PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Tác gỉa Đòan Trung Còn
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải - Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
PHẨM THỨ VIII: PHÁP ĐỐN VÀ TIỆM
Bấy giờ,
Tổ Sư ở chùa
Bảo Lâm nơi
Tào Khê,
Thần Tú Đại sư ở chùa Ngọc Tuyền nơi Kinh Nam.
Lúc ấy, hai tông đều thạnh hóa. Người đời gọi là “Nam Năng, Bắc Tú”, cho nên có sự phân ra hai pháp Đốn và Tiệm của hai tông Nam Bắc, làm cho người học chẳng biết theo về đâu. Sư vì
mọi người mà nói rằng:
“Pháp vốn chỉ một tông, người có Nam Bắc. Pháp tức là một loại, chỗ thấy biết có chậm mau. Sao gọi là Đốn, Tiệm?
Pháp không có
Đốn Tiệm, chỉ vì người ta có
lanh lợi, chậm lụt khác nhau, cho nên gọi là
Đốn Tiệm đó thôi.”
Nhưng
môn đồ của sư
Thần Tú thường chê
Tổ Sư phía Nam rằng: Chẳng biết một chữ, có chi là giỏi?
Sư
Thần Tú nói rằng: “Vị ấy được
trí vô sư,
Vô sư trí:
trí tuệ tự thấy biết không cần thầy dạy. ngộ sâu phép
Thượng thừa, ta chẳng bằng được. Vả lại, Thầy ta là
Ngũ Tổ đích thân
truyền pháp và y, nào phải
vô cớ sao? Ta vẫn
ân hận rằng chẳng thể vượt đường xa đến đó thân cận được với vị ấy, ở đây luống
thọ ơn nước. Nói việc
thái hậu Võ Tắc Thiên tôn sùng,
tôn hiệu là
Quốc Sư. Các ngươi đừng trì trệ mãi ở đây, nên tới
Tào Khê tham yết mà
học hỏi.”
Ngày kia, sư
Thần Tú bảo
môn đồ là
Chí Thành rằng: “Nhà ngươi
thông minh tài trí, nên vì ta đến
Tào Khê nghe Pháp. Nếu
nghe được điều chi,
hết lòng nhớ lấy,
trở về nói cho ta nghe.”
Chí Thành vâng lời đến
Tào Khê, theo chúng
tham học, nhưng chẳng nói là từ đâu đến. Khi ấy,
Tổ Sư bảo chúng rằng: “Nay có
kẻ trộm pháp lẩn trong Hội này.”
Chí Thành liền
bước ra lễ bái, nói rõ chuyện mình.
Sư nói: “Ngươi từ chùa Ngọc Tuyền đến đây để
lén lút dò xét, phải không?” Đáp rằng: “Không phải.” Sư nói: “Sao không phải được?” Thưa rằng: “Chưa nói ra là phải, đã nói ra rồi nên không phải.”
Sư hỏi: “Thầy ngươi dạy chúng thế nào?”
Đáp: “Thầy tôi thường dạy chúng rằng:
Trụ tâm quán sự yên tĩnh, ngồi hoài chẳng nằm.”
Sư nói: “Trụ
tâm quán sự yên tĩnh, đó là bệnh chứ chẳng phải thiền. Ngồi mãi là giam mình, theo lý có ích gì? Hãy nghe
bài kệ này:
• Lúc sống ngồi chẳng nằm;
• Chết đi nằm chẳng ngồi.
• Một bộ xương hôi thối,
• Sao lấy đó lập công?”
Chí Thành lại làm lễ, thưa rằng: “Đệ tử này ở nơi
Đại sư Thần Tú,
học đạo chín năm, chẳng được
tỉnh ngộ. Nay vừa nghe
Hòa thượng thuyết qua liền khế hợp
bản tâm.
Sanh tử là việc lớn, xin
Hòa thượng đại từ chỉ dạy.”
Sư nói: “Ta nghe thầy ngươi dạy
pháp Giới Định Tuệ, chưa rõ thầy ngươi
giảng thuyết hạnh, tướng
Giới Định Tuệ thế nào? Ngươi thử nói ta nghe xem.”
Chí Thành nói: “Đại sư
Thần Tú nói: ‘Mọi điều dữ đừng khởi lên, gọi là Giới. Mọi điều lành vâng làm theo, gọi là Tuệ. Tịnh lấy ý của mình, gọi là Định.’ Chưa rõ ở đây
Hòa thượng dùng pháp gì dạy người?”
Sư nói: “Nếu ta nói có pháp dạy người, hóa ra
nói dối ngươi. Chỉ
tùy phương tiện mà
mở trói, tạm gọi là Tam-muội. Như
nghĩa Giới Định Tuệ của thầy ngươi thuyết, thật chẳng thể nghĩ bàn được. Chỗ
kiến giải của ta về
Giới Định Tuệ lại khác.”
Chí Thành hỏi: “Giới
Định Tuệ lẽ ra chỉ một, sao lại có khác?”
Sư nói: “Giới
Định Tuệ của thầy ngươi dạy người
Đại thừa.
Giới Định Tuệ của ta dạy người
Tối thượng thừa. Chỗ ngộ, giải chẳng đồng nhau; chỗ thấy biết có mau, có chậm. Ngươi hãy nghe ta thuyết, xem có giống thầy ngươi chăng? Chỗ
thuyết pháp của ta chẳng rời khỏi
tự tánh. Nếu rời khỏi thể
tự tánh mà
thuyết pháp, gọi là tướng thuyết,
tự tánh thường mê. Nên biết rằng hết thảy muôn pháp đều từ
tự tánh khởi dụng, ấy là
pháp Giới Định Tuệ
chân thật. Hãy nghe
bài kệ này:
•
Tâm không sai quấy,
tự tánh Giới,
•
Tâm không ngu si,
tự tánh Tuệ,
•
Tâm không tán loạn,
tự tánh Định.
• Chẳng thêm, chẳng bớt, như
kim cang,
• Thân dù qua lại, thường trong định.”
Thành nghe kệ,
ăn năn cảm tạ, liền trình kệ rằng:
•
Năm uẩn huyễn hình,
• Huyễn sao cứu cánh?
• Quày đuổi
chân như,
•
Pháp thành chẳng tịnh.
Sư nhận cho là được. Lại nói với
Chí Thành: “Giới
Định Tuệ của thầy ngươi khuyên người trí nhỏ căn thấp,
Giới Định Tuệ của ta khuyên người
trí tuệ đại căn. Nếu
ngộ tự tánh, lại chẳng lập Bồ-đề Niết-bàn, cũng chẳng lập
Giải thoát tri kiến.
Pháp thân có năm phần: giới, định, tuệ là theo nhân mà có tên,
giải thoát,
giải thoát tri kiến là theo quả mà có tên.
“Không một pháp có thể đắc, mới
kiến lập được muôn pháp. Nếu
hiểu rõ ý ấy, cũng gọi là
Phật thân, cũng gọi là Bồ-đề Niết-bàn, cũng gọi là
Giải thoát tri kiến. Người thấy tánh, lập cũng được, chẳng lập cũng được, qua lại
tự do, không trì trệ, ngăn ngại.
Ứng dụng tùy
việc làm, theo lời mà đáp, thấy khắp
hóa thân, chẳng lìa
tự tánh, tức được
thần thông tự tại
du hý Tam-muội, đó gọi là thấy tánh.”
Chí Thành lại hỏi Sư rằng: “Thế nào là nghĩa chẳng lập?”
Sư đáp: “Tự
tánh không sai quấy,
ngu si,
tán loạn. Tánh Bát-nhã thường luôn
quán chiếu, lìa khỏi
pháp tướng,
tự do tự tại, dọc ngang đều được, có chi lập được? Tánh mình
tự ngộ,
tức thời giác ngộ,
tức thời tu trì, chẳng có
lần lượt thứ lớp, vậy nên chẳng
lập pháp nào hết thảy. Các pháp đều
tịch diệt, có thứ lớp gì đâu?”
Chí Thành lễ bái, nguyện theo làm kẻ hầu hạ sớm chiều.
Có vị tăng hiệu
Chí Triệt, người
Giang Tây, vốn trước là họ Trương, tên Hành Xương. Thuở nhỏ tánh tình hung hăng.
Từ khi
Nam tông,
Bắc tông phân nhau mà
hóa độ, hai vị tông chủ tuy chẳng
đố kỵ nhau, mà
môn đồ thường khởi lòng yêu, ghét.
Thuở ấy, môn nhân
Bắc tông tự lập Đại sư Thần Tú làm Tổ thứ sáu, lại sợ việc
Tổ Sư được
truyền y thiên hạ đều nghe, bèn cậy Hành Xương đến hành thích.
Tâm Sư thông tuệ,
biết trước việc ấy, liền
sắp đặt mười lượng vàng nơi chỗ ngồi. Đêm tối, Hành Xương vào
thất Tổ Sư, muốn ra tay làm hại. Sư vươn cổ đưa ra cho chém, mà Hành Xương vung đao ba lần đều không
tổn hại đến ngài.
Sư nói: “Gươm chánh chẳng tà, gươm tà chẳng chánh. Chỉ nợ ngươi vàng, chẳng nợ ngươi mạng.”
Hành Xương hoảng vía, lăn ra bất tỉnh. Hồi lâu
hoàn hồn,
cầu xin hối lỗi, nguyện
xuất gia tức thời. Sư đưa vàng cho mà bảo rằng: “Ngươi nên đi nhanh, kẻo
đồ chúng hay được sẽ hại ngươi. Ngày sau
cải dạng đến đây, ta sẽ thâu nhận.”
Hành Xương
vâng lời trốn đi. Về sau
xuất gia, thọ đủ
giới luật tinh tấn. Ngày kia, nhớ lời Sư dặn mới từ xa đến lễ. Sư nói: “Ta nghĩ đến ngươi
đã lâu, sao đến trễ vậy?”
Thưa rằng: “Ngày trước
đội ơn Hòa thượng xá tội, nay tuy
xuất gia khổ hạnh, rốt lại cũng khó đáp đền. Chỉ biết
cố gắng truyền pháp độ sanh thôi.
Đệ tử thường xem Kinh Niết-bàn, chưa hiểu nghĩa thường,
vô thường. Xin
Hòa thượng từ bi lược thuyết cho.”
Sư đáp: “Vô thường tức là
Phật tánh, hữu thường tức là tâm
phân biệt hết thảy các
pháp thiện ác.”
Thưa rằng: “Hòa thượng thuyết như vậy trái hẳn với kinh văn.”
Sư nói: “Ta
truyền tâm ấn Phật, sao dám
trái với kinh Phật?”
Thưa rằng: “Trong kinh nói
Phật tánh là thường.
Hòa thượng lại nói
vô thường. Các
pháp thiện ác,
cho đến cả tâm Bồ-đề đều là
vô thường,
Hòa thượng lại nói là thường. Đó là
trái nhau, khiến
đệ tử càng thêm
nghi hoặc.”
Sư nói: “Kinh Niết-bàn, trước đây ta có nghe
ni sư Vô Tận Tạng tụng qua một lượt, liền vì bà ấy mà
giảng thuyết, không một chữ, một nghĩa nào chẳng hợp kinh.
Đến nay vì ngươi mà thuyết, vẫn không sai khác.”
Thưa rằng: “Kẻ
học đạo này
kiến thức nông cạn,
tối tăm. Nguyện
Hòa thượng chỉ dạy cho
cặn kẽ.”
Sư nói: “Ngươi nên biết,
Phật tánh nếu thường, thì thuyết làm gì các
pháp thiện ác, cho
tới cùng kiếp cũng không có lấy một người
phát tâm Bồ-đề. Cho nên ta nói
vô thường chính là cái
đạo chân thường của
Phật thuyết vậy. Lại nữa, hết thảy các pháp nếu như
vô thường, tức nhiên
mọi vật đều riêng có
tự tánh,
dung nạp và thọ lấy sự
sống chết, vậy là tánh
chân thường còn có chỗ chưa bao quát. Cho nên ta nói thường, là cái
nghĩa chân vô thường của
Phật thuyết. Phật vì kẻ
phàm phu ngoại đạo chấp lẽ tà thường, vì hàng
Nhị thừa chấp thường là
vô thường, hợp thành tám thứ
điên đảo, cho nên trong
giáo pháp Niết-bàn
rốt ráo mới phá bỏ những chỗ
kiến giải thiên lệch đó mà nói rõ
nghĩa chân thường, chân lạc,
chân ngã,
chân tịnh. Nay ngươi lại chấp theo lời, hiểu
trái với nghĩa, lấy chỗ
vô thường có
đoạn diệt và chỗ thường
chắc chắn dứt mất mà giải lầm lời
viên diệu sau cùng của Phật, dù xem kinh đến ngàn lượt phỏng có ích gì?” Tám
điên đảo: a)
Bốn điên đảo của
phàm phu,
ngoại đạo: 1. Thường : Các pháp trong
thế gian đều
vô thường, mà cho là thường. 2. Lạc: Các pháp trong
thế gian đều khổ, mà cho là vui. 3. Ngã: Các pháp trong
thế gian đều
vô ngã mà cho là hữu ngã. 4. Tịnh: Các pháp trong
thế gian đều
bất tịnh mà cho là tịnh. b)
Bốn điên đảo của hàng
nhị thừa: 1.
Vô thường: Đối với Niết-bàn là thường, kể là
vô thường. 2 Vô lạc: Đối với Niết-bàn là vui, kể là Vô lạc. 3.
Vô ngã: Đối với Niết-bàn là
chân ngã, kể cho là
vô ngã. 4. Vô tịnh: Đối với Niết-bàn là
thanh tịnh, kể cho là vô tịnh.
Hành Xương bỗng nhiên
đại ngộ, thuyết kệ rằng:
Người
chấp tâm vô thường,
Phật thuyết tánh hữu thường.
Không
hiểu rõ phương tiện.
Như ao xuân nhặt sỏi.
Ta nay chẳng
tốn công,
Mà
Phật tánh hiện tiền.
Chẳng phải Thầy truyền trao,
Cũng chẳng có chỗ đắc.
Sư nói: “Nay ngươi thật đã thật
thấu triệt, nên lấy tên là
Chí Triệt.”
Chí Triệt lễ tạ mà lui ra.
Có một
đồng tử mười ba tuổi, tên
Thần Hội, con nhà họ Cao tại huyện Tương Dương, từ chùa Ngọc Tuyền Chùa Ngọc Tuyền do
đại sư Thần Tú trụ trì. đến tham lễ Sư.
Sư hỏi: “Bậc
tri thức từ xa khó nhọc đến, vậy đã được chỗ cội gốc
ban sơ hay chưa? Nếu được, hẳn phải biết chủ. Thử nói ra xem.”
Thần Hội nói: “Lấy
vô trụ làm gốc, thấy tức là chủ.”
Sư nói: “Chú sa-di nhỏ này tranh giữ lấy câu thứ yếu.”
Thần Hội bèn hỏi: “Hòa thượng
ngồi thiền, thấy hay chẳng thấy?”
Sư lấy gậy đánh ba cái, hỏi rằng: “Ta đánh nhà ngươi, đau hay không đau?”
Thưa rằng: “Cũng đau, cũng không đau.”
Sư nói: “Ta cũng thấy, cũng chẳng thấy.”
Thần Hội hỏi: “Thế nào là cũng thấy, cũng chẳng thấy?”
Sư nói: “Chỗ ta thấy, thường thấy điều lầm lỗi trong tâm mình, chẳng thấy điều
phải quấy, tốt xấu của người khác. Bởi vậy cho nên cũng thấy, cũng chẳng thấy. Còn ngươi nói ‘Cũng đau, cũng chẳng đau.’ là thế nào? Ngươi nếu chẳng đau, tức đồng với cây đá. Nếu đau, tức đồng với kẻ
phàm phu, liền khởi oán giận. Ngươi từ trước thấy và chẳng thấy là hai bên; đau và chẳng đau là
sanh diệt.
Tự tánh của ngươi, ngươi còn chẳng thấy, sao dám đùa người?”
Thần Hội lễ bái,
ăn năn tạ lỗi. Sư lại nói: “Ngươi nếu tâm mê chẳng thấy, nên hỏi bậc
thiện tri thức chỉ đường cho. Nếu tâm ngộ, tức tự thấy tánh, liền
y theo pháp mà
tu hành. Nay ngươi mê chẳng thấy
tự tâm, lại đến đây hỏi ta thấy với chẳng thấy. Ta thấy, ta tự biết, lẽ đâu mê thay cho ngươi? Ngươi nếu tự thấy, cũng chẳng mê thay cho ta. Sao chẳng tự biết tự thấy, lại hỏi ta thấy với chẳng thấy?”
Thần Hội lại lạy hơn trăm lạy, cầu
tạ lỗi lầm. Từ đó siêng năng hầu hạ bên Sư chẳng rời.
Một ngày kia.
Sư bảo chúng rằng: “Ta có một vật không đầu không đuôi, không danh không tự, không lưng Lưng: bề trái không mặt. Mặt: bề mặt Các người có biết là gì chăng?”
Thần Hội bước ra nói: “Đó là nguồn gốc của chư Phật,
Phật tánh của
Thần Hội.”
Sư nói: “Vừa nói với ngươi không danh không tự, ngươi lại đặt ngay ra là nguồn gốc,
Phật tánh. Ngươi về sau có ở chốn
am tranh, Nguyên văn: “bả mão cái đầu”, lấy cỏ tranh che đầu. Ở đây ý nói người đi tu, ở nơi am cỏ
thanh đạm. cũng chỉ thành
tông đồ của bọn tri giải.”
Sau khi
Tổ Sư diệt độ,
Thần Hội vào Kinh Lạc,
mở rộng Đốn giáo Tào Khê, soạn bộ sách
Hiển Tông Ký
lưu hành rộng rãi trong đời, lấy hiệu là Hà Trạch
Thiền sư.
Sư thấy các
tông phái vấn nạn, thảy đều
khởi tâm ác, Ngài thương tình mới nhóm
đồ chúng lại mà dạy rằng: “Người
học đạo, hết thảy tâm
thiện ác đều nên dứt sạch. Không tên nào có thể gọi, tên ở
tự tánh.
Tánh không phân biệt, gọi là
thật tánh. Từ trên
thật tánh,
kiến lập ra hết thảy
giáo môn: vừa nghe qua liền
tu hành tự thấy.”
Mọi người nghe giảng, thảy đều
lễ bái, nguyện thờ làm thầy.