KINH PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁT NÊ HOÀN
Quyển 4
Phẩm thứ 9: TỨ Y[177][875c]
Đức Phật lại bảo ngài Ca-diếp rằng:
- Trong kinh Đại bát-nê-hoàn này có bốn hạng người
xuất hiện giữa
thế gian. Họ có khả năng hướng đến
chính pháp,
hộ trì chính pháp. Họ có thể làm bốn chỗ nương tựa, đem đến rất nhiều
sự giải thoát và nhiều sự
lợi ích. Bốn hạng ấy gồm: Một là
phàm phu chưa lìa
phiền não xuất hiện ở đời, đem đến rất nhiều
sự giải thoát và nhiều sự
lợi ích. Hai là hạng người chứng Tu-đà-hoàn hoặc Tư-đà-hàm. Ba là hạng người chứng A-na-hàm. Bốn là hạng người chứng A-la-hán. Đó là bốn hạng người làm chỗ nương tựa rất
chân thật, đem đến rất nhiều
sự giải thoát và nhiều sự
lợi ích.
- Hạng
phàm phu là những người tự mình
giữ gìn giới đức, đầy đủ
uy nghi, vì để
hộ pháp nên đã lãnh thụ
chính pháp Như Lai,
đọc tụng,
thọ trì câu chữ,
nghĩa lý,
giảng giải rộng rãi cho người khác nghe, sống ít
tham muốn, lại vì người khác giảng dạy tám điều
đại nhân giác ngộ[178],
giáo hóa những người
phạm giới khiến họ
ăn năn sám hối, biết nhiều
ngôn ngữ của các
chúng sinh, tập hành
công đức hộ trì chính pháp của hàng bồ-tát. Hạng này gọi là đệ nhất
phàm phu trong hàng bồ-tát. Dù vậy, hàng
phàm phu này chưa được
Như Lai thụ ký cho vào
địa vị bồ-tát.
- Hạng Tu-đà-hoàn và Tư-đà-hàm là những người đã
chứng đắc chính pháp, lìa mọi
nghi hoặc. Họ không bao giờ dạy người những thứ kinh sách
phi pháp, luận ký văn vẻ
ca tụng thế gian xa
khế kinh Phật, hay nuôi nô tỳ, giữ vật
phi pháp. Hạng này là Tu-đà-hoàn bồ-tát. Tuy họ chưa đắc
địa vị bồ-tát thứ hai, thứ ba, nhưng họ đã được chư
Phật thụ ký[179] ngay ở đời này.
- A-na-hàm là đã đắc
chính pháp, lìa mọi
hồ nghi. Họ không bao giờ dạy người những thứ kinh sách
phi pháp, luận ký văn vẻ
ca tụng thế gian xa
Khế kinh Phật, hay nuôi nô tỳ, giữ vật
phi pháp.
Phiền não chưa khởi họ đã biết ngay. Còn những
phiền não trong thời
quá khứ họ đã đoạn sạch không còn
trở lại. Những pháp họ thuyết không đoạn
Phật tính,
đức hạnh thanh tịnh, thân không có bệnh từ bên ngoài vào;
rắn độc bốn đại[180] làm chỗ nương tựa cho các mầm bệnh cũng không thể sinh; khéo giảng
vô ngã độ người chấp ngã[181]. Họ đã
xa lìa ngô ngã
thế gian nhưng vẫn
phương tiện tùy thuận thế gian. Họ chỉ
thuyết giảng giáo pháp Đại thừa, không thuyết gì khác. Trong thân chẳng có
vô lượng não hoạn của tám vạn trùng. Tâm lìa
ái dục, không có
ác mộng. Thoát tất cả hữu và nạn
sinh tử. Người làm được vậy là A-na-hàm. Không còn
trở lại cõi đời này nữa là A-na-hàm.
Huân tập công đức qua nhiều
thời gian, bao nhiêu điều ác không thể nhiễm vào là A-na-hàm. Gọi A-na-hàm này là bồ-tát
phát tâm thụ ký.
Phát tâm thụ ký nghĩa là người ấy không bao lâu nữa sẽ
thành Phật đạo.
- A-la-hán là
phiền não đã hết, lìa mọi
gánh nặng, những việc cần làm đều đã làm xong, đầy đủ
thập địa[182], đã được thụ ký
pháp nhẫn[183]
thậm thâm. Họ có khả
năng hóa hiện mọi hình về mọi
phương diện tùy theo ý muốn. Là bậc
Như Lai,
Ứng Cúng,
Đẳng Giác. Đầy đủ
công đức như vậy gọi là bậc A-la-hán.
- Trong kinh Đại Bát-nê-hoàn này có bốn hạng người đó
xuất hiện ở đời, đem đến rất nhiều
sự giải thoát và nhiều sự
lợi ích, làm thầy trời, người giống như chư Phật. Bốn hạng người này làm chỗ
chúng sinh nương tựa
chân thật.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Con không tin rằng bốn hạng người đó có thể làm chỗ nương tựa
chân thật. Bởi vì sao vậy? Bởi vì
Thế Tôn từng dạy
trưởng giả Cù-sư-la[184] rằng: “Nếu như
thiên ma,
phạm ma hóa hiện làm thân
đức Phật, đủ ba hai tướng, tám mươi vẻ đẹp,
vầng hào quang tròn rộng đến một tầm,
hiện tướng lông trắng giữa hai chân mày, đến chỗ của ông, ông phải biết cách
hàng phục ma ấy. Nay Ta khuyên ông
hàng phục bọn ma xấu
ác thế kia. Bởi vì sao vậy? Vì không phải là bậc a-la-hán mà lại tự xưng là a-la-hán.
Giả sử bọn ma xấu ác
biến hóa nhiều trò ngồi, nằm ở giữa
hư không, hông trái
phun lửa, hông phải phun nước,
toàn thân cháy đỏ tan thành mây khói, hoặc có thể thuyết chín bộ khế kinh… ông cũng đừng tin.
Vì vậy ông phải
hàng phục bọn ma xấu ác đó đi chớ
sinh nghi hoặc. Thí như ban đêm con chó
ăn vụng vào nhà người ta. Chủ nhà biết được có chó vào nhà
lập tức la mắng: “Con chó chết tiệt, hãy mau cút đi,
nếu không ta sẽ giết chết bây giờ”! Thế là con chó nhanh chóng bỏ chạy, không dám
trở lại.
Ác ma Ba-tuần cũng
y như vậy. Nếu
ác ma đến
biến hóa thì ông hãy lấy năm pháp
trói buộc[185] của Ta để
trói buộc chúng. Bị năm pháp này
trói buộc rồi thì
ác ma Ba-tuần
sợ hãi chạy nhanh, như chó ăn vụng”.
Đức Phật còn vì ông Cù-sư-la mà nói lời rằng: “Nay ông có thể
hàng phục ác ma thì ông đã gần đến chỗ nê-hoàn”. Kính bạch Thế Tôn!
Vậy thì tại sao hôm nay lại nói bốn hàng người kia làm chỗ nương tựa rất là chân thật? Vì
lý do đó con nay chẳng tin.
Phật bảo Ca-diếp:
- Đúng vậy thiện nam! Ta nói pháp này cho hàng
Thanh văn đầy đủ hục nhãn
hàng phục chúng ma, chứ không phải cho những người
thực hành giáo pháp Đại thừa. Trong hàng
Thanh văn tuy có
thiên nhãn nhưng Ta vẫn nói họ còn
nhục nhãn. Nhưng người
nhục nhãn mà tin
Đại thừa thì Ta vẫn nói họ có
Phật nhãn. Bởi vì sao vậy? Bởi vì những người trì
kinh Đại thừa chính là
Phật thừa[186]. Lại nữa thiện nam! Giống như
đại tướng biết giỏi binh pháp, dạy cho một người
tính tình hèn nhát những môn võ thuật, bảo kẻ ấy rằng: “Ông phải
nắm chặt đao kiếm chiến đấu, giữ vững tâm mình như ngọn lửa dữ,
cẩn thận chớ có quay đầu
trở lại. Đến lúc lâm trận hãy nắm giữ chặt binh khí trên tay đại chiến với giặc giống như
mãnh hỏa, binh giặc
chắc chắn sẽ bị đánh lui”.
Đại Hùng Thế Tôn, tướng quân
ba cõi, dạy hàng
Thanh văn hàng phục chúng ma cũng
y như vậy. Lại nữa thiện nam! Thí như một người
bản tính dũng mãnh, lại được học thêm binh
pháp chiến đấu, chẳng hề khiếp sợ, là kẻ
đứng đầu trong hàng chiến sĩ. Cũng vậy, thiện nam! Những người học tập
khế kinh Đại thừa thâm sâu vi diệu chẳng còn
sợ hãi. Phải biết người ấy đã từng
cúng dường vô lượng chư Phật, đã từng thụ học
giáo pháp Đại thừa,
niềm tin của họ
vô cùng vững chắc, cho dù ức trăm ngàn ma
biến hóa trọn không
sợ hãi, dù chỉ một niệm nhỏ như lông tóc, nhưng chúng ma kia thấy người thụ học
kinh điển Đại thừa thì sinh
sợ hãi, như kẻ
hèn nhát. Thí như
rắn độc thấy thuốc trị độc thì sinh
sợ hãi,
thiên ma Ba-tuần cũng
y như vậy. Ức trăm ngàn ma
nghe được âm thanh kinh điển Đại thừa, hoặc nghe hương thơm, thấy
kinh chiếu sáng thì bao
kiêu mạn,
cống cao, tự đại thảy đều tiêu hết. Lại nữa thiện nam! Thí như
con người nếu thấy rồng dữ,
rắn độc,
sư tử, hổ, báo, chó sói ai cũng
sợ hãi, hoặc chỉ nghe tiếng cũng đã sợ rồi. Nhưng lại có người có được khả
năng hàng phục ác thú như kẻ
trượng phu. Người thấy
ác thú sinh lòng
sợ hãi thì cũng giống như hết thảy những hàng
Thanh văn,
Duyên giác nhìn thấy chúng ma. Nếu thấy chúng ma sinh lòng
sợ hãi thì bị chúng ma làm cho lung lạc. Còn như
trượng phu có được khả
năng hàng phục ác thú, nên biết những người học
kinh Đại thừa cũng
y như vậy, họ có khả
năng hàng phục chúng ma, đã
hàng phục rồi lại còn
thuyết pháp, như người
trượng phu hàng phục thú độc. Bọn ma Ba-tuần tâm đã
điều phục liền nói lời rằng: “Từ nay về sau, đối với
chính pháp con sẽ
phát tâm vui vẻ tin ưa, không dám nhiễu loạn”. Nên biết
Thanh văn thì còn
phiền não,
tập khí sợ hãi; còn người
Đại thừa đã diệt
hoàn toàn tập khí sợ hãi. Người
Đại thừa là dõng mãnh
tinh tấn.
Vì vậy Ta nói những hàng
Thanh văn phải nên
hàng phục, chớ sinh
sợ hãi. Như vậy, thiện nam!
Bản kinh Đại thừa Đại bát-nê-hoàn rất là
hy hữu. Nếu nghe kinh này thì cũng giống như Phật còn
tại thế. Người nào tin nhận cũng là
hy hữu. Như hoa ưu-đàm rất khó được gặp,
kinh Đại thừa này cũng
y như vậy, thật là
hy hữu. Ta nê-hoàn rồi, nếu ai gặp được
kinh Đại thừa này cũng
y như vậy, rất là
hy hữu. Ta nê-hoàn rồi, nếu
chúng sinh nào
nghe được kinh này cũng rất
hy hữu. Vì sao hy hữu? Này
thiện nam tử! Vì đời tương lai có nhiều
chúng sinh hủy báng kinh này.
Bồ-tát Ca-diếp bạch
đức Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Nếu như sau này có nhiều
chúng sinh hủy báng kinh này,
vậy thì tương lai ai sẽ là người
hộ trì chính pháp?
Phật bảo Ca-diếp:
- Sau Ta
diệt độ pháp này
lưu bố khoảng 40 năm, sau đó ẩn mất. Này
thiện nam tử! Thí như người đời lấy mía, lúa, gạo,
tô du[187], nhũ lạc[188] dùng làm
thức ăn. Có nhiều
chúng sinh ăn uống thứ này thì sinh ra bệnh,
trái lại ăn uống hoa trái thô cứng lại thấy
ngon lành như người
ăn uống lúa gạo, tô du…
Kinh điển Đại thừa lại không muốn nghe chính là hạng người ăn thứ hoa trái, cỏ cây thô cứng, và đó chính là hàng
Thanh văn thừa[189], bỏ mất mỹ
thực kinh pháp
Đại thừa Đại bát-nê-hoàn, không ưa muốn nghe.
[877a] Lại nữa thiện nam! Thí như ông vua
ở trong núi sâu, không có
thức ăn lúa gạo, tô du…
Nhân dân ông ấy có nhiều thức ngon đều dâng lên vua, còn tự thân mình
ăn uống những thứ hoa trái thô cứng. Nhiều người gần gũi
với lại nhà vua được
thừa hưởng ân, bấy lâu chưa từng thấy
thức ăn ngon mà nay được ăn. Cũng vậy, thiện nam! Bốn hạng người này là những tướng quân dõng mãnh bậc nhất ở trong
Phật pháp, là đại bồ-tát trong hàng bồ-tát. Nếu có một người
xuất hiện ở đời, những nơi họ đến đều lấy
kinh điển Đại bát-nê-hoàn
giáo hóa chúng sinh, tự mình sao chép, dạy người sao chép, làm cho quyển kinh đến với mọi loài. Nếu
chúng sinh nào ở gần với bậc đại bồ-tát ấy
nghe được pháp thực Đại thừa nê-hoàn sẽ được
thần lực quang minh của họ khiến người nghe kinh, dù chưa từng biết câu cú,
nghĩa lý, thậm chí một chữ, được nhuần
lợi ích, như những
chúng sinh nhờ ân của vua được ăn mỹ thực.
Vì vậy, thiện nam!
Bản kinh Đại thừa Đại bát-nê-hoàn đến ở nơi nào phải biết chỗ ấy đất thành
kim cương,
chúng sinh chỗ ấy
nghe được pháp này,
thụ trì đọc tụng dù chỉ một chữ, phải
biết thân họ cũng thành
kim cương. Còn những
chúng sinh bạc đức thiếu phước không muốn
thụ trì kinh điển Đại thừa dù cho
chính pháp lưu thông khắp nước, như những
chúng sinh trong đất nước mình có bao nhiêu loại
thực phẩm thượng vị mà chẳng muốn ăn. Thương thay
chúng sinh nghe
nghĩa chân thật mà chẳng tin nhận!
Bồ-tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn!
Phật diệt độ rồi pháp này
tồn tại khoảng 40 năm, sau đó ẩn mất, vậy trong bao lâu pháp này sẽ được
lưu bố trở lại?
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Sau Ta nê-hoàn, lúc
chính pháp còn hơn 80 năm, là lúc
kinh điển Đại thừa lưu bố khắp Diêm-phù-đề, qua 40 năm, kinh này lại ẩn.
Ca-diếp lại bạch:
- Như
Thế Tôn dạy, lúc kinh Đại bát-nê-hoàn này ẩn, sau đó lại hiện ở giữa
cuộc đời, bấy giờ những người
trì giới rất ít, người
phạm giới nhiều,
chính pháp ẩn mất,
đường chính tổn giảm,
vậy thì người nào có được khả năng tin nhận pháp này? Ai sẽ giữ gìn? Ai đọc? Ai tụng? Ai sẽ cúng dường? Ai sẽ giảng giải? Ai biên chép kinh, dạy người sao chép? Cúi xin
Thế Tôn phân biệt giải thích, khiến mọi
chúng sinh nhờ đó được độ. Chư vị bồ-tát ưa học pháp sâu, nghe
Thế Tôn dạy sẽ vâng làm theo.
Phật bảo Ca-diếp:
-
Lành thay! Lành thay! Này
thiện nam tử! Nếu
chúng sinh nào
phát tâm bồ-đề với chư
Như Lai nhiều số như cát của sông Hi-liên, thì mới có thể đối với
chính pháp lúc sắp diệt tận
phát tâm bồ-tát, dù chưa
quyết định đắc đạo vô thượng, nhưng không
phỉ báng kinh Phương đẳng[190] này.
- Nếu
chúng sinh nào
phát tâm bồ-đề với chư
Như Lai nhiều như số cát của một
sông Hằng thì mới có thể đối với
chính pháp lúc sắp diệt tận không khởi
phỉ báng kinh điển Phương đẳng, lại còn
khởi tâm vui thích tin nhận, nhưng chưa khả năng giảng rộng cho người.
- Nếu
chúng sinh nào
phát tâm bồ-đề với chư
Như Lai nhiều như số cát của hai
sông Hằng thì mới có thể đối với
chính pháp lúc sắp diệt tận không khởi
phỉ báng kinh điển Phương đẳng, mà tự thân còn thụ học thêm nữa, nhưng cũng chưa có khả năng dạy người.
- Nếu
chúng sinh nào
phát tâm bồ-đề với chư
Như Lai nhiều như số cát của ba
sông Hằng thì mới có thể đối với
chính pháp lúc sắp diệt tận không khởi
phỉ báng kinh điển Phương đẳng, lại có khả năng tin nhận,
thuyết giảng, biên chép
kinh điển, nhưng chưa khả năng hiểu được
nghĩa lý.
- Nếu
chúng sinh nào
phát tâm bồ-đề với chư
Như Lai nhiều như số cát của bốn
sông Hằng thì mới có thể đối với
chính pháp lúc sắp diệt tận không khởi
phỉ báng kinh điển Phương đẳng, lại có khả năng tin nhận,
thuyết giảng, hiểu được một phần mười sáu
nghĩa lý thâm sâu của kinh.
- Nếu
chúng sinh nào
phát tâm bồ-đề với chư
Như Lai nhiều như số cát của năm
sông Hằng thì mới có thể đối với
chính pháp lúc sắp diệt tận không khởi
phỉ báng kinh điển Phương đẳng, lại có khả năng tin nhận,
thuyết giảng, biên chép,
gìn giữ, hiểu một phần tám
nghĩa lý thâm sâu.
- Nếu
chúng sinh nào
phát tâm bồ-đề với chư
Như Lai nhiều như số cát của sáu
sông Hằng thì mới có thể đối với
chính pháp lúc sắp diệt tận không khởi
phỉ báng kinh điển Phương đẳng, lại có khả năng tin nhận,
thuyết giảng, biên chép,
giữ gìn, hiểu một phần tư
nghĩa lý thâm sâu.
- Nếu
chúng sinh nào
phát tâm bồ-đề với chư
Như Lai nhiều như số cát của bảy
sông Hằng thì mới có thể đối với
chính pháp lúc sắp diệt tận không khởi
phỉ báng kinh điển Phương đẳng, lại có khả năng tin nhận,
thuyết giảng,
giữ gìn, biên chép, dạy người biên chép, hiểu một phần
hai nghĩa lý
thâm sâu.
- Nếu
chúng sinh nào
phát tâm bồ-đề với chư
Như Lai nhiều như số cát của tám
sông Hằng thì mới có thể đối với
chính pháp lúc sắp diệt tận không khởi
phỉ báng kinh điển Phương đẳng, lại có khả năng tin nhận, biên chép, dạy người biên chép,
giữ gìn,
đọc tụng,
giảng giải,
truyền bá, khéo léo
ẩn mật,
gìn giữ chở che, khéo léo
hiển thị,
thương xót thế gian, khuyên người
cung kính cúng dường kinh điển, chuyển dạy người khác
cung kính cúng dường,
trí tuệ đầy đủ, hiểu sâu
nghĩa lý, khéo biết
Như Lai là
pháp thường trụ, chẳng phải là pháp thay đổi, hủy diệt,
an ổn khoái lạc, khéo hiểu
chúng sinh ai cũng đều có
tự tính Như Lai, khai mở
chúng sinh hiểu rõ điều đó. Chư bồ-tát này trong thuở
quá khứ đã từng
phụng sự vô lượng chư Phật,
vì vậy nên có khả năng
hộ trì chính pháp Như Lai. Nếu như hôm nay người ấy lại
phát tâm bồ-đề thì
đời sau người ấy cũng sẽ kham nhận
hộ trì chính pháp và những việc như biên chép,
đọc tụng, hiểu nghĩa,
giảng giải cho
chúng sinh khác họ đều
thành tựu.
- Này
thiện nam tử! Nên quán xét rằng, ở đời
hiện tại và đời tương lai nếu có người nào tin ưa
giáo pháp,
phát tâm bồ-đề, phải biết người ấy chính là
hộ pháp.
- Lại nữa, thiện nam! Có bọn
ngoại đạo vì
tham lợi dưỡng, nghe Phật nê-hoàn, liền la lên rằng: “Phật chết hẳn rồi”! Bọn chúng không có một chút lo buồn, ngược lại thêm vui. Ở đời tương lai, trong pháp của Ta, có kẻ
giả dạng đắp áo ca-sa
xuất gia học đạo, lười biếng,
buông lung,
phỉ báng khế kinh nê-hoàn, Phương đẳng… phải biết bọn này chính là những hạng dị đạo hôm nay.
Vì vậy những ai tin sâu
giáo pháp,
ưa thích Phương đẳng, Đại bát-nê-hoàn đều là những người
thành tựu vô lượng công đức thù thắng. Này
thiện nam tử!
Giả sử người này trong kiếp
quá khứ đã từng tạo tác
vô lượng tội lỗi, gieo nhiều
nghiệp ác,
đáng lẽ phải chịu
vô lượng quả báo khổ ở
cuộc đời, hoặc bị khinh khi, hoặc rất
xấu xí, áo quần chẳng đủ,
ăn uống thiếu thốn,
cầu tài chẳng lợi, sinh nhà bần tiện, hoặc nhà
tà kiến, hoặc
bị nạn vua… thì nay nhờ sức
công đức hộ pháp chỉ chịu
quả báo nhẹ nhàng mà thôi, còn bệnh nhức đầu thì được khỏi hẳn. Này
thiện nam tử! Thí như sương tuyết, lúc trời chưa mọc, đọng lại chưa tan, đến lúc trời mọc thảy đều tan hết.
Chúng sinh tạo tác
vô lượng tội ác cũng
y như vậy, khi vầng
mặt trời kinh Đại nê-hoàn này chưa
xuất hiện,
vô lượng ác báo tích tụ chẳng mất, đến lúc
mặt trời Đại bát-nê-hoàn này
xuất hiện thì
vô lượng ác báo thảy đều tiêu mất. Lại nữa, thiện nam! Thí như một người
xuất gia học đạo, dù chẳng
giữ giới nhưng được đi chung với
đức Như Lai và với
đại chúng, ở bất cứ đâu, giả đắp ca-sa, nhận người
cúng dường, tên họ
vẫn có trong đoàn thể Tăng của
đức Như Lai. Cũng vậy, thiện nam! Nếu đại bồ-tát đã chứng
Thập địa và hàng
ngoại đạo có thể tin nhận một lời trong
kinh điển Đại thừa này thoáng qua lỗ tai, thì những người đó đều được nhập vào chúng đại bồ-tát của
đức Như Lai.
Giả sử họ vì
danh dự,
lợi dưỡng mà
tụng kinh này, nhưng không
phỉ báng, thì họ cũng sẽ
thành đạo Như Lai,
Ứng Cúng,
Đẳng Giác.
Vì vậy Ta nói bốn hạng người trên là bốn chỗ nương tựa rất
chân thật. Trong bốn hạng đó, chỉ cần làm cho một người có được khả năng tự quyết không lấy luận ký
ngoại đạo thế tục cho là Phật nói, thì đã xứng danh làm chỗ
chúng sinh nương tựa
chân thật, phải nên
cúng dường, theo học
hộ pháp.
Cúng dường thế nào? Nếu ai
thụ trì kinh điển đại thừa, thì nên
suốt đời theo họ để học
hộ trì chính pháp; theo họ học rồi còn
cúng dường thêm.
Vì vậy, Ta nói kệ này:
Người nào biết
chính phápBất luận trẻ hay già
Nên
hết lòng cúng dườngNhư người thờ thần lửa.
Người nào biết
chính phápBất luận trẻ hay già
Phải
hết lòng kính lễNhư trời thờ
Đế thích.
[878a] Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Như
lời Phật dạy, đối với
sư trưởng phải nên
cung kính đảnh lễ,
cúng dường là điều tất yếu.
Giả sử những bậc
trưởng lão theo người trẻ tuổi để học cũng phải
cung kính đảnh lễ hay sao? Nếu như
trưởng lão tuy biết
kinh pháp nhưng chẳng
giữ giới, còn người trẻ tuổi
giữ gìn giới hạnh, thì có
kính lễ trưởng lão kia không? Nếu hàng
bạch y[191] khéo biết
kinh pháp, những người
xuất gia theo họ thụ học, thì phải
cung kính theo pháp thế nào?
Phật bảo Ca-diếp:
- Những người
xuất gia không nên
lễ bái những người
tại gia, vì họ chẳng phải là
ruộng phước điền. Còn người
xuất gia thuộc hàng
trưởng lão đều là
ruộng phước, phải nên
kính lễ. Nếu người
phạm giới thì không nên lễ. Bởi vì sao vậy? Vì giữ cỏ dại thì hại lúa tốt!
Bồ-tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng:
- Trong hai
bài kệ Thế Tôn đã dạy là phải
hết lòng cung kính đảnh lễ như những
chư thiên phụng sự Đế thích, nhưng so lời dạy vừa rồi thì nghĩa đã trái ngược nhau? Nếu phải
lễ kính tất cả
trưởng lão thì các tì-kheo
giữ giới ắt bị
phạm tội rất nhiều. Kính bạch Thế Tôn! Ngài nói
bài kệ nghĩa nó thế nào? Lại nữa, ở trong
khế kinh Phật dạy phải nên
hàng phục những người phạm giới?
Phật bảo Ca-diếp:
- Ta nói cho hàng bồ-tát tương lai, phải nên
hết lòng cung kính đảnh lễ, như những
chư thiên phụng thờ Đế thích. Hai
bài kệ này nói cho bồ-tát, chẳng phải để nói cho hàng
thanh văn. Này
thiện nam tử! Ta nê-hoàn rồi, đến lúc
chính pháp Như Lai sắp diệt, người
giữ giới giảm, người
phạm giới tăng; những bậc
thanh tịnh,
đạt được giải thoát đều
ẩn dật hết, chỉ còn những người
xuất gia thụ nhận tài vật
phi pháp,
nuôi dưỡng nô tỳ… Vào lúc bấy giờ, trong bốn hạng người, nếu có một hạng
xuất hiện ở đời, với lòng
tịnh tín,
từ bỏ gia đình,
xuất gia học đạo, cũng
thị hiện như những người thụ nhận tài vật
phi pháp,
nuôi dưỡng nô tỳ, nhưng người ấy biết
phân biệt những điều đúng pháp,
phi pháp, đúng luật, phi luật, biết rõ người nào không
giữ giới hạnh, cũng tự
biết mình phạm tội nặng nhẹ, lại có khả năng biết việc Phật làm, khéo biết phong tục,
pháp luật từng vùng. Lúc học
chín bộ kinh điển
Như Lai, biết người tụng tập
chín bộ kinh điển
phạm giới trái luật. Dù biết người đó
phạm tội rất nặng, nhưng vì
hộ pháp nên vẫn
phương tiện im lặng không nói
lỗi lầm của họ, mà tự nhún nhường theo họ thụ học, vì tâm
hộ pháp nên chẳng
phá hoại. Phải biết người này
xuất hiện ở đời là để
hộ pháp.
- Này
thiện nam tử! Thí như đất nước vua mới băng hà, vương tử còn nhỏ chẳng thể
trị quốc. Có người
dân quê, dòng chiên-đà-la[192],
lợi dụng sức mạnh cướp đoạt ngôi vua. Bấy giờ, những dòng
trưởng giả và bà-la-môn
suy nghĩ như vầy: Nay chiên-đà-là làm chủ nước này,
chúng ta vì sao không phản, lại theo? Bèn bỏ quê hương trốn qua nước khác. Vua chiên-đà-la sai người đuổi theo, chặn các ngã đường. Vua chiên-đà-la đánh trống tuyên lệnh, bảo các
trưởng giả và bà-la-môn: “Mọi người chớ đi, ta sẽ chia cho các ông nửa nước”.
Nhân dân trong nước có người không đi. Vua lại nói rằng: “Các bà-la-môn!
Mọi người hãy chuyển lời của ta rằng, vào bảy ngày sau, các bà-la-môn, những nhân sĩ phải thiết
đại hội cho vua chiên-đà-la.
Mọi người cùng nhau đến chỗ của vua, cùng với
quốc vương và hàng
thân tộc dòng chiên-đa-la
ăn uống ngủ nghỉ. Nếu có người nào không
tuân theo lệnh thì sẽ bị ta
nghiêm khắc trừng trị”. Vua lại nói rằng: “Gia tộc của ta có thuốc
cam lộ từ trời Đao-lợi, người nào uống vào sẽ được
trường sinh, vậy hãy
tìm cách giữ gìn, dùng chung”. Bấy giờ có một
Phạm chí bện tóc,
chuyên tu tịnh hạnh, nghe vua
thông báo liền đến chỗ vua, đầu mặt
đảnh lễ dưới chân nhà vua, thưa rằng: “Muôn tâu đại vương! Thần chính là người làm điều
đại ác, bất nhẫn bậc nhất ở trong
thiên hạ. Nếu ngài
ban cho chức tước, bổng lộc, thì thần nguyện xin nghe theo lệnh ngài”. Vua liền chuẩn tấu. Khi ấy
Phạm chí vâng theo lệnh vua,
lãnh đạo quốc nội. Bấy giờ trong nước các bà-la-môn đều
nổi giận dữ,
trách mắng Phạm chí, nhưng
Phạm chí vẫn theo vua trị nước. Một
thời gian sau, đại thần
Phạm chí thưa với vua rằng: “Thần với
đại vương cùng nhau
lãnh đạo đất nước bấy lâu, chẳng lẽ chưa đủ để
tin tưởng nhau, sao chẳng thấy ngài dạy cho pháp thuật?” Vua bảo
Phạm chí: “Từ từ ta sẽ dạy ông
pháp thuật. Nay trong nhà ta còn thuốc
cam lộ của bậc tiên vương, hãy cùng nhau uống”. Rồi vua bèn đem vị thuốc
cam lộ cùng với cách dùng giao cho
Phạm chí. Đại thần
Phạm chí lấy được
cam lộ và cách dùng rồi, hòa thuốc vào cơm đưa cho vua ăn. Vua ăn thuốc ấy tức thì
mạng chung[193]. Bấy giờ đại thần
Phạm chí liền lập
thái tử của vua
thuở trước lên ngôi, truyền trao vương vị, giúp đỡ nhà vua dùng pháp tiên vương
giáo hóa dân chúng. Như vậy đại thần
Phạm chí không bỏ pháp bà-la-môn
thực hành theo pháp của chiên-đà-la. Đó là
Phạm chí tu hạnh bồ-tát cứu vớt
chúng sinh,
nhân dân trong nước hết lời
ca ngợi: “Lành thay! bà-la-môn này
hộ trì vương pháp”. Bấy giờ bồ-tát
hộ trì chính pháp cũng dùng
phương tiện như bà-la-môn lập vương tử đó
lên ngôi quốc vương, trong ngoài
hoàng cung cho đến đại thần đều theo
chính pháp.
Vợ con quyến thuộc vua chiên-đà-la đều bị thuốc độc làm cho mê mẩn, sau khi
tỉnh lại bị đuổi khỏi nước. Bậc đại bồ-tát cũng
y như vậy,
hiện tướng phạm giới,
nuôi dưỡng nô tỳ, thụ nhận tài vật không đúng
chính pháp, đến chỗ tì-kheo
phạm giới, làm ác thụ học
kinh điển. Học
kinh điển xong, vì muốn truyền dạy cho người
trì giới, nên phải
ở chung với những người ác, qua lại
ăn uống, tự tay nấu nướng, không đi
khất thực, vì để
hộ pháp nên mới
phương tiện làm tám sự việc
phi pháp[194] khiến những người ác mê mẩn, nhằm
điều phục họ, không cùng bọn họ
hòa hợp bố-tát hay dự tự-tứ.
Hàng phục tất cả những người
phạm giới, rồi cùng
hòa hợp với chúng
thanh tịnh bố-tát, tự-tứ, đem pháp
Đại thừa giảng giải rộng rãi cho
mọi người nghe, làm cho
an ổn và
cứu độ khắp
vô lượng chúng sinh. Đó là bồ-tát
hộ trì chính pháp. Ta vì những người như thế mà nói hai
bài kệ trên. Nếu tì-kheo nào nghe Ta nói đây mà không có tâm
hộ trì chính pháp, nhưng muốn
phương tiện bắt chước những vị bồ-tát thế kia, thì những người đó gây nên
tội lỗi mà Phật đã cấm, nếu nói bồ-tát thật sự có làm những điều xấu ác, thì Ta nói họ là bọn lười biếng. Ta dùng
phương tiện dạy pháp
vi diệu cho hàng bồ-tát nên nói kệ này:
Người nào biết
chính phápBất luận trẻ hay già
Nên
hết lòng cúng dườngNhư người thờ Thần lửa.
Người nào biết
chính phápBất luận trẻ hay già
Phải
hết lòng kính lễNhư Trời thờ
Đế thích.
[879a] Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Bồ-tát buông thả, lười biếng như vậy với
giới cụ túc có
thanh tịnh không?
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Với
giới cụ túc, nếu như người ấy
thành tâm sám hối thì được
thanh tịnh. Này
thiện nam tử! Thí như bờ đê bị vỡ thì nước sẽ chảy ra ngoài. Bởi vì sao vậy? Vì không
sửa chữa. Này
thiện nam tử! Bờ đê bị vỡ liền đắp vá lại thì giữ được nước. Người
giải đãi kia cũng giống như vậy. Với
giới cụ túc, bố-tát, tự-tứ bị phá vỡ thì
giới thể lọt mất. Bởi vì sao vậy? Vì siêng năng giảm, lười biếng lại tăng. Nhưng nếu tì-kheo
giới hạnh tổn giảm liền tu chỉnh lại, theo chư bồ-tát
hộ pháp học đạo, siêng năng
sửa đổi,
ân cần sám hối sẽ được
thanh tịnh.
Ca-diếp
bạch Phật:
- Trái a-ma-lặc[195] mà
Thế Tôn từng ví dụ trong kinh, dù sống hay chín cũng khó
phân biệt;
trì giới,
phạm giới, cũng khó
nhận biết giống
y như thế, vậy phải làm sao để
phân biệt được?
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Muốn biết tướng trạng
trì giới,
phạm giới thì
y cứ kinh Đại bát-nê-hoàn sẽ
phân biệt rõ. Này
thiện nam tử! Như người
nông dân gieo trồng
ngũ cốc, trừ hết cỏ dại gọi là ruộng sạch. Nếu còn cỏ bại[196] giống
y như lúa, đến khi kết hạt, cỏ lúa khác nhau, khi đó sẽ biết thật giả
rõ ràng. Bồ-tát
hộ pháp cũng
y như vậy.
Phương pháp làm cho
ruộng phước điền Tăng sạch sẽ trước hết phải trừ tám loại
hành vi tội lỗi[197].
Lỗi lầm trừ sạch, bấy giờ sẽ được gọi là
chúng Tăng nhục nhãn thanh tịnh, họ được xếp vào
ruộng phước tốt lành dẫn đến
thánh quả. Ngoài chúng
nhục nhãn là Tăng
thanh tịnh. Chỉ cần trừ sạch tám loại
rắn độc lỗi lầm xấu ác[198] thì được
chúng Tăng ruộng phước tốt lành, dù chưa phải là
thanh tịnh tất cả, nhưng cũng xứng đáng làm
ruộng phước lành cho trời, người cúng, huống gì là bậc
thành tựu rốt ráo diệu quả thánh hiền,
ruộng phước thanh tịnh, là bậc
tiêu biểu vượt ngoài thấy biết của hàng nhục nhãn?
- Lại nữa thiện nam! Thí như nước nọ có hai loại quả, một là ca-lưu[199], hai là triêm-mâu[200]. Cây ca-lưu thì có trái rất đắng, còn cây triêm-mâu có trái rất ngọt. Nhưng cả hai cây đều có hoa, lá và trái giống nhau. Có một người kia không biết
phân biệt hai loại trái trên lượm hết đem về, rồi ra chợ bán, người mua ăn vào bị chết rất nhiều. Bấy giờ người trí nghi là trái độc liền đến
dò hỏi: “Ông lượm trái này từ chỗ nào về?” Đáp: “Ở chỗ nọ”. Người trí liền bảo với kẻ kia rằng: “Đó là trái độc, làm chết nhiều người, phải bỏ đi mau”. Cũng vậy, thiện nam!
Chúng Tăng lười biếng, làm tám điều ác[201], thì người
trì giới ở chung với họ như cây trái ngọt mọc chung trong rừng với cây có độc, bồ-tát
hộ pháp dạy họ
từ bỏ, không để những người
đệ tử tín tâm thân cận
lễ bái,
cung kính,
cúng dường, sợ đoạn mạng sống, mất giống
trí tuệ, đọa vào
địa ngục.
Vì vậy những người
cư sĩ nếu có
lòng tin cần phải khéo léo
phân biệt, chớ thấy
hình tướng liền theo gần gũi, mà phải đến hỏi họ có làm tám điều
phi pháp không? Tự-tứ, bố-tát có
hòa hợp không? Nếu họ không làm tám điều
phi pháp, thì hàng Tăng đó được
Thế Tôn nhận, vì thương
chúng sinh, ở rừng Kỳ-hoàn[202]
cùng chung hòa hợp y như vàng thật tụ về một chỗ. Phải biết đây là chỗ đáng
cúng dường. Còn nói không nhận, không cùng
hòa hợp bố-tát, tự-tứ, phải biết bọn họ chẳng phải là chỗ trời, người
cúng dường, các tì-kheo khác không nên cùng họ bố-tát, tự-tứ. Còn nếu như hỏi mà vẫn không biết, thì phải nương vào
khế kinh chân thật của
đức Như Lai để mà
phân biệt. Nếu người
ngu si, chẳng biết
phân biệt,
đi theo cung kính,
chu cấp vật dụng và thường gần gũi, Ta nói kẻ ấy sẽ đọa đường ác.
- Lại nữa thiện nam! Thí như núi Tuyết[203] có loại thảo dược vị nó rất ngọt. Bấy giờ
thương nhân đem thứ thuốc ấy đi bán khắp nơi. Có một người nọ không biết
phân biệt về
các loại thuốc, hỏi
thương nhân rằng: “Ông có
dược thảo vị ngọt ở vùng núi Tuyết hay không?”
Thương nhân nói: “Có”! Người nọ liền mua. Nhưng người lái buôn thì đưa thuốc đắng. Người nọ tìm mua thuốc ngọt mà lại bị tráo thuốc đắng.
Chúng Tăng thanh tịnh như thuốc núi Tuyết mà cùng với những tì-kheo lười biếng,
phạm giới ở chung, những người
tín tâm cúng dường lễ bái, phải biết đây là người trần
mắt thịt, giống như kẻ nọ chẳng biết
phân biệt thuốc ngọt, thuốc đắng. Người nào
thanh tịnh, kẻ nào
phạm giới, tướng trạng khó biết, người trần
mắt thịt không thể
phân biệt, chỉ người
thiên nhãn mới khéo
phân biệt. Cho nên những ai làm tám điều ác, dù mặc
pháp phục, không nên thụ nhận người ta
cung kính,
lễ bái cúng dường. Nhưng
nếu có thể sửa đổi,
sám hối, bỏ tám điều ác thì cũng
trở thành bậc Tăng
thanh tịnh.
Ca-diếp
bạch Phật:
- Hay thay! Hay thay!
Thế Tôn giảng nói pháp
hoan hỷ này! Con sẽ lãnh thụ giống như
giữ gìn bảo vật kim cương.
Bấy giờ bồ-tát Ca-diếp lại bạch:
-
Thế Tôn có dạy cho các tì-kheo bốn pháp nương tựa. Bốn pháp đó là: Nương tựa
chính pháp, không nương tựa người; nương nghĩa
quyết định, không nương tựa pháp nghĩa chưa
quyết định[204]; nương tựa
trí tuệ, không nương tựa thức; nương tựa
nghĩa lý, không nương
văn tự. Chúng con tin bốn pháp nương tựa này, chứ không tin bốn hạng người có thể làm chỗ
chúng sinh nương tựa
chân thật.
Phật bảo Ca-diếp:
- Tên các pháp đó chính là
Như Lai đại bát-nê-hoàn. Hết thảy chư Phật đều đồng pháp ấy.
Chư Phật Như Lai đắc pháp ấy rồi
thường trụ bất biến, không hề hư hoại. Đối với
Như Lai mà nghĩ
vô thường, Ta bảo người đó chẳng hề biết pháp, nên chẳng
đáng tin. Còn bốn hạng người mà Ta đã nói họ đều khéo hiểu
phương tiện mật giáo của
đức Như Lai, họ biết
Như Lai là
pháp thường trụ, chẳng phải là pháp thay đổi, hư hoại.
Chư Phật Như Lai cũng ở trong họ. Bốn hạng người đó và
chúng sinh khác khéo hiểu
nghĩa lý phương tiện mật giáo Như Lai thường trụ, cho nên Ta nói họ làm nền tảng cho sự nương tựa, phải biết nên tin. Vì
ý nghĩa này Ta nói bốn hạng người ấy là chỗ nương tựa
chân thật.
- Nương tựa pháp là, chư vị
Thanh văn đại đức,
trí tuệ, đối với
chính pháp tâm không thất niệm;
chính pháp chính là
Như Lai thường trụ; đối với
chính pháp phương tiện tinh cần, gọi là
y pháp.
- Không nương tựa người là người
phạm giới,
tham dục,
phiền não, lại nói
Như Lai là pháp
vô thường. Hạng người như vậy không
đáng tin cậy, cho nên Ta nói không nên nương tựa.
- Nương nghĩa
quyết định: Nghĩa
quyết định là hàng đại bồ-tát. Chư vị
thanh văn đối với
phương tiện mật giáo Như Lai tâm còn
nghi ngờ, chưa có
lòng tin. Biển trí
Đại thừa khiến cho tâm ấy đi đến
quyết định, lìa mọi
nghi hoặc.
Quyết định nghĩa là
trí tuệ Đại thừa vĩnh viễn xa lìa tất cả
chướng ngại.
Chướng ngại tức là trí của
thanh văn. Chư vị bồ-tát khéo lấy
trí tuệ Đại thừa quyết định, hiểu được
Như Lai là
pháp thường trụ, cho nên bồ-tát là chỗ
đáng tin.
- Nghĩa chưa
quyết định là trí
thanh văn, họ nói thân Phật là do
thức ăn ô uế
nuôi dưỡng,
Như Lai nê-hoàn tức là diệt tận, giống như lửa tắt. Do trí như vậy nên chẳng
đáng tin. Cho nên
Như Lai thuyết
bản kinh này
phương tiện giáo hóa cho những
chúng sinh nhị thừa[205]
lầm lạc. Hạng người
thanh văn là trí
hữu dư[206], là không
quyết định,
vì vậy cho nên gọi
thanh văn là trí chưa
quyết định, bởi
trí tuệ ấy không thể hiểu được lời dạy của bậc
Như Lai Đại thánh. Cho nên nói họ là không
đáng tin. Do đó
Như Lai nói nghĩa
quyết định chính là bốn chỗ nương tựa
chân thật.
- Nương vào
trí tuệ:
Trí tuệ chính là tin
pháp thân Phật, còn thân
phương tiện thì không
đáng tin. Thế nào là chỉ thấy thân
phương tiện của đức Như Lai? Là cho rằng thật có ấm, giới, nhập[207],
nếu không thì thân này từ đâu tới, và nay
hiện có tích tụ xá-lợi? Vì có xá-lợi hiện giữa
thế gian, nên nói
pháp thân là thân ô uế,
thức ăn nuôi dưỡng. Bởi thức khởi lên
ý nghĩ hư vọng như vậy cho nên không thể
tin tưởng. Thức không
đáng tin, cho nên những người
sử dụng ý thức, phải biết người đó cũng không
đáng tin.
- Nương tựa
nghĩa lý: Nghĩa tức là chính. Chính là đầy đủ. Đầy đủ nghĩa là không bị sút giảm. Không sút giảm là
Như Lai thường trụ.
Như Lai thường trụ là
pháp thường trụ.
Pháp thường trụ nghĩa là tăng
thường trụ, đó là lời Phật. Như thế gọi là nương tựa
nghĩa lý. Nếu kẻ
phàm phu tâm không ngay thẳng, may nhờ
Như Lai từ bi che chở cho nên họ được
xuất gia học đạo, nhưng rồi lười biếng,
buông lung,
phạm giới, nói rằng: “Đức Phật
cho phép được nuôi
súc vật, đầy tớ, nhận vật phi pháp”. Gặp lúc
mất mùa, thì lại nói rằng: “Đệ tử của Phật chớ nên chịu khổ.
Đức Phật cho phép nuôi giữ
súc vật, trâu, ngựa, đầy tớ, cất giữ lúa gạo, tiền tài, vàng, bạc, buôn bán kiếm lời”. Những thứ kinh luật
văn từ như vậy không nên
tin theo. Người nào
tin theo những kinh luật đó, phải biết người đó cũng không
đáng tin. Vì
ý nghĩa này cho nên mới nói phải nương tựa nghĩa.
Phi nghĩa tức là cho rằng
tam bảo là pháp
vô thường, thay đổi, hủy diệt. Đây là
phi nghĩa, cũng gọi
văn tự, do đó nói rằng phải nương
ý nghĩa, đừng nương
văn tự.
Giả sử ngoại đạo có
thuyết kinh luật,
ý nghĩa lại hợp
giáo pháp Đại thừa, thì nên
tin theo, điều đó chẳng phải chỉ là
văn tự.
- Này
thiện nam tử! Bốn
điều y cứ và bốn hạng người
nhục nhãn nói trên là chỗ nương tựa
chân thật ở đời, gọi là
tứ y. Nên học như vậy!
KINH ĐẠI BÁT NÊ HOÀN
Phẩm thứ 10: PHÂN BIỆT TÀ CHÍNH[880a]
Phật bảo Ca-diếp:
- Có bốn loại pháp. Pháp của ma thuyết. Pháp của
Phật thuyết. Có những
chúng sinh theo
pháp ma nói. Có những
chúng sinh theo pháp
Phật thuyết.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Chúng con làm sao biết để phân biệt? Xin Phật chỉ dạy, chúng con muốn nghe!
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Sau Ta nê-hoàn khoảng bảy trăm năm,
giáo pháp Như Lai từ đó ẩn dần. Bấy giờ chúng ma giả làm tì-kheo nhiễu loạn
chính pháp,
hiện tướng thợ săn cố che giấu mình.
Thiên ma ba-tuần giả tướng tì-kheo, tướng tì-kheo-ni, tướng ưu-bà-ắc, tướng ưu-bà-di, tướng tu-đà-hoàn, tướng tư-đà-hàm, tướng a-na-hàm, tướng a-la-hán, và cả tướng Phật; bỏ tướng
thế tục nhưng lại hành động pháp của
thế gian để
phá pháp Ta. Ba-tuần nói rằng: “Như Lai từ trời Đâu-suất chết đi,
giáng thần vào nhà của vua
Tịnh Phạn,
phu nhân Ma-da
ái dục hòa hợp mà sinh ra thân. Nếu như nói rằng không phải từ chuyện
ái dục mà sinh, là điều
không thật. Ngài cũng sinh ra như cách người đời, nhưng được trời, người và a-tu-la
cung kính cúng dường là bởi đời trước Ngài đã gieo trồng cội gốc
phước đức, tự đem
vợ con và mọi
tài sản ra làm
bố thí, nhờ đó thành Phật”. Phải biết đây là
tướng mạo,
lời nói, kinh luật của ma. Tại sao như vậy? Bởi
đức Như Lai,
Ứng Cúng,
Đẳng Giác vì muốn
giáo hóa cho mọi
chúng sinh mà sinh ra đời, chẳng phải
Như Lai sinh ra từ sự mẹ cha
ái nhiễm,
thị hiện tướng ấy là để
tùy thuận thế gian mà thôi. Phải biết
tướng mạo và
lời nói này chính là kinh luật của
đức Phật thuyết. Nếu
chúng sinh nào
tin tưởng kinh luật của chúng ma nói, phải biết bọn họ là
quyến thuộc ma. Nếu
chúng sinh nào
tin tưởng kinh luật của
đức Phật thuyết, phải biết họ là những bậc bồ-tát.
- Lại nói “Như Lai
xuất hiện ở đời, hướng về mười phía, bước đi bảy bước, chẳng phải
thị hiện nói là
thị hiện, nên chẳng thể tin”. Phải biết đây là kinh luật ma nói. Nếu nói “Như Lai lúc vừa đản sinh, hướng về
mười phương, bước đi bảy bước, đó là
Như Lai phương tiện thị hiện”. Phải biết đây là kinh luật
Phật thuyết. Kinh luật ma nói, nếu người nào tin, phải biết người đó là
quyến thuộc ma. Kinh luật
Phật thuyết, nếu người nào tin, phải biết người đó chính là bồ-tát.
- Lại nói “Như Lai đi đến miếu trời,
cung kính lễ bái, chẳng phải
thiên thần lễ bái bồ-tát. Bởi vì sao vậy?
Thiên thần đứng trước,
Như Lai đứng sau”. Phải biết đây là kinh luật ma nói. Kinh luật
Như Lai là nói thế này: “Như Lai
phương tiện đi đến miếu trời,
chư thiên,
Đế thích,
Phạm thiên đều phải
cung kính đảnh lễ, hầu hạ bồ-tát”. Kinh luật ma nói, nếu người nào tin, phải biết người đó bị ma dạy dỗ. Nếu người nào tin kinh luật Phật nói, đó là bồ-tát.
- Lại nói “Như Lai lúc làm
thái tử, hưởng thụ năm món
dục lạc cùng với cung nhân mỹ nữ”. Phải biết đây là kinh luật ma nói. Còn nói “Như Lai
thị hiện ở trong thâm cung đầy đủ
dục lạc, mỹ nữ
vậy mà Ngài bỏ như nhổ đàm giải để đi xuất gia”, thì đây chính là kinh luật
Phật thuyết. Kinh luật ma nói mà có người tin, phải biết người đó bị ma dạy dỗ. Nếu người nào tin kinh luật Phật nói, đó là bồ-tát.
- Lại nói “Như Lai,
Ứng Cúng,
Đẳng Giác ở
rừng Kỳ-đà, vườn
Cấp Cô Độc thụ nhận tiền tài,
vàng bạc,
vật báu, đồng, sắt,
lưu ly,
hạt trai, ngọc bội,
san hô,
hổ phách, nuôi giữ
súc vật voi, ngựa, trâu, dê, gà, chó, mèo, chồn, khỉ, chuột các loại…, ruộng nương nhà cửa, buôn bán
trao đổi,
nuôi dưỡng nam nữ, tích trữ lúa gạo.
Vô số vật dụng như vậy vì lòng
thương xót thế gian, nên nhận về hết”. Phải biết đây là những lời ma nói.
Đức Phật Như Lai,
Ứng Cúng,
Đẳng Giác thương xót tất cả
chúng sinh muôn loài, khi trụ ở rừng Na-la[208] Ta đã từng nói với bà-la-môn Di-la-kì-la và vua Ba-tư-nặc[209] rằng: “Đại vương! Nói những
đệ tử của Ta thụ nhận những vật
phi pháp là điều không có. Chẳng hạn nói nuôi nô tỳ, voi ngựa, trâu, dê, gà, chó, mèo, chồn, khỉ, chuột, đồng, sắt,
lưu ly,
vàng bạc,
hạt trai, ngọc bội, cẩm thạch,
san hô,
hổ phách, nhiều loại vật khác; ruộng nương nhà cửa, buôn bán
trao đổi,
nuôi dưỡng nam nữ, tích trữ lúa gạo, tự nấu đồ ăn, dạy người nấu nướng, học
xem tướng số, học luyện bùa chú, tập luyện theo tiếng của các loài chim, tính toán ngày tháng
nhật thực, nguyệt thực, đoán xem số mạng, học kết hoa tóc, học làm thợ mộc, học sáu mươi bốn thuật đoán giải mộng, uống thuốc tiêu thực, sửa sang răng, môi, cài hoa trên tóc, thân ướp dầu thơm,
dua nịnh tiến thân, giả tướng
tri túc mà
sự thật thì lòng tham không chán, nói cười
chuyện phiếm, tham ăn vị ngon, cá, thịt các thứ, gom các thuốc độc, hoặc gom dầu thơm, làm các nhạc khí[210], giày dép, nón mũ bằng đồ da thú, chẻ tre, dệt vải khắc vẽ, thêu thùa, uống
các loại thuốc hòa trộn nhiều hương, học
cách ăn nói theo lối vương gia, đứng ngồi, nói cười an nhiêm trầm mặc, học bọn đàn bà trang sức
hương hoa, nói năng đùa bỡn,
y phục lòe loẹt, làm lầu gác vàng, vào hội quán rượu và nhà dâm nữ… bao nhiêu những điều
phi pháp như vậy, hoặc làm, hoặc nhận, hoặc cho người khác,
đại vương nên biết, Ta đều
nghiêm cấm không cho tì-kheo làm những việc đó. Bởi vì sao vậy? Bởi vì những điều
phi pháp này giống như đám cỏ dại sẽ làm hư hoại ruộng lúa tốt tươi. Ta phải khổ nhọc trừ bỏ nó đi”. Phải biết những lời như vừa nói đó là kinh luật Phật. Những người
tin theo kinh luật ma nói, phải biết bọn họ bị ma dạy dỗ. Những người
tin theo kinh luật của Phật, phải biết người đó chính là bồ-tát.
- Nếu nói “Như Lai không thể
thị hiện đi vào miếu trời, cũng không thể nào
hàng phục chư thiên,
loài người trong đó; cũng không thể ở trong chín mươi sáu đạo mà
xuất gia; không thể
thị hiện kiếp
thành kiếp bại, không thể học hết tất cả y thuật; cũng không thể nào
hóa hiện làm người
nô bộc nam, nữ, hay làm cây thuốc, làm vua, đại thần.
Giả sử Như Lai làm được việc ấy, thì Ngài chẳng phải là đấng
Như Lai, thấy biết như vậy là bọn
tà kiến.
Như Lai bình đẳng với mọi ân, oán; không có oán giận, chẳng có
yêu thương, cũng không có các
tâm niệm như vậy”. Nên biết đây là kinh luật của ma. Còn nói “Như Lai
thị hiện vào trong tất cả miếu trời, ở trong chín mươi sáu đạo
xuất gia, làm kiếp thành, bại, vào các
giảng đường chú thuật đọc sách, làm thân
nô bộc, thân nam, thân nữ, hoặc làm cây thuốc, làm vua, đại thần, vào nhà
dâm nữ, hoặc làm
trưởng giả,
cư sĩ,
phạm chí, bần cùng,
nam nữ, hoặc là phi nam,
hiện hữu khắp nơi trong hai lăm cõi[211],
biến hóa không cùng mà chẳng hề bị thân ấy nhiễu hại, giống như
hoa sen chẳng nhiễm bùn dơ. Phải nên biết rằng, vì để
hóa độ tất cả
chúng sinh mà phải
tùy thuận theo cách
thế gian biến hóa ra đủ
tướng mạo như thế”. Những điều ghi chép như vậy chính là kinh luật của Phật. Những ai
tin theo kinh luật ma nói, phải biết bọn họ bị ma dạy dỗ. Còn ai
tin theo kinh luật của Phật, đó là bồ-tát.
- Nếu ai nói rằng: “trong kinh luật ta,
Thế Tôn đã dạy đây là
tội lỗi, đây là điều ác, đây là điều nhẹ, đây là điều nặng, đây là tội thô, đây là
tội tính[212], đây là tội chế[213]… Ta nói
giới luật này là
chân thật. Ông cũng nói
giới luật ông là thật, nên bỏ giới của ta theo của ông? Ông cho rằng đây là
giới luật của
thế gian hay sao? Kinh luật của ta là
chín bộ kinh Như Lai đã thuyết, có dấu
chứng thật. Trong
chín bộ kinh ta chưa từng nghe một câu, một chữ, thậm chí nửa lời về
kinh Phương đẳng.
Kinh điển Như Lai có mười bộ chăng?
Bộ kinh Phương đẳng vô lượng như vậy, phải biết đều là do Điều-đạt[214] làm, vì muốn
phá hoại tất cả
nghĩa lý nên mới tạo ra lời
hư vọng đó.
Kinh điển Phương đẳng tạo ra từ những
ý nghĩ hư vọng,
chúng ta đừng tin”.
Phật bảo Ca-diếp:
- Những lời như vậy làm loạn
giáo pháp của
đức Như Lai, bài báng
khế kinh Phương đẳng của Phật. Phải biết đó là kinh luật ma nói. Ở đời tương tai có bọn người đó. Ai cũng cho rằng mình có kinh luật, cùng
tranh luận với kinh luật
tà thuyết. Có các tì-kheo biết được ngoài
chín bộ kinh Như Lai thuyết riêng một bộ
Đại kinh Phương đẳng, nên dốc
lòng tin; đối với
giới luật không hề
chấp trước những điều
tà kiến; những gì
bất tịnh, không hợp
uy nghi đều xả bỏ hết; đối với
pháp luật của
đức Như Lai đầy đủ
thanh tịnh tựa như trăng tròn; biết tất cả kinh, mỗi mỗi
pháp luật, mọi điều
giới hạnh số nhiều như cát ở trong
sông Hằng, không
thể tính đếm,
nghĩa lý chân thật, mọi
nghĩa lý đó đều do
Phật thuyết. Nếu người nào nói
giới luật của ta không có giới này, phải biết giới này chẳng phải
Phật thuyết; hoặc nói
giới luật ta giữ chỉ có
giới hạn mà thôi. Phải biết đây là những người
phạm giới. Kinh luật nào nói
thiểu dục,
thanh tịnh, hợp với lời Phật, phải biết nghĩa này đều là
kinh điển của
Đại thừa thuyết. Nếu ai bảo rằng,
đức Phật Như Lai vì muốn
an ổn và vì
cứu độ tất cả
chúng sinh cho nên
thuyết kinh Phương đẳng Đại thừa Đại bát-nê-hoàn. Phải biết người này là
đệ tử Ta. Những người nói khác thì Ta chẳng phải là thầy của họ, chẳng phải
xuất gia học đạo nơi Ta, mà là
đệ tử ngoại đạo tà kiến. Các dấu hiệu trên phải biết đó là kinh luật
Phật thuyết. Người nào
tin theo kinh luật ma thuyết, phải biết người đó bị ma dạy dỗ. Đối với kinh luật của
Như Lai thuyết người nào
tin theo, phải biết người đó chính là bồ-tát.
- “Như Lai
thành tựu công đức vô lượng, đắc tuệ
Không vô[215], vì
chúng sinh thuyết khổ, không,
vô ngã, nay đã đến lúc
vô thường hoại diệt nên nhập nê-hoàn, không phải
thị hiện tùy thuận thế gian”. Những lời như vậy đều là ma nói. Phải biết
Như Lai không thể nghĩ bàn. Ngài đã
thành tựu vô lượng vô số công đức trang nghiêm, là Phật,
Thế Tôn, là
pháp thường trụ, không phải là pháp thay đổi,
biến hoại, chẳng phải tất cả như cây đa-la[216] đã bị chặt ngọn, nhưng
Thế Tôn thuyết bốn pháp bất độ[217] như cây đa-la đã bị chặt ngọn; lại nói mỗi một bất độ tựa như đá chẻ làm đôi; ai tự cho rằng mình đã chứng được pháp hơn người thì sẽ bị đọa ngục
Vô gián trở lên. Pháp hơn người là chưa thật
chứng quả nói mình
chứng quả. Nếu có tì-kheo ít muốn, biết đủ, lại nhiều
tri thức, vua và đại thần, cùng với dân chúng thấy đều
cung kính, nói
kệ tán thán thầy tì-kheo ấy
công đức vô lượng, xưng là
tôn giả, nói rằng sau khi
tôn giả xả bỏ thân này
chắc chắn sẽ
thành Phật đạo. Thầy tì-kheo ấy nghe vậy liền nói: “Các ông chớ nên lấy đạo
giải thoát tán thán những người chưa
chứng đạo quả, bởi những lời đó đắm trên
chữ nghĩa, Phật chẳng
hài lòng. Các ông im đi, chớ nên
suốt đời vì người
tu hành pháp lạc như ta mà nói những lời
đa dục như vậy, ta tự
biết mình chưa
chứng đạo quả”. Vua và đại thần bảo tì-kheo rằng: “Tôn giả ngày nay chẳng khác
đức Phật,
mọi người nghe tiếng, đều sẽ theo ngài học kinh, luật, luận”. Nên biết nhà vua cùng với đại thần nói
kệ tán thán sẽ được
thành tựu công đức vô lượng. Còn tì-kheo kia
tu trì phạm hạnh, không
vi phạm giới, chẳng phạm bất độ, không phạm vào lỗi tự cho rằng mình có pháp hơn người.
- Lại có tì-kheo
diễn thuyết rộng rãi kinh tạng Như Lai, nói rằng: “Tất cả
chúng sinh đều có
Phật tính của mình. Một khi
vô lượng phiền não trong thân đã
trừ diệt hết thì tính Phật ấy sẽ
hiển lộ ra, trừ nhất-xiển-đề”. Bấy giờ
quốc vương cùng với đại thần hỏi tì-kheo kia: “Ngài sẽ
làm Phật hay chẳng làm Phật? Trong thân của ngài cũng có Phật tính?”. Tì-kheo kia đáp: “Chưa biết tôi sẽ
thành Phật hay không, nhưng tôi biết chắc là trong thân tôi thật có tính Phật”. Lại hỏi tì-kheo: “Như ngài chẳng làm hạng nhất-xiển-đề,
vậy thì phải chăng ngài tự cho rằng mình sẽ làm Phật”? Tì-kheo ấy đáp: “Đúng vậy! Chỉ cần trong thân thật có Phật tính”. Dù tì-kheo kia nói lời như vậy, chẳng phải tự xưng
đắc pháp hơn người, bởi vì
sự thật là có
Phật tính, nhờ
giữ giới luật mới
thành Phật quả.
- Lại có tì-kheo
tư duy như vầy: “Ta sẽ
thành Phật,
chắc chắn như vậy, không
nghi ngờ gì”.
Tư duy như vậy, dù chưa
chứng đắc đạo quả giải thoát, người ấy
vẫn có phước đức vô lượng. Vì
ý nghĩa này, tất cả tì-kheo đều nên
tu hành pháp
tư duy đó. Bởi vì sao vậy? Vì sẽ ngay đây
xa lìa tám mươi ức pháp
bất tịnh;
thanh tịnh,
thiểu dục tất được
thành tựu,
chân tính Như Lai nhờ đó
hiển hiện, mau được trăm ngàn kho tàng pháp báu.
Thế Tôn đại bi mới nói lời này. Phải biết tướng trạng trình bày ở trước chính là kinh luật của
đức Phật thuyết. Kinh luật của ma, người nào
tin theo, phải biết người đó bị ma dạy dỗ. Người nào
tin theo kinh luật
Phật thuyết, phải biết người đó chính là bồ-tát.
- Lại nữa, nếu ai bảo rằng: “Chẳng có bốn pháp tội đọa, mười
ba tăng tàn, ba mươi pháp xả, chín mốt pháp đọa, nhiều
pháp chúng học, bốn pháp
hối lỗi, hai pháp
bất định, bảy
pháp diệt tránh; không việt tỳ-ni[218], cũng chẳng tội nặng, không có
ngũ nghịch, chẳng báng
kinh pháp, chẳng có hạng người là nhất-xiển-đề, cũng chẳng có chuyện phạm các giới này sẽ bị
quả báo đọa trong
địa ngục. Tất cả tì-kheo và những
ngoại đạo đều được
sinh thiên, nhưng
Phật Thế Tôn để hù dọa người nên
thuyết giới luật. Nếu muốn mặc tình hưởng thụ khoái lạc ở
cuộc đời thì hãy bỏ
pháp phục,
trở lại thế tục thụ hưởng năm dục,
chừng nào thấy chán năm món dục rồi,
trở lại tu thiện,
ăn năn sám hối. Thời Phật
tại thế cũng có tì-kheo
thụ hưởng năm dục được sinh
cõi trời, cũng
được giải thoát.
Xưa nay đều có những chuyện như vậy, chẳng phải riêng ta tự tạo dựng nên. Phạm bốn tội đọa,
cho đến năm giới, cùng với tất cả
luật nghi bất tịnh, nhận vật phi pháp… đều
được giải thoát. Nếu ai nói rằng, tội việt tỳ-ni đọa trong
địa ngục chịu khổ
lâu dài,
thời gian bằng tám vạn bốn ngàn năm của trời Đao-lợi, còn các tội khác phần nào chuyển
thành quả báo nặng hơn. Đây là những lời của các
luật sư giả danh Phật giáo, vọng nói
hư ngụy, chẳng nên tin tưởng”. Những điều trên đó, phải biết chính là kinh luật của ma. Tội việt tỳ-ni rất là
vi tế. Nếu tì-kheo nào phạm mỗi mỗi điều
luật nghi vi tế,
biết mình phạm tội mà cố che giấu, như rùa giữ kỹ sáu chi của mình, với bọn người này phải nên
xa lìa, đừng nên gần gũi, như Ta nói kệ:
Nếu người
phạm tội nhỏ
Nói dối bằng
im lặngKhông kể
trong đời sau
Việc ác nào cũng làm.
[882a] Đây là những điều nhỏ nhặt
vi tế, đều do
Như Lai quyết định giáo giới, huống
phạm tội nặng?!
Giới luật không kể là lớn hay nhỏ đều phải giữ vững, vì là
Phật tính.
- Nếu ai bảo rằng: “Chín
bộ kinh điển không nói
chúng sinh đều có
Phật tính;
kinh điển Phương đẳng cũng thuyết
vô ngã chính là bài báng chín bộ
khế kinh. Tại sao lại không khơi mở cái thấy ở nơi chúng sinh? Trong
chín bộ kinh chưa từng nghe nói tất cả
chúng sinh đều có
Phật tính. Ta làm sao tin? Hoặc là tự xưng nói pháp hơn người”. Phải biết những lời bọn họ vừa nói,
như bảo biển cả chẳng có
của báu. Người kia tuy có học
chín bộ kinh, nhưng mà yếu tạng của
kinh Phương đẳng, biển pháp
Đại thừa,
vô lượng pháp bảo chẳng phải là
cảnh giới của người kia.
Đức Phật thuyết pháp đâu vì tất cả
thanh văn,
duyên giác,
cảnh giới Đại thừa không phải của họ. Thấy được
nhân duyên, dấu hiệu
Phật thuyết, lại cũng biết được tất cả
chúng sinh đều có
Phật tính, không hoại các tướng ngô ngã,
thọ mạng, tâm giữ
trung đạo, nói trong thân ta đều có
Phật tính, ta sẽ
thành Phật, ta nay phải đoạn tất cả
phiền não. Ai nói
như vầy, thì
bản thân họ chính là
thanh văn, nếu ai nói khác gọi là tự xưng được pháp hơn người.
- Nếu ai bảo rằng: “Ta đã
thành Phật, ta đã thấy pháp, trụ ở Phật địa”, chính là tự xưng được pháp hơn người. Ai không nói
vậy thì không bao lâu họ sẽ
thành Phật. Pháp Phật
thâm sâu quyết định như vậy. Trong những tì-kheo tự cho rằng mình được pháp hơn người vì
cầu lợi dưỡng,
dua nịnh tiến thân, giả đi
khất thực,
ngu si phạm giới, chưa
chứng đạo quả mà nói với người là mình đã chứng, để
mọi người biết nhằm được
cung kính, hưởng sự
cúng dường, tăng thêm
tham muốn, chờ đợi
cúng dường, không tu
niệm pháp, nhưng giả
uy nghi làm
vui lòng người. Ta nói bọn này là kẻ tự xưng được pháp hơn người.
- Lại có tì-kheo vì để
hộ trì chính pháp nên giả tham
cầu lợi dưỡng, ưa muốn
nổi danh,
suy nghĩ như vầy: “Phải khiến tất cả
mọi người được biết, khen ngợi
lành thay,
cung kính,
thừa sự. Ta sẽ nhân đó,
hàng phục ngoại đạo và bọn
phạm giới, quang rạng
oai đức trời người
tôn kính của
đức Như Lai, rộng tuyên
kinh điển Phương đẳng Đại thừa Đại bát-nê-hoàn, khai
đạo chúng sinh khéo hiểu kinh luật và luật
liên hệ của
Như Lai thuyết, nuôi lớn
hạt giống Như Lai tự thân, khiến cho
Phật tính nhanh chóng
hiển bày,
vô lượng kết hoạn
đồng thời trừ diệt, bảo các
chúng sinh: ‘Mọi người đều có khả tính
thành Phật, cho nên hãy gắng diệt sạch phiền não’”. Vì tâm
hộ pháp mà nói như vậy, Ta bảo người này là hàng bồ-tát, chỉ vì
hộ pháp nên chẳng có tội nói pháp hơn người. Tội việt tỳ-ni còn bị đọa
địa ngục chịu khổ với
thời gian bằng tám vạn bốn ngàn năm của trời Đao-lợi, huống là tội nặng? Trong pháp
Đại thừa người
phạm tội nặng đều bị trục xuất. Có tâm chiếm giữ là
phạm tội nặng. Như người giữ tháp mà chiếm một vật nhỏ bằng hạt cải, lấy một quyển kinh mà không hỏi chủ, đều
phạm tội nặng; có lòng
gian tà phá hoại tháp Phật, cũng
phạm tội nặng, tất phải trục xuất. Nếu vua, đại thần
xây dựng chùa, tháp,
cúng dường xá-lợi, hoặc vì
cung kính mời một tì-kheo thay vua
sắp đặt,
giữ gìn tiền bạc, nhưng tì-kheo đó làm theo ý mình khiến chủ
quở trách. Những tì-kheo này cũng phải trục xuất. Những người
bất nam[219] và người
nhị căn[220], đều phải trục xuất. Bởi vì sao vậy? Vì vượt
năm giới. Thậm
chí phải có
từ tâm bố thí sự không
sợ hãi cho cả con kiến, là pháp sa-môn.
Giả sử chỉ nghe mùi rượu đã phải nhanh chóng rời xa, là pháp sa-môn. Pháp của sa-môn thì ở trong mộng cũng không
vọng ngữ. Pháp của sa-môn thì ở trong mộng cũng không
ở chung chỗ có người nữ. Nếu ở trong mộng mà cùng
ở chung, dù chưa
phạm giới, như hương của hoa khiến người
xao xuyến, tâm khởi
buông lung, đều do ban ngày nhìn thấy cảnh vật, tâm liền sinh theo, nên tối
nằm mộng, khi
tỉnh mộng rồi
ý niệm thêm loạn, như nghĩ đến ăn mới đi
khất thực, làm sao khiến tâm
phóng túng không sinh? Ngay ở trong mộng,
tâm niệm mới sinh phải mau
trừ diệt. Những điều nêu trên phải biết đó là kinh luật của Phật. Nếu ai
tin theo kinh luật của ma, phải biết người đó bị ma dạy dỗ. Còn ai
tin theo kinh luật
Phật thuyết, phải biết người đó chính là bồ-tát.
- Nếu ai bảo rằng: “Như Lai
cho phép những bậc
đại nhân chỉ ngồi một chỗ,
uy nghi đi đứng, không nói là pháp; gieo đầu vào đá, tự uống thuốc độc, hoặc là nhịn ăn,
sát hại sinh vật,
trói buộc chúng sinh để nuôi
thân thể, làm nghề mưu mẹo, luyện thuật bùa chú khiến người mê loạn, hạng chiên-đà-la,
bất nam,
nhị căn,
thân thể khuyết tật… đều được
xuất gia, vì thương
chúng sinh. Vì
lòng từ bi, nên những sữa, mật, lụa là, ngọc bội, thuộc da, lúa gạo… đều không nên dùng, những loài cỏ cây đều có mạng sống. Nê-hoàn diệt hẳn”. Những lời như trên phải biết chính là kinh luật ma thuyết. Trừ bốn
uy nghi của bậc
đại nhân, nếu ai bảo rằng Ta
cho phép được uống thứ thuốc độc, lao đầu vào lửa, nhịn ăn đến chết, gieo đầu vào đá, tàn sát
chúng sinh, làm nghề mưu mẹo, luyện thuật bùa chú khiến người mê loạn, những loại sữa, mật, lụa là, ngọc bội, lúa gạo nấu chín nghĩ đó là thịt, đối với hết thảy cỏ cây nghĩ rằng chúng có thọ mạng… ai nói như vậy Ta không
hài lòng. Người nói điều đó, phải biết họ là
đệ tử ngoại đạo. Những ai
hành trì theo lời Ta dạy là
đệ tử Ta, không nói
bốn đại là có mạng sống. Những điều như vậy phải biết chính là kinh luật
Phật thuyết.
- Những điều
so sánh còn nhiều
vô lượng. Những ai
tin theo kinh luật ma thuyết, phải biết người đó bị ma dạy dỗ. Những ai
tin theo kinh luật
Phật thuyết, phải biết người đó chính là bồ-tát.
- Này
thiện nam tử! Phải khéo
phân biệt, tướng trạng sai khác giữa kinh
Phật thuyết, với kinh ma thuyết, như vừa trình bày.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Hay thay, Thế Tôn! Hôm nay chúng con mới hiểu lời dạy của
đức Như Lai thật là
thâm sâu.
Phật bảo Ca-diếp:
-
Lành thay,
lành thay! Này
thiện nam tử! Phải học như vậy mới là người có
trí tuệ thông suốt.
Kinh Đại Bát-nê-hoàn
Hết quyển thứ 4