PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Tác gỉa Đòan Trung Còn
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải - Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
PHẨM THỨ X: DẶN DÒ
Một ngày kia, Sư gọi hết
môn đồ như các vị
Pháp Hải,
Chí Thành, Pháp Đạt,
Thần Hội, Trí Thường,
Trí Thông,
Chí Triệt, Chí Đạo,
Pháp Trân,
Pháp Như... mà dạy rằng:
“Các ngươi chẳng giống như người khác, sau khi ta
diệt độ mỗi người đều làm thầy một phương. Vậy ta dạy các ngươi cách
thuyết pháp chẳng mất bản tông.
“Trước hết nên đưa ra
Pháp môn ba khoa, chỗ động chỗ dụng gồm ba mươi sáu pháp đối. Ra vào lìa cả hai bên, thuyết tất cả pháp chẳng lìa
tự tánh. Chợt có người đến hỏi pháp, nói ra lời nào đều nêu thành cặp, đều lấy pháp đối, chỗ đến chỗ đi làm nhân cho nhau.
Cứu cánh thì hai pháp đều trừ hết, không có cả nơi đi nữa.
“Pháp môn ba khoa đó là: ấm, giới, nhập. Ấm là
năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhập là
mười hai nhập,
gồm có bên ngoài
sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; bên trong sáu cửa: Thường vẫn gọi là sáu căn. nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Giới là
mười tám giới, gồm
sáu trần, sáu cửa và sáu thức.
Tự tánh hàm chứa được muôn pháp, gọi là
Hàm tàng thức. Nếu khởi sự suy lường, tức liền
chuyển thức, sanh sáu thức, ra sáu cửa, thấy
sáu trần, như vậy tất cả
mười tám giới đều do
tự tánh khởi dụng.
Tự tánh nếu tà, khởi nên mười
tám pháp tà;
tự tánh nếu chánh, khởi nên mười
tám pháp chánh. Nếu chỗ dụng ác, tức chỗ dụng của
chúng sanh; nếu chỗ dụng thiện, tức là chỗ dụng của Phật.
“Chỗ dụng đó
do nơi đâu? Do
tự tánh mà có các pháp đối nơi
ngoại cảnh. Vô tình có năm cặp đối: trời đối với đất,
mặt trời đối với
mặt trăng, sáng đối với tối, âm đối với dương, nước đối với lửa. Đó là năm cặp đối nhau.
“Pháp tướng và
ngôn ngữ có mười hai cặp đối nhau:
lời nói đối với pháp, có đối với không, sắc đối với
không sắc, tướng đối với
không tướng,
hữu lậu đối với
vô lậu, sắc đối với không, động đối với tĩnh, trong đối với đục, phàm đối với thánh, tăng đối với tục, già đối với trẻ, lớn đối với nhỏ. Đó là mười hai cặp đối nhau.
“Tự tánh khởi dụng mười chín cặp đối nhau: dài đối với ngắn, tà đối với chánh, si đối với tuệ, ngu đối với trí, loạn đối với định, từ đối với độc,
trì giới đối với sai quấy,
chánh trực đối với
tà vạy, thật đối với hư, hiểm đối với bình,
phiền não đối với Bồ-đề, thường đối với
vô thường, bi đối với hại, mừng đối với giận,
bố thí đối với
bủn xỉn, tới đối với lui, sanh đối với diệt,
pháp thân đối với
sắc thân,
hóa thân đối với
báo thân. Đó là mười chín cặp đối nhau.
“Ba mươi sáu pháp đối ấy, nếu hiểu cách dùng, tức nói được
thông suốt hết thảy
kinh pháp; ra vào lìa khỏi hai bên.
Tự tánh động dụng, cùng người nói năng. Bên ngoài ở nơi tướng lìa khỏi tướng, bên trong ở nơi không lìa khỏi không. Nếu trọn
vướng mắc vào tướng, tức là tăng thêm
tà kiến. Nếu trọn chấp lấy không, tức là tăng thêm
vô minh. Những người
chấp không hủy báng
kinh điển, liền
nói thẳng là chẳng dùng
văn tự. Nếu đã nói chẳng dùng
văn tự, người ta lẽ ra chẳng cần đến
ngôn ngữ. Chỉ
lời nói ấy, cũng là tướng
văn tự. Lại nói rằng,
chỉ thẳng chẳng lập
văn tự. Tức nhiên hai chữ chẳng lập cũng là
văn tự rồi. Thấy người
thuyết pháp liền chê bai, bảo là mắc vào
văn tự. Các ngươi nên biết rằng, tự mình ngu mê còn nhẹ, lại đi hủy báng kinh Phật! Chẳng
suy xét rằng hủy báng
kinh điển,
tội chướng không nói hết!
“Nếu
vướng mắc lấy tướng ở ngoài làm pháp cầu chân, hoặc rộng mở
đạo tràng thuyết những lẽ có không
lầm lạc, những người như vậy dẫu qua nhiều kiếp cũng chẳng thể thấy tánh. Chỉ nghe rồi
y theo pháp mà
tu hành, đừng nên cố dứt cho hết trăm mối nghĩ mà đối với đạo phải bị che chướng. Nếu nghe thuyết mà chẳng tu, khiến cho người ngược lại sanh ra tà niệm.
Chỉ y như pháp mà
tu hành, là
bố thí pháp không trụ nơi tướng.
“Các ngươi nếu đã
ngộ đạo, hãy
y theo đó mà thuyết,
y theo đó mà dùng,
y theo đó mà hành,
y theo đó mà làm, tức là chẳng mất bản tông. Nếu có người hỏi nghĩa, khi hỏi có thì dùng không mà đáp; hỏi không dùng có mà đáp; hỏi thánh dùng phàm mà đáp; hỏi phàm dùng thánh mà đáp. Hai bên làm nhân cho nhau, sanh ra
nghĩa trung đạo. Cứ thế, một hỏi thì một đáp, dù có hỏi nhiều câu khác cũng cứ
y theo cách ấy mà đáp, tức không thất lý.
Giả như có người hỏi rằng: ‘Thế nào gọi là tối?’ Đáp rằng: ‘Sáng là nhân, tối là duyên. Sáng
hết thời tối.’ Đem lẽ sáng làm rõ lẽ tối, đem lẽ tối làm rõ lẽ sáng. Qua lại làm nhân cho nhau, thành
nghĩa trung đạo. Dù hỏi thêm nữa, cũng đều như thế mà đáp. Các ngươi về sau này
truyền pháp,
y theo cách ấy mà truyền trao dạy dỗ, đừng bỏ mất
tông chỉ.”
Tháng bảy năm Nhâm Tý, Tức là năm 712, năm đầu niên hiệu
Thái Cực, đời vua Đường Duệ Tông. Cũng trong năm ấy lại đổi niên hiệu là Diên Hòa.
Sư bảo môn đồ qua chùa
Quốc Ân tại Tân Châu xây tháp, Chuẩn bị cho sự
viên tịch của Sư.
hối thúc thợ làm nhanh, qua
cuối mùa hạ năm sau làm lễ khánh thành.
Mùng một tháng bảy, Mồng một tháng bảy năm Quý Sửu (713). Sư nhóm
đồ chúng, dạy rằng: “Đến tháng tám này, ta muốn lìa khỏi
thế gian. Các ngươi có điều nghi nên hỏi sớm đi, ta phá nghi cho, khiến các ngươi hết mê. Sau khi ta đi rồi, không có người dạy các ngươi.”
Pháp Hải cùng các
môn đồ nghe lời này thảy đều sa nước mắt khóc. Duy chỉ có
Thần Hội là
thần sắc không thay đổi, chẳng khóc. Sư nói: “Tiểu sư
Thần Hội đạt được chỗ thiện,
bất thiện như nhau, chê khen chẳng động, buồn vui chẳng sanh; còn những người khác chẳng được gì cả. Vậy bao năm nay ở chùa, các ngươi
tu pháp chi? Nay các ngươi bi lụy, ấy là vì ai mà lo? Nếu lo vì ta chẳng biết nơi đi, thì ta tự biết nơi đi. Nếu ta chẳng biết nơi đi, thì đã chẳng
báo trước với các ngươi. Các ngươi bi lụy, thật là vì chẳng biết chỗ ta đi. Nếu biết chỗ ta đi, ắt chẳng nên bi lụy.
Pháp tánh vốn không có
sanh diệt, đến đi. Tất cả hãy ngồi lại đây nghe ta thuyết một
bài kệ, gọi là Kệ
Chân Giả Động Tĩnh. Tụng
bài kệ này là với ta cùng một ý.
Y theo đó mà
tu hành, sẽ chẳng mất
tông chỉ.”
Chúng tăng làm lễ, thỉnh Sư nói kệ:
Hết thảy không có chân, Chân ở đây là
chân thật.
Đừng xem đó là chân.
Nếu thấy lẽ
chân thật,
Thấy tất cả không chân.
Nếu tự mình có chân,
Lìa giả,
tức tâm chân.
Tự tâm chẳng lìa giả,
Không chân, chốn nào chân?
Có tình liền biết động,
Không tình liền chẳng động.
Nếu tu theo chẳng động,
Đồng vô tình chẳng động.
Nếu tìm thật chẳng động,
Nơi động có chẳng động.
Chẳng động là chẳng động,
Vô tình không mầm Phật.
Khéo
phân biệt được tướng,
Nghĩa đệ nhất chẳng động. Hai câu này dẫn ý trong phẩm
Phật quốc, kinh Duy-ma.
Chỉ nhìn theo cách ấy,
Tức là
chân như dụng.
Khuyên những người
học đạo:
Gắng sức nên
dụng ý.
Đừng đến chỗ
Đại thừa,
Chấp giữ trí
sanh tử.
Nếu nghe qua
tương ứng,
Liền cùng bàn nghĩa Phật.
Nếu thật chẳng
tương ứng,
Chắp tay, tùy
hoan hỷ.
Tông này vốn không tranh,
Tranh liền mất
đạo ý.
Vướng mắc chỗ nghịch tranh,
Tự tánh vào sanh, tử.
Khi ấy,
đồ chúng nghe thuyết kệ rồi, tất cả đều làm lễ. Thể theo ý Sư, thảy đều thâu
nhiếp tâm,
y theo pháp mà
tu hành, chẳng
tranh luận nữa. Biết là
Đại sư chẳng còn trụ lâu ở đời,
Pháp Hải liền lên tòa, lạy hai lạy, hỏi rằng:
“Sau khi
Hòa thượng nhập diệt,
y pháp nên truyền cho người nào?”
Sư đáp rằng: “Những điều ta
thuyết giảng từ khi ở chùa
Đại Phạm cho tới nay, hãy ghi chép lại mà cho
lưu hành, đề tựa là
Kinh Pháp Bảo Đàn. Các ngươi hãy
giữ gìn, truyền trao cho nhau, độ khắp
quần sanh.
Chỉ y theo đó, gọi là
chánh pháp. Nay ta vì
mọi người mà
thuyết pháp, chứ chẳng
truyền y. Vì
lòng tin của các ngươi đã
thuần thục,
quyết định không còn
nghi ngờ, có thể nhận nổi việc lớn. Lại theo ý Tổ Đạt-ma truyền kệ, thì y chẳng nên truyền. Kệ như thế này:
• Ta vốn đến nơi này,
•
Truyền Pháp cứu người mê.
• Một hoa nở năm cánh,
Đạt Ma Sơ Tổ (một hoa)
truyền pháp qua năm đời là năm vị Tổ (năm cánh), từ Nhị tổ
cho đến Lục tổ.
• Kết quả
tự nhiên thành.
Sư lại dạy rằng: “Các vị
thiện tri thức! Hãy
tịnh tâm nghe ta
thuyết pháp: Nếu muốn
thành tựu trí tuệ, phải
đạt được Nhất tướng Tam-muội và
Nhất hạnh Tam-muội.
“Như ở khắp
mọi nơi mà chẳng trụ nơi tướng, ở trong tướng ấy chẳng sanh lòng yêu ghét, cũng không
lấy bỏ, chẳng nghĩ những sự
lợi ích, thành hoại, trong tâm
an nhàn,
điềm tĩnh, rỗng rang,
đạm bạc; đó gọi là
Nhất tướng Tam-muội.
“Như ở khắp
mọi nơi, trong khi đi đứng nằm ngồi, thuần một lòng ngay thẳng, chẳng động
đạo tràng, thật
thành tựu Tịnh độ, đó gọi là
Nhất hạnh Tam-muội.
“Nếu người nào đủ hai loại Tam-muội ấy, như đất có sẵn mầm giống, hàm chứa,
nuôi dưỡng cho lớn để
thành thục kết quả.
Nhất tướng Tam-muội,
Nhất hạnh Tam-muội cũng giống như vậy. Nay ta
thuyết pháp như mưa đúng mùa,
thấm nhuần khắp mặt đất.
Phật tánh của các ngươi như những
hạt giống gặp mưa, thảy đều phát sanh. Theo lời
chỉ bảo của ta, quyết sẽ được Bồ-đề;
theo như hạnh của ta,
nhất định chứng
diệu quả. Hãy nghe
bài kệ này:
• Đất tâm sẵn giống lành,
• Gặp mưa, nảy mầm sanh.
• Bừng ngộ tình hoa rồi,
• Quả Bồ-đề tự thành.”
Sư thuyết kệ rồi, lại nói rằng: “Pháp chẳng phân hai, tâm cũng như vậy. Đạo vốn
thanh tịnh, cũng không có các tướng. Các ngươi
cẩn thận, chớ rơi vào chỗ quán tịnh hoặc cố làm trống
không tâm mình. Tâm này vốn tịnh, không thể lấy, không thể bỏ. Mỗi người nên tự mình
gắng sức, khéo
tùy duyên mà đi đi.”
Khi ấy,
đồ chúng đều làm lễ và lui ra.
Ngày mùng tám tháng bảy,
Đại sư thình lình bảo chúng
môn đồ rằng: “Ta muốn về Tân Châu, các ngươi mau chuẩn bị thuyền.”
Đại chúng buồn thảm, thiết tha cầm lại. Sư nói:
“Chư Phật ra đời còn
thị hiện nhập Niết-bàn. Có đến tất có đi, cũng là lẽ đương nhiên.
Hình hài này của ta ắt có chỗ về.”
Đại chúng thưa hỏi: “Từ đây Sư đi,
sớm muộn rồi có
trở về chăng?”
Sư nói: “Lá rụng về cội.” Cũng như lá rụng về cội, Sư định
trở về quê quán là xứ Tân Châu mà
viên tịch.
Ngày về không nói.
Chúng lại hỏi rằng: “Chánh
pháp nhãn tạng
Chánh pháp nhãn tạng: chỗ
bí yếu trong
chánh pháp, như con mắt là chỗ quan yếu nhất của thân người. truyền cho ai?”
Sư đáp: “Ai có đạo thì được, ai
vô tâm thì
thông hiểu.”
Chúng lại hỏi: “Về sau không có nạn gì chăng?”
Sư đáp rằng: “Sau khi ta
tịch diệt chừng năm, sáu năm, sẽ có một người đến lấy đầu ta. Hãy
nghe lời sấm này:
• Đầu thờ
cha mẹ,
• Miệng cần miếng ăn.
•
Gặp nạn tên Mãn,
• Dương, Liễu là quan. Sau này ứng việc Trương Tịnh Mãn nhận
tiền của Kim
Đại Bi, đến lấy trộm đầu
Lục Tổ,
nhằm lúc Dương Khản làm Huyện lệnh, Liễu Vô Thiểm làm Thứ sử. Xem
phụ lục: Chuyện kể của người giữ tháp.
Sư lại nói: “Sau khi ta đi bảy mươi năm, có hai vị Bồ-tát từ phương Đông lại, một vị
xuất gia, một vị
tại gia,
đồng thời chấn hưng,
giáo hóa,
gây dựng lại
tông phái,
xây dựng lại cảnh chùa, làm cho thạnh vượng
đạo pháp.”
Chúng lại hỏi: “Từ
Phật tổ ứng hiện đến nay truyền trao đã mấy đời, xin
chỉ bảo cho biết.”
Sư đáp: “Phật xưa ứng thế nhiều
vô số, không
thể tính đếm, kể hết. Nay chỉ lấy bảy vị làm đầu. Đời
quá khứ Trang nghiêm Kiếp có
Phật Tỳ-bà-thi,
Phật Thi-khí,
Phật Tỳ-xá-phù. Về
Hiền Kiếp này có
Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu na-hàm Mâu-ni,
Phật Ca-diếp và Phật Thích-ca. Đó là
bảy vị Phật.
“Phật Thích-ca bắt đầu truyền cho
Tôn giả Ma-ha Ca-diếp là Tổ thứ nhất.
“Tổ thứ hai là
Tôn giả A-nan, Tổ thứ ba là
Tôn giả Thương-na Hòa-tu, Tổ thứ tư là
Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa, Tổ thứ năm là
Tôn giả Đề-đa-ca, Tổ thứ sáu là
Tôn giả Di-già-ca, Tổ thứ bảy là
Tôn giả Bà-tu-mật-đa, Tổ thứ tám là
Tôn giả Phật-đà Nan-đề, Tổ thứ chín là
Tôn giả Phục-đà Mật-đa, Tổ thứ mười là
Tôn giả Hiếp,
Hiếp Tôn giả ( 脅?ð者) cũng có tên là Bà-lật Thấp-bà (婆?濕?婆 ) Tổ thứ mười một là
Tôn giả Phú-na Dạ-xa, Tổ thứ mười hai là
Đại sĩ Mã Minh, Tổ thứ mười ba là
Tôn giả Ca-tỳ Ma-la, Tổ thứ mười bốn là
Đại sĩ Long-thọ, Tổ thứ mười lăm là
Tôn giả Ca-na-đề-bà, Tổ thứ mười sáu là
Tôn giả La-hầu-la-đa, Tổ thứ mười bảy là
Tôn giả Tăng-già Nan-đề, Tổ thứ mười tám là
Tôn giả Già-da Xá-đa, Tổ thứ mười chín là
Tôn giả Cưu-ma-la-đa, Tổ thứ hai mươi là
Tôn giả Xà-da-đa, Tổ thứ hai mươi mốt là
Tôn giả Bà-tu Bàn-đầu, Tổ thứ hai mươi hai là
Tôn giả Ma-nô-la, Tổ thứ hai mươi ba là
Tôn giả Hạc-lặc-na, Tổ thứ hai mươi bốn là
Tôn giả Sư Tử, Cũng có tên là
Sư Tử Bồ-đề ( 師?子?菩Đ提 ). Tổ thứ hai mươi lăm là
Tôn giả Bà-xá Tư-đa, Tổ thứ hai mươi sáu là
Tôn giả Bất-như Mật-đa, Tổ thứ hai mươi bảy là
Tôn giả Bát-nhã Đa-la, Tổ thứ hai mươi tám là
Tôn giả Bồ-đề Đạt-ma, Tổ
Bồ-đề Đạt-ma sang Trung Hoa
truyền bá Thiền tông đầu tiên nên là
Sơ Tổ của Thiền Trung Hoa. Theo đó mà
truyền thừa thì ngài
Huệ Năng là Tổ thứ sáu. Điều
đặc biệt là sau khi Đạt-ma sang Trung Hoa, không thấy ghi chép gì về sự truyền nối tiếp nữa ở
Ấn Độ. Tổ thứ hai mươi chín là
Đại sư Huệ Khả, Tổ thứ ba mươi là
Đại sư Tăng Xán, Tổ thứ ba mươi mốt là
Đại sư Đạo Tín, Tổ thứ ba mươi hai là
Đại sư Hoằng Nhẫn.
Huệ Năng này là Tổ thứ ba mươi ba.
“Các vị Tổ trên đây đều có sự truyền nối
rõ ràng. Từ
Sơ Tổ là Ca-diếp
cho đến ngài
Huệ Năng là Tổ thứ ba mươi ba, đều giữ lệ
truyền y bát. Các ngươi về sau, đời này
lưu truyền đời kia, cũng đừng để cho
lầm lạc.”
Đại chúng nghe xong, tin nhận lời Tổ, làm lễ lui ra.
Ngày mùng 3 tháng 8 năm Quí Sửu, Tức là năm 713 niên hiệu
Tiên Thiên thứ 2, Đường
Huyền Tông.
Đại sư dùng bữa ở chùa
Quốc Ân xong rồi, bảo
đồ chúng rằng:
“Các ngươi theo thứ tự mà ngồi, ta từ biệt các ngươi.”
Pháp Hải bạch rằng: “Hòa
thượng lưu lại
giáo pháp chi, khiến cho người mê
đời sau thấy được Phật tánh?”
Sư nói: “Các ngươi hãy lắng nghe đây. Người mê
đời sau nếu
nhận biết chúng sanh, tức là
Phật tánh. Nếu chẳng
nhận biết chúng sanh, dù muôn kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Nay ta dạy các ngươi
nhận biết chúng sanh nơi
tự tâm, thấy tánh Phật nơi
tự tâm. Muốn cầu thấy Phật, chỉ cần
nhận biết chúng sanh. Chỉ vì
chúng sanh làm mê tánh Phật, chẳng phải tánh Phật làm mê
chúng sanh.
Tự tánh giác ngộ,
chúng sanh là Phật;
tự tánh ngu mê, Phật là
chúng sanh.
Tự tánh bình đẳng,
chúng sanh là Phật;
tự tánh tà hiểm, Phật là
chúng sanh. Các ngươi nếu trong tâm hiểm sâu
tà vạy, tức là Phật
che lấp trong
chúng sanh. Một niệm
công bằng chánh trực, tức
chúng sanh thành Phật. Trong tâm ta tự có Phật.
Phật tự tâm mới thật là Phật. Nếu tự mình không có
tâm Phật, thì cầu Phật ở đâu?
Tự tâm của các ngươi là Phật, đừng
hồ nghi nữa. Bên ngoài không một vật gì có thể
kiến lập được, chỉ đều là tự
bản tâm sanh ra muôn pháp. Cho nên kinh nói rằng: ‘Tâm sanh, các pháp đều sanh;
tâm diệt, các pháp đều diệt.’ Nay ta lưu lại một
bài kệ để từ biệt các ngươi, gọi là Kệ
Tự tánh chân Phật. Người
đời sau hiểu được ý kệ thì tự thấy
bản tâm, tự
thành Phật đạo.” Kệ rằng:
Chân như tự tánh là
chân Phật,
Ba độc,
Ba độc : tham, sân, si.
tà kiến Tà kiến: những
kiến giải sai lầm. ấy vua ma.
Trong lúc tà mê, ma đến cửa,
Những khi
chánh kiến, Phật trong nhà.
Trong tánh
tà kiến,
ba độc sanh,
Ấy là vua ma lại đến viếng.
Chánh kiến trong tâm trừ
ba độc,
Ma hóa
làm Phật,
thật không giả.
Pháp thân,
Báo thân và
Hóa thân,
Ba thân xưa nay là Một thân.
Quay nhìn trong tánh, tự thấy được,
Chính là nhân
thành Phật Bồ-đề.
Vốn từ
Hóa thân sanh tánh tịnh,
Tánh tịnh lại thường trong
Hóa thân.
Do tánh,
Hóa thân hành đạo chánh,
Ngày sau
viên mãn thật
vô cùng.
Tánh dâm vốn là
nhân tánh tịnh,
Trừ dâm, tức làm sạch tánh thân.
Trong tánh đều tự bỏ
năm dục,
Ngay khi thấy tánh, tức là chân.
Đời này nếu gặp pháp
Đốn giáo,
Chợt
ngộ tự tánh, thấy
Như Lai.
Nếu muốn
tu hành cầu
làm Phật,
Chẳng biết nơi đâu cầu được chân.
Nếu tự trong tâm thấy được chân,
Chân ấy chính là nhân
thành Phật.
Chẳng thấy
tự tánh, ngoài tìm Phật,
Sanh tâm đều là hạng ngu đần.
Pháp môn Đốn giáo nay đã truyền,
Cứu độ người đời, nên tự tu.
Những người
học đạo về sau này,
Không chỗ thấy ấy, thấy
thênh thang.
Sư thuyết Kệ rồi, bảo rằng: “Các ngươi nên khéo
giữ gìn. Sau khi ta
diệt độ, chớ theo thường
tình thế tục bi lụy khóc lóc, mặc đồ tang, bày chuyện điếu vãn. Làm như vậy chẳng phải
đệ tử ta, cũng chẳng hợp
chánh pháp. Chỉ tự
nhận biết bản tâm, tự thấy
bản tánh, không động không tĩnh, không
sanh không diệt, không qua không lại, không phải không quấy, không trụ không đi. Sợ rằng các ngươi tâm mê chẳng
hiểu ý ta, nay dặn dò lại các ngươi lần nữa, khiến cho được thấy tánh. Sau khi ta
diệt độ,
y như vậy
tu hành, như ta vẫn còn. Nếu trái lời dạy của ta, thì dầu ta còn
tại thế cũng chẳng ích gì.” Lại thuyết kệ rằng:
•
Sừng sững chẳng tu lành,
•
Trơ trơ không tạo ác.
• Lặng lặng dứt thấy nghe,
• Làu làu tâm
vô trước.
Sư thuyết kệ rồi, ngồi ngay ngắn cho tới canh ba,
thình lình bảo môn nhân rằng: “Ta đi đây”. Rồi
an nhiên mà tịch. Qua đời, chỉ nghĩa là dời đi,
giáo hóa phương khác. Lúc đó, mùi hương lạ đầy nhà, cầu vồng màu trắng nối
từ trời xuống đất, cây rừng biến ra màu trắng, chim muông kêu tiếng
thảm thương.
Đến tháng mười một, quan lại và môn nhân, kẻ tăng, người tục ở ba quận Quảng Châu, Thiều Châu và Tân Châu đều tranh nhau rước
chân thân,
không giải quyết được.
Mọi người bèn
đốt hương mà khấn rằng: “Khói hương bay hướng nào là Sư về nơi đó.” Khấn xong, khói hương bay về hướng
Tào Khê.
Ngày mười ba tháng mười một, dời linh cửu và
y bát của Tổ truyền lại, rước về
Tào Khê. Ngày hai mươi lăm tháng bảy năm sau, mở
áo quan ra.
Đệ tử là Phương Biện dùng bột hương nhão phết lên
cúng dường. Môn nhân nhớ lại lời sấm “lấy đầu”, bèn dùng lá sắt, vải sơn bao quanh cổ Sư, rồi mới rước vào tháp.
Thình lình, trong tháp có
hào quang màu trắng
hiện ra, xông thẳng lên trời, ba ngày sau mới tan. Quan Thiều Châu tâu việc ấy lên triều đình. Vua ban chiếu sai lập bia ghi
đạo hạnh của Sư.
Sư thọ 76 tuổi, Ngài sanh năm Trinh Quán thứ 12 (638), tịch năm
Tiên Thiên thứ 2 (713). năm 24 tuổi được
truyền y, 39 tuổi xuống tóc.
Thuyết pháp làm lợi cho
chúng sanh 37 năm. Kẻ nắm được
tông chỉ nối
pháp Sư có 43 người, còn kẻ
ngộ đạo siêu phàm thì chẳng biết bao nhiêu mà kể. Tấm y làm tin từ Tổ Đạt-ma truyền lại, Vì Tổ Đạt-ma được
truyền thừa từ Tổ Ca-diếp xuống (đời thứ 28), nên tấm y này cũng chính là y do
Đức Phật truyền lại. cà-sa ma-nạp với
bình bát quý của vua
Trung Tông dâng cúng, và tượng của Sư do Phương Biện đắp, cùng các đồ
đạo cụ khác, đều giao cho vị
thị giả chủ tháp
trông coi, giữ hoài ở
đạo tràng Bảo Lâm. Lại
lưu truyền bộ
Đàn Kinh này để nói rõ
tông chỉ. Hết thảy
mọi việc trong đời Sư đều là để làm cho
hưng long Tam Bảo,
lợi ích khắp
quần sanh vậy.
(
Nguồn: Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn)