRẦN NHẰM CHỈ RÕ
HIỆN TƯỢNG VỌNG TƯỞNG DIỆT SANH.
VÍ DỤ CHỦ VÀ
HƯ KHÔNG ĐỂ KHAI THỊ
BẢN THỂ CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ(
)
Bấy giờ
đức Thế Tôn giơ cánh tay mềm mại lên, bảo ông
A Nan và
đại chúng: Sau khi
thành đạo, lần đầu tiên ở Lộc Giả Uyển, tôi có dạy cho nhóm ông
A Nhã Kiều Trần Như rằng tất cả
chúng sanh không thành
Vô thượng Bồ Đề và A La Hớn, do vì
phiền não khách trần làm
mê hoặc. Thuở đó, bọn ông do đâu mà tỏ ngộ, hiện nay được
thành chánh quả ?
Ông
Kiều Trần Như đứng dậy thưa: Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi đã già ở trong
đại chúng, tôi được cái tên Giải, là do thuở đó tôi tỏ ngộ được
ý nghĩa hai chữ
khách trần. Khách là người đi đường, khi cần, họ vào quán trọ thuê phòng hoặc ở, hoặc ngủ, hoặc ăn. Ăn ngủ xong xếp
hành lý lên đường, không ở luôn được, còn người chủ thì ở
vĩnh viễn không phải đi đâu nữa. Từ
suy nghĩ đó, tôi hiểu ra rằng: Khách có đến, đi; còn chủ thì ở luôn không đi đâu hết.
Về nghĩa chữ trần, thì vào lúc
mặt trời mới lên, ánh sáng xuyên vào các kẽ hở, lỗ thủng của mái nhà, nhìn theo làn ánh sáng
trong khoảng hư không yên lặng ấy, tôi thấy
vô số bụi trần li ti loạn động,
cuồn cuộn tuôn bay. Do đó tôi
nhận ra được nghĩa chữ trần: Trần thì lay động, còn
hư không thì yên lặng
tuyệt nhiên !
Phật bảo: Đúng vậy.
Đoạn, Phật đưa tay lên, co năm ngón tay lại rồi mở ra và hỏi:
-
A Nan ! Ông thấy gì ?
- Tôi thấy bàn tay Phật, nắm lại rồi mở ra.
A Nan đáp.
- Ông thấy tay tôi có nắm có mở hay cái thấy của ông có nắm có mở ?
- Thưa ! Tay Phật có nắm có mở, chứ cái thấy của tôi làm sao có nắm mở được !
- Cái gì động ? Cái gì tĩnh ? Phật hỏi.
- Thưa ! Bàn tay của Phật không yên, chứ cái thấy của tôi còn không có tĩnh thì làm chi có động !
Phật bảo: đúng vậy.
Bấy giờ Phật dùng tay phát ra một luồng ánh sáng, chiếu qua phía bên phải của ông
A Nan. Ông
A Nan quay nhìn qua bên phải. Phật lại phát qua phía trái, ông
A Nan quay đầu nhìn qua phía trái.
Phật bảo:
A Nan ! Hôm nay vì sao đầu ông động lay qua lại như thế ?
- Bạch
Thế Tôn ! Tôi vì thấy
hào quang của Phật phóng ra bên phải và bên trái của tôi. Đầu tôi lay động bởi ngó theo
hào quang của Phật.
- Đầu ông lay động quay bên phải bên trái. Vậy cái đầu ông động mà cái thấy của ông có động chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Đầu tôi tự lay động, chứ cái thấy còn không biết nó ở chỗ nào, thì lấy gì mà lay động !
Phật bảo: Đúng vậy.
Bấy giờ,
Phật bảo ông
A Nan và
đại chúng: Rằng
mọi người ai cũng có thể
nhận biết: Không ở luôn là khách, chủ thì
vĩnh viễn không đi đâu.
Bụi trần thì lay động còn
hư không yên lặng
tuyệt nhiên. Có nắm có mở là tay, cái thấy thì không có nắm mở. Quay qua quay lại là đầu,
tánh thấy thì không hề xoay chuyển.
Vậy mà, các ông hiện nay lấy cái động làm thân, cái động làm tâm, lấy cái động làm cảnh, bỏ mất đi
tâm tánh chơn thường,
bất động, yên lặng nó thường ở luôn với mình.
Hằng ngày làm những việc trái ngược, nhận vật làm thân, nhận
vọng tưởng làm tâm, xoay vần trong đó, tự nhận lấy sự trôi lăn trong sáu nẻo !
*
* *
TRỰC CHỈ
Đọc đến đoạn kinh nầy, người
đệ tử Phật có
tư duy tu tập,
thiền định ít nhiều, có thể bừng
tỉnh ngộ: Rằng thường trú
chơn tâm không phải ở đâu xa xôi cách trở,
cần phải tìm kiếm hay
cầu khẩn van xin mới có. Tìm thường trú
chơn tâm cũng không cần ở ngay
chánh điện của ngôi chùa đồ sộ nguy nga có
tượng Phật to, có
đại hồng chung lớn. Tìm
chơn tâm thường trú cũng không cần
đóng cửa trong một vuông phòng kín và ngồi thờ thẩn với đôi mắt
lim dim. Thường trú
chơn tâm muốn tìm nó chỉ cần có chất liệu
thiền tư.
Thiền tư hay
thiền định với nghĩa
tư duy quán chiếu. Người
đệ tử nào muốn đi trên đường
Bồ Đề,
Niết Bàn chỉ
cần tu tập
tư duy quán chiếu thân tâm,
cảnh giới quanh cuộc sống
hằng ngày của
bản thân mình.
Đức Phật đã dạy quá
rõ ràng. Rằng cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc, cái biết, nói chung là những
tác dụng nhận thức của
sáu giác quan,
Phật bảo chúng không phải
chơn tâm, nhưng chúng cũng không rời ngoài
chơn tâm mà có. Biết
sử dụng, trong
vọng tâm ta
tìm thấy chơn tâm thường trú. Không biết
sử dụng chỉ có toàn
vọng tưởng,
bóng dáng của
tiền trần; cũng như nước
thanh bình thạnh trị thì
mọi người công dân trong nước là tôi hiền
con thảo. Khi thượng
bất chánh thì… cũng những công dân ấy
trở thành tôi loàn con giặc.
Tiền trần luôn luôn thay đổi lúc có lúc không, thì sự
hồi tưởng lại cái tướng của
tiền trần cũng lúc sanh lúc diệt.
Vì vậy, Phật gọi sự
hồi tưởng bóng dáng tiền trần vào trong ký ức
phân biệt chỉ là
vọng tâm, là những
phiền não khách trần. Vì là khách cho nên không ở được luôn. Vì là trần nên không có phút giây yên lặng. Phật dạy cho người
đệ tử phương pháp tu học để sống với sự
an lành, yên lặng, như
hư không và
quay về với
vai trò người chủ, không đi đâu nữa. Vì ngoài người khách đến đi, còn có chủ không đi, ở lại. Trong sự
loạn động cuồn cuộn tuôn bay của trần, còn có
hư không yên lặng không hề lay chuyển. Trước sự nắm mở duỗi co qua nắm tay của Phật, còn có cái không duỗi co nắm mở đó là cái thấy của ông
A Nan. Thế thì, sự
nhận thức của
sáu giác quan, luôn luôn thay đổi từng
sát na, từng phút từng giờ, nhưng ngoài sự thay đổi luôn luôn ấy,
con người còn một cái. Cái đó là gì ?… Là
chơn tâm thường trú.
Theo
lời Phật dạy thì
chân tâm thường trú có thể biểu hiện ở mọi
con người, khi
trí tuệ con người có khả năng
nhận thức được
vọng tâm. Nhận được
vọng tâm cũng
nhận thức được gì là
vô minh phiền não khách trần để rồi hóa giải chúng đến độ
hoàn toàn sạch bóng.
Sự
bác bỏ của Phật đối với ông
A Nan về
vấn đề tâm thấy hay mắt thấy,
sự thật chẳng có gì quan trọng giữa hai thầy trò. Nhằm
mục đích giáo dục chúng sanh, Phật bày ra cuộc
vấn đáp cho lý cùng trí tận vậy thôi.
Giải quyết vấn đề đó, khó khăn gì đối với người
đệ tử tinh tấn,
đa văn như ông
A Nan ấy !
Cái gì thấy ? Mắt có thấy được không ? Thấy cách nào ? Cần bao nhiêu
điều kiện để thấy ? Sao gọi là tâm thấy ? Tâm thấy cách sao ? Tâm ở đâu ?… Bao nhiêu câu hỏi đó, ông
A Nan đem
pháp tướng học ra
giải quyết, dễ như người ta thò tay vô túi mà lấy… tiền tiêu, chẳng có gì khó khăn cả.