GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
V
PHÁP HỘI
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI
THỨ NĂM
(Hán bộ từ quyển thứ 17 đến hết quyển thứ 18)
Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy, tôi nghe một lúc
đức Phật ở thành
Vương Xá, trong
núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng
đại Tỳ Kheo một vạn hai ngàn người câu hội. Các Ngài nầy đều là bực
đại Thanh Văn mà
mọi người quen biết. Đó là
Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như,
Tôn giả Mã Thắng,
Tôn giả Đại Danh,
Tôn giả Hữu Hiền,
Tôn giả Vô Cấu,
Tôn giả Danh Văn,
Tôn giả Thiện Xưng,
Tôn giả Viên Mãn,
Tôn giả Kiều Phạm Ba đề,
Tôn giả Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp,
Tôn giả Già Da Ca diếp,
Tôn giả Na Đề Ca Diếp,
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp,
Tôn giả Xá lợi Phất,
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên,
Tôn giả Ma Ha Ca Chiên Diên,
Tôn giả Ma Ha Kiếp Tân Na,
Tôn giả Ma Ha châu Na,
Tôn giả Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử,
Tôn giả A Nâu Lâu Đa,
Tôn giả Ly Bà Đa,
Tôn giả Nan Đà,
Tôn giả La Hầu La,
Tôn giả A Nan đà v.v... các
Tôn giả nầy làm
Thượng thủ.
Lại có chúng
đại Bồ tát, các Ngài
Phổ Hiền Bồ tát, Vãn Thù
sư Lợi Bồ Tát, Di Lạc
Bồ Tát, và
chư đại Bồ Tát trong kiếp Hiền sau trước vây quanh.
Lại cùng
Hiền Hộ v.v... mười
sáu vị Chánh Sĩ câu hội. đó là các Ngài
Thiện Tri Duy Nghĩa
Bồ tát, Huệ
Biện Tài Bồ Tát, Quán
Vô Trụ Bồ Tát, Thiện Hoa
Thần Thông Bồ Tát, Quang Tràng
Bồ Tát, Trí Thượng
Bồ Tát,
Tịch Căn Bồ Tát, Huệ Nguyện
Bồ Tát,
Hương Tượng Bồ Tát, Bửu Tràng
Bồ Tát v.v... làm
Thượng thủ.
Chư đại Bồ Tát nầy đều tuân
tu hạnh Phổ Hiền, đầy đủ tất cả
hạnh nguyện Bồ Tát, an trụ trong tất cả
công đức, đến bờ
Phật pháp rốt ráo kia, nguyện ở trong tất cả
thế giới thành Đẳng Chánh Giác. Lại nguyện sanh
cung trời Đâu suất, ở đó
thọ chung giáng sanh ở hông bên hữu, hiện đi bảy bước phóng ánh sáng lớn
chấn động khắp
thế giới mà xướng lên rằng: Nơi tất cả
thế gian, ta là tôn quý hơn cả.
Đế Thích và
Phạm Thiên đều đến thân cận
cúng dường. Lại hiện học tập lục nghệ hơn người, ở vương cùng
nhàm chán ngũ dục, thấy người già bịnh chết liền biết đời là
vô thường, rời bỏ ngôi vua vượt thành
học đạo, cởi lụa là
chuỗi ngọc mặc y
hoại sắc,
khổ hạnh sáu năm. Ở cõi
ngũ trược nầy có thể
thị hiện như vậy. Vì
thuận theo thế gian, đến tắm tại sông Ni Liên rồi đi tới
đạo tràng.
Long Vương ca tụng nghinh tiếp. Chư
Bồ tát đi nhiễu bên hữu
ngợi khen. Nhận lấy cỏ tự tay trải dưới cội
cây Bồ đề rồi
ngồi kiết già. Lại hiện quân ma bao vây làm hại.
Dùng sức định huệ hàng phục mà oán. Thành bậc
vô thượng Chánh giác.
Phạm Vương thỉnh chuyển pháp luân dũng mãnh vô úy. AÂm thanh của Phật vang rền, đánh trống pháp, thổi loa pháp, dựng tràng pháp, thắp đuốc pháp, nhiếp
chánh pháp và các
thiền định, mưa
pháp vũ nhuần thấm
quần sanh, chấn sấm pháp
khai ngộ tất cả
quốc độ,
quang minh chiếu khăáp
thế giới, mặt đất rúng động, cung ma sụp đổ,
Ma Vương Ba Tuần kinh sợ, phá giặc
phiền não, xé lưới
tà kiến, xa rời
ác pháp, sanh lớn
thiện pháp, với món đồ ăn của
tín thí có thể ăn có thể tiêu, vì
điều phục chúng sanh mà
tuyên dương diệu lý, hoặc hiện
mỉm cười phóng trăm ngàn
tia sáng lên bực
quán đảnh thọ ký Bồ đề, hoặc
thành Phật đạo, hiện
nhập Niết bàn, khiến
vô lượng hữu tình đều được quả
vô lậu,
thành thực thiện căn cho
vô biên Bồ Tát. Trong tất cả
cõi Phật đều có thể
thị hiện như vậy.
Ví như nhà
ảo thuật biết rõ
ảo thuật có
thể hiện ra những tướng
nam nữ v.v... ở trong các tướng ấy thiệt không có được.
Cũng vậy, chư
Bồ Tát khéo học
vô biên ảo thuật công đức nên hay
thị hiện biến hóa, hay khéo biết rõ đạo
biến hóa, nên ở các
quốc độ hiện đại từ bi đều có thể
lợi ích tất cả
quần sanh.
Thành tựu vô biên hạnh nguyện
Bồ Tát.
Thông đạt bình đẳng vô lượng nghĩa môn.
Tu hành đầy đủ tất cả pháp lành.
Bình đẳng thẳng vào trong các
cõi Phật. Thường được chư Phật khuyến tấn và
gia hộ oai thần. Được tất cả
Như Lai rõ biết
ấn khả. Vì
giáo hóa chư
Bồ Tát mà làm
A Xà Lê. Thường
tu tập thành tựu vô biên công hạnh.
Thông đạt tất cả
pháp giới hạnh. Hay biết rành rẽ
hữu tình và
quốc độ. Cũng thường đi đến
cúng dường chư Phật. Hiện các thứ
thân hình như là
ảnh tượng. Khéo học pháp
vô úy, phá lưới ma,
trừ tà kiến, qua khỏi
quyến thuộc hiền não và bạn
ma dân ma. Hơn hẳn bực
Thanh Văn và
Bích Chi Phật.
Nhập môn không,
vô tướng và
vô nguyện, mà hay an trụ
phương tiện thiện xảo. Chẳng hề thích
Niết bàn của
nhị thừa. Được các
tam muội vô sanh vô diệt và các môn
đà la ni. Các căn
quảng đại,
biện tài quyết định, nơi tạng pháp
Bồ Tát hay biết rõ
Phật hoa tam muội,
tùy thời ngộ nhập. Đủ biết tất cả các thứ
thậm thâm thiền định. Tất cả chư Phật đều
hiện ra trước.
Trong khoảng một niệm đi khắp
cõi Phật, quanh vòng qua lại vẫn chẳng khác
thời gian, cứu vớt nạn khổ.
Phân biệt hiển bày chơn thiệt bổn tế. Được
Phật hiện tài, trụ hạnh
Phổ Hiền. Hay
phân biệt rõ
ngôn ngữ của
chúng sanh. Vượt hơn tất cả pháp
thế gian. Biết rành tất cả pháp
xuất thế. Nơi tất cả
vạn vật tùy ý tự tại. Với tất cả
hữu tình làm bạn chẳng chờ thỉnh. Có thể
chấp trì pháp tạng của tất cả
Như Lai. An trụ chẳng dứt
chủng tánh tất cả Phật.
Thương mến hữu tình mở bày
pháp nhãn cho họ. Bít cửa
ác đạo, mở cửa
thiện đạo. Với tất cả
hữu tình xem như cha mẹ anh em. Lại xem
chúng sanh không khác thân mình. Tất cả pháp lành đều được
rốt ráo.
Vô lượng công đức của chư Phật đều đã được.
Trí huệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn.
Chúng
đại Bồ Tát vô lượng vô biên như vậy đồng đến
pháp hội.
Lúc bấy giờ sắc diện của
đức Thế Tôn vui vẻ sáng rỡ.
Thừa
oai thần của
đức Phật,
Tôn giả A Nan từ chỗ ngồi
đứng dậy chỉnh lý
y phục, trịch vai hữu, gối hữu chấm đất
chắp tay hướng lên
đức Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay sắc diện của
đức Thế Tôn vui vẻ sáng rỡ,
trong sạch như
gương sáng, từ nào chưa từng được thấy.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi tự nghĩ rằng hôm nay
đức Thế Tôn an trụ chỗ an trụ của chư Phật. Hôm nay Đức
Thế Nhãn an trụ nơi hạnh của bực
đạo sư. Hôm nay đức
Thế Anh an trụ nơi đạo
tối thắng. Hôm nay đức
Thế Hùng hành
công đức của
Như Lai.
Phải chăng hôm nay
đức Thế Tôn nghĩ nhớ đến chư Phật
quá khứ,
vị lai, hiện tại?”.
Đức Phật phán dạy: “Nầy A Nan! Sao ông biết được việc ấy,
chư Thiên bảo ông, hay là ông tự thấy biết?”.
Ngài
A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thấy sắc diện của
đức Thế Tôn rạng rỡ ít khi có, nên mới bạch hỏi như vậy, chẳng phải là do
chư Thiên mách bảo”.
Đức Phật phán dạy: “Lành thay,
lành thay! Nầy A Nan! Ông phát
trí huệ biện tài hỏi được
Như Lai việc ấy. Ông là
Đại Sĩ hi hữu như
hoa Ưu Đàm xuất hiện thế gian, có lòng
đại bi lợi ích chúng sanh, nên thưa hỏi việc ấy.
Nầy A Nan!
Đức Như Lai Chánh đẳng Chánh giác hay khai thị được
vô lượng tri kiến. Tại sao? Vì
Như Lai tri kiến vô chướng
vô ngại.
Nầy A Nan!
Như Lai Chánh đẳng Chánh giác, nếu muốn ở
thế gian, có thể ở đến
vô lượng vô số trăm ngàn ức
na do tha kiếp, hoặc là tăng hơn số lượng trên, mà
thân thể của
Như Lai và các căn vẫn không tổn giảm. Tại sao vậy?
Vì
Như Lai được
tam muội tự tại rốt ráo. Nơi tất cả pháp là
tự tại hơn hết.
Nầy A Nan! Ông phải lắng nghe, khéo
suy nghĩ lấy. Ta sẽ vì ông mà
phân biệt giải nói”.
Ngài
A Nan thưa: “Vâng! Bạch đức Thế Tôn! Tôi mong muốn được nghe
đức Phật chỉ dạy”.
Đức Phật bảo Ngài
A Nan: “Thuở xưa quá
a tăng kỳ vô số đại kiếp cô Phật
xuất thế hiệu là Nhiên Đăng
Như Lai giáo hóa độ thoát vô lượng chúng sanh.
Sau đó có
Quang Viễn Phật,
Nguyệt Quang Phật,
Chiên Đàn Hương Phật, Thiện
Sơn Vương Phật,
Tu Di Thiên Quang Phật,
Tu Di Đẳng Diệu Phật, Nguyệt Sắc Phật,
Chánh Niệm Phật,
Ly Cấu Phật,
Vô Trước Phật,
Long Thiên Phật, Dạ Quang Phật,
An Minh Đảnh Phật,
Bất Động Địa Phật,
Lưu Ly Diệu Hoa Phật,
Lưu Ly Kim Sắc Phật,
Kim Tạng Phật, Viêm Quang Phật, Viêm Căn Phật,
Địa Chủng Phật, Nguyệt
Tượng Phật, Nhật AÂm Phật,
Giải Thoát Hoa Phật,
Trang Nghiêm Quang Minh Phật, Hải Giác
Thần Thông Phật, Thủy Quang Phật,
Đại Hương Phật, Ly
Trần Cấu Phật, Xả Yểm Ý Phật, Bửu Viêm Phật, Diệu Đảnh Phật, Dũng Lập Phật,
Công Đức Trì Huệ Phật, Tỳ Nhựt Nguyệt Phật,
Vô Thượng Lưu Ly Quang Phật,
Tối Thượng Thủ Phật,
Bồ Đề Hoa Phật,
Nguyệt Minh Phật, Nhựt Quang Phật, Hoa Sắc Hương Phật,
Thủy Nguyệt Quang Phật, Trừ Si Minh Phật, Độ Cái Hạnh Phật,
Tịnh tín Phật,
Thiện Tú Phật,
Oai Thần Phật, Pháp Huệ Phật, Loan AÂm Phật,
Sư Tử AÂm Phật, Long AÂm Phật, Xử Thế Phật, Chư Phật như vậy
kế tiếp nhau
xuất hiện ra đời.
Kế đó có
đức Phật hiệu là
Thế Tự Tại Vương Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn.
Lúc đó có
Quốc Vương nghe
đức Phật thuyết pháp lòng rất vui đẹp
phát tâm Vô thượng Bồ đề,
từ bỏ ngôi vua
xuất gia làm
Tỳ Kheo hiệu là
Pháp Tạng, đến chỗ
đức Phật Thế Tự Tại Vương, cúi lạy chơn
đức Phật, đi quanh bên hữu ba vòng, quỳ dài
chắp tay nói
kệ tụng khen rằng:
Sắc diện Phật
rực rỡOai Thần Phật
vô cựcÁnh sáng chói như vậy
Không ai
sánh bằng Phật
Mặt nhựt và mặt nguyệt
Cùng
ma ni bửu châu
Ánh sáng bị
che lấpChẳng khác gì đống mực
Dung nhan của
Như LaiThế gian không ai sánh
Viên âm của
Như LaiVang khắp đến
mười phươngGiới,
đa văn,
tinh tiếnTam muội và
trí huệOai đức không ai sánh
Rất
thù thắng hy hữuĐế lý sâu, niệm lành
Pháp hải của chư Phật
Đã
cùng tận thâm áoTột bờ và suốt đáy
Vô minh và tham sân
Thế Tôn đã không hẳn
Đấng nhơn hùng
sư tửThần đức không thể lường
Công huân Phật rộng lớn
Trí huệ sâu
vi diệuQuang minh tướng
oai nghiChấn động cõi
Đại ThiênNguyện tôi lúc
làm PhậtBằng với
đấng Pháp VươngVượt khỏi dòng
sanh tửKhông gì chẳng
giải thoátBố thí và
trì giớiNhẫn nhục và
tinh tiếnThiền định các
tam muộiTrí huệ là trên hết
Tôi thề được
làm PhậtLàm khắp hết nguyện nầy
Tất cả sự
khủng bốTôi sẽ làm
an ổnGiả sử có chư Phật
Số trăm ngàn muôn ức
Vô lượng đấng
đại ThánhNhư
số cát sông HằngDầu
cúng dường tất cả
Chư
Phật Thế Tôn ấy
Vẫn chẳng bằng
cầu đạoTâm
vững chắc chẳng bỏ
Thí như
hằng hà saThế giới của chư Phật
Lại có bất khả kể
Vô số những
quốc độQuang minh đều chiếu đến
Khấp hết những cõi ấy
Siêng
tinh tấn như vậy
Sức
oai thần khó lường
Nếu lúc tôi
làm PhậtCõi nước tôi
đệ nhứtRất nhiều thứ
kỳ diệuĐạo tràng rất siêu tuyệt
Cõi nước như
Niết bànKhông cõi nào
sánh bằngTôi sẽ luôn
thương nhớĐộ tất cả
chúng sanhNgười
mười phương sanh về
Lòng
vui mừng thanh tịnhĐã về đến nước tôi
Đều
sung sướng an ổnTrông mong Phật
chứng minhCho tôi được
thành tựuDo sức muốn
tinh tiếnTôi
phát nguyện như trên
Mười phương chư
Thế TônTrí huệ lớn
vô ngạiKhiến cho
Thế Tôn nầy
Biết
tâm niệm của tôi
Giả sử thân tôi ở
Trong những chốn khốn khổ
Tôi
tinh tiến hành đạoChịu đựng chẳng
hối tiếc.
Nầy A Nan!
Tỳ Kheo Pháp Tạng nói
kệ tụng xong bạch
đức Phật Thế Tự Tại Vương rằng:
Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã
phát tâm Vô thượng Chánh giác, xin
đức Thế Tôn rộng tuyên
kinh pháp cho. Tôi sẽ
tu hành nhiếp lấy
Phật quốc thanh tịnh vô lượng trang nghiêm. Khiến tôi mau thành bực
Chánh giác nhổ hết gốc rễ
sanh tử khổ lụy.
Thế Tự Tại Vương Như Lai nói với
Pháp Tạng Tỳ Kheo rằng:
Công hạnh tu hành
trang nghiêm Phật độ, ông tự biết lấy.
Tỳ Kheo Pháp Tạng thưa:
Bạch đức Thế Tôn! Nghĩa ấy
sâu rộng chẳng phải
cảnh giới của tôi. Ngưỡng mong
đức Thế Tôn chỉ dạy
công hạnh Tịnh độ của
chư Phật Như Lai. Tôi được nghe rồi sẽ
y theo tu hành để
hoàn thành sở nguyện.
Lúc ấy đức Phật Thế Tự Tại Vương biết
Tỳ Kheo Pháp Tạng cao minh chí nguyện sâu rộng liền giảng dạy rằng:
Ví như biển cả kia, có một người lấy đấu múc nước
trải qua kiếp số còn có thể cạn đến đáy được
châu báu vi diệu. Có người
chí tâm tinh tiến cầu đạo chẳng thôi, tất sẽ kết quả, có nguyện gì mà chẳng được thành.
Rồi đức
Thế Tự Tại Vương Phật nói rộng hai trăm mười ức
quốc độ chư Phật, những là sự
thiện ác của hàng thiên nhơn, những sự xấu tốt của cõi nước, và ứng theo
tâm nguyện của
Tỳ Kheo Pháp Tạng mà hiện rõ ra cho thấy cả.
Nghe và thấy các
quốc độ nghiêm tịnh,
Tỳ Kheo Pháp Tạng phát khởi thệ nguyện thù thắng vô thượng, tâm Ngài
tịch tịnh, trí Ngài rỗng rang, tất cả
thế gian không có ai bằng. Trọn đủ năm kiếp, Ngài
suy xét nhiếp lấy
công hạnh trang nghiêm thanh tịnh nước Phật”.
Ngài
A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người
cõi Phật xưa ấy
thọ mạng bao lâu?”.
Đức Phật nói: “Nầy A Nan!
Đức Phật Thế Tự Tại Vương thọ mạng bốn mươi hai kiếp.
Thuở ấy,
Tỷ Kheo Pháp Tạng nhiếp lấy
công hạnh thanh tịnh trang nghiêm hai trăm mười ức nước Phật và
tu tập xong, Ngài đến trước đức
Thế Tự Tại Vương Như Lai cúi lạy
chơn Phật, đi quanh bên hữu ba vòng
chắp tay đứng lại bạch rằng:
Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã nhiếp lấy
công hạnh trang nghiêm thanh tịnh nước Phật.
Đức
Thế Tự Tại Vương Như Lai nói:
Nay ông nên trình bày, phải biết là
đúng lúc, để
phát khởi và làm vui đẹp tất cả
đại chúng.
Bồ Tát tu hành pháp ấy thì sẽ đầy đủ
vô lượng đại nguyện.
Tỳ Kheo Pháp Tạng thưa:
Bạch Đức Thế Tôn! Mong được xét soi, tôi sẽ trình rõ những điều nguyện mà tôi đã phát.
1.
Giả sử khi tôi
thành Phật, nước tôi còn có
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
2.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sau khi
mạng chung còn
trở lại ba
ác đạo thì tôi chẳng lấy ngôi chán giác.
3.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều thân màu
vàng ròng thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
4.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi
sắc thân chẳng đồng có kẻ
xấu người đẹp thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
5.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng biết
túc mạng,
tối thiểu là biết sự việc trong trăm ngàn ức
na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
6.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được
thiên nhãn,
tối thiểu là thấy trăm ngàn ức
na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
7.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được
thiên nhĩ,
tối thiểu là
nghe lời thuyết pháp của trăm ngàn ức
na do tha chư Phật và chẳng
thọ trì hết, thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
8.Giả sư khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được
tha tâm trí,
tối thiểu là biết
tâm niệm của
chúng sanh trong trăm ngàn ức
na do tha cõi nước, thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
9.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được
thần túc,
tối thiểu là khoảng một niệm qua đến trăm ngàn ức
na do tha nước Phật thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
10.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi nếu sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp
thân thể thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
11.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn ở nước tôi, chẳng an
trụ định tụ quyết đến
diệt độ thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
12.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
quang minh có hạn lượng,
tối thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức
na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
13.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
thọ mạng có hạn lượng,
tối thiểu là trăm ngàn ức
na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
14.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng
Thanh Văn trong nước tôi mà có người tính đếm được, nhẫn đến
chúng sanh trong cõi
Đại Thiên đều thành bực
Duyên Giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết được số lượng ấy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
15.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi
thọ mạng không ai hạn lượng được, trừ họ có bổn nguyện dài ngắn
tự tại. Nếu chẳng như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
16.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi mà cón nghe danh từ
bất thiện thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
17.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều
ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
18.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
chúng sanh ở
mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm,
nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
19.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
chúng sanh ở
mười phương phát tâm Bồ đề tâm, tu các
công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi. Lúc họ
mạng chung, tôi và
đại chúng vây quanh
hiện ra trước mặt họ.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
20.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
chúng sanh ở
mười phương nghe
danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội
công đức,
chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi mà chẳng được
toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
21.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều đầy đủ ba mươi hai
tướng đại nhơn thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
22.
Giả sử khi tôi
thành Phật, chúng
Bồ Tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi
rốt ráo tất cả đến bực nhứt sanh
bổ xứ. Trừ người có
bổn nguyện tự tại
hóa độ, vì
chúng sanh mà mặc giáp
hoằng thệ chứa
công đức độ tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh
Bồ Tát,
cúng dường chư Phật mười phương,
khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ đứng nơi đạo chánh chơn
vô thượng, vượt hơn
công hạnh của hạng tầm thường,
hiện tiền tu công đức Phổ Hiền.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
23.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
Bồ Tát trong nước tôi thừa
thần lực Phật đi
cúng dường chư Phật, khoảng
bữa ăn nếu không đến khắp
vô số vô lượng ức
na do tha cõi nước thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
24.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
Bồ Tát trong nước tôi ở trước chư
Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để
cúng dường không có đủ theo
ý muốn thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
25.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
Bồ Tát trong nước tôi chẳng thể diễn nói
nhứt thiết trí thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
26.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
Bồ Tát trong nước tôi chẳng được thân
Kim Cương Na la diên thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
27.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn và tất cả
vạn vật trong nước tôi
trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ
hình sắc đặc biệt lạ lùng vi tột
diệu không ai lường biết được, dầu là có
thiên nhãn mà
biện biệt được danh số ấy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
28.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
Bồ Tát trong nước tôi, nhẫn đến người
công đức ít nhứt mà chẳng thấy biết
đạo tràng thọ màu sáng
vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
29.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
Bồ Tát trong nước tôi nếu
đọc tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được
trí huệ biện tài thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
30.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
trí huệ biện tài của
Bồ tát trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
31.
Giả sử khi tôi
thành Phật, nước tôi
thanh tịnh soi thấy tất cả
vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật mười phương, như
gương sáng soi
hiện hình gương mặt,
nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
32.
Giả sử khi tôi
thành Phật, từ mặt đất lên đến
hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả
vạn vật trong nước tôi đều dùng
vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hương hiệp lại làm thành
xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng thiên nhơn. Hương ấy xông khắp
vô lượng thế giới mười phương.
Bồ Tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
33.
Giả sử khi tôi
thành Phật, những loài
chúng sanh của
vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương, được
quang minh tôi chiếu đến thân, thân họ
nhu nhuyến hơn hẳn hàng thiên nhơn.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
34.
Giả sử khi tôi
thành Phật, những loài
chúng sanh của
vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe
danh hiệu tôi mà chẳng được
Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn các thâm
tổng trì thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
35.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng nữ nhơn của
vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe
danh hiệu tôi
vui mừng tin ưa
phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu
sau khi chết mà họ còn
sanh thân người nữ lại thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
36.
Giả sử khi tôi
thành Phật, chúng
Bồ Tát trong
vô lượng bất tư nghì
thế giới mười phương thế giới nghe
danh hiệu tôi sau khi
thọ chung thường tu
phạm hạnh đến
thành Phật đạo.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
37.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn trong
vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe
danh hiệu tôi rồi
năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy
vui mừng tin ưa tu hạnh
Bồ Tát thì được
chư Thiên và người đời đều
kính trọng.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
38.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi muốn được
y phục liền tùy nguyện hiện đến,
y phục đẹp đúng
pháp như Phật khen ngợ
tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
39.
Giả sử khi tôi
thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực
lậu tận Tỳ Kheo thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
40.
Giả sử khi tôi
thành Phật,
Bồ Tát nước tôi
tùy ý muốn thấy
vô lượng nước Phật
trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì liền được
toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những cây báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong
gương sáng.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
41.
Giả sử khi tôi
thành Phật, chúng
Bồ Tát ở
quốc độ phương khác nghe
danh hiệu tôi, từ đó đến lúc
thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
42.
Giả sử khi tôi
thành Phật, chúng
Bồ Tát ở
quốc độ phương khác nghe
danh hiệu tôi thảy đều chứng được
thanh tịnh giải thoát tam muội, khoảng một lúc
phát ý,
cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư
Phật Thế Tôn, mà không mất tâm
chánh định.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
43.
Giả sử khi tôi
thành Phật, chúng
Bồ Tát ở
quốc độ phương khác nghe
danh hiệu tôi, sau lúc
thọ chung sanh nhà tôn quý.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
44.
Giả sử khi tôi
thành Phật, chúng
Bồ Tát ở
quốc độ phương khác nghe
danh hiệu tôi
vui mừng hớn hở tu hạnh
Bồ Tát đầy đủ cội
công đức.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
45.
Giả sử khi tôi
thành Phật, chúng
Bồ Tát ở
quốc độ phương khác nghe
danh hiệu tôi thảy đều chứng được
phổ đẳng tam muội, an trụ trong
tam muội nầy đến lúc
thành Phật thường thấy
vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
46.
Giả sử khi tôi
thành Phật, chúng
Bồ Tát ở trong nước tôi tùy
chí nguyện của mỗi người muốn được
nghe pháp liền
tự nhiên được nghe.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
47.
Giả sử khi tôi
thành Phật, chúng
Bồ Tát ở
quốc độ phương khác nghe
danh hiệu tôi mà chẳng liền được đến bực
bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
48.
Giả sử khi tôi
thành Phật, chúng
Bồ Tát ở
quốc độ phương khác nghe
danh hiệu tôi mà chẳng liền được
đệ nhứt nhẫn, đệ
nhị nhẫn và đệ
tam pháp nhẫn, nơi các
Phật pháp chẳng liền được bực
bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
Tuyên bốn mươi tám
đại nguyện ấy xong,
Tỳ Kheo Pháp Tạng nói
kệ tụng rằng:
Tôi lập nguyện hơn đời
Tất đến đạo
vô thượngNguyện nầy chẳng đầy đủ
Thề chẳng
thành chánh giácTôi ở
vô lượng kiếpChẳng làm
đại thí chủCứu khắp kẻ
nghèo khổThề chẳng
thành chánh giácTôi đến lúc
thành PhậtDanh tiếng siêu
mười phươngTrọn có người chẳng nghe
Thề chẳng
thành chánh giácLy dục,
chánh niệm sâu
Tịnh huệ, tu
phạm hạnhChí
cầu đạo vô thượngLàm thầy hàng trời người
Thần lực phóng quang minh
Chiếu khắp
vô biên cõi
Tiêu trừ tối
phiền nãoCứu thoát những ách nạn
Khai mắt
trí huệ kia
Trừ tối
mù lòa nầy
Đóng bít các
ác đạoThông đạt cửa
thiện đạoCông đức thành đầy đủ
Oai sáng chói
mười phươngSáng hơn mặt nhựt nguyệt
Thiên quang bị khuất lấp
Vì chúng
khai pháp tạng
Rộng ban báu
công đứcThường ở trong
đại chúngThuyết pháp sư tử rống
Cúng dường tất cả Phật
Đầy đủ những
công đứcNguyện, huệ đều
viên mãnĐược làm bực
Thế TônNhư Phật
vô ngại tríThông đạt chiếu tất cả
Nguyện
công đức của tôi
Bằng
Tối Thắng Tôn nầy
Nguyện đây nếu quả toại
Đại Thiên nên
cảm độngChư Thiên Thần trên không
Sẽ mua hoa báu đẹp.
Tỳ Kheo Pháp Tạng nói kệ xong, khắp mặt
đất liền chấn động sáu cách. Trời mưa hoa đẹp rải trên mình Ngài. AÂm nhạc
tự nhiên trên
hư không khen rằng:
Quyết định chắc thành
Vô thượng Chánh giác.
Từ đó
Tỳ Kheo Pháp Tạng tu tập đầy đủ những
đại nguyện ấy chắc thiệt chẳng luống vượt khỏi
thế gian.
Nầy A Nan!
Tỳ Kheo Pháp Tạng ở chỗ
đức Phật Thế Tự Tại Vương và giữa
đại chúng,
chư Thiên, Ma, Phạm,
Long Thần Bát Bộ mà phát
hoằng thệ ấy. Sau khi
lập thệ rồi, Ngài chuyên chí
trang nghiêm tịnh độ tốt đẹp rộng lớn
thù thắng hơn cả, không suy không
biến đổi. Trong
thời gian bất khả tư nghị triệu tải kiếp lâu xa, Ngài tích chứa
vô lượng đức hạnh Bồ Tát, chẳng sanh
dục giác,
sân giác,
hại giác, chẳng khởi
dục tưởng, sân tưởng,
hại tưởng, chẳng trước sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp,
thành tựu nhẫn lục chẳng kể những sự khổ,
thiểu dục tri túc không có
tham sân si,
chánh định thường
vắng lặng,
trí huệ vô ngại, không có tâm
hư ngụy siểm khúc, hòa nhan
ái ngữ hỏi thăm trước,
dũng mãnh tinh tiến chí nguyện không mỏi nhàm chuyên cầu lấy pháp
thanh bạch, đem
ân huệ ban cho quần sanh được
lợi ích, dùng
đại trang nghiêm đầy đủ những
công hạnh, khiến các
chúng sanh thành tựu công đức, an trụ nơi
pháp không vô tướng vô nguyện vô tác vô khởi, quán các
pháp như huyễn
như hóa, rời xa lời thô ác hại mình hại người, mình người đồng hại,
tu tập lời lành lợi mình lợi người, mình người đồng lợi, bỏ nước thôi vu dứt bỏ
tài sắc, tự làm sáu môn
Ba la mật cũng dạy người cùng làm, trong
vô ương số kiếp tích công chứa đức, tùy sanh ở chỗ nào theo
ý muốn, có
vô lượng kho báu
tự nhiên phát hiện,
giáo hóa an lập vô số chúng sanh an trụ nơi đạo
Vô thượng Chánh giác, hoặc làm
trưởng giả cư sĩ họ quý dòng sang, hoặc làm
Quốc Vương Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc làm
Thiên Vương ở sáu
cõi trời Dục giới nhẫn đến làm
Phạm Vương, thường đem
tứ sự cúng dường cung kính tất cả chư Phật,
Tỳ Kheo Pháp Tạng có những
công đức như vậy chẳng thể kể hết.
Miệng Ngài hơi thơm như
hoa sen xanh, lỗ lông trên thân tiết hơi thơm
chiên đàn, hơi thơm nầy xông khắp
vô lượng thế giới. Dung sắc Ngài đoan chánh đủ những tướng tốt. Tay Ngài thường xuất sanh những
châu báu vô tận, những là
y phục,
thức ăn uống, hoa báu đẹp, hương quý thơm,
bảo cái,
tràng phan những đồ
trang nghiêm. Những sự như vậy hơn hẳn hàng thiên nhơn, với tất cả pháp đều được tự tại”.
Ngài
A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Pháp Tạng Bồ Tát đã
thành Phật và
nhập diệt rồi hay hiện nay vẫn còn, hay là Ngài chưa thành Phật?”.
Đức Phật phán: “Nầy A Nan!
Pháp Tạng Bồ Tát đã
thành Phật, nay hiện ở tại
Tây phương cách đây mười muôn ức cõi, hiệu là
Vô Lượng Thọ.
Thế giới của Ngài tên là An Lạc”.
Ngài
A Nan lại thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật ấy
thành đạo đến nay đã được bao lâu?”.
Đức Phật phán: “Nầy A Nan! Ngài
thành Phật đến nay được mười kiếp.
Cõi nước của
đức Phật ấy,
tự nhiên thất bảo: vàng, bạc,
lưu ly,
san hô,
hổ phách,
xa cừ,
mã não hiệp làm thành đất rộng lớn vô hạn.
Bảy báu ấy
xen lẫn nhau
chói sáng đẹp lạ
trang nghiêm thanh tịnh hơn cả những
tinh túy châu bảo của tất cả
thế giới.
Thất bảo ấy như
thất bảo của cung trời thứ sáu.
Lại
quốc độ ấy không có
núi Tu Di, núi
Kim Cương, núi
Thiết Vi, tất cả các núi, cũng không có biển lớn, biển nhỏ, sông ngòi hang giếng. Do
thần lực của Phật, ai muốn thấy thì được thấy,
quốc độ ấy cũng không có
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh, không có bốn
mùa xuân hạ thu đông. Chẳng lạnh chẳng nóng, thường
ôn hòa điều thích”.
Ngài
A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu
quốc độ ấy không có
núi Tu Di, thì Trời
Tứ Thiên Vương và
Trời Đao Lợi ở nơi đâu?”.
Đức Phật phán: “Nầy A Nan! Trời
Dạ Ma thứ ba lên đến
Trời Sắc Cứu Cánh đều nương ở đâu?”.
Ngài
A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Hành nghiệp và
quả báo chẳng thể nghĩ bàn”.
Đức Phật phán: “Nầy A Nan!
Hành nghiệp và
quả báo chẳng thể nghĩ bàn,
thế giới của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Sức lành
công đức của
chúng sanh ấy ở đất hành nghiện nên được như vậy”.
Ngài
A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi vốn chẳng
nghi pháp ấy, chỉ vì
chúng sanh đời sau, muốn trừ lòng
nghi ngờ của họ nên tôi hỏi
đức Phật về nghĩa ấy”.
Đức Phật phán: “Nầy A Nan!
Đức Phật Vô Lượng Thọ oai thần quang minh tối tôn đệ nhất,
quang minh của chư Phật chẳng bằng.
Quang minh của Ngài hoặc chiếu trăm
thế giới, ngàn
thế giới, nhẫn chiếu đến chiếu suốt
hằng sa thế giới chư Phật ở phương Đông, chín phương kia cũng vậy. Còn chư Phật khác, hoặc có
Phật quang chiếu bảy thước, hoặc chiếu một
do tuần, hai ba bốn năm
do tuần, gấp bội như vậy
cho đến hoặc có
Phật quang chiếu một cõi nước Phật.
Vì thế nên
đức Phật Vô Lượng Thọ hiệu là
Vô Lượng Quang Phật,
Vô Biên Quang Phật,
Vô Ngại Quang Phật,
Vô Đối Quang Phật, Viêm Vương Ngại Quang Phật,
Thanh Tịnh Quang Phật,
Hoan Hỉ Quang Phật,
Trí Huệ Quang Phật,
Bất Đoạn Quang Phật,
Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật và Siêu Nhựt
Nguyệt Quang Phật.
Có
chúng sanh nào gặp được
quang minh ấy thì
tiêu trừ tham sân si, thân ý
nhu nhuyến, hớn hở
vui mừng tâm lành phát sanh.
Nếu là kẻ ở
tam đồ chỗ rất khổ thấy được
quang minh ấy thì khổ sở thôi dứt không còn, sau khi
mạng chung đều được
thoát khỏi.
Quang minh của
đức Phật Vô Lượng Thọ sáng rỡ chiếu đến
quốc độ của
chư Phật mười phương, không cõi nước nào chẳng chiếu thấu. Chẳng riêng gì ta hôm nay khen
quang minh của Ngài, mà tất cả chư Phật, chúng
Bồ Tát,
Thanh Văn và
Duyên Giác đều cũng
ca ngợi như vậy.
Nếu có
chúng sanh nào nghe
oai thần công đức của
quang minh Phật Vô Lượng Thọ rồi ngày đêm khen nói
chí tâm chẳng ngớt, thì
tùy ý họ muốn được sanh về
quốc độ của
đức Phật ấy, được chúng
Bồ Tát,
Thanh Văn đồng khen ngợi
công đức của họ, đến lúc
tối hậu, khi họ
thành Phật,
Bồ Tát khen
quang minh của họ cũng như vậy.
Đức Phật phán tiếp: “Ta nói
oai thần quang minh vòi vọi kỳ diệu của
đức Phật Vô Lượng Thọ cả ngày đêm suốt một kiếp cũng chưa hết được.
Lại nầy A Nan!
Đức Phật Vô Lượng Thọ thọ mạng dài lâu chẳng nói kể được. Ông biết không,
giả sử vô lượng chúng sanh ở trong
thế giới mười phương đều được thân người và đều làm cho
thành tựu bực
Thanh Văn,
Duyên Giác đồng hội họp
thiền định nhứt tâm hết sức trí huệ của họ trải năm ngàn muôn kiếp cùng
suy tính số năm kiếp
thọ mạng dài lâu của
đức Phật ấy cũng chẳng biết
cùng tận được.
Chúng
Bồ Tát,
Thanh Văn và hàng thiên nhơn ở
quốc độ An Lạc ấy
thọ mạng dài lâu cũng như vậy, chẳng phải tính đếm hay dùng
thí dụ mà biết được.
Chúng
Thanh Văn và
Bồ Tát ở cõi ấy, số đông
vô lượng chẳng thể kể nói được.
Chúng Thánh ấy có
trí huệ thông đạt oai lực
tự tại, có thể trong bàn tay cầm lấy tất cả
thế giới.
Nầy A Nan!
Pháp hội ban sơ của đức
Vô Lượng Thọ Phật, chúng
Thanh Văn số đông chẳng nói kể được, chúng
Bồ Tát cũng vậy.
Như ông
Đại Mục Kiền Liên, trăm ngàn muôn ức
vô lượng vô số người, trong
thời gian vô sô
na do tha kiếp mãi đến
diệt độ, cùng nhau đồng tính kể, vẫn chẳng thể biết rõ số ấy nhiều ít.
Ví như biển lớn
sâu rộng vô lượng,
giả sử có người chia một sợi lông ra làm trăm phần, lấy một phần lông ấy chấm lấy một giọt nước.
Nầy A Nan! Ý ông nghĩ sao? Giọt nước được chấm lấy ấy sánh với biển lớn kia thì thế nào?”.
- Bạch đức Thế Tôn! Giọt nước được chấm lấy ấy đem sánh nhiều ít với
dung lượng của biển lớn kia, thì chẳng phải tính đếm
ngôn từ hay
thí dụ mà biết được.
- Nầy A Nan! Như số người
Đại Mục Kiền Liên, trong trăm ngàn muôn ức
na do tha kiếp hội
ban sơ kia, số được biết như giọt nước, còn số chẳng biết như nước biển lớn.
Lại nầy A Nan! Trong cõi nước
An Lạc, những cây
bảy báu đầy khắp cả nước: những cây vàng, cây bạc, cây
lưu ly, cây
pha lê, cây
san hô, cây
mã não, cây
xa cừ. Hoặc có những cây hai thứ báu, ba thứ báu, nhẫn đến bảy thứ báu hiệp chung làm thành.
Hoặc có cây vàng, lá bông và trái bạc. Hoặc có cây bạc, lá bông và trái vàng. Hoặc có cây
lưu ly, lá bông và trái
pha lê. Hoặc có cây
thủy tinh, lá bông và trái
lưu ly. Hoặc có cây
san hô, lá bông và trái
mã não. Hoặc có cây
mã não, lá bông và trái
lưu ly. Hoặc có cây
xa cừ, lá bông và trái bằng các báu khác. Hoặc có cây báu: gốc tử kim, thân bạch ngân, nhánh
lưu ly, cành
thủy tinh, lá
san hô, bông
mã não, trái
xa cừ. Hoặc có cây báu: gốc bạch ngân, thân
lưu ly, nhánh
thủy tinh, cành
san hô, lá
mã não, bông
xa cừ, trái tử kim. Hoặc có cây báu: gốc
lưu ly, thân
thủy tinh, nhánh
san hô, cành
mã não, lá
xa cừ, bông tử kim, trái bạch ngân. Hoặc có cây báu: gốc
thủy tinh, thân
san hô, nhánh
mã não, cành
xa cừ, lá tử kim, bông bạch ngân, trái
lưu ly. Hoặc có cây báu: gốc
san hô, thân
mã não, nhánh
xa cừ, cành tử kim, lá bạch ngân, bông
lưu ly, trái
thủy tinh. Hoặc có cây báu: gốc
mã não,
thân xa cừ, nhánh tử kim, cành bạch ngân, lá
lưu ly, bông
thủy tinh, trái
san hô. Hoặc có cây báu: gốc
xa cừ, thân tử kim, nhánh bạch ngân, cành
lưu ly, lá
thủy tinh, bông
san hô, trái
mã não. Những cây báu ấy, hàng hàng
gặp nhau, thân thân trông nhau, nhánh nhánh chuẩn nhau, lá lá hướng nhau, bông bông thuận nhau, trái trái tương đương, màu sắc
xinh đẹp chói sáng chẳng thể nhìn thấy xiết hết được. Gió mát luôn thổi đến phát ra năm
âm thanh cung thương
vi diệu tự nhiên hòa nhau.
Lại còn cây
đạo tràng của đức
Vô Lượng Thọ Phật cao bốn trăm vạn dặm. Gốc cây
đạo tràng ấy chu vi năm ngàn
do tuần, nhánh lá rợp bốn phía hai mươi vạn dặm. Cây ấy do tất cả những thứ báu
tự nhiên hiệp thành,
trang nghiêm với vua
châu báu,
nguyệt quang ma ni trì hải
luân bảo. Quanh khắp trong các cành cây, thòng rũ những
chuỗi ngọc trăm ngàn muôn màu biến dị nhiều cách,
vô lượng quang minh chiếu sáng
vô lượng. Lưới báu trân diệu giăng che trên cây. Tất cả sự
trang nghiêm theo
đúng lúc mà hiện. Gió nhẹ hơi động thổi qua các cây báu diễn xuất
vô lượng âm thanh nói pháp
vi diệu,
âm thanh ấy vang đến khắp
quốc độ của chư Phật. Ai tai nghe
âm thanh ấy thì được
thâm pháp nhẫn trụ bực
bất thối chuyển đến
thành Phật đạo,
nhĩ căn trong suốt chẳng bị
bệnh khổ. Ai mắt thấy, mũi biết, lưỡi hay, thân chạm, tâm rõ
âm thanh quang minh ấy thì đều được
thâm pháp nhẫn trụ bực
bất thối chuyển đến
thành Phật đạo, sáu căn
trong suốt không có những
bệnh khổ.
Nầy A Nan! Nếu hàng thiên nhơn ở nước
An Lạc thấy cây
đạo tràng ấy thì được ba
pháp nhẫn: một là
âm hưởng nhẫn, hai là
nhu thuận nhẫn, ba là
vô sanh pháp nhẫn.
Những sự ấy là đều do sức
oai thần của đức
Vô Lượng Thọ Phật, cũng là do sức bổn nguyện, sức nguyện đầy đủ, sức nguyện
sáng tỏ, sức nguyện
kiên cố rốt ráo của đức
Vô Lượng Thọ Phật vậy.
Nầy A Nan! Đế Vương
trong đời có trăm ngàn
âm nhạc, từ
Chuyển Luân Thánh Vương nhẫn đến
cõi trời thứ sáu Đại Tự Tại Thiên,
âm nhạc tuần tự hơn nhau ngàn ức muôn lần.
Muôn thứ
âm nhạc trên Trời Đại Tự Tại chẳng bằng một thứ
âm thanh nơi những cây
bảy báu ở nước
An Lạc của đức
Vô Lượng Thọ Phật,
âm thanh nầy còn hơn ngàn ức lần.
Cõi nước
An Lạc cũng có muôn thứ
tự nhiên âm nhạc. Tiếng nhạc ấy không tiếng nào chẳng phải là tiếng pháp
trong trẻo rõ ràng vi diệu hòa nhã, là
đệ nhứt trong những
âm thanh ở các
thế giới mười phương.
Ở nước
An Lạc, những
giảng đường,
tinh xá, cung điện, lâu đài đều toàn
bảy báu trang nghiêm tự nhiên
hóa thành. Lại còn có chơn châu,
minh nguyệt châu,
châu ma ni, và các
châu báu làm thành dây hoa giăng che phía trên nhà.
Bốn phía nhà có những ao tắm bằng
bảy báu hoặc rộng mười
do tuần hoặc rộng hai mươi, ba mươi, nhẫn đến hoặc rộng trăm ngàn
do tuần, ngang rộng sâu cạn đều riêng một thứ. Trong ao, nước bát
công đức lặng đầy trong thơm,
mùi vị như
cam lộ.
Ao
hoàng kim thì đáy trải cát bạch ngân.
Ao bạch ngân thì đáy trải cát
hoàng kim.
Ao
thủy tinh thì đáy trải cát
lưu ly.
Ao
lưu ly thì đáy trải cát
thủy tinh.
Ao
san hô thì đáy trải cát
hổ phách.
Ao
hổ phách thì đáy trải cát
san hô.
Ao
xa cừ thì đáy trải cát
mã não.
Ao
mã não thì đáy trải cát
xa cừ.
Ao
bạch ngọc thì đáy trải cát tử kim.
Ao tử kim thì đáy trải cát
bạch ngọc.
Hoặc có ao hai báu, ba báu, nhẫn đến hoặc có
ao bảy báu chuyển đổi hiệp thành.
Trên bờ những ao tắm ấy, có cây
chiên đàn hoa lá rũ rợp
mùi thơm khắp nơi.
Những
hoa sen xanh, những
hoa sen vàng,
hoa sen đỏ,
hoa sen trắng cõi trời màu nào ánh sáng màu ấy đẹp sáng che trên mặt nước.
Chúng
Bồ Tát,
Thanh Văn và trời, người nước ấy lúc vào ao báu, nếu
ý muốn nước ngập bàn chân, thì nước ngập bàn chân,
ý muốn nước ngập gối thì nước ngập gối,
ý muốn nước đến lưng thì nước đến lưng,
ý muốn nước đến cổ thì nước đến cổ,
ý muốn nước xối trên thân thì nước liền
tự nhiên xối trên thân,
ý muốn nước
trở lại như cũ thì nước
trở lại như cũ, điều hòa ấm mát
tự nhiên theo đúng
ý muốn của người tắm. Tắm xong,
thân thể thơ thới,
tinh thần cởi mở,
phiền não tiêu trừ trong sạch sáng suốt nhẹ nhàng như là không có thân.
Các báu ở đáy ao chói suốt sâu bao nhiêu cũng chiếu thấu lên trên.
Sóng gợn lăn tăn
an tường lan đi chẫm rãi không mau không chậm,
tự nhiên vang lên
vô lượng âm thanh vi diệu,
tùy theo người đáng nên nghe thế nào thì đều được nghe:
Hoặc nghe tiếng
niệm Phật, hoặc nghe tiếng
diệu pháp, hoặc nghe tiếng
ca ngợi Bồ Tát Tỳ Kheo Tăng, hoặc nghe tiếng
tịch tịnh, hoặc nghe tiếng
không vô ngã, hoặc nghe tiếng
đại từ bi, hoặc nghe tiếng
Ba la mật, tiếng
thập lực, tiếng
vô úy, tiếng pháp
bất cộng, tiếng
thần thông, tiếng
trí huệ, tiếng
vô sở tác, tiếng
bất sanh bất diệt, tiếng
vô sanh nhẫn,
cho đến tiếng
cam lộ quán đảnh, và những tiếng
diệu pháp khác.
Những
âm thanh như vậy đến xứng theo ý người nghe làm cho
vui mừng vô lượng,
thuận theo nghĩa
ly dục thanh tịnh chơn thiệt
tịch diệt,
thuận theo Tam bảo, lực,
vô úy, pháp
bất cộng,
thuận theo đạo sở hành của các bực
Bồ Tát,
Thanh Văn.
Nước
An Lạc ấy không có tên
tam đồ khổ nạn, chỉ có
âm thanh vui thích tự nhiên, vì thế nên nước ấy được tên là
An Lạc.
Nầy A Nan! Nơi
quốc độ An Lạc của đức
Vô Lượng Thọ Phật, những người sanh về đó có đủ
sắc thân thanh tịnh, các
âm thanh vi diệu,
thần thông công đức như vậy. Cung điện của họ ở, những thứ
y phục, uống ăn, hoa hương và đồ
trang nghiêm đều như là những vật ở cung Trời
Đại Tự Tại thứ sáu.
Người nước ấy muốn ăn, chén bát
bảy báu tự nhiên hiện ra, những là chén bát bằng vàng, bạc,
lưu ly,
xa cừ,
mã não,
san hô,
hổ phách,
minh nguyệt, chơn châu đều theo đúng
ý muốn mà hiện đến,
thức uống ăn trăm vị thơm ngon
tự nhiên đầy trong chén bát ấy.
Dầu cho những
thức uống ăn như
vậy mà không có ai ăn. Chỉ thấy sắc ngửi mùi ý cho là ăn thì liền
tự nhiên no đủ,
thân tâm nhu nhuyến không hề
tham luyến. Xong rồi tất cả biến mất, đến giờ lại
hiện ra.
Nầy A Nan! Cõi nước của
đức Phật ấy
thanh tịnh an ổn khoái lạc
vi diệu kế đạo vô vi Niết bàn.
Trời, người,
Thanh Văn và
Bồ Tát ở nước ấy
trí huệ cao minh,
thần thông tự tại, đều đồng một
thân hình như nhau không có tướng khác lạ, chỉ vì
thuận theo các nước phương khác mà có tên là trời, người.
Dung mạo của người nước ấy đoan chánh hơn hẳn
thế gian,
nhan sắc vi diệu chẳng phải trời, chẳng phải người, đều bẩm thọ
thân hình tự nhiên hư vô tột bực.
Nầy A Nan! Như ở
thế gian nầy, người
ăn mày nghèo cùng tật nguyền đứng cạnh Đế Vương, hình trạng
dung mạo của họ có giống nhau không?
- Bạch đức Thế Tôn! Người
ăn mày ấy đứng bên Đế Vương thì
xấu xí trăm ngàn muôn ức lần không gì ví dụ được. Tại sao vậy? Vì người
ăn mày nghèo cùng rất ty tiện, áo chẳng che được thân, ăn chẳng no được bụng, đói lạnh khốn khổ mất cả sanh lý. Đó là do đời trước họ chẳng trồng cội đức, giữ của chẳng
bố thí, càng giàu càng bỏn sẻn, chỉ muốn được không, tham cầu không chán, chẳng tin làm lành, phạm nhiều sự ác chứa bằng núi.
Sau khi chết,
tài sản tiêu tán.
Cả đời khổ thân chứa nhóm rồi vì của mà rầu lo. Với mình
vô ích, luống làm
sở hữu cho kẻ khác. Không điều lành để nhờ, không
phước đức đê nương. Vì thế nên
sau khi chết đọa vào
ác đạo mãi mãi chịu khổ. Hết tội được sanh ra làm người hạ tiện
ngu si xấu xí.
Còn Đế Vương tôn quý trong
loài người là do đời trước làm
phước đức mà được: thương người
bố thí, nhơn ái giúp đỡ,
chánh tín làm lành không gây tội làm hại. Vì thế nên
sau khi chết do
phước đức mà họ được sanh lên trời hưởng nhiều
vui sướng. Nay họ sanh làm người ở ngôi vua chúa tôn quý, nghi dung đoan chánh được
mọi người kính trọng, mặc đẹp
ăn ngon,
tùy ý hưởng thọ. Vì
phước đức mà được như vậy.
- Nầy A Nan! Ông nói rất phải. Đế Vương ấy dầu tôn quý
xinh đẹp nhưng sánh với
Chuyển Luân Thánh Vương thì lại
xấu xí không khác gì người
ăn mày kia ở cạnh Đế Vương.
Chuyển Luân Thánh Vương nghi dung rất đẹp
đệ nhứt ở nhơn gian đem sánh với
Đao Lợi Thiên Vương thì lại kém hơn trăm ngàn vạn ức lần.
Đem thân
Thiên Đế sánh với thân
Đệ Lục Thiên Vương cũng lại thua cả vạn ức lần.
Đem thân
Đệ Lục Thiên Vương sánh với
thân hình xinh đẹp của người nước
An Lạc của đức
Vô Lượng Thọ Phật cũng lại không bằng, trăm ngàn muôn ức chẳng
thể tính kể được.
Nầy A Nan! Ở nước
An Lạc, trời người có những
y phục, uống ăn, hoa hương,
chuỗi ngọc, phan, lọng,
âm thanh vi diệu, cung điện, nhà cửa, lâu đài đều cân xứng theo
thân hình cao thấp lớn nhỏ của họ. Hoặc một báu, hai báu, nhẫn đến
vô lượng thứ báu
tùy theo ý họ muốn mà hiện đến.
Nước ấy lại có gấm lụa
vi diệu trải trên đất báu, trời người nước ấy đi trên đó.
Nước
An Lạc ấy được giăng che với
vô lượng màng lưới báu bằng chỉ vàng xỏ chơn châu và trăm ngàn thứ
châu báu trân diệu đẹp lạ
xen lẫn trang nghiêm. Bốn phía thòng rũ những cái linh báu. Màu sắc, ánh sáng rất mực nghiêm lệ.
Gió
công đức tự nhiên thổi động nhẹ.. Gió đó điều hòa, chẳng lạnh chẳng nóng, ấm mát
dịu dàng thổi đến màng lưới báu và những cây báu phát ra
vô lượng pháp âm vi diệu, thoảng phất muôn thứ hương thơm
công đức ấm áp. Ai được nghe thì
phiền não trần lao tự nhiên chẳng
phát khởi. Gió chạm đến thân thì đều được khoái lạc như
Tỳ Kheo nhập diệt tận định.
Lại gió thổi hoa rơi khắp
mọi nơi trong nước ấy, theo màu hoa có thứ lớp chẳng tạp loạn. Những hoa ấy mềm dịu
chói sáng hơi thơm ngào ngạt. Chân đi giẫm lên hoa lún xuống bốn tấc, vừa dở
chân hoa trở lại như cũ. Việc dùng của hoa đã xong, đất tự nứt ra, hoa theo đó ẩn mất sạch hết không còn sót.
Tùy theo thời tiết, gió thổi
rải hoa rơi trải mặt đất báu ngày đêm sáu lần như vậy.
Lại có những
hoa sen báu khắp cả nước ấy. Mỗi đóa
hoa sen báu có trăm ngàn ức cánh,
vô lượng màu sắc
chói sáng. Hoa sắc xanh ánh sáng xanh, hoa sắc trắng ánh sáng trắng, vành đỏ tím huyền, màu nào sáng ấy
rực rỡ hơn cả
mặt trời,
mặt trăng. Trong mỗi đóa
hoa sen phát ra ba mươi sáu trăm ngàn ức
tia sáng, trong mỗi
tia sáng hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức
Phật thân màu vàng tử kim đủ những tướng tốt. Mỗi
đức Phật lại phóng trăm ngàn ánh sáng khắp vì
mười phương mà nói pháp
vi diệu. Chư Phật ấy đều gầy dựng
vô lượng chúng sanh ở nơi
chánh đạo.
Nầy A Nan! Có
chúng sanh nào, sanh về cõi nước
An Lạc ấy thì đều ở bực
chánh định tụ cả.
Tại sao vậy?
Vì nước ấy không có hạng
tà tụ và
bất định tụ.
Hằng sa chư Phật Như Lai mười phương đồng khen ngợi
oai thần công đức bất khả tư nghị của đức
Vô Lượng Thọ Phật.
Có những
chúng sanh nghe
danh hiệu đức Phật ấy,
lòng tin vui mừng nhẫn đến phát một niệm
chí tâm hồi hướng nguyện cầu sanh về nước ấy, thì liền được
vãng sanh ở bực
bất thối chuyển, chỉ trừ kẻ
phạm tội ngũ nghịch và
phỉ báng chánh pháp.
Nầy A Nan!
Chúng sanh ở
mười phương, những người và
chư Thiên nguyện cầu sanh về nước
an lạc của đức
Vô Lượng Thọ Phật có ba hạng:
Hạng
thượng phẩm là những người
bỏ nhà lìa
ái dục mà làm
Sa Môn,
phát tâm Bồ đề, chuyên một mật niệm
Vô Lượng Thọ Phật, tu các
công đức, nguyện sanh về nước ấy. Lúc
chúng sanh nầy
lâm chung, đức
Vô Lượng Thọ Phật cùng hàng
Thánh chúng hiện ra trước người ấy, liền theo
đức Phật sanh về nước
An Lạc,
tự nhiên hóa sanh từ trong
hoa sen thất bảo, ở bực
bất thối chuyển,
trí huệ dũng mãnh,
thần thông tự tại.
Vì thế nên, nầy A Nan! Có ai muốn hiện đời được thấy đức
Vô Lượng Thọ Phật thì phải
phát tâm Vô thượng Bồ đề tu những
công đức nguyện sanh về nước
An Lạc.
Nầy A Nan! Hạng
trung phẩm là những người và
chư Thiên ở các
thế giới mười phương, có ai
chí tâm nguyện sanh về nước ấy, nhưng phải
phát tâm Vô thượng Bồ đề chuyên một mặt niệm
Vô Lượng Thọ Phật, làm lành hoặc ít hoặc nhiều,
giữ gìn giới
Bát quan trai,
xây dựng tháp tượng,
trai tăng, treo phan, thắp đèn,
rải hoa,
đốt hương, dùng đây để
hồi hướng nguyện sanh về nước
An Lạc. Lúc người nầy
lâm chung, đức
Vô Lượng Thọ Phật hóa hiện thân ra đủ tướng tốt và
quang minh như
chơn Phật cùng với
Thánh chúng đến trước người ấy, liền theo đức
Hóa Phật sanh về nước
An Lạc ở bực
bất thối chuyển.
Công đức trí huệ kế bực
thượng phẩm.
Nầy A Nan! Hạng
hạ phẩm là có những người và
chư Thiên ở các
thế giới mười phương chí tâm muốn sanh về nước
An Lạc,
giả sử chẳng làm được các
công đức, họ phải
phát tâm Vô thượng Bồ đề, một mặt
chuyên tâm niệm
Vô Lượng Thọ Phật cho đến mười niệm nguyện sanh nước
An Lạc, hoặc
nghe pháp Đại thừa vui mừng tin ưa chẳng
sanh nghi hoặc niệm
Vô Lượng Thọ Phật cho đến một niệm, dùng
tâm chí thành nguyện sanh nước
An Lạc. Người ấy lúc
lâm chung chiêm bao thấy đức
Vô Lượng Thọ Phật cũng được
vãng sanh,
công đức trí huệ kế
bực trung phẩm.
Nầy A Nan! Đức
Vô Lượng Thọ Phật oai thần vô cực.
Vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật Như Lai ở các
thế giới mười phương, không
đức Phật nào chẳng khen ngợi
Vô Lượng Thọ Phật.
Hằng hà sa Phật quốc ở phương Đông kia có
vô lượng vô biên chúng
Bồ Tát thảy đều đến chỗ đức
Vô Lượng Thọ Phật để
cung kính cúng dường đức Phật ấy và chúng
Bồ Tát,
Thanh Văn, rồi nghe thọ
kinh pháp tuyên bá
giáo hóa. Chín phương khác cũng như vậy”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói
kệ tụng rằng:
“Phương Đông các
Phật quốcSố nhiều như
hằng saChúng
Bồ Tát nước ấy
Đến lạy
Vô Lượng Phật
Ba phương và
bốn hướngThượng hạ cũng như vậy
Chúng
Bồ Tát nước ấy
Đến lạy
Vô Lượng Phật
Tất cả chúng
Bồ TátĐều mang hoa trời đẹp
Hương trời, y
vô giáCúng dường Vô Lượng Phật
Đều cùng tấu
nhạc trờiPhát ra tiếng
hòa nhãCa ngợi đấng
Tối ThắngCúng dường Vô Lượng Phật.
Thấu suốt
thần thông huệ
Chứng nhập thâm pháp mônĐầy đủ tạng
công đứcDiệu trí chẳng ai bằng
Huệ nhựt soi
thế gianTiêu trừ mây
sanh tửCung kính nhiễu ba vòng
Cúi lạy đấng
vô thượngThấy nước ấy
nghiêm tịnhVi diệu khó nghĩ bàn
Nên
phát tâm vô lượngNguyện nước tôi cũng vậy
Liền đó
vô lượng Phật
Hoan hỷ miệng
mỉm cườiMiệng phóng
vô số quang
Chiếu khắp
mười phương cõi
Quay về vòng quanh thân
Ba vòng vào đảnh Phật
Tất cả chúng trời, người
Đều
vui mừng hớn hở.
Quan Thế AÂm
Bồ TátChỉnh y cúi đầu hỏi
Cớ sao
đức Phật cười
Ngưỡng mong Phật nói ý?
Tiếng Phật như sấm động
Bát âm vang tiếng diệu
Sẽ
thọ ký Bồ TátÔng lắng nghe ta nói
Bồ Tát mười phương đến
Ta đều biết họ muốn
Nguyện cầu nước
nghiêm tịnhThọ ký sẽ
thành PhậtGiác ngộ tất cả pháp
Đường như mộng, ảo, vang
Đầy đủ những diệu nguyện
Tất thànb nước như vậy
Biết
pháp như điện, ảnh
Trọn vẹn đạo
Bồ TátĐủ các cội
công đứcThọ ký sẽ
thành PhậtThông đạt các
pháp tánhTất cả không,
vô ngãChuyên cầu nước Phật tịnh
Tất thành nước như vậy
Chư
Phật bảo Bồ TátPhải đến Phật
Vô LượngNghep pháp thích vâng làm
Mau được chỗ
thanh tịnhĐến nước
nghiêm tịnh ấy
Thì mau được
thần thôngỞ chỗ Phật
Vô LượngThọ ký thành chánh giácPhật ấy có bổn nguyện
Nghe danh muốn
vãng sanhĐều được sanh nước ấy
Ở bực
bất thối chuyểnBồ Tát phát
chí nguyệnMuốn nước tôi không khác
Nhớ độ khắp tất cả
Danh vang khắp
mười phươngPhụng sự ức
Như Lai.
Biến hóa đến các nước
Cung kính cúng dường PhậtTrở về nước
An Dưỡng.
Người nào
không tâm lành
Chẳng được nghe kinh nầy
Người có
giới thanh tịnhMới được nghe
chánh phápĐã từng thấy chư Phật
Thì tin được việc nầy
Cung kính nghe
phụng hànhHớn hở rất
vui mừng.
Kiêu mạn, ngu,
giải đãiKhí tin được pháp nầy
Đời trước thấy chư Phật
Thích nghe
giáo pháp này.
Thanh Văn hoặc
Bồ TátChẳng biết được
tâm PhậtVí như người
sanh manhMuốn
dẫn đường người khác
Biển
trí huệ của Phật
Sâu rộng không bờ đáy
Nhị thừa chẳng lường được
Chỉ riêng Phật
sáng tỏGiả sử tất cả người
Đều
đắc đạo cả thảy
Huệ nhãn biết bổn không
Ức kiếp suy
Phật tríTận lực cố giảng nói
Vẫn chẳng biết được rõ
Trí Phật không ngằn mé
Tột
thanh tịnh như vậy
Thọ mạng rất khó được
Đời Phật cũng khó gặp
Có
tín huệ cũng khó
Nếu nghe siêng năng cầu
Nghe pháp được chẳng quên
Cung kính rất
vui mừngLà bạn lành của ta
Vì vậy phải
phát tâmGiàu lửa khắp
thế giớiQuyết
vượt qua nghe phápĐể được
thành Phật đạo
Rộng độ dòng
sanh tử.
Đức Phật bảo Ngài
A Nan: “Bồ Tát ở nước
An Lạc rốt ráo đều sẽ đến bậc
nhất sanh bổ xứ. Trừ những vị cố bổn nguyện vì
chúng sanh mà lập nguyện
công đức lớn để tự
trang nghiêm, muốn
độ thoát khắp cả
chúng sanh.
Nầy A Nan! Hàng
Thanh Văn ở nước
An Lạc thân chiếu ánh sáng một tầm, thân
Bồ Tát chiếu ánh sáng trăm
do tuần.
Có hai
Bồ Tát tối tôn
đệ nhứt oai thần quang minh chiếu khắp cõi Đại Thiện.
-
Bạch đức Thế Tôn Hai
Bồ Tát ấy
danh hiệu là gì?
- Nầy A Nan!
Bồ Tát thứ nhứt hiệu là
Quán Thế AÂm,
Bồ Tát thứ hai hiệu là
Đại Thế Chí.
Hai
Bồ Tát ấy ở cõi nước
Ta Bà nầy
tu Bồ Tát hạnh, lúc
mạng chung chuyển sanh về nước
An Lạc.
Nầy A Nan! Có
chúng sanh nào sanh về nước
An Lạc, thân của họ đều đầy đủ
ba mươi hai tướng tốt, thành mãn
trí huệ thâm nhập diệu pháp,
thần thông vô ngại, các căn
sáng suốt mau lẹ. Người căn trí chậm lụt nhứt thì
thành tựu hai
pháp nhẫn. Người căn trí
lanh lợi thì được
vô lượng vô sanh pháp nhẫn.
Lại chư
Bồ Tát ở nước ấy mãi đến
thành Phật chẳng sanh vào
ác đạo,
thần thông tự tại thường biết
túc mạng. Trừ người sanh về đời ác
ngũ trược ở phương khác như
quốc độ Ta Bà của ta đây.
Nầy A Nan!
Bồ Tát nước
An Lạc thừa
oai thần của đức
Vô Lượng Thọ Phật, khoảng
thời gian một
bữa ăn, đi đến
vô lượng thế giới mười phương cung kính cúng dường chư
Phật Thế Tôn, theo
ý nghĩ của họ, những món
cúng dường như hoa, hương,
kỹ nhạc,
y phục, phan lọng,
vô số vô lượng thứ
tự nhiên hóa hiện ra, tất cả đều trân quý
vi diệu thế gian chẳng có được. Chư
Bồ Tát ấy liền đem rải lên
cúng dường chư Phật và chư
Bồ Tát Thanh Văn. Những thứ ấy ở trên không
hóa thành lọng hoa
xinh đẹp sáng chói tỏa hương thơm khắp nơi. Lọng hoa ấy chu vi bốn trăm dặn, rồi lần lần lớn gấp bội
cho đến trùm khắp cõi
Đại Thiên, sau đó
tuần tự ẩn mất.
31Chư
Bồ Tát đều
vui mừng thăng lên
hư không đồng tấu
thiên nhạc, dùng
âm thanh vi diệu ca ngợi công đức của chư Phật, lắng nghe
kinh pháp vui mừng vô lượng.
Cúng dường chư Phật xong, bỗng nhiên nhẹ nhàng bay về bổn quốc
An Lạc vẫn còn trước giờ ăn.
Nầy A Nan! Lúc đức
Vô Lượng Thọ Phật ban
pháp ngữ cho hàng Trời, Người,
Thanh Văn,
Bồ Tát thì đều
vân tập tại thất bửu
giảng đường.
Thính chúng được nghe
diệu pháp không ai là chẳng
khai ngộ vui mừng. Liền đó bốn phương
tự nhiên gió nhẹ thổi động những cây thất bửu phát ra
ngũ âm.
Vô lượng hoa đẹp theo gió bay tứ tán để
cúng dường bất tuyệt.
Tất cả hàng
chư Thiên đều mang trăm ngàn thứ hoa hương
cõi trời và muôn thứ
kỹ nhạc trời
cúng dường đức Phật ấy cùng
Bồ Tát,
Thanh Văn.
Rải hoa hương khắp nơi, hòa tấu
âm nhạc,
chư Thiên hàng hàng lớp lớp trước sau qua lại, vẹt tránh lẫn nhau.
Trong lúc ấy, tất cả đều
sung sướng khoái lạc chẳng thể nói được.
Nầy A Nan! Chư
Bồ Tát sanh về nước
An Lạc có
giảng thuyết được thì thường tuyên
chánh pháp thuận theo trí huệ chẳng hề sai thất.
Trong nước
An Lạc, chư
Bồ Tát đối với
vạn vật không có tâm
ngã sở, không có tâm
nhiễm trước, qua lại đi đứng
tâm không hệ lụy tùy ý tự tại, không khen lấy hay chê bỏ, không
quan niệm bỉ ngã, không
ý nghĩ tranh giành. Đối với
mọi người có tâm
đại từ đại bi, chỉ nghĩ đến
việc làm lợi ích, lòng luôn nhu thuận
điều phục không hề giận hờn, không lười biếng chán nản, lìa
cái triền được
thanh tịnh, có những
tâm bình đẳng, tâm
thù thắng,
thâm tâm,
định tâm, tâm yêu pháp, thích pháp và mừng được pháp,
diệt trừ phiền não, rời tâm
ác đạo,
trọn vẹn công hạn của
Bồ Tát,
thành tựu đầy đủ
vô lượng cô đức, được thâm
thiền định,
thần thông và
trí huệ, chỉ ở bảy phần
Bồ đề,
tu tâm Phật thừa,
nhục nhãn trong sáng không gì chẳng thấy biết rõ,
thiên nhãn thông đạt vô hạn
vô lượng,
huệ nhãn thấy
chơn đế đến được bờ kia,
pháp nhãn quan sát rốt ráo các đạo,
Phật nhãn đầy đủ chiếu rõ
pháp tánh, dùng trí
vô ngại giảng thuyết cho người, xem khắp
ba cõi trống rỗng không chỗ có, chí cầu
Phật thừa đủ các
biện tài,
trừ diệt khổ họa
phiền não của
chúng sanh, từ
Như Lai sanh ra hiểu
pháp như như, biết rành
tập diệt âm thanh phương tiện, chẳng thích
thế tục ngữ ngôn, ưa mến
đàm luận chánh pháp,
tu tập những gốc lành
chí tôn sùng
Phật đạo, biết tất cả pháp thảy đều
tịch diệt, hai thứ còn thừa là
sanh thân và
phiền não đều hết, nghe nói pháp
thậm thâm lòng chẳng nghi chẳng sợ,
thường hay tu hành đức tánh
đại bi sâu xa vi diệu chở che cho tất cả,
rốt ráo nhứt thừa đến bờ kia, quyết đoán lưới nghi
trí tuệ từ tâm phát ra, gồm bao
Phật pháp không để sót,
trí huệ rộng sâu như
đại hải,
tam muội vững chắc như
sơn vương,
trí huệ chiếu sáng
trong sạch hơn hẳn mặt nhựt, mặt nguyệt, pháp
thanh bạch đều đã đầy đủ, soi các
công đức đồng một
trong sạch như núi Tuyết,
tâm không phân biệt như mặt đất không nghĩ sạch dơ tốt xấu sai khác, rửa sạch những
cấu nhiễm trần lao như
tịnh thủy, cháy hết tất cả củi
phiền não như lửa hồng, đi qua các
thế giới không
chướng ngại như gió lớn, với tất cả không dính mắc như
hư không, nơi tất cả
thế gian không bị
nhiễm ô như
hoa sen, chuyên chở
chúng sanh ra khỏi
sanh tử như cỗ xe lớn, chấn
đại pháp lôi
cảnh giác kẻ chưa
thức tỉnh như mây dày mưa pháp
cam lộ nhuần ướt
chúng sanh như mưa lớn, loài
ma ngoại đạo chẳng động đến được như núi
Kim Cương, nói các pháp lành và là bực
tối thượng thủ như
Phạm Thiên Vương, che mát tất cả những cây ni câu luật, rất là ít có, khó gặp như
hoa ưu đàm bát, oai phục
ngoại đạo như
kim sí điểu, không có chứa để như loài du cầm, không ai thắng được như
Ngưu Vương, khéo
điều phục thuần thục như
Tượng Vương, được
vô sở úy như
Sư Tử Vương,
đại từ bình đẳng như
hư không rỗng rang, dứt lòng
ganh ghét vì chẳng
đố kỵ người hơn mình, chuyên ưa
cầu pháp lòng chẳng chán đủ, thường muốn giảng dạy
chí nguyện chẳng mỏi mệt, đánh
pháp cổ, dựng
pháp tràng, chiếu
huệ nhựt, trừ
si ám, tu
lục hòa kính,
thường hành pháp thí, chí
dũng mãnh tinh tiến, lòng không khiếp nhược
thối chuyển, là đèn sáng cho đời, là
ruộng phước thù thắng, thường làm thầy
dìu dắt bình đẳng không thương ghét, chỉ thích
chánh đạo không ưa muốn gì khác, nhổ gai
ái dục để
an ổn quần sanh,
công đức trí huệ đều
thù thắng không ai là chẳng
tôn kính, diệt
ba chướng du hý thần thông, đầy đủ tất cả những lực như: nhơn lực,
duyên lực,
ý lực,
nguyện lực,
phương tiện lực,
thường lực, thiện lực,
định lực, huệ lực,
đa văn lực, thí lực,
giới lực,
nhẫn lực,
tinh tiến lực,
thiền định lực,
trí huệ lực,
chánh niệm lực,
chỉ quán lực,
thần thông lực, và
năng lực điều phục các
chúng sanh đúng pháp,
sắc thân tướng hảo công đức biện tài đều đầy đủ
trang nghiêm không ai bằng,
cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường được chư Phật đồng khen ngợi, đã
rốt ráo các môn
Ba la mật của
Bồ Tát, tu các môn
không vô tướng
vô nguyện tam muội và các môn
tam muội bất sanh bất diệt, rời xa
địa vị Thanh Văn và
Duyên Giác.
Nầy A Nan! Chư
Bồ Tát nước
An Lạc thành tựu vô lượng công đức như vậy. Ta chỉ nói lược cho ông đó thôi. Nếu nói rộng thời nói suốt trăm nghìn muôn kiếp cũng chẳng hết được”.
Đức Phật gọi Ngài
Di Lặc Bồ Tát mà bảo rằng: “Nầy A Dật Đa!
Công đức và
trí huệ của hàng
Thanh Văn và
Bồ Tát nước
An Lạc của đức
Vô Lượng Thọ Phật chẳng thể kể nói được.
Lại
quốc độ ấy
vi diệu an lạc thanh tịnh dường ấy, sao
chư Thiên và
mọi người chẳng
gắng sức làm lành, phải đều siêng năng
tinh tiến nỗ lực tự cầu tất được siêu tuyệt
vãng sanh nước
An Lạc, dứt ngang năm
ác đạo,
ác đạo tự nhiên đóng bít,
con đường đạo tiến lên không cùng tột dễ đến mà không có người, nước ấy chẳng trái bỏ một ai lại có sức kéo dắt
tự nhiên.
Sao
mọi người chẳng
vứt bỏ việc đời để
chuyên cần tu hành cầu nên
đạo đức để được tột sự
trường sanh hưởng vui không cùng cực.
Nhưng người đời phần đông phước mỏng, cùng tranh nhau những sự chẳng
cần kíp, ở tại trong chỗ kịch ác tột khổ mà nhọc nhằn kinh doanh
chật vật để tự
cung cấp. Không luận là người tôn kẻ ti, người nghèo, kẻ giàu, trẻ già
nam nữ đều
lo nghĩ về tiền tài,
vất vả sầu khổ mãi nghĩ mãi lo không lúc nào yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, có trâu ngựa
lục súc nô tỳ
tiền của y thực trăm ngàn thứ lại lo trăm ngàn thứ. Toan tính
cầu lợi lo nghĩ buồn sợ bỗng chốc bị trộm cướp, nước cuốn, lửa cháy, sung công,
tài sản tiêu tan thân mang
tai họa, lại
sầu khổ phẫn uất. Nếu
tài sản không
bị tiêu tan, thân không bị
tai họa, nhưng
cuối cùng vô thường bỗng đến, thân chết
mạng chung, tay không mà đi không mang món gì theo được”.
Đức Phật bảo Ngài
Di Lặc Bồ Tát và hàng
chư Thiên nhơn chúng rằng: “Nay ta nói với các người, thế nhơn do những sự việc ấy nên chẳng
đắc đạo.
Phải
suy nghĩ chín chắn, nên
xa lìa những điều ác, chọn những điều lành rồi siêng năng
thực hành.
Ái dục vinh hoa là những thứ chẳng thể
bảo tồn mãi mãi, rồi đều sẽ ly tan không có gì đáng vui đáng thích.
May mắn gặp
đức Phật tại thế phải kíp
chuyên cần tu tập, người nào có
chí nguyện sanh về nước
An Lạc thì được
trí huệ sáng suốt,
công đức thù thắng. Chẳng nên
buông lung theo
lòng dục vọng mà phụ rẫy lời dạy trong
kinh pháp giới luật để rồi phải rơi ở sau người.
Nếu có ai còn mắc hay chẳng hiểu
kinh pháp nên đem hỏi Phật. Ta sẽ
giải thuyết cho”.
Bấy giờ Ngài
Di Lặc Bồ Tát tiến ra quỳ dài bạch
đức Phật: “Đức
Thế Tôn oai thần tôn trọng giảng nói rất hay. Tôi lắng nghe kinh ngữ mà
đức Phật vừa nói,
suy gẫm kỹ lại thì người đời thiệt đúng như lời
đức Phật đã phán dạy.
Nay
đức Phật thương xót hiển thị đại đạo, tất cả đều sáng mắt ra được
lợi ích lành rất lớn, không ai là chẳng
vui mừng.
Chư Thiên, nhơn dân
cho đến các loài nhuyến động đều nhờ
từ ân của
đức Phật mà
thoát khỏi ưu khổ.
Đức Phật dạy bảo rất sâu rất lành.
Phật trí thấy suốt
mười phương ba đời, chẳng sự gì là chẳng rành rẽ.
Ngày nay
chúng tôi được giải thoát đây, đều là nhờ đời trước
đức Phật đã từng khổ nhọc
cầu đạo vậy.
AÂn đức của Phật
trùm khắp, phước lớn
vòi vọi quang minh chiếu suốt,
đạt thấu pháp không, khai
nhập tịch diệt,
cảm động mười phương vô cùng vô cực.
Đức Phật là
đấng Pháp Vương, là thầy của tất cả trời người,
tùy theo sở nguyện của họ đều làm cho họ
đắc đạo. Nay được gặp
đức Phật lại được nghe về đức
Vô Lượng Thọ Phật không ai là chẳng
vui mừng tâm được khai ngộ”.
Đức Phật bảo Ngài
Di Lặc Bồ Tát: “Ông nói rất phải. Nếu ai mến kính
đức Phật thì thiệt là sự đại thiện.
Trong
thiên hạ lâu lâu mới có Phật ra đời.
Nay ta ở đời nầy
làm Phật diễn nói
kinh pháp tuyên bố đạo dứt các lưới nghi, nhổ gốc
ái dục, ngăn nguồn xấu ác, đi khắp
ba cõi không bị
chướng ngại, khai thị
ngũ đạo độ kẻ chưa được độ, quyết chánh
con đường sanh tử và
Niết bàn.
Nầy A Dật Đa! Từ
vô số kiếp
đến nay, ông
tu Bồ Tát hạnh để độ
chúng sanh. Những người nhờ ông mà được
đắc đạo cho đến chứng
Niết bàn chẳng thể đếm nói.
Chư Thiên và
nhân dân tứ chúng từ nhiều kiếp
đến nay xoay lăn trong
ngũ đạo lo sợ khốn khổ chẳng nói hết được. Mãi đến đời nay vẫn chưa dứt
sanh tử. Gặp được
đức Phật nghe thọ
kinh pháp và được nghe về đức
Vô Lượng Thọ Phật, thiệt là được lợi lành rất lớn. Ta mừng cho đó.
Các người ngày nay cũng nên tự
nhàm chán sanh lão
bệnh tử thống khổ, thân
ngũ ấm hôi nhơ
vô thường không có gì đáng
vui thích. Phải tự quyết đoán đoan thân
chánh hạnh làm nhiều
việc lành, trừ sạch tâm nhơ bẩn, ngôn hạnh
trung tín trong ngoài
tương ưng, tự độ mình mà cũng cứu giúp người khác,
thành tâm cầu nguyện chứa nhóm đức lành.
Dầu phải
cần khổ tu hành nhưng chỉ là
một đời ngắn ngủi, về sau được sanh về nước
An Lạc của đức
Vô Lượng Thọ Phật hưởng sự khoái lạc
vô cực,
mãi mãi hiệp với đạo, khỏi hẳn
sanh tử, không còn họa hoạn tham sân
ngu si, muốn thọ một kiếp hay trăm ngàn muôn
ức kiếp đều
tùy ý tự tại, tất cả đều
vô vi tự nhiên kế đạo tịch diệt.
Các người phải đều
tinh tiến phát nguyện tu hành, không được
nghi ngờ chần chờ tự gây lấy tội vạ mà phải sanh về cung điện
bảy báu ở
biên địa của nước ấy, chịu lấy tai ách trong năm trăm năm”.
Ngài
Di Lặc Bồ Tát bạch
đức Phật: “Chúng tôi nhận lãnh lời răn dạy của
đức Phật,
chuyên cần tu học y giáo
phụng hành, chẳng dám có lòng nghi ngờ”.
Đức Phật lại bảo Ngài
Di Lặc Bồ Tát rằng: “Các người có thể ở đời nầy đoan tâm chánh ý chẳng làm những điều ác đó là
chí đức,
mười phương thế giới không đâu
sánh bằng. Tại sao vậy?
Ở
quốc độ của chư Phật, hàng
chư thiên và nhơn dân
tự nhiên làm điều lành, chẳng phạm nhiều điều ác, họ rất dễ
khai hóa.
Hiện nay ta
làm Phật ở
thế gian nầy, ở trong
ngũ ác ngũ thống ngũ thiêu, chỗ quá khổ lụy,
giáo hóa chúng sanh khiến họ trừ
ngũ ác, bỏ ngũ thống, rời ngũ thiêu,
điều phục ý họ khiến họ trì ngũ thiện, cho họ được
phước đức thoát khỏi thế gian chứng nhập đạo
Niết bàn trường thọ.
Nầy A Dật Đa! Những gì là
ngũ ác, ngũ thống và ngũ thiêu? Thế nào là
tiêu hóa ngũ ác, khiến trì ngũ thiện được
phước đức thoát khỏi thế gian chứng nhập đạo
Niết bàn trường thọ?
Điếu ác thứ nhất: -
Chư Thiên và nhơn dân
cho đến loài nhuyến động, phần đông muốn làm các điều ác đều như thế nầy: Kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, giành giựt tàn hại sát lục
cho đến ăn thịt lẫn nhau. Họ chẳng biết làm lành, ác nghịch
vô đạo. Cô nghiệp nhơn tất chịu
quả báo, nên có những sự nghèo cùng hạ tiện
cô độc, đui điếc câm ngọng tệ ác
ngu si, thậm chí có hạng cuồng điên chẳng nên hình.
Còn những người tôn quý hào phú cao tài
minh đạt, đó là do đời trước họ nhơn từ
hiếu để tích đức làm lành.
Thông thường
thế gian có phép nước ngucï tù. Kẻ chẳng kiêng sợ
giữ gìn làm ác bị tội phải
xử phạt cầu thoát khó được.
Thế gian có những sự
hiện tiền trước mắt như vậy.
Khi chết
đời sau càng sâu càng khổ vào chỗ
u minh thọ lấy
thân hình, nên có
tự nhiên tam đồ vô lượng khổ não,
chuyển đổi thân hình,
thọ mạng hoặc dài hay ngắn,
thần thức tự nhiên đến đó theo nhau cùng sanh,
báo đền lẫn nhau không có lúc nào thôi dứt,
tội ác chưa hết thì chẳng thể thoát lìa,
đau khổ chẳng nói được.
Con đường thiện ác nhơn quả đương nhiên như vậy.
Đây là một
đại ác một thống một thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
Có ai ở trong ấy
nhứt tâm nhiếp ý đoan thân
chánh hạnh chuyên làm điều lành chẳng
phạm tội ác thì được
độ thoát, có
phước đức lớn, sanh lên
cõi trời, hoặc
chứng nhập Niết bàn. Đây là một đại thiện vậy.
Điều ác thứ hai: - Người
thế gian,
cha con anh em chồng vợ
vô nghĩa vô đạo, chẳng thuận
pháp độ, xa xí hoang dâm
kiêu mạn phóng túng, đều riêng muốn khoái ý nên
buông lung theo lòng họ, khi dối lẫn nhau, tâm khẩu
mâu thuẫn, lời cùng ý không thành thiệt, siểm nịnh chẳng trung, xảo ngôn dua mị, ghét người hiền, chê người lành. Làm vua bất minh, làm quan lộng quyền,
tại vì chẳng chánh khi dối lẫn nhau, hãm hại trung cang, dung dưỡng gian nịnh. Tôi khi chúa, con khi cha, anh em chồng vợ bè bạn lường gạt lẫn nhau. Ai ai cũng cưu lòng
tham dục,
sân hận,
ngu si, muốn mình được nhiều mặc người
tổn hại. Chẳng nghĩ nhà
phá thân vong, chẳng quản tội trước họa sau,
cho đến thân thuộc nội ngoại liên lụy diệt tộc.
Có khi
gia đình bè bạn xóm làng chợ búa, dân ngu
tranh giành lợi hại, do giận hờn mà
kết oán thù. Kẻ giàu dư dả lại bỏn sẻn chẳng chịu thí cho,
tham ái quá nặng tâm nhọc thân khổ.
Cuối cùng rồi không chỗ cậy nhờ đến đi
một mình không ai theo giúp.
Thiện và ác, họa và phước theo người mà sanh, hoặc ở chỗ vào chốn khổ, sau đó mới
hối hận thì đâu còn kịp.
Người đời vì tâm khờ ít trí, thấy người làm lành thì chê ghét chẳng chịu ngưỡng mộ để được bằng. Chỉ muốn làm ác, làm điều
phi pháp.
Thường có tâm
trộm cắp trông đoạt được của người. Phá của
tiêu tan rồi đi tìm cầu. Tâm tà chẳng chánh, sợ người hơn mình. Chẳng lo tính trước việc đến mới
ăn năn.
Hiện đời bị phép nước tù phạt trị tội.
Sau khi chết đọa vào
ác đạo, nên có
tự nhiên tam đồ chịu khổ
vô lượng. Xoay vần trong đó nhiều đời nhiều kiếp không có lúc ra khỏi, khó
được giải thoát,
đau khổ chẳng nói được.
Đây là hai
đại ác, hai thống, hai thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
Có người nào ở trong ấy mà
nhứt tâm chế ý, đoan thân
chánh hạnh chuyên làm điều lành, chẳng phạm điều ác thì được
độ thoát có nhiều
phước đức, hoặc sanh lên
cõi trời, hoặc
chứng nhập Niết bàn. Đây là hai đại thiện vậy.
Điều ác thứ ba: - Người đời
nương nhờ nhau mà sống còn ở trong trời đất, tuổi thọ không được bao nhiêu. Trên có các nhà hiền minh
trưởng giả tôn quý hào phú, dưới có những kẻ nghèo cùng ti tiện
yếu kém ngu phu. Trong đó có những người
bất thiện thường cưu lòng tà ác, chỉ nghĩ nhớ
dâm dật ái dục,
phiền não đầy bụng, ngồi đứng chẳng an,
tham lam muốn lấy không của người,
chán ghét vợ nhà
lén lút ra vào,
hao tổn gia tài làm điều
phi pháp. Tụ hội bè đảng, đem quân xâm lăng, đánh cướp giết hại, cưỡng đoạt
vô đạo; ra ngoài làm ác chẳng tự làm ăn,
trộm cắp bức hiếp buông lung hưởng lạc, hoặc với người trong
thân thuộc cũng chẳng kể tôn ty.
Gia tộc nội ngoại đều
lo lắng khổ sở vì họ.
Cho đến cũng chẳng kiêng sợ phép nước.
Ác nghiệp chiêu báo,
sau khi chết đọa vào
tam đồ chịu
vô lượng khổ não, xoay vần trong đó nhiều đời nhiều kiếp không có
thời gian ra khỏi, khó
được giải thoát,
đau đớn chẳng thể nói được. Đây là ba
đại ác, ba thống, ba thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
Có ai ở trong ấy như tâm chế ý đoan thân
chánh hạnh chuyên lam điều lành chẳng phạm điều ác, thì được
độ thoát, có nhiều
phước đức, hoặc sanh lên trời hay
chứng nhập Niết bàn. Đây là đại thiện vậy.
Điều ác thứ bốn: - Người đời chẳng nghĩ làm lành để
dạy bảo lẫn nhau, lại cùng làm những điều ác, những là
lưỡng thiệt,
ác khẩu,
vọng ngôn,
ỷ ngữ. Cãi vã chê bai,
ganh ghét người lành, hãm hại người hiền rồi đứng bên
vui thích. Bất hiếu với
cha mẹ, khinh mạn
Sư trưởng. Vô tín với bằng hữu, tự tôn tự đại, cho mình là hay là phải,
cậy quyền ỷ thế
áp bức người, làm ác không biết
hổ thẹn, chẳng tự
biết mình. Tự cho mình là khỏe muốn
mọi người kính nể. Chẳng sợ trời đất
thần minh nhựt nguyệt, chẳng chịu làm lành, khó
giáo hóa. Không kiêng sợ ai luôn luôn
kiêu mạn. Cậy có chút ít
phước đức do đời trước làm được điều lành nhỏ, đời nay làm ác,
phước đức tiêu diệt,
sau khi chết,
tội báo tự nhiên chẳng hề rời lìa, đọa vào
tam đồ chịu
vô lượng thống khổ, đến lúc này
ăn năn đâu còn kịp. Xoay vần trong ấy nhiều đời nhiều kiếp không có
thời kỳ ra khỏi, khó
được giải thoát,
đau khổ chẳng nói được. Đậy là
bốn đại ác, bốn thống, bốn thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
Có ai ở trong ấy
nhứt tâm chế ý đoan thân
chánh hạnh chuyên làm những điều lành chẳng phạm điều ác, thì được
độ thoát có nhiều
phước đức, hoặc sanh lên
cõi trời, hay
chứng nhập Niết bàn. Đây là
bốn đại thiện vậy.
Điều ác thứ năm. – Người đời
ỷ lại lười biếng chẳng chịu làm điều lành sửa mình tu nghiệp.
Gia đình quyến thuộc đói rét khốn khổ.
Cha mẹ có dạy răn thì giận dỗi chống trái, bất hiếu bất mục, phụ ân
vô nghĩa, không có lòng
báo đáp. Nghèo cùng khốn thiếu, sang đoạt phóng đãng, lấy ngang của người để tự
cung cấp. Thích ngon ưa rượu,
ăn uống vô độ, gây gổ
xung đột chẳng biết nhơn tình. Thấy người hay tốt thì
ganh ghét.
Vô nghĩa vô lễ không hề kiêng kỵ.
Phóng túng chơi bời không ai khuyên can được. Với
lục thân quyến thuộc, thiếu đủ không hề
đoái hoài. Chẳng nghĩ ơn
cha mẹ, chẳng biết nghĩa thầy bạn. Tâm thừing nghĩ ác, miệng thường nói ác, thân thường làm ác, không có được chút lành. Chẳng tin
kinh pháp của chư Phật
hiền thánh. Chẳng tin
hành đạo sẽ
được giải thoát. Chẳng tin
sau khi chết thần thức đầu thai trở lại. Chẳng tin làm lành được lành, làm dữ được dữ. Muốn giết người chơn tu, phá rối
chúng Tăng. Muốn hại
cha mẹ anh em
quyến thuộc. Tông tộc đều
chán ghét muốn nó chết đi. Người như vậy, tâm ý họ cháy phừng
ngu si mê muội mà họ tự cho là
sáng suốt. Chẳng biết sanh từ đâu đến, chết sẽ về đâu. Bất nhơn bất thuận ác nghịch trời đất, mà lại muốn cầu may được
trường thọ. Có ai thương
dạy bảo điều lành
lẽ phải, khai thị
con đường sanh tử thiện ác, họ vẫn chẳng tin,
khổ tâm cạn lời cũng thành
vô ích. Lòng họ bít lấp, ý họ chẳng tỏ ngộ. Lúc sắp chết mới biết lo sợ
ăn năn thì đâu còn kịp nữa. Trong trời đất năm loài
phân minh,
rộng rãi mịt mờ mênh
mênh mông mông.
Báo ứng lành dữ,
họa phước kéo dắt tự mình lãnh chịu, không ai thay thế được. Người lành làm lành thì từ vui vào vui, từ sáng vào sáng. Người dữ làm dữ thì từ khổ vào khổ, từ tối vào tối. Ai biết được đó? Chỉ
một mình đức Phật biết rõ
dạy bảo khai thị. Người tin làm theo rất ít. Vì thế nên
sanh tử chẳng thôi,
ác đạo chẳng tuyệt. Người đời tạo ác như vậy nên có
tự nhiên tam đồ khổ sở
vô lượng. Xoay vần trong ấy nhiều đời nhiều kiếp không có
thời kỳ ra khỏi, khó
được giải thoát đau đớn chẳng nói được. Đây là năm
đại ác, năm thống, năm thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
Nếu có ai trong ấy
nhứt tâm chế ý đoan thân
chánh niệm, ngôn hạnh
tương ưng,
việc làm chí thành, chuyên làm điều lành chẳng phạm điều ác thì được
độ thoát, có nhiều
phước đức được sanh lên
cõi trời hay
chứng nhập Niết bàn. Đây là năm đại thiện vậy.
32Nầy A Dật Đa! Đó là nảm điều ác
trong đời khổ não như vậy. Năm thống, năm thiêu xoay vần sanh lẫn nhau. Chẳng
tu đức lành mà chỉ làm những điều ác thì đều
tự nhiên đọa vào
ác đạo. Hoặc có kẻ hiện đời nay, trước hết bị
bệnh hoạn cầu chết chẳng được, cầu sống chẳng được, cho
mọi người thấy sự
chiêu cảm của
tội ác. Khi thân chết,
thần thức theo
ác nghiệp mà
đi vào ba
ác đạo chịu
vô lượng thống khổ.
Tội ác từ mảy nhỏ lần thành to lớn, đều do tham làm
tài sắc chẳng chịu ban bố.
Chạy theo dục vọng si cuồng,
phiền não buộc trói không tháo mở được. Tranh lợi về mình chẳng biết tự xét.
Phú quí vinh hoa đương thời
đắc ý, chẳng hay
nhẫn nhục, chẳng biết làm lành. Không bao lâu oai thế
tiêu diệt, thân bị khổ nhọc càng ngày càng nặng, nhơn xấu quả khổ, nhơn quả
tự nhiên không hề sai sót,
xưa nay đều như vậy thiệt rất đáng thương.
Nầy A Dật Đa! Nay ông và
chư Thiên cùng nhơn dân với người
đời sau được
kinh giáo của
đức Phật phải suy ngẫm
chín chắn, có thể
y theo trong ấy mà đoan thân
chánh hạnh, người trên làm lành rồi đem
cảm hóa người dưới,
luân chuyển dạy bảo nhau đều
giữ gìn thật hành, tôn bực Thánh, kính người lành, nhơn từ
bác ái, chẳng dám trái
lời Phật dạy. Phải cầu
xuất thế nhổ đứt gốc
sanh tử tội ác, rời hẳn
con đường tam đồ vô lượng lo sợ khổ đau. Các người ở
cõi nầy vun trồng cội
công đức lớn rộng,
ban ơn bố thí, chớ phạm
cấm giới,
nhẫn nhục,
tinh tiến,
nhứt tâm và
trí huệ.
Giáo hóa lẫn nhau,
tu đức lập thiện, chánh tâm chánh ý,
trai giới thanh tịnh một ngày một đêm còn hơn ở nước
An Lạc làm lành cả trăm năm.
Tại sao vậy?
Quốc độ An Lạc của đức
Vô Lượng Thọ Phật vô vi tự nhiên đều chứa những điều lành, không có tơ hào việc ác.
Ở
cõi nầy làm lành mười ngày mười đêm hơn ở cõi khác làm lành ngàn năm.
Tại sao vậy?
Những cõi khác, người làm lành nhiều, người làm ác ít,
phước đức tự nhiên không có chỗ để tạo ác.
Chỉ ở
thế gian nầy không có
phước đức tự nhiên, nhiều người làm ác,
cần khổ theo
dục vọng, khi dối lẫn nhau, lao
tâm khổ thân, uống đắng ăn độc, sự ác
triền miên không bao giờ ngừng nghỉ.
Ta vì thương
mọi người mà hết
lời khuyên dạy
hành đạo làm lành
tùy nghi dìu dắt truyền kinh pháp của Phật, tất được
thọ dụng, theo
ý nguyện cầu đều làm cho
đắc đạo cả.
Chỗ nào
đức Phật đi đến, hoặc quốc ấp, hoặc xóm làng, không đâu là chẳng nhờ
giáo hóa.
Thiên hạ hòa thuận, nhựt nguyệt
trong sáng, gió mưa phải thời, tai dịch chẳng khởi, nước thạnh dân an, binh đao
vô dụng, sùng đức trọng nhơn chuyên làm
lễ nghĩa.
Ta thương
mọi người còn hơn
cha mẹ thương con. Nay ta õ đời nầy
làm Phật cảm hóa năm ác,
tiêu trừ năm thống,
tuyệt diệt năm thiêu. Đem điều lành công phá
tội ác, dứt khổ
sanh tử, khiến được năm đức đến chỗ
an ổn vô vi.
Sau khi ta
nhập diệt rời bỏ
thế gian nầy,
kinh đạo diệt lần, nhơn dân siểm ngụy
trở lại làm ác, nâm thống năm thiêu
hoàn lại như trước, về sau càng nặng chẳng nói hết được. Ta chỉ nói lược đó thôi.”
Đức Phật bảo Ngài
Di Lặc Bồ Tát: “Các người phải khéo
suy gẫm dạy bảo lẫn nhau đúng như
kinh pháp của
Đức Phật, không được phạm ác”.
Ngài
Di Lặc Bồ Tát chắp tay bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lời
đức Phật dạy rất hay. Người đời
quả thật có như vậy.
Đức Như Lai từ mẫn làm cho họ được
độ thoát.
Chúng tôi xin lãnh lời Phật
cặn kẽ dạy bảo, chẳng dám sai thất”.
Đức Phật bảo Ngài
A Nan: “Nầy A Nan! Ông
đứng dậy chỉnh
y phục chắp tay cung kính đảnh lễ đức
Vô Lượng Thọ Phật.
Chư Phật Như Lai ở nhũng
quốc độ mười phương thường
ca ngợi đức
Vô Lượng Thọ Phật chẳng
chướng ngại chẳng nhiễm trước”.
Ngài
A Nan đứng dậy chỉnh
y phục, chánh thân hướng về phươngTây
chắp tay cung kính năm vóc gieo xuống đất
đảnh lễ đức
Vô Lượng Thọ Phật mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi mong được thấy
quốc độ An Lạc,
đức Phật và chư
Bồ Tát cùng
Thanh Văn đại chúng”.
Liền đó đức
Vô Lượng Thọ Phật phóng
đại quang minh chiếu khắp tất cả
thế giới của
chư Phật mười phương. Những núi
Kim Cang, núi
Thiết Vi,
núi Tu Di, các núi lớn nhỏ và tất cả
vạn vật đều đồng một màu sắc. Như
thời kỳ đại
thủy tai, nước ngập tràn đầy tất cả,
vạn vật đều chìm ngập chẳng còn, chỉ thấy mặt nước
mênh mông.
Quang minh của đức
Vô Lượng Thọ Phật chiếu khắp cũng như vậy.
Quang minh của tất cả
Bồ Tát,
Thanh Văn đều bị che ẩn, chỉ thấy
Phật quang sáng rỡ.
Ngài
A Nan thấy đức
Vô Lượng Thọ Phật oai đức nguy nguy,
tướng hảo đầy đủ
quang minh rực rỡ như
núi Tu Di cao vượt trên tất cả
thế giới.
Tất cả hàng
tứ chúng nơi đây cũng đồng thấy như vậy.
Đại chúng ở nước
An Lạc cũng nhìn thấy bên
cõi Ta Bà nầy.
Đức Phật bảo Ngài
A Nan và Ngài
Di Lặc Bồ Tát rằng: “Các ông có thấy ở nước
An Lạc ấy, từ mặt đất báu lên đến
không gian, tất cả
vạn vật đều
vi diệu thanh tịnh tự nhiên chăng?”.
- Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi đều thấy.
- Các ông có nghe
âm thanh to lớn của đức
vô Lượng Thọ Phật tuyên bố khắp tất cả
thế giới giáo hóa chúng sanh chăng?
- Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi có nghe.
- Các ông có thấy người nước
An Lạc ngồi cung điện thất bửu rộng lớn trăm ngàn
do tuần đến khắp những
quốc độ mười phương cúng dường chư Phật không bị
chướng ngại chăng?
- Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi đều thấy.
- Các ông có thấy trong nước
An Lạc, những cây thất bửu, những ao thất bửu, những hoa trời đẹp thơm luôn luôn mưa rải khắp mặt đất thất bửu để làm
trang nghiêm chăng?
- Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi đều thấy.
- Các ông có thấy trong nước
an Lạc, các loài chim đẹp lạ bay liệng trên không kêu hót
hòa nhã không khác
âm thanh của Phật, tiếng chim vang khắp
thế giới. Các lời chim ấy đều do
đức Phật Vô Lượng Thọ biến hóa ra, chẳng phải là thiệt
súc sanh chăng?
- Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi đều nghe thấy.
- Các ông có thấy
chúng sanh ở nước
An Lạc ngày đêm sáu thời
tự nhiên niệm Phật tương tục chăng?
- Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi đều nghe thấy.
- Các ông thấy ở nước
An Lạc,
chư Thiên và nhơn dân
thọ dụng những thứ
cần dùng có khác nhau chăng?
- Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi thấy trời và người ở nước
An Lạc thọ dụng đồng nhau không có một chút sai khác.
- Các ông có thấy tại nước
An Lạc, có người ở trong thai chăng?
- Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi thấy tại nước
An Lạc, người ở trong
thai cung điện
bảy báu, như
Trời Đao Lợi ở trong cung điện thất bửu hoặc rộng lớn một trăm
do tuần, hoặc năm trăm
do tuần sung sướng,
vui vẻ.
Chúng tôi cũng thấy tại nước
An Lạc, có người từ
hoa sen thất bửu
tự nhiên hóa sanh”.
Lúc ấy Di Lạc
Bồ Tát bạch
đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn!
Duyên cớ gì mà người nước
An Lạc có
thai sanh và hóa sanh?”.
Đức Phật dạy: “Nầy A Dật Đa! Nếu có
chúng sanh chẳng
hiểu rõ Phật trí,
bất tư nghị trí,
bất khả xưng trí,
đại thừa quảng trí,
vô đẳng luân
tối thượng thắng trí. Với những trí ấy
nghi hoặc chẳng tin, nhưng lại
tin nhơn quả tội phước
tu tập hạnh lành cầu nguyện sanh về nước
An Lạc của đức
Vô Lượng Thọ Phật.
Chúng sanh ấy sanh về nước
An Lạc ở trong cung điện thất bửu năm trăm năm, chẳng thấy Phật, chẳng nghe
kinh pháp, chẳng thấy
Bồ Tát và chúng
Thanh Văn. Vì thế nên ở nước ấy gọi là
thai sanh.
Nếu
chúng sanh biết và tin
Phật trí,
cho đến biết và tin
vô đẳng luân
tối thượng thắng trí, tu các
công đức kính tin
hồi hướng nguyện cầu sanh về nước
An Lạc của đức
Vô Lượng Thọ Phật. Các
chúng sanh ấy sanh về nước
An Lạc ở trong
hoa sen thất bửu
tự nhiên hóa sanh ngồi kiết già, khoảnh khắc những
thân tướng,
quang minh,
trí huệ,
công đức đều
thành tựu đầy đủ như chư
Bồ Tát.
Lại nầy A Dật Đa!
Chư đại Bồ Tát ở cõi nước phương khác
phát tâm muốn thấy đức
Vô Lượng Thọ Phật để
cung kính cúng dường và muốn thấy chúng
Bồ Tát Thanh Văn nước ấy.
Chư đại Bồ Tát ấy lúc
mạng chung được sanh về nước
An Lạc ở trong
hoa sen thất bửu
tự nhiên hóa sanh.
Nầy A Dật Đa! Tại nước
An Lạc, những người
hóa sanh vì có
trí huệ thù thắng. Người
thai sanh không có
trí huệ, trong năm trăm năm thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe
kinh pháp, chẳng thấy
Thánh chúng Bồ Tát vàThanh Vãn. Không do đâu để được
cúng dường đức Phật, chẳng biết phép tắc của
Bồ Tát, chẳng
tu tập được các
công đức. Phải biết những người nầy lúc ở đời trước vì không có
trí huệ, chẳng diệt
nghi hoặc mà ra.
Nầy A Dật Đa! Thí như vua
Chuyển Luân Thánh Vương có nhà ngục
bảy báu trang nghiêm, trần thiết giường màn, treo phan kết tụi. Nếu có hàng
Tiểu Vương Tử mắc tội, bèn đem giam vào trong nhà ngục ấy trói bằng dây xích vàng, cấp dưỡng đầy đĩ đồ uống ăn mền nệm hoa hương
kỹ nhạc, đồng như
Chuyển Luân Thánh Vương không để
thiếu thốn. Ý ông nghĩ sao, A Dật Đa! Các
Tiểu Vương Tử ấy có
vui thích chăng?”
- Bạch đức Thế Tôn!
Không vui thích được. Họ chỉ mong có
phương cách gì để ra khỏi ngục.
- Nầy A Dật Đa! Cũng vậy. Các
chúng sanh ấy vì
nghi hoặc Phật trí mà sanh trong cung điện thất bửu không có hình phạt, cũng không có một niệm ác sự. Chỉ
trong vòng năm trăm năm, chẳng thấy Tam bửu. Chẳng được
cúng dường, chẳng được tu các đức lành mà lấy đó làm khổ, dầu có những sự vui, nhưng vẫn chẳng thích chỗ ấy. Nếu các
chúng sanh ấy biết tội đời trước rất
ăn năn tự trách cầu rời chỗ ấy liền được
toại ý qua đến chỗ
Vô Lượng Thọ Phật cung kính cúng dường, cũng được đến khắp
vô lượng vô số chỗ
chư Phật mười phương tu các
công đức.
Nầy A Dật Đa! Có
Bồ Tát nào sanh lòng
nghi hoặc đối với
Phật trí thì
mất lợi lớn. Vì thế nên phải biết và tin
trí huệ vô thượng của Phật”.
Ngài
Di Lặc Bồ Tát thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ở
cõi Ta Bà nầy có bao nhiêu
Bồ Tát bất thối sanh về nước
An Lạc ấy?”.
- Nầy A Dật Đa!
Cõi Ta Bà nầy có sáu mươi bảy ức
Bồ Tát bất thối sanh về nước
An Lạc ấy. Mỗi
Bồ Tát nầy đã từng
cúng dường vô số chư Phật gần như
Di Lặc vậy. Còn hàng tiểu
Bồ Tát và người
tu tập công đức ít thì số đông chẳng thể kể nói, sẽ được sanh về nước ấy.
Nầy A Dật Đa! Chẳng phải chỉ có các
Bồ Tát ở
cõi nầy vãng sanh nước ấy mà
quốc độ phương khác cũng như vậy.
Trong nước của
đức Phật thứ nhứt là
đức Phật Viễn Chiếu có một trăm tám mươi ức
Bồ Tát, sẽ đều
vãng sanh về nước
An Lạc của đức
Vô Lượng Thọ Phật.
Đức Phật thứ hai là Đức Bửu Tạng Phật, có chín mươi ức
Bồ Tát đều sẽ
vãng sanh.
Đức Phật thứ ba là
đức Phật Vô Lượng AÂm có hai trăm hai mươi ức
Bồ tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức Phật thứ bốn là
đức Phật Cam Lộ Vị có hai trăm năm mươi ức
Bồ Tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức Phật thứ năm là
đức Phật Long Thắng có mười bốn ức
Bồ Tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức Phật thứ sáu là
đức Phật Thắng Lực có một vạn bốn ngàn
Bồ tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức Phật thứ bảy là
đức Phật Sư Tử có năm trăm ức
Bồ Tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức Phật thứ tám là
đức Phật Ly Cấu Quang có tám mươi ức
Bồ Tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức Phật thứ chín là
đức Phật Đức Thủ có sáu mươi ức
Bồ Tát đều sẽ
vãng sanh.
Đức Phật thứ mười là
đức Phật Diệu Đức Sơn có sáu mươi ức
Bồ Tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức Phật thứ mười một là
đức Phật Nhơn Vương có mười ức
Bồ Tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức Phật thứ mười hai là
đức Phật Vô Thượng Hoa có
vô số bất khả xưng kể
Bồ Tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức Phật thứ mười ba là
đức Phật Vô Úy có bảy trăm chín mươi ức
đại Bồ tát, chư
Bồ Tát nhỏ và chúng
Tỳ Kheo chẳng tính kể được, đều sẽ
vãng sanh về nước
An Lạc của đức
Vô Lượng Thọ Phật.
Nầy A Dật Đa! Chẳng phải chỉ có
chúng sanh trong mười bốn cõi nước trên đây sẽ
vãng sanh về nước
An Lạc, mà trong
thế giới mười phương có
vô lượng cõi nước,
chúng sanh vãng sanh cũng như vậy, rất đông rất nhiều, dầu ta có kể nói luôn ngày đêm suốt một kiếp cũng chẳng hết được. Nay ta chỉ nói lược đó thôi.
Nầy A Dật Đa! Có ai được nghe
danh hiệu đức
Vô Thượng Thọ Phật mà hớn hở
vui mừng cho đến chừng một niệm, phải biết người ấy đã được lơi ích rất lớn, là đã đầy đủ
công đức vô thượng.
Vì thế nên
giả sử có lửa lớn đầy khắp cả
Đại Thiên thế giới vẫn
cần phải lướt qua để nghe
kinh pháp nầy rồi
vui mừng tin ưa
thọ trì đọc tụng tu hành đúng theo.
Tại sao vậy? Có rất nhiều
Bồ tát muốn được nghe kinh nầy mà chẳng được. Nếu
chúng sanh vào nghe kinh nầy thì không con
thối chuyển đạo
Vô thượng Chánh giác.
Vì lẽ ấy nên
cần phải chuyên tâm tin ưa
thọ trì đọc tụng giảng thuyết thực hành.
Nay ta vì
chúng sanh mà nói
kinh pháp nầy, làm cho họ được thấy đức
Vô Lượng Thọ Phật, tất cả
vạn vật ở nước
An Lạc và
Thánh chúng Bồ Tát,
Thanh Văn ở nước ấy.
Chớ nên sau khi ta
diệt độ mà sanh lòng
nghi hoặc.
Đời tương lai, lúc
kinh pháp diệt tận, ta dùng oai lực
từ bi đặc biệt lưu kinh nầy lại một trăm năm, có
chúng sanh nào gặp kinh nầy thì
tùy ý họ nguyện cầu đều được
độ thoát.
Nầy A Dật Đa!
Đức Như Lai ra đời khó gặp khó thấy,
kinh pháp của Phật khó được khó nghe. Các môn
Ba la mật, các pháp
thù thắng của
Bồ Tát được nghe cũng khó. Gặp
thiện tri thức nghe pháp mà làm được cũng là khó.
Nếu nghe kinh nầy mà tin ưa
thọ trì thì là khó trong khó, không gì khó hơn.
Vì thế nên pháp của ta, làm như vậy, nói như vậy, dạy như vậy, phải nên tin thuận
y theo tu hành”.
Lúc
đức Thế Tôn nói kinh nầy, có
vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Một muôn hai ngàn
na do tha người được
pháp nhãn thanh tịnh. Hai mươi hai ức
chư Thiên và nhơn dân được quả
A Na Hàm. Tám mươi vạn
Tỳ Kheo lậu tận ý giải thành
A La Hán. Bốn mươi ức
Bồ Tát được chẳng
thối chuyển, dùng
công đức hoằng thệ tự
trang nghiêm, ở đời tương lai sẽ
thành Chánh Giác.
Bấy giời
Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách.
Quang minh lớn chiếu khắp cõi nước
mười phương. Trăm ngàn
âm nhạc tự nhiên hòa tấu.
Vô lượng hoa đẹp thơm tho rưới xuống.
Đức Phật nói kinh nầy xong,
Di Lặc Bồ Tát và chúng
Bồ Tát từ
mười phương đến,
Trưởng Lão A Nan và chư
đại Thanh Văn, tất cả
đại chúng nghe lời đức Phật dạy đều rất
vui mừng tín thọ phụng hànhPháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai
Thứ Năm.
Hết Tập 1