PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Tác gỉa Đòan Trung Còn
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải - Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
PHẨM THỨ VI: SÁM HỐI
Lúc ấy,
Đại sư thấy các vị nhân sĩ, dân chúng Quảng Châu, Thiều Châu và tất cả bốn phương đều tụ hội về để
nghe Pháp, Ngài bèn lên tòa, nói với
mọi người rằng: “Hãy đến đây, các vị
thiện tri thức! Điều ta thuyết đây
cần phải từ trong
tự tánh khởi lên. Luôn luôn trong mỗi niệm tưởng, đều phải tịnh lấy tâm mình, tự mình
tu hành, tự thấy
pháp thân mình, thấy Phật ở
tự tâm; tự cứu lấy mình, răn giữ lấy mình mới được, chẳng
cần phải đến đây. Nhưng đã từ phương xa đến, đồng hội nơi đây, đều là có duyên. Vậy nay
mọi người hãy quì xuống.
Trước tiên, ta vì chư vị mà truyền cho năm
phần hương pháp thân của
tự tánh. Kế đó, sẽ truyền phép
Sám hối Vô tướng.”
Mọi người đều quì mọp. Sư nói: “Một là
Giới hương. Trong tâm mình không chê bỏ, không
ganh ghét, không tham giận, không cướp hại, gọi là
Giới hương.
“Hai là
Định hương. Nhìn thấy các cảnh
lành dữ, tâm mình chẳng loạn, gọi là
Định hương.
“Ba là Tuệ hương.
Tự tâm không ngăn ngại,
thường dùng trí tuệ quán xét tánh mình, không làm việc ác; tuy tu các
việc lành, mà
tâm không chấp trước; kính người trên, thương kẻ dưới,
thương xót kẻ
côi cút,
nghèo khó, gọi là Tuệ hương.
“Bốn là
Giải thoát hương.
Tâm không vướng mắc, nương theo bất cứ điều gì; chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác,
tự tại, không ngăn ngại, gọi là
Giải thoát hương.
“Năm là
Giải thoát tri kiến hương. Tâm đã không
vướng mắc,
chạy theo những điều lành, điều dữ, cũng không thể chìm vào chỗ trống
không chấp lấy sự
vắng lặng; nghĩa là nên
học rộng, nghe nhiều, tự biết rõ
bản tâm, đạt tới lý lẽ của chư Phật; lấy sự hòa đồng mà tiếp cận cùng muôn vật, không
vướng mắc chuyện có mình, có người; thẳng đạt Bồ-đề,
chân tánh vẫn không đổi, gọi là
Giải thoát tri kiến hương.
“Các vị
thiện tri thức! Những thứ hương ấy đều tỏa lên tự trong tâm mình, đừng
tìm kiếm ở ngoài.
“Bây giờ, ta sẽ cùng chư vị thọ phép
Sám hối Vô tướng, diệt hết tội
ba đời, khiến cho
ba nghiệp đều
thanh tịnh.
Ba nghiệp là nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý.
“Các vị
thiện tri thức! Chư vị hãy cùng lập lại
theo như lời ta:
“Đệ tử chúng con, từ bao
niệm trước, đến niệm bây giờ,
cho đến những niệm về sau, mỗi niệm chẳng bị ngu mê làm
ô nhiễm. Từ trước
đến nay, những
tội ác do ngu mê thảy đều xin
sám hối, nguyện
đồng thời diệt hết,
mãi mãi chẳng còn khởi lại nữa.
“Đệ tử chúng con, từ bao
niệm trước, đến niệm bây giờ,
cho đến những niệm về sau, mỗi niệm chẳng bị
kiêu căng,
dối trá làm
ô nhiễm. Từ trước
đến nay, những
tội ác do
kiêu căng,
dối trá thảy đều xin
sám hối, nguyện
đồng thời diệt hết,
mãi mãi chẳng còn khởi lại nữa.
“Đệ tử chúng con, từ bao
niệm trước, đến niệm bây giờ,
cho đến những niệm về sau, mỗi niệm chẳng bị sự
ganh ghét làm
ô nhiễm. Từ trước
đến nay, những
tội ác do sự
ganh ghét thảy đều xin
sám hối, nguyện
đồng thời diệt hết,
mãi mãi chẳng còn khởi lại nữa.
“Các vị
thiện tri thức! Trên đây là phép
Sám hối Vô tướng. Sao gọi là sám? Sao gọi là hối? Sám là
ăn năn những lỗi đã qua. Từ trước, có những
tội ác do nơi ngu mê,
kiêu căng,
dối trá,
ganh ghét, thảy đều
ăn năn hết,
mãi mãi về sau chẳng còn khởi ra nữa; đó gọi là sám. Hối là tự
ngăn ngừa những lỗi về sau của mình. Từ nay về sau, có những
tội ác do nơi ngu mê,
kiêu căng,
dối trá,
ganh ghét, nay đã
giác ngộ, tất nhiên
vĩnh viễn dứt hết, chẳng mắc phải nữa; đó gọi là hối. Vì
thế cho nên gọi là
sám hối. Kẻ
phàm phu ngu mê chỉ biết
ăn năn những lỗi đã qua, mà chẳng biết
ngăn ngừa những lỗi về sau. Bởi không biết hối, nên tội trước chẳng diệt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đã chẳng diệt, lỗi sau lại tiếp sanh ra, làm sao gọi là sám hối?
“Các vị
thiện tri thức? Nay đã
sám hối rồi, ta sẽ cùng chư
thiện tri thức phát khởi Bốn
thệ nguyện rộng lớn. Chư vị hãy lắng tai, dùng
tâm chân chánh mà nghe đây:
Vô biên chúng sanh nơi
tự tâm,
thệ nguyện cứu độ.
Vô biên phiền não nơi
tự tâm,
thệ nguyện dứt bỏ.
Vô tận pháp môn trong
tự tánh,
thệ nguyện học hỏi.
Phật đạo vô thượng trong
tự tánh,
thệ nguyện tu thành.
“Các vị
thiện tri thức!
Mọi người ai cũng nói:
vô biên chúng sanh thệ nguyện cứu độ. Nhưng mấy ai biết được nghĩa: thật chẳng phải
Huệ Năng này độ. Ý
Tổ sư ở đây
nhấn mạnh vào chỗ tự nguyện, tự độ.
“Các vị
thiện tri thức!
Chúng sanh ở trong tâm, ấy là: tâm tà mê, tâm cuống vọng,
tâm bất thiện, tâm
ganh ghét, tâm
ác độc. Những
tâm niệm như thế, đều là
chúng sanh.
Mọi người nên từ
tự tánh tự độ lấy mình. Đó gọi là
cứu độ chân thật. Sao gọi là từ
tự tánh tự độ lấy mình? Tự trong tâm mình có những
chúng sanh tà kiến,
phiền não,
ngu si, hãy dùng
chánh kiến Chánh kiến: sự thấy biết,
kiến giải chân chánh, đúng
chánh pháp. mà
cứu độ. Có
chánh kiến rồi, liền dùng trí Bát-nhã chống phá
chúng sanh ngu si,
mê vọng. Cứ như
vậy mà ai ai cũng đều tự độ lấy mình. Với
tà vạy, dùng chân chánh mà độ; với
mê muội, dùng
giác ngộ độ; với
ngu si, dùng
trí tuệ độ; với
ác độc, dùng tâm thiện độ.
Cứu độ được như vậy, gọi là
cứu độ chân thật.
“Vô biên
phiền não thệ nguyện dứt bỏ, nghĩa là dùng trí Bát-nhã nơi
tự tánh phá trừ đi tâm
dối trá hư vọng.
“Vô tận
pháp môn thệ nguyện học hỏi, là nên tự mình thấy tánh,
thường hành chánh pháp, đó gọi là
học hỏi chân chánh.
“Phật đạo
vô thượng thệ nguyện tu thành, là
thường hay nhún nhường, làm theo lẽ chân chánh, lìa mê lìa giác, thường sanh Bát-nhã; trừ chân trừ vọng, liền thấy tánh Phật. Vừa được nghe qua Tức là
nghe lời nói
khai ngộ của bậc
đại thiện tri thức. liền
thành Phật đạo, tâm thường nghĩ việc
tu hành, chính là
pháp nguyện lực.
“Chư
thiện tri thức! Nay đã phát Bốn nguyện rộng lớn rồi, ta cùng chư vị thọ Ba giới
quy y vô tướng.
“Các vị
thiện tri thức!
Quy y với
giác ngộ là bậc
phước huệ đầy đủ,
Lưỡng túc Tôn Quy y với chân chánh là bậc lìa xa các dục.
Ly dục Tôn
Quy y với
thanh tịnh là bậc cao quý trong
chúng hội. Chúng
trung Tôn Từ nay nhận
giác ngộ là thầy, chẳng còn
quy y theo
tà ma,
ngoại đạo. Cầu
Tam Bảo trong
tự tánh mình thường
chứng minh. Nay khuyên các vị
thiện tri thức quy y với
Tam Bảo trong
tự tánh mình:
giác ngộ, đó là Phật; chân chánh, đó là Pháp;
thanh tịnh, đó là Tăng.
“Tự tâm
quy y giác ngộ, tà mê chẳng sanh, ít
ham muốn, biết đủ,
Thiểu dục tri túc có thể
lìa bỏ của cải,
nhan sắc, gọi là
Lưỡng túc Tôn.
“Tự tâm
quy y chân chánh, mỗi niệm chẳng có
tà kiến. Chẳng có
tà kiến, nên chẳng chấp việc có ta, có người, không
cống cao,
tham ái,
chấp trước, gọi là
Ly dục Tôn.
“Tự tâm
quy y thanh tịnh,
tự tánh chẳng
ô nhiễm nơi hết thảy các cảnh
trần lao,
ái dục, gọi là Chúng
trung Tôn.
“Nếu tu hạnh này là tự
quy y chính mình. Kẻ
phàm phu chẳng hiểu, ngày đêm
thọ giới Tam Quy. Đây nói cách hiểu của hàng
Tiểu thừa. Nếu nói
Quy y Phật, hỏi Phật ở đâu? Nếu chẳng thấy Phật, thì nương vào đâu mà quy? Nói vậy thành ra
hư vọng.
“Các vị
thiện tri thức!
Mọi người nên tự
suy xét, đừng
dụng tâm sai lầm. Trong Kinh Ở đây là dẫn
Kinh Hoa Nghiêm. nói rõ là “Tự
quy y Phật”, chẳng nói “Quy y với Phật khác”. Phật nơi
tự tâm mà chẳng
quy y, không còn có chỗ nào khác mà nương dựa. Nay đã tự
tỉnh ngộ,
mọi người nên
quy y với
Tam Bảo nơi
tự tâm mình. Trong thì
điều phục tâm tánh, ngoài thì
kính trọng người khác, đó chính là tự
quy y.
“Các vị
thiện tri thức! Đã
quy y với
tự tâm Tam Bảo rồi,
mọi người hãy
chí tâm, ta sẽ
giảng giải về
một thể ba thân của
tự tánh Phật, khiến cho chư vị đều được thấy
ba thân, tự mình
tỏ rõ tự tánh.
Mọi người hãy lập lại
theo như lời ta:
“Với thân xác thịt này, xin
quy y với
Thanh tịnh Pháp thân Phật.
“Với thân xác thịt này, xin
quy y với
Viên mãn Báo thân Phật.
“Với thân xác thịt này, xin
quy y với Thiên bá ức
Hóa thân Phật.
“Các vị
thiện tri thức! Thân xác thịt này là nhà trọ, chẳng thể nói là
quy y nó được.
Ba thân Phật Ba thân Phật:
Pháp thân,
Hóa thân và
Báo thân. tự trong
tự tánh, ai ai cũng sẵn có. Chỉ vì tâm mê, chẳng thấy
tự tánh bên trong, mãi tìm cầu
Ba thân Phật ở ngoài, chẳng thấy tự mình có
Ba thân Phật.
Mọi người hãy lắng nghe, ta sẽ giúp cho
ai nấy tự trong thân mình thấy được
tự tánh có
Ba thân Phật.
Ba thân Phật ấy từ nơi
tự tánh sanh, chẳng phải từ bên ngoài mà có được.
“Sao gọi là
Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời tánh vốn
thanh tịnh, muôn pháp đều
do nơi tự tánh sanh. Tâm nghĩ các điều ác, liền sanh ra hạnh ác; tâm nghĩ các
việc lành, liền sanh ra
hạnh lành. Như vậy, các pháp đều ở trong
tự tánh. Như bầu trời trong,
mặt trời mặt trăng thường sáng, có
đám mây che phủ thành ra trên sáng dưới tối. Bỗng gặp gió thổi tan mây, trên dưới đều sáng, muôn cảnh
hiện ra. Người đời tánh thường
trôi nổi, cũng giống như
đám mây trên trời đó vậy.
“Các vị
thiện tri thức! Trí như
mặt trời, tuệ như
mặt trăng.
Trí tuệ thường
sáng suốt, do
vướng mắc nơi
ngoại cảnh mà bị
đám mây vọng niệm lấp che
tự tánh, nên chẳng được
sáng suốt. Nếu gặp được bậc
thiện tri thức,
nghe pháp chân chánh, trừ điều
mê vọng nơi mình, thì trong ngoài
sáng suốt, trong
tự tánh muôn pháp đều
hiện ra. Người thấy tánh lại cũng như vậy. Đó gọi là
Thanh tịnh Pháp thân Phật.
“Các vị
thiện tri thức!
Tự tâm quy y với
tự tánh, ấy là
quy y với
đức Phật chân thật. Người tự
quy y thì trừ dứt đi những
tâm bất thiện,
ganh ghét,
tà vạy,
chấp ngã,
dối trá, khinh người, ngạo mạn,
tà kiến,
cống cao, và hết thảy những hạnh chẳng lành trong mọi lúc. Thường tự thấy lỗi mình, chẳng nói điều tốt xấu của kẻ khác. Như vậy gọi là tự
quy y. Thường nên nhún nhường,
cung kính hết thảy, tức nhiên thấy tánh
thông đạt, không còn ngăn ngại. Như vậy gọi là tự
quy y.
“Sao gọi là
Viên mãn Báo thân?
Ví như một
ngọn đèn trừ được sự tối ngàn năm, một niệm trí
khởi diệt được sự
ngu muội muôn năm. Đừng nghĩ tới
lỗi lầm đã qua, vì chẳng thể thay đổi được. Thường nghĩ việc sắp đến, mỗi niệm tưởng đều tròn đầy, sáng rỡ, tự thấy
bản tánh. Thiện, ác tuy là khác,
bản tánh vốn không
phân biệt.
Tánh không phân biệt ấy gọi là
thật tánh. Từ trong
thật tánh, chẳng đắm nhiễm các
việc thiện ác. Đó gọi là
Viên mãn Báo thân Phật.
Tự tánh khởi một niệm ác, diệt mất
nhân duyên lành muôn kiếp.
Tự tánh khởi một niệm thiện, dứt được việc ác nhiều như cát
sông Hằng, thẳng đến quả
vô thượng Bồ-đề. Trong mỗi niệm tưởng đều tự thấy biết, chẳng mất đi bản niệm, gọi là
Báo thân.
“Sao gọi là Thiên bá ức Hóa thân? Nếu chẳng nghĩ đến muôn pháp, tánh vốn
như không. Một niệm
suy nghĩ, gọi là
biến hóa.
Suy nghĩ việc ác, hóa ra
địa ngục.
Suy nghĩ việc thiện, hóa ra
thiên đường. Tâm
độc hại hóa ra rồng, rắn.
Tâm từ bi hóa ra Bồ-tát.
Trí tuệ hóa ra
thượng giới, Chỉ các
cõi trời.
ngu si hóa làm cõi dưới. Tức
cảnh giới tam đồ.
Tự Tánh biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể biết được. Mỗi niệm sanh lòng ác, thường làm theo đường ác.
Quay về một niệm lành,
trí tuệ liền sanh ra. Đó gọi là
Tự tánh Hóa thân Phật.
“Các vị
thiện tri thức!
Pháp thân vốn tự đầy đủ. Lúc nào
tự tánh cũng tự thấy biết, tức là
Báo thân Phật. Từ nơi
Báo thân khởi nên
suy nghĩ, tức là
Hóa thân Phật. Tự mình
giác ngộ,
tu công đức nơi
tự tánh, ấy là
quy y chân chánh.
Da thịt này là
sắc thân,
Sắc thân:
thân hình sắc, thân xác thịt này.
sắc thân là nhà trọ, Vì chỉ
giả hợp tạm bợ trong
kiếp người nên gọi là nhà trọ. chẳng nói là
quy y nơi đó được. Chỉ cần nhận rõ
Ba thân nơi
tự tánh, liền biết được Phật trong
tự tánh.
“Ta có một bài tụng
Vô tướng. Nếu trì tụng được có thể khiến cho tội mê trong nhiều kiếp đều diệt sạch.”
Tụng rằng:
• Người mê
tu phước, chẳng
tu đạo,
• Tưởng rằng
tu phước tức là Đạo.
•
Bố thí,
cúng dường, dẫu nhiều phước,
• Trong
tâm Ba ác Ba ác là: tham, sân, si. như trước tạo.
• Đem lòng
tu phước muốn
diệt tội,
•
Đời sau được phước, vẫn còn tội.
• Chỉ tự trong tâm trừ tội duyên, Tội duyên:
duyên do,
nguyên nhân sinh ra
tội lỗi.
• Đều trong
tự tánh thật
sám hối.
• Gặp pháp
đại thừa chân sám hối,
• Bỏ tà, làm chánh, liền dứt tội.
•
Học đạo thường xem nơi
tự tánh,
• Liền cùng chư Phật không sai khác.
• Tổ ta Tức là
Sơ Tổ Đạt-ma. chỉ
truyền pháp thẳng tắt,
• Nguyện khắp thấy tánh đồng
một thể.
• Nếu muốn về sau tìm
Pháp thân,
• Lìa các
pháp tướng, tâm
trong sạch.
•
Gắng sức tự thấy, chớ núng nao,
• Chỉ một niệm dứt, mạng còn đâu?
• Nếu ngộ
đại thừa, được thấy tánh,
•
Chắp tay cung kính chí tâm cầu!
Sư nói: “Các vị
thiện tri thức!
Mọi người nên trì tụng, theo đó mà
tu hành. Nghe qua rồi thấy tánh, thì dù cách ta ngàn dặm, cũng như thường ở bên ta! Còn nếu nghe rồi mà chẳng tỉnh ra, thì dù đối mặt nhau cũng như ngoài ngàn dặm. Đâu cần
lặn lội từ xa đến đây? Thôi, nên
trân trọng mà giải tán.”
Đại chúng nghe Pháp, ai ai cũng được tỏ ngộ,
vui mừng kính cẩn làm theo.