KINH PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁT NÊ HOÀN
Quyển 2
Phẩm thứ 4: AI THÁN[861a] Bấy giờ mặt đất
chấn động sáu cách. Tất cả thôn xóm, thành ấp, núi, biển ngay thành Câu-di, nhẫn đến
mười phương đều
chấn động mạnh.
Đại chúng sợ hãi. Trời, người, tu-la khóc gào
thảm thiết, dập đầu
sát đất lễ Phật cúng dường, rồi họ cùng nhau
đồng thanh nói kệ:
Dập đầu lạy
Thế Tôn,
Thương con, đời
côi cút,
Quỳ lạy dưới chân Ngài,
Chiêm ngưỡng Diệu
Công Đức.
Xin Phật nói cho con
Vô lượng khổ
sinh tửTrời, người ai
nghe đượcĐều sinh tâm chán lìa.
Giống như kẻ
mồ côiBệnh nặng tự nuôi thân
Tuy gặp thầy thuốc giỏi
Nhưng trị bệnh chưa lành
Bỗng giữa chừng thầy thuốc
Bỏ đi qua
nơi khácTất cả chúng con đây
Cùng khổ cũng như vậy
Mới nhờ chút
phương tiệnTrừ phiền não,
tà kiếnThế Tôn,
Đại y vươngBỗng bỏ con mà đi
Chẳng khác người
bệnh khổMất thầy thuốc cậy nhờ!
Than ôi! Thế gian này
Từ nay mãi trống vắng
Như đất nước
loạn lạcLại mất vua hiền minh
Thương thay chúng trời, người
Đều gặp họa la-sát[104].
Như vào kiếp
mất mùaDân bị khổ đói kém
Thương thay chúng trời, người
Vị
cam lộ mất hẳn
Thí như lửa dữ cháy
Thiêu rụi hết
chúng sinhThương thay chúng trời, người
Đường ác mãi nung đốt
Thương thay chúng trời, người
Đêm dài chịu khổ đau
Trôi lăn dòng
sinh tửNhư voi lún bùn sâu
Thương thay nay trời, người
Toàn thân tuôn huyết lệ
Sầu bi, thêm
khổ nãoTâm
quyến luyến như vậy
Vì
Thế Tôn diệt độ[105]
Hành nghiệp khó đo lường
Trời, trăng mây che phủ
Ánh tuệ diệt từ nay
Thương thay chúng trời, người
Đêm dài tăm tối mãi
Vì thế lòng khổ sầu
không gì
so sánh được
Thân này chẳng gì vui
Muốn bỏ như đàm giải
không muốn sống ở đời
Khi hay Phật nê-hoàn
Xin nguyện
Đại Trí Tôn
Trụ thế thuyết
cam lộMây tan,
mặt trời hiện
Bóng tối thảy
tiêu tanÁnh
sáng trí tuệ Phật
Xua tan màn
sinh tử.
[861b] Bấy giờ
Thế Tôn bảo các tì-kheo:
- Này các tì-kheo! Chớ như
phàm phu,
chư thiên,
loài người,
u sầu khóc lóc mà hãy
nỗ lực tinh tấn phụng trì,
chuyên niệm giữ gìn những
pháp chân thật mà Phật đã dạy.
Lúc ấy trời, người và a-tu-la… nghe Phật nói pháp cho các tì-kheo, liền tự
nén lòng, ngăn sự luyến thương, thí như
hiếu tử cùng với mẹ hiền vừa mới tiển đưa ông nội ra nơi gò mã
tống táng,
vĩnh biệt quay về, dù rất thương cảm,
áo não trong lòng cũng tự
kiềm chế.
Bấy giờ
Thế Tôn nói
bài kệ rằng:
Các ông hãy lĩnh ngộ
Pháp chư Phật vốn vậy
Mỗi người về chỗ ngồi
Lắng
nghe lời Ta dạy
Nhiếp tâm, chớ
buông lungGiữ gìn giới thanh tịnhĐịnh phục các
loạn tưởngKhéo
hộ trì tâm mình.
[861b] Lại nữa, này các tì-kheo! Nếu có
hoài nghi nay nên thưa hỏi. Đối với các pháp: không với chẳng không, thường với
vô thường, quy với vô quy, y với
vô y, hằng với không hằng,
chúng sinh với chẳng phải là
chúng sinh, thật với
không thật, đế với
không đế, nê-hoàn với chẳng phải là nê-hoàn, mật với không mật, hai với chẳng hai… đối với các
pháp như vậy ai còn
hoài nghi điều gì hãy mau thưa hỏi, Ta sẽ
tùy thuận trả lời các ông, sẽ vì các ông mở cửa
bất tử rồi mới
diệt độ.
Vì vậy trong tâm các ông hiện còn
nghi ngờ điều gì mau đem thưa hỏi. Vì sao như vậy? Phật rất khó gặp,
thân người khó được, có được
niềm tin càng khó hơn nữa, lìa khỏi
tám nạn[106],
trì giới cụ túc[107] lại càng khó hơn, giống như trong cát tìm hạt gạo vàng, như hoa ưu-đàm ngàn năm mới nở.
- Lại nữa, này các tì-kheo! Trăm loài thảo dược, lúa gạo, cỏ cây và các
trân bảo đều từ đất sinh. Hết thảy
chúng sinh nương nơi trái đất mà được
sinh trưởng.
Như Lai cũng vậy, sinh ra các pháp,
cam lộ nhiệm mầu,
chúng sinh nhờ đó
trưởng dưỡng pháp thân.
Vì vậy cho nên, này các tì-kheo, nếu còn
hoài nghi hãy đem thưa hỏi,
Như Lai sẽ vì các ông
quyết nghi rồi vào nê-hoàn, vì Ta muốn cho tất cả
chúng sinh đều được
an lạc.
Bấy giờ chư vị tì-kheo nghe Phật
quyết định nê-hoàn thì tâm của họ đều thấy
bất an, vừa buồn vừa sợ,
toàn thân sởn ốc. Giống như
mặt trời lúc vừa mới mọc rọi lên cây xanh từng đường gân lá như mạch máu đỏ hiện rõ trên ấy,
thân thể tì-kheo cũng giống như vậy, khắp cả
tứ chi máu huyết tươm ra. Họ dập đầu xuống
sát đất đảnh lễ dưới chân
Đức Phật, rồi đi nhiễu phải, xong quỳ bạch rằng:
-
Lành thay, Thế Tôn! Xin Ngài mau thuyết
vô thường, khổ, không. Thí như
dấu chân các loài
chúng sinh thì
dấu chân voi là lớn hơn hết.
Thế Tôn cũng vậy, trong các
pháp thoại nói về pháp quán, thì quán
vô thường là
tối thượng nhất, nếu
như tinh cần tu tập thì sẽ
thoát ly tất cả
tham ái cõi dục,
ái hữu, ái sắc,
vô minh kiêu mạn từ đây diệt tận. Lại nữa, Thế Tôn! Thí như ruộng đồng của người nông phu, vào tiết
mùa thu, khi cỏ chưa chín, cày bừa thật sâu, thì đến
mùa xuân, gieo
ngũ cốc xuống, cỏ dại không mọc.
Hành giả cũng vậy, siêng quán
vô thường,
tinh cần tu tập thì được
thoát ly tham ái cõi dục,
sắc ái,
hữu ái,
vô minh kiêu mạn không sinh trở lại, như người nông phu cày vào
mùa thu là hơn hết cả. Kính bạch Thế Tôn! Trong các pháp quán,
quán tưởng vô thường là
pháp đệ nhất. Lại như ông vua, tự biết rằng mình đã sắp băng hà, liền ban chiếu lệnh
đại xá thiên hạ, phóng thích tù nhân, rồi sau mới chết. Hôm nay
Thế Tôn cũng giống như vậy, trước khi
diệt độ,
thuyết pháp cam lộ,
lợi lạc chúng sinh,
giải thoát mọi thứ lao ngục
tham ái rồi vào nê-hoàn. Giống như một người, bị
ác quỷ bắt, may gặp
pháp sư trì chú làm phép liền
thoát nạn quỷ.
Chúng sinh cũng vậy, bị quỷ la-sát
tham ái bắt đi, may nhờ
thần chú Thánh huệ của Phật
giải thoát chúng sinh ra khỏi lưới tà, quỷ dữ
ân ái. Như người bệnh sốt gặp thầy thuốc giỏi, bệnh được trị lành. Chúng con cũng vậy, thân
vô lượng bệnh,
tà kiến,
phiền não, may nhờ
pháp dược của
Đức Thế Tôn mà lành hẳn bệnh. Như người say rượu chẳng
biết thân sơ, tôn ty già trẻ. Đến khi tỉnh rượu, lòng thấy
hổ thẹn, liền tự trách mình. Chúng con cũng vậy, trong biển
sinh tử không bờ không mé, say
mê tình dục, vướng vào
tà kiến, nay vừa
tỉnh ngộ, biết tấm thân này tựa như cỏ lau hay cây
y lan, chẳng gì bền chắc; ta, người,
thọ mạng[108] đều không lâu bền.
Phật bảo tì-kheo:
- Như vậy các ông
tu tập pháp
quán vô ngã phải không?
Các tì-kheo đáp:
- Đúng vậy Thế Tôn! Chúng con thường
tu pháp quán vô ngã.
Ngoài ra có người còn quán
vô thường, khổ, không,
vô ngã. Kính bạch Thế Tôn! Như có người nói,
mặt trời mặt trăng, các vì
tinh tú, đất, núi chuyển dời, mà những thứ này
thực không chuyển dời,
chúng sinh mê lầm bảo là chuyển dời. Như vậy người nào nói pháp
vô thường, khổ, không,
vô ngã, phải biết người đó, như những
chúng sinh thế tục mê lầm.
Pháp chúng con tu là
pháp bình đẳng.
Phật bảo tì-kheo:
- Như ông
thí dụ, trong
thí dụ đó, câu
chữ nghĩa lý ông vẫn chưa hiểu. Ta sẽ nói thêm. Như có người nói
mặt trời,
mặt trăng, đất núi chuyển dời, mà những thứ này
thực không chuyển dời, chỉ vì
mê lầm mới nói chuyển dời,
chúng sinh cũng vậy,
ngu si điên đảo,
chấp ngã, chấp thường, chấp lạc, chấp tịnh. Nhưng ngã chính là diệu nghĩa của Phật, thường đây chính là nghĩa của
Pháp thân, lạc đây chính là nghĩa của nê-hoàn, tịnh đây chính là thật nghĩa của pháp. Này các tì-kheo, chớ sinh
mê lầm mà nói rằng Ta đối với các pháp
tu quán vô thường, khổ, không,
bất tịnh.
Tì-kheo lại thưa:
- Kính bạch Thế Tôn! Chúng con cũng tu ba pháp quán tịnh[109].
Phật bảo tì-kheo:
- Ba pháp tu này trong pháp của Ta cũng
không thật nghĩa, dù cho khổ tu vẫn không
thành tựu, vì tính thay đổi. Khổ mà tưởng vui, đó là
điên đảo. Vui mà tưởng khổ, đó là
điên đảo.
Vô thường nghĩ thường, đó là
điên đảo. Thường nghĩ
vô thường, đó là
điên đảo.
Vô ngã tưởng ngã, đó là
điên đảo.
Ngã tưởng vô ngã, đó là
điên đảo.
Bất tịnh tưởng tịnh, đó là
điên đảo. Tịnh tưởng
bất tịnh, đó là
điên đảo. Đây là bốn pháp
điên đảo vọng tưởng. Người nào không biết
vận tâm bình đẳng tu những pháp này thì chẳng phải là
tu hành chân chính. Khổ tu bất khổ,
vô thường tu thường,
vô ngã tu ngã,
bất tịnh tu tịnh, bốn pháp tu này, thường-lạc-ngã-tịnh, là của
thế gian. Lìa khỏi
thế gian cũng có bốn pháp thường-lạc-ngã-tịnh. Các ông phải biết, pháp của
thế gian chỉ có tên chữ, pháp
xuất thế gian mới có
nghĩa lý.
Lúc ấy, chư vị tì-kheo bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Chúng con làm sao như lời Ngài dạy tu ba
quán tưởng, thấy bốn điên đảo? Nguyện xin
Thế Tôn trụ lại ở đời hoặc là một kiếp, hoặc hơn một kiếp, như lời Ngài dạy chúng con
tu hành. Nếu
Đức Như Lai không trụ lại đời chúng con làm sao có
đủ khả năng ở chung một nhà với loài
rắn độc[110]? Mãi xa
Như Lai ai trụ lại đời
giữ gìn chính pháp? Nay chúng con sẽ làm
y như Phật, nhập vào nê-hoàn.
Phật bảo tì-kheo:
- Chớ nói như vậy! Chớ nói như vậy! Tì-kheo nên biết,
chính pháp Như Lai đã trao Ca-diếp. Ông
Đại Ca-diếp là chỗ nương tựa cho các tì-kheo, cũng sẽ
cứu độ tất cả
chúng sinh như Phật không khác. Tì-kheo nên biết, thí như
đại vương nắm giữ quyền hành của một đất nước, nếu muốn
du hành thì lập đại
thần quyền hành như vua coi ngó việc nước. Ta cũng như vậy, đem
thế giới này giao cho Ca-diếp. Này các tì-kheo! Các pháp
vô thường, khổ, không,
vô ngã mà các ông từng
tu tập trước đây chưa phải
chân thật. Thí như, đêm rằm tháng giêng có đoàn
thương nhân dạo chơi trên sông, trong đó có người đánh rơi xuống nước một viên
lưu ly.
Lúc ấy, mấy người
thương nhân liền nhảy xuống nước lặn tìm
bảo châu. Có người nhặt được gạch đá
dưới nước tưởng lầm
bảo châu,
vui mừng nổi lên mới biết không phải.
Bảo châu lưu ly vẫn còn
dưới nước lấp lánh sắc màu sáng tựa trời, trăng.
Mọi người nhìn thấy biết
minh châu thật, ai cũng
trầm trồ, cùng tranh nhau lấy.
Lúc ấy có người khéo léo dùng trí lấy được
bảo châu. Này các tì-kheo! Đối với tất cả các pháp khổ, không,
vô thường,
bất tịnh, các ông nghĩ rằng mình đã
hết lòng vâng lời tu tập, thì như những người nhặt lấy gạch ngói mà tự dối mình cho là
bảo châu. Này các tì-kheo! Chớ như bọn kia tự lừa dối mình mà phải như kẻ
thương nhân trí tuệ. Tì-kheo phải biết, có ngã, có thường, có lạc, có tịnh. Pháp các ông tu,
nhiếp thọ phụng trì đều là
điên đảo, như người không biết thứ
bảo châu giả. Này các tì-kheo,
tu pháp chân thật,
như bảo châu thật, với
pháp không thật,
tu quán vô thường.
Tì-kheo
bạch Phật:
- Như
Thế Tôn dạy, tất cả các pháp đều là
vô ngã, phải tu như vậy
ngã tưởng sẽ diệt.
Ngã tưởng diệt rồi hướng đến nê-hoàn. Nghĩa này thế nào? Nguyện xin
Thế Tôn,
thương xót chúng con
giải thích tường tận!
Phật dạy tì-kheo:
-
Lành thay,
lành thay! Này các tì-kheo! Các ông muốn trừ
bản ngã mê lầm mới hỏi như vậy. Thí như ông vua
ám độn thiểu trí, gặp ông thầy thuốc cũng hạng
ngu si, lừa dối
thiên hạ. Ông thầy thuốc này nhận bổng lộc vua, chỉ biết thuốc sữa[111], không biết gì khác,
thường dùng thuốc này để
điều trị bệnh cho cả quốc dân, lại không biết được
nguyên nhân của bệnh phong đàm, viêm họng. Nhưng vua
ám độn lại khen ông ấy tài giỏi bậc nhất. Bấy giờ có một thầy thuốc
thông hiểu tám cách trị bệnh, mới từ xa đến, bảo thầy thuốc cũ: ‘Xin theo thầy học, ngài là thầy tôi, tôi là đệ tử’. Thầy thuốc cũ nói: ‘Lành thay! Ta sẽ dạy ông phương thuốc
trường sinh bất tử, ông phải siêng
năng học 48 năm, khi ấy ông sẽ biết hết tất cả y thuật bậc nhất’. Rồi thầy thuốc cũ dẫn đứa học trò ra vào vương cung. Ông vua
ám độn cũng rất ưa mến. Thầy thuốc mới đến thưa với vua rằng: ‘Đại vương cũng nên
học nghề y thuật’. Vua rất
hoan hỷ, bèn theo
học nghề,
trí tuệ tăng dần, mới vỡ lẽ ra, ông thầy thuốc cũ ngu dốt lừa mình, liền đuổi khỏi nước, thêm phần
kính trọng thầy thuốc đến sau. Thầy thuốc đến sau biết đã
đúng lúc, liền thưa vua rằng: ‘Có lời muốn thưa, xin vua cho phép’. Vua bảo: ‘Cứ nói’! Thầy thuốc liền thưa: ‘Đại vương nên biết, thuốc sữa mà ông thầy thuốc trước đây thường cho dân uống
độc hại nguy hiểm, không nên uống nữa, phải bỏ đi ngay’. Vua liền
nghe lời, hạ lệnh toàn dân từ nay về sau ai dùng thuốc sữa sẽ
bị phạt nặng. Khi ấy, thầy thuốc đến sau dùng năm loại thuốc đủ cả năm vị: ngọt, chua, mặn, đắng, cay để chữa mọi bệnh. Sau vua
lâm bệnh mời thầy thuốc đến. Thầy thuốc xem mạch, biết bệnh của vua phải dùng thuốc sữa, bèn thưa vua rằng: ‘Chỉ có thuốc sữa, mới trị lành bệnh’. Vua bảo thầy thuốc: ‘Ông điên rồi sao? Trước nói là độc, bảo ta phải đuổi thầy thuốc trước đây, nhưng nay lại bảo phải uống thuốc sữa’? Thầy thuốc đáp rằng: ‘Không phải, đại vương! Lời này có ý. Thí như tấm ván bị mối mọt ăn để lại dấu vết như tên của vua. Người không giỏi chữ tưởng là chữ thật, còn người giỏi chữ biết ngay không phải. Thầy thuốc trước đây cũng
y như vậy, tuy dùng thuốc sữa nhưng không biết cách
sử dụng đúng lúc.
Đại vương nên biết, thuốc sữa có thể giết chết
con người, nhưng cũng có thể cứu được mạng người. Không giết chết người là nuôi bò sữa thả nơi đồng trống, không có cỏ độc, cho uống nước sạch, không dùng roi đánh, thả nhốt
đúng lúc, khi vắt sữa bò đừng cho nổi bọt. Phải biết sữa này cứu tất cả bệnh, không phải thuốc độc’. Vua nói: ‘Hay thay’! Bèn uống thuốc sữa. Khi ấy quốc dân nghe vua uống sữa hết thảy
kinh hoàng kéo đến gặp vua, hỏi rõ
ngọn ngành: ‘Ông thầy thuốc này không phải quỷ chứ? Sao trước đây nói thuốc sữa hại người nay lại khiến vua dùng lại thuốc ấy’? Bấy giờ nhà vua
giải thích rõ ràng cho dân chúng nghe về cách dùng sữa. Vua
cùng dân chúng càng thêm
kính trọng thầy thuốc đến sau, làm theo cách ấy, thường uống thuốc sữa.
Tì-kheo nên biết,
Như Lai,
Ứng Cúng,
Đẳng Chính Giác,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn, là
Đại y vương xuất hiện ở đời, vì để phá
trừ tà thuật
ngoại đạo nên sống gần gũi với mọi
chúng sinh, để họ yêu thích rồi liền
giáo hóa khiến bỏ đường tà mà nói lời này: Không có
ngã nhân,
chúng sinh,
thọ mạng. Tựa như trùng mọt đục ván thành chữ, những kẻ
dị học vì
chấp ngã nhân, nên nói
vô ngã. Hết thảy
chúng sinh vâng lời Như Lai xoay vần dạy nhau đều nói
vô ngã. Đó là
Như Lai biết đúng thời điểm, vì cứu
chúng sinh phương tiện thuyết rằng tính của các pháp vốn là
vô ngã, chẳng như
thế gian chấp có ngã nhân, nên mới nói rằng tính của các pháp vốn là
vô ngã. Bây giờ nói ngã, như thầy thuốc kia biết dùng thuốc sữa, phải biết rằng ngã vốn là
chân thật, ngã là
thường trụ, không phải là pháp thay đổi biến dị, không phải là pháp hủy diệt từ từ. Ngã là
phước đức, ngã là
tự tại, thí như thầy thuốc khéo dùng thuốc sữa,
Như Lai cũng vậy, vì mọi
chúng sinh nói
pháp chân thật. Hết thảy
bốn chúng[112] nên học như vậy.
Bấy giờ
Thế Tôn lại bảo tì-kheo:
- Đối với
giới luật nếu có nghi lầm mau hỏi
Như Lai.
Các tì-kheo thưa:
- Xin vâng, Thế Tôn! Chúng con cũng tu như trên đã nói,
hiểu biết thân tướng đều là
không tịch[113].
Phật bảo tì-kheo:
- Các ông chớ có bắt chước nói theo bậc
Nhất thiết trí: Chúng con cũng tu hết thảy
thân tướng đều là
không tịch. Lại nữa tì-kheo, đối với
giới luật, nếu có nghi lầm hãy mau thưa hỏi.
Chư tì-kheo thưa:
- Kính bạch Thế Tôn! Diệu nghĩa
bình đẳng, của đấng
Như Lai,
Ứng Cúng,
Đẳng Giác đâu phải
cảnh giới chúng con thưa hỏi? Pháp chư
Phật thuyết chẳng thể nghĩ bàn. Việc chư Phật làm chẳng thể nghĩ bàn.
Vì vậy chúng con cùng với
đại chúng đều không dám hỏi với
đức Như Lai. Kính bạch Thế Tôn! Thí như có người sống đã một trăm hai mươi tuổi rồi, thân mang bệnh nặng, đau nằm liệt giường. Lại có một người, không chút
trí tuệ,
giàu có vô lượng, đến thăm người ấy, ngồi cạnh bên giường, cầm tay người bệnh mà nói
như vầy: ‘Này ông bạn già, tôi muốn đi xa, qua nước khác chơi, sẽ đi mười năm hoặc hai mươi năm, nên nhờ ông bạn coi giùm kho bạc
trân bảo của tôi, sau này
trở về tôi sẽ lấy lại’. Bấy giờ người bệnh, chẳng có
vợ con lại không
quyến thuộc, bệnh ngày càng nặng,
rốt cuộc mạng chung, tài vật ký gởi đều bị mất hết. Chủ
tài sản kia sau đó
trở về muốn đến lấy đồ chẳng biết tìm đâu. Cũng vậy, Thế Tôn! Ngài bảo chúng con đối với
giới luật nếu có
nghi ngờ thì mau thưa hỏi, nếu bảo
thanh văn thưa hỏi
Như Lai sợ
chính pháp này không được
cửu trụ. Lại nữa không biết ai có thể hỏi để cho
chúng sinh nhờ chút ân này?
Vì vậy, Thế Tôn! Hôm nay chúng con không dám thưa hỏi. Như có
sĩ phu, thầy bói
xem tướng ông sống đến một trăm hai mươi tuổi[114],
quyến thuộc đầy đủ,
giàu có vô lượng. Lại có một người, nói với
sĩ phu: ‘Tôi có
tài sản, nay gởi cho ông, ông hãy vì tôi làm vốn sinh lời, hoặc sau mười năm, hoặc hai mươi năm, rồi trả lại tôi’. Bấy giờ
sĩ phu liền nhận tài vật, làm cho vốn ấy càng sinh thêm lời. Sau đó chủ vốn đến
lấy lại tiền, được trả đầy đủ. Đúng vậy, Thế Tôn!
Tôn giả A-nan và hàng
thanh văn, họ không thể nào
hộ trì Như Lai thuyết giảng pháp tạng, mong muốn
trường tồn. Vì sao như vậy? Vì là
thanh văn. Chỉ có chư vị hàng đại bồ-tát, hoặc ngài Ca-diếp mới có thể hỏi, trăm ngàn
vạn kiếp kham nhận phụng
trì pháp tạng
Như Lai, tất cả
chúng sinh ắt được nhờ ân.
Vì vậy, Thế Tôn! Nên để bồ-tát vì mọi
chúng sinh thỉnh
đức Như Lai giải quyết nghi lầm, chẳng phải chúng con kham được việc này.
Bấy giờ
Thế Tôn bảo các tì-kheo:
-
Lành thay! Lành thay! Tì-kheo các ông
chứng pháp vô lậu, thành a-la-hán, mới có thể nói lời
chân thật này, hiểu sâu ý Ta. Có hai
nhân duyên, khiến cho bồ-tát
giữ gìn chính pháp: Khiến pháp
Đại thừa tồn tại lâu dài, và để
chúng sinh mong nhờ ân ấy.
Phẩm thứ 5: TRƯỜNG THỌ
[863b] Bấy giờ
Thế Tôn bảo khắp
chúng hội:
- Này các
thiện nam và các thiện nữ! Ở trong ba pháp và các
giới luật, ai còn
hoài nghi nay mau thưa hỏi.
Đức Phật gặn hỏi ba lần như vậy.
Bấy giờ
chúng hội có vị Bồ-tát ở thôn Na-la[115], họ Ca-diếp Thị[116], dòng Bà-la-môn, nương
oai thần Phật từ nơi chỗ ngồi
đứng dậy chỉnh y trịch bên vai hữu,
lễ Phật sát chân, nhiễu trăm ngàn vòng, gối phải chấm đất, dùng
hương hoa trời
cúng dường Đức Phật, xong
bạch Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Con nay muốn hỏi, cúi xin
Thế Tôn từ bi thương xót giảng bày rộng cho.
Phật bảo Ca-diếp, bậc Đại Bồ-tát:
-
Như Lai Ứng Cúng,
Chính Đẳng Chính Giác,
cho phép ông hỏi, và
giải đáp cho.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Những lời con hỏi đều nhờ oai lực của
Đức Như Lai, cũng nhờ
thiện căn của mọi
chúng sinh. Ngày nay
Như Lai lấy
bốn chúng lớn toàn là
Hiền thánh dùng làm
quyến thuộc, các
Đại sư tử dùng làm
quyến thuộc,
Lực sĩ Kim Cang dùng làm
quyến thuộc,
Diệu trí đại hải dùng làm
quyến thuộc, chư vị Bồ-tát trong
chúng hội này đều đã
thành tựu vô lượng công đức… những chúng như vậy dùng làm
quyến thuộc. Còn chúng con đây
phàm phu thấp kém, nếu có
nghi ngờ mà không
nương nhờ thần lực Như Lai gia trì giúp đỡ thì không thể nào
đủ sức thưa hỏi.
Vì vậy hôm nay con giám thưa hỏi là phải biết rằng đều nhờ
thần lực của
đức Như Lai, liền ở trước Phật dùng kệ hỏi rằng:
Làm sao được
trường thọThân kim cang bất hoại?
Khế kinh nghĩa
thậm thâmLàm sao để thọ trì?
Bồ-tát độ
chúng sinhThuyết pháp có
căn cơngười nào kham nhận được
Làm chỗ tựa chân thật?
Dù chưa đạt La-hán
Cũng mong được ngang bằng.
Ma hay Phật nói pháp
Làm sao
phân biệt được?
Làm sao biết
bình đẳngNghĩa của
bốn thánh đếVà bốn tướng
điên đảoHành khổ, không,
vô ngãBồ-tát làm sao thấy
Tánh khó thấy của Phật?
Làm sao được đầy đủ
Hiểu nghĩa của
bán tự[117]?
Làm sao khéo
hóa hiệnNhư nhạn, hạc, xá-lợi[118]?
Làm sao có
trí tuệSáng tựa
mặt trời, trăng?
Sao làm bậc bồ-tát?
Nguyện thương con nói rõ
Các
pháp môn như vậy
Vô lượng nghĩa thậm thâmChúng con đều muốn biết
Nên mới hỏi lời này
Dám xin hỏi
Như LaiCảnh giới của chư Phật?
[863c]
Phật bảo Ca-diếp:
-
Lành thay! Lành thay! Này
thiện nam tử! Ông đã dần đến
Nhất thiết chủng trí của
đức Như Lai mới có khả năng hỏi về
nghĩa lý thâm sâu kinh này. Số chư Phật nhiều như cát ở trong a-tăng-kì
sông Hằng, bất cứ phương nào, từ xưa
đến nay,
tại thế giới này đều ngồi nơi
đạo tràng dưới gốc cây bồ-đề mà
thành Đẳng Chính Giác. Và họ vốn là bồ-tát
đắc đạo bồ-đề và đã
lần lượt khai ngộ đều nhờ thưa hỏi
pháp tạng thâm sâu của
đức Như Lai. Ngày nay các ông cũng lại như vậy, hay đem
cảnh giới Nhất thiết chủng trí mà thưa hỏi Ta, nhờ đó
an lạc tất cả
chúng sinh.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Con không kham nhận hỏi về
cảnh giới Nhất thiết chủng trí của
đức Thế Tôn. Thí như con muỗi, con ve không thể
vượt qua biển lớn
đến bờ bên kia, và không thể bay cùng khắp
hư không, cũng không thể nào uống hết nước biển. Con cũng như vậy, không thể kham nhận
trí tuệ thâm sâu dường như biển cả, rộng lớn
bao la trùm cả
hư không của
đức Như Lai mà được
vô úy. Kính bạch Thế Tôn! Lại như
đại vương có
viên minh châu ở trong búi tóc, giao người giữ kho
cẩn thận gìn giữ như giữ đầu mình. Con cũng như vậy, nay hỏi
Như Lai chính pháp thâm sâu,
Như Lai giảng rộng dứt trừ lưới nghi.
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Nay Ta sẽ nói
nghiệp nhân trường thọ bậc đại bồ-tát,
thực hành nghiệp này là nhân
Đẳng giác[119], các ông lắng nghe, khéo
suy nghĩ kỹ. Nghe bổn hạnh đó rồi vì người khác giảng nói
rộng rãi, nhờ đó được sinh
trí tuệ Đẳng giác. Này
thiện nam tử! Ta cũng nhờ sự
thực hành nghiệp đó và nói
rộng rãi cho người khác nghe mà được
chứng đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề[120]. Thí như
đại vương có con
phạm tội nhốt trong ngục tù, vì để cứu con nên phải
ân xá cho mọi tù nhân. Bồ-tát cũng vậy, tu nghiệp
trường thọ nên thương
chúng sinh,
y như con một, đối với
chúng sinh,
đại từ đại bi,
đại hỷ đại xả,
giữ gìn tịnh giới, không hại
chúng sinh,
an lập tất cả
chúng sinh vào nghiệp
năm giới,
thập thiện,
tùy theo sức mình cứu giúp
chúng sinh trong đường
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sinh, đoạn từ tất cả
nghiệp duyên ác thú,
giải thoát cho kẻ chưa
được giải thoát,
độ người chưa độ,
chí nguyện kiên cường, thành trí
phương tiện. Nhờ hạnh nghiệp này được quả
y báo trường thọ vô cùng, thành đại
diệu trí,
vô úy,
tự tại. Bồ-tát như vậy
viễn ly sinh tử.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Như lời
Thế Tôn, bậc đại bồ-tát xem khắp
chúng sinh y như con một, nghĩa này thế nào? Nếu nói bồ-tát xem khắp
chúng sinh y như con một chắc là không có. Vì sao như vậy? Bởi trong
Phật pháp người nào
phạm giới, gây tội
ngũ nghịch,
phỉ báng chính pháp, thì những người này có xem họ như con một được không?
Thế Tôn trả lời:
- Đúng vậy Ca-diếp! Ta xem
chúng sinh như La-hầu-la[121].
Ca-diếp
bạch Phật:
- Nếu nói như vậy tại sao lần nọ, vào đêm mười lăm, nhằm kỳ
bố tát,
chúng Tăng thanh tịnh, thì có
đồng tử chưa
thọ cụ túc lén trộm nghe giới,
lúc ấy đại thần lực sĩ
Kim Cang[122] vâng thần ý Phật cầm chày
kim cang đập
đồng tử ấy nát thành tro bụi, như vậy gọi là thương khắp
chúng sinh như con một sao?
Phật bảo Ca-diếp:
- Chớ nói như vậy! Kẻ
đồng tử kia chỉ là
hóa nhân[123], vì muốn minh chứng ở trong
chính pháp những kẻ
phạm tội sẽ bị tẫn xuất để dạy những kẻ
đời sau có tâm trộm giới và bọn nhất-xiển-đề có
ác tâm tiềm phục. Như vua, đại thần bắt kẻ
phạm pháp tùy tội mà trị. Phật cũng như vậy, có người
hoại pháp, dùng lý
trừng phạt, khiến người
phạm tội tự thấy
ác báo.
Như Lai thường lấy ánh sáng tự thân
an ủi chúng sinh, khiến cho
chúng nó không sợ và cũng không bị
ám hại. Tuy có
chúng sinh không gặp ánh sáng
cho đến khi chết, nhưng
đức Như Lai đối với người đó không bỏ
đại từ. Lại nữa Ca-diếp! Các ông phải biết
nghĩa lý bí mật của
đức Như Lai. Nay sẽ nói thêm, này ông Ca-diếp, thí như nơi nào có các tì-kheo
trì giới thanh tịnh,
đạo đức thuần nhất, đầy đủ
uy nghi,
Như Lai cõi ấy đã bát-nê-hoàn, có các tì-kheo không chịu
giữ giới, vì
chúng Tăng đó không có
đại sư, có người
vô đạo,
não hại các vị tì-kheo
giữ giới. Bấy giờ
quốc vương mến mộ
Phật pháp, trị những kẻ ác, hoặc đuổi khỏi nước. Vì vua có công
trừng trị kẻ ác,
an lập chính pháp, cho nên gặt được bước báo
vô lượng. Bởi vì sao thế? Vì phạt kẻ ác,
an lập đại pháp. Lại nữa có người, trong vườn nhà họ mọc đầy cây độc, họ liền đốn sạch. Trong pháp cũng vậy, những người
phạm giới, nhiễu loạn
chính pháp, như hại chủ nô, đều bị tẫn xuất.
Nếu không tẫn xuất, phải biết bọn này quay lưng với Ta, lìa xa
chính pháp. Nếu bị tẫn xuất là
đệ tử Ta.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
-
Theo như nghĩa này, thì chẳng
bình đẳng xem mọi
chúng sinh y như con một, thí như
bình đẳng xem người ân, oán[124], lời này
trái nhau. Nếu nói
Như Lai phải trị những kẻ
phá hoại chính pháp, nghĩa này thế nào?
Phật bảo Ca-diếp:
- Như vua, đại thần,
trưởng giả,
cư sĩ sinh con
đoan chính,
thông minh lanh lợi, giữa đời hiếm có, ai cũng mến yêu. Người cha đem con đến nhà thầy giáo học các kỹ nghệ, nói với thầy rằng: “Tôi có đứa con,
phước đức đoan chính, chưa học kỹ nghệ, thầy hãy vì tôi dạy nó nên người,
nếu không như pháp cần
nghiêm khắc trị. Tôi có bốn con, đều học nơi thầy.
Giả sử ba đứa bị đòn mà chết, một đứa còn lại cũng phải
nghiêm trị để nó nên người, dẫu chết không hối”.
Phật bảo Ca-diếp: Ý ông nghĩ sao? Cha, mẹ, thầy giáo
nghiêm khắc dạy dỗ đứa trẻ đến nỗi khiến nó
mất mạng, thì cha, mẹ, thầy,
phạm tội sát không?
Ca-diếp
bạch Phật:
- Thưa không, Thế Tôn! Vì lòng thương con, muốn nó nên người, tuy có đánh đòn nhưng không
ác ý, dạy dỗ như vậy được phước
vô lượng, không mang tội sát.
- Này
thiện nam tử!
Như Lai cũng vậy, những kẻ
phạm giới,
phá hoại chính pháp Ta đều
thương yêu,
y như con Ta, từ mẫn dạy dỗ, muốn họ
thành tựu. Những ai
phạm giới,
phá hoại chính pháp, dù
nghiêm khắc trị vẫn không có lỗi.
Vì vậy phải biết, bậc đại bồ-tát xem khắp
chúng sinh y như con một.
Tu tập tam-muội[125]
bình đẳng như vậy,
tâm không sát hại gọi đó chính là
trí tuệ tự tại,
nghiệp nhân trường thọ của hàng bồ-tát.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Xem khắp
chúng sinh y như con một, bậc đại bồ-tát
tu hành như vậy được
trường thọ chăng?
Phật đáp:
- Đúng vậy!
Bồ-tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng:
- Cúi xin
Thế Tôn đừng nói nghĩa này, như trẻ nít đùa, nói làm
không thật. Kính bạch
Thế Tôn, thí như trẻ con trong khi đóng kịch, dùng lời
ca ngợi, đem các phẩm vật
cúng dường mẹ cha, nhưng khi về nhà
ngỗ nghịch bất hiếu, làm khổ mẹ cha, không
báo đáp ân
sinh thành dưỡng dục.
Thế Tôn cũng vậy, nói đại bồ-tát thương khắp
chúng sinh y như con một, nhờ
công đức này bèn được
trường thọ,
trí tuệ tự tại,
thường trụ bất tử,
vậy mà hôm nay tuổi thọ
Thế Tôn chỉ bằng người đời.
Phải chăng Thế Tôn trong
vô số kiếp đối với
chúng sinh ôm lòng
nghĩ tưởng thường dùng đao kiếm? Kỳ thay, Thế Tôn! Ngài bị đoản thọ là do
quả báo sát hại chúng sinh, giống như người đời chỉ có trăm tuổi. Tuổi thọ bồ-tát, còn không như vậy, huống là Như Lai?
Phật bảo Ca-diếp:
- Đứng trước
Như Lai,
Ứng Cúng Đẳng Giác, chớ nên buông ra những
lời thô tục. Này
thiện nam tử! Phải biết
Như Lai trường thọ vô lượng. Phải biết
Như Lai là
pháp thường trụ. Phải biết
Như Lai là
pháp không đổi. Phải biết
Như Lai là pháp
bất hoại.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Làm sao biết được
Như Lai trường thọ?
Phật bảo Ca-diếp:
- Như Diêm-phù-đề có tám sông lớn và những dòng suối đều chảy ra biển, không bao giờ dứt. Phải biết biển lớn là nơi dung chứa nước của muôn dòng.
Như Lai cũng vậy, bao nhiêu
thọ mạng của hàng trời, người đều chảy vào biển
thọ mạng Như Lai. Do
ý nghĩa này mà biết
thọ mạng Như Lai vô lượng. Lại nữa Ca-diếp! Thí như
hư không thường trụ bất biến.
Như Lai thường trụ cũng
y như vậy. Cũng như
đề hồ[126] là thuốc tươi mát, hay trừ
nhiệt não,
Như Lai Ứng Cúng,
Chính Đẳng Chính Giác, thường lấy
pháp dược thanh lương đề đồ trừ mọi
khổ nạn cho khắp
chúng sinh.
Vì vậy Như Lai thường trụ,
thanh lương, không có các thứ
hoạn nạn,
phiền não.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Nếu
Đức Như Lai thọ mạng vô lượng, lại muốn
an lạc tất cả
chúng sinh, ngày nay
Thế Tôn nên trụ lại đời hoặc là một kiếp hoặc hơn một kiếp, dùng pháp
thanh lương như tuôn mưa xuống cho mọi
chúng sinh. Cúi xin
Thế Tôn thương xót trụ thế.
Phật bảo Ca-diếp:
- Chớ nên đối với
Đức Phật Như Lai sinh
tâm diệt tận. Các hàng tì-kheo và tì-kheo-ni, hàng ưu-bà-tắc và ưu-bà-di, cùng hàng
ngoại đạo còn có năm đức[127], có thể kéo dài tuổi thọ một kiếp hoặc hơn một kiếp, ở giữa
hư không kinh hành, nằm ngồi rất là
tự tại, hông phải
phun lửa, hông trái tuôn nước, thân
tỏa ra khói, có thể khiến cho thân lớn
vô cùng, có thể khiến cho thân như
hạt bụi lọt mọi kẻ hở. Có năm đức này liền được
thần lực tự tại như vậy, huống gì
Như Lai thành tựu tất cả
công đức vô lượng mà không khả năng trụ lại ở đời hoặc là một kiếp, hoặc hơn một kiếp?
Vì vậy phải biết
Như Lai thường trụ, không phải là pháp thay đổi, hư hoại, phải
biết thân này không phải là
thân thụ dụng thức ăn, ở
thế giới này là thân
ứng hóa, như cây thuốc độc nay phải bỏ đi.
Vì vậy Ca-diếp, phải biết
Pháp thân Như Lai thường trụ, không phải là thân thay đổi, hư hoại, phải vì người khác rộng nói như thế.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Các pháp
thế gian và
xuất thế gian, có gì khác nhau? Phật từng dạy rằng:
Như Lai thường trụ mà người
thế gian cũng nói
thường trụ, con là Ca-diếp cũng từng nghe nói
tiên sư Phạm thiên vốn có
thần lực thường hay tới lui,
chu du khắp chốn. Nếu
Đức Như Lai là
pháp thường trụ, thì pháp
thế gian và
xuất thế gian chưa thấy có gì khác nhau hết cả.
Phật bảo Ca-diếp:
- Như ông
trưởng giả có con bò sữa giao cho người giữ, sai nó
nuôi dưỡng, thả riêng đồng trống, chỗ không cỏ độc, không thả chung đàn, không cột chung chuồng,
thương yêu chăm sóc, vì muốn có được thục tô[128] tốt
nhất cung cấp
quyến thuộc. Không bao lâu sau,
trưởng giả qua đời, người chăn bò kia cũng chết sau đó.
Lúc ấy có người
dân quê đi qua trong vùng đầm vắng được con bò ấy liền dắt đem về, lấy sữa nuôi thân, muốn làm sinh tô, nhưng không biết cách, chứa sữa trong bồn không được tinh sạch, lạnh nóng không hợp nên chẳng thành sinh, cũng chẳng thành tô, lại lấy sữa hư cho là lạc, tô. Đã tưởng lạc, tô nên lấy mà ăn.
Chúng sinh ngu si, cũng
y như vậy.
Chính pháp trong sạch, diệu
nghĩa sâu rộng, Phật đã
diệt độ như chủ bò chết,
chúng sinh sống trong đầm lầy
sinh tử như người
dân quê, lấy trí
thế tục đối với
chính pháp,
luật nghi trong sạch tưởng thành
điên đảo, bảo có
chúng sinh, ta, người,
thọ mạng, cho là
giải thoát, cho là
thường trụ. Các
chúng sinh này bị tà hoặc che, không biết
giải thoát, chẳng biết
thường trụ, học theo
dị kiến[129], chẳng
được giải thoát,
xa lìa chân đế, bỏ hạnh
luật nghi, không biết
Như Lai, là
pháp thường trụ, như người
dân quê ngu si chẳng được năm loại sữa bò, tự nói ăn tô mà thật chẳng được một vị nào cả trong năm vị sữa. Những kẻ
thế tục chấp rằng
Phạm thiên là đấng tạo hóa, nói rằng là thường, rằng là
chúng sinh, rằng là
giải thoát, nhờ cầu
Phạm thiên, tu chút
phạm hạnh, như lìa
tà dâm,
hiếu dưỡng cha mẹ, được ít
phước báo sinh lên
cõi trời, hưởng phước
tự nhiên như người
dân quê ăn loại sữa hư. Này
thiện nam tử! Những người
thế tục tu chút
phạm hạnh,
cúng dường cha mẹ, nhưng
nếu không chịu
quy y tam bảo, phải biết người ấy có chút
quả báo, không được
lâu dài.
Cúng dường cha mẹ, không hành tà dâm…, sẽ được
quả báo vợ chồng
hòa thuận, nhưng cũng
vô thường, là pháp
thế gian như Phật đã nói. Chỉ có
Như Lai thường trụ bất diệt.
Vì vậy, thiện nam! Hãy tìm
phương tiện lìa các
hồ nghi,
cần phải tư duy đức Phật Như Lai là
pháp thường trụ. Lại nữa, thiện nam! Lúc người
dân quê nuôi bò sữa ấy, chợt gặp
Chuyển luân thánh vương ra đời.
Vương pháp chuyển luân cảm đến bò sữa, nhờ sức
phước đức, người
dân quê ấy thả con bò sữa. Bò được thả rồi,
tự nhiên đi đến chỗ thần giữ kho của
Chuyển luân vương. Chủ giữ kho biết đây là bò sữa ắt sẽ làm ra năm loại sữa tốt,
nhất định là do
phước đức Thánh vương cảm ứng mà đến. Phật là
pháp vương xuất hiện giữa đời cũng giống y vậy. Như bò sữa kia,
âm thanh thường pháp mà người đời nghe chuyển thành
âm thanh thường pháp của Phật, như người
dân quê thu phục bò sữa, rồi lại phá tán chẳng được sữa ngon,
cuối cùng thả bò, bỏ cả
âm thanh thường pháp bò sữa, liền đến trước Phật, giống như
đệ tử coi giữ kho báu, đứng trước
Như Lai, nhờ sức phước báu của các
chúng sinh, khiến thường pháp của bò sữa sinh ra sữa luôn thơm ngon.
Vì vậy, thiện nam! Phải biết
Như Lai chính là
pháp thường, chẳng phải là pháp thay đổi biến dị,
phàm ngu thế gian không thể hiểu được, đều nhờ
âm thanh Như Lai thường trụ mà được biết vậy. Người
thế gian kia phải nghĩ
như vầy:
Âm thanh thường pháp tức là
âm thanh thường
pháp Như Lai. Từ
âm thanh này nên biết
Như Lai vô lượng vô biên, không thể suy lường. Này người
thiện nam và người
thiện nữ, nếu giữ hai chữ “thường trụ” của Phật,
trải qua nhiều kiếp
tinh cần tu tập thì
chúng sinh này không bao lâu nữa
thành đạo bồ-đề,
chính đẳng chính giác, như Ta không khác. Này
thiện nam tử! Hãy gắng
cẩn thận, chớ có
buông lung, tu hai chữ ấy
kiên cố thọ trì. Hôm nay
Như Lai sẽ bát-nê-hoàn. Đây là định pháp của tất cả Phật.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp? Pháp có nghĩa gì? Nguyện xin được nghe thế nào là tính của các pháp ấy?
Phật bảo Ca-diếp:
- Ông nay muốn
nghe pháp tính phải không?
Ca-diếp
bạch Phật:
- Xin Phật nói rộng, con muốn được nghe!
Phật bảo Ca-diếp:
-
Pháp tính nghĩa là
xả bỏ thân mạng.
Ca-diếp
bạch Phật:
- Xả bỏ thân mạng? Nghĩa này càng tăng thêm lòng
nghi ngờ.
Phật bảo Ca-diếp:
- Chớ nên nghĩ rằng
Như Lai xả thân liền thụ thân khác.
Ca-diếp
bạch Phật:
- Không hỏi thụ thân.
Phật bảo Ca-diếp:
- Chớ nên nói rằng các pháp
đoạn diệt. Lại nữa Ca-diếp! Như
trời Phi tưởng, cõi
không sắc ấm,
chúng sinh cõi ấy làm sao để trụ? Làm sao mà chết? Làm sao mà hiện?
Tâm tưởng của họ làm sao hồi chuyển? Là
cảnh giới Phật, ông nên thưa hỏi, cũng phải hỏi Ta thụ thân nữa không?
Giả sử có người hỏi ông về việc
chúng sinh vô tưởng, thân, tâm, trú xứ,
thọ lạc thế nào, ông
trả lời sao? Bởi đây chẳng phải
cảnh giới của hàng
thanh văn,
duyên giác và hàng bồ-tát, chỉ là
cảnh giới Như Lai hành xử. Lại nữa thiện nam! Thân của
Như Lai so với thân của chúng trời
vô tưởng càng khó biết được. Không phải
cảnh giới thanh văn,
duyên giác và hàng bồ-tát, làm sao biết được
Như Lai ở đâu,
xuất hiện thế nào? Thân của
Như Lai là thân
phương tiện chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải
cảnh giới của ông tri lường. Này
thiện nam tử! Ông ở nơi Ta chỉ niệm
như vầy:
Như Lai thường trụ, pháp, tăng cũng vậy. Ba ngôi báu này là
pháp không bị
vô thường chi phối,
thường trụ bất biến,
thanh lương,
chân thật, lìa mọi
phiền não,
nếu không như
vậy thì người
thiện nam và kẻ
thiện nữ thanh tịnh quy y ắt không
thành tựu.
Tu tập như vậy là
pháp thường trụ không thể nghĩ bàn. Này
thiện nam tử! Thí như có cây thì ắt có bóng,
nếu không có cây thì không có bóng.
Nếu không thấy cây mà nói thấy bóng là điều
không tưởng. Như vậy đã có
pháp thường của Phật làm mọi cây lớn
che chở chúng sinh, làm chỗ nương tựa cho mọi
chúng sinh.
Giả sử Như Lai là pháp
vô thường thì không có tên
Ứng Cúng Đẳng Giác, làm chỗ nương tựa
tối thượng cho hàng
chư thiên loài người.
Ca-diếp
bạch Phật:
- Dạ thưa Thế Tôn! Như trong đêm tối bóng cây hiện không?
Phật bảo Ca-diếp:
- Sao không có bóng? Có bóng vì đã có thân cây này. Thế nhưng không phải
mắt thịt chúng sinh mà có thể thấy.
Vì vậy phải biết, đã có
Như Lai thì là
thường trụ, chẳng phải là pháp thay đổi biến dị, chẳng phải là pháp hủy diệt từ từ. Như bóng cây kia ở trong đêm tối
mắt thịt không thấy, Phật nê-hoàn rồi,
thường trụ bất biến,
mắt thịt không thấy cũng
y như vậy, nên sinh
vọng tưởng, đối với
Như Lai nghĩ rằng
vô thường. Này
thiện nam tử! Nếu
cha mẹ ông,
tôn trọng quy y nơi Phật, Pháp, Tăng, mà nghĩ
vô thường thì sự
quy y ấy không
thanh tịnh. Ông nay nên lấy ba
pháp thường trụ để mà
giáo hóa, khuyến khích
cha mẹ, khiến cho
cha mẹ thành tựu tam quy của hàng bồ-tát.
Ca-diếp
bạch Phật:
- Dạ vâng, Thế Tôn! Từ nay về sau con sẽ vận dụng ba
pháp thường trụ là Phật, Pháp, Tăng để
khai ngộ cho
cha mẹ hiện tại, nhẫn đến bảy đời, đều khiến phụng trì các
pháp thường trụ.
Lành thay Thế Tôn! Con sẽ thụ học, giảng rộng cho người ba
pháp thường trụ, nếu họ không nhận lời
chân diệu này, phải biết bọn họ bị
vô thường che, nhưng con nguyện sẽ mỗi ngày ba lần vì họ dạy dỗ, khiến họ thân cận.
Phật bảo Ca-diếp:
-
Lành thay! Lành thay! Này
thiện nam tử,
hộ trì chính pháp phải làm như thế, cũng thường
tu tập không mất
tâm từ, không hại quả ấy liền được
thành tựu trí tuệ tự tại,
thọ mạng vô cùng như hàng bồ-tát.
KINH ĐẠI BÁT NÊN HOÀN
Phẩm thứ 6: THÂN KIM CANG
[866a] Bấy giờ
Thế Tôn lại bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Phải quán
như vầy: Thân của
Như Lai là thân
thường trụ, là thân
bất hoại, là
thân kim cang, chính là
pháp thân, chẳng phải là
thân thụ thực ô uế.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Con
không quán chiếu cái tầm thường đó. Bởi vì sao vậy? Nếu nay
Như Lai đại bát-nê-hoàn thì thân của Ngài là thân hư hoại, là thân bụi đất, là
thân thụ dụng thức ăn ô uế. Nếu
Đức Như Lai mãi không nê-hoàn thì con
tùy thuận tu quán bình đẳng.
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Chớ nói thân Ta giống thân người đời, chẳng bền dễ hoại. Trải bao
số kiếp đêm dài tăm tối xoay vần
sinh tử, thân của
Như Lai là thân
bất hoại, chẳng phải như thân của những người đời, cũng chẳng như thân của hàng
chư thiên, thân không
thụ dụng thức ăn ô uế, là thân phi thân, cũng
không sinh diệt, không còn
tập khởi, không còn
lưu chuyển, không có bờ mé, không còn dấu vết, không trí không hành, bổn
tính thanh tịnh, không có
sở hữu, không có sở thụ, không đến không đi, không dừng không động, không vị không xúc, không thức không tư, không bằng không hơn, không chỗ hướng đến, mà cũng chẳng phải không chỗ hướng đến,
vĩnh viễn đoạn diệt, mà cũng chẳng phải là pháp
đoạn diệt, chẳng sự chẳng thật, chẳng giác chẳng tưởng, chẳng có bắt đầu, chẳng có
kết thúc, chẳng phải
kiến lập, chẳng phải
sung túc, không chỗ tựa nương, chẳng có nhà cửa, chẳng có dừng nghỉ, chẳng có
tịch tĩnh,
rộng rãi thanh tịnh, lìa mọi
phiền não, không còn nắm giữ, cũng không
nhiễm trước, không còn
tranh chấp, lìa mọi
tranh chấp,
thường trụ chẳng trụ, không còn lên xuống, bởi thân không chết, vừa thân
phi pháp, vừa cũng chẳng phải là thân
phi pháp, chẳng phải
phước điền, mà cũng không phải là chẳng
phước điền, không thể
cùng tận, chẳng phải tì-kheo, mà cũng không phải chẳng là tì-kheo,
xa lìa danh tự, lìa sự khen ngợi, lìa cả nói năng, lìa cả
tu tập, lìa mọi mong cầu, chẳng phải
hòa hợp, mà cũng không phải là không
hòa hợp, chẳng còn đo lường, mà cũng không phải là chẳng đo lường, chẳng phải đến nơi, mà cũng không phải là chẳng đến nơi, không phải
thông suốt, chẳng còn
chướng ngại, không còn
hình tướng, lìa mọi
hình tướng, tướng tướng
trang nghiêm, chẳng có
giữ gìn, không còn
hiện hữu, lìa mọi
hiện hữu, thân này có thể làm
ruộng phước đức,
thật không thể thấy, không thể biểu hiện,
như như chân thật, độ mọi
chúng sinh, nhưng chẳng
chúng sinh để mà
cứu độ,
giải thoát tất cả mọi loài
chúng sinh, nhưng cũng chẳng có một
chúng sinh nào để mà
giải thoát,
an tịnh tất cả mọi loài
chúng sinh mà thật chẳng có một
chúng sinh nào để mà
an tịnh,
che chở tất cả mọi loài
chúng sinh mà chẳng
chúng sinh nào được
che chở, dạy dỗ
chúng sinh nhưng chẳng có hai, không người dạy dỗ và người được dạy. Thân của
Như Lai gọi là
Vô Đẳng, hay
Vô Đẳng Đẳng[130], bằng với
vô lượng, ngang với
hư không, bằng với vô xứ, bằng với
vô sinh, bằng
vô sở hữu[131]. Thân của
Như Lai không gì
sánh bằng, lìa mọi
so sánh, là thân
tịch diệt, nhưng không đoạn dứt, luôn luôn
vận hành, kỳ thật
rốt ráo không hề chuyển vận,
nhiếp thọ hết thảy, đoạn mọi
vi diệu, hiện giáo
bất nhị[132], không bỏ
tự tính. Thân này chẳng thành, không dài không ngắn, không ấm, giới, nhập[133], chẳng tướng
hữu vi, cũng chẳng
vô vi, không cần nuôi lớn, không cao không thấp, chẳng có nhóm chứa, cũng không phải là chẳng có nhóm chứa, chẳng phải là đất, mà cũng không phải là chẳng phải đất.
Công đức như vậy
vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn là thân
Như Lai, không có ai biết, chẳng có ai thấy, không có ai nói, chẳng người
luận bàn, là điều
thế gian không thể
nhiếp thụ, chẳng có
nguyên nhân mà cũng không phải là chẳng
nguyên nhân. Hết thảy
vọng tưởng, chấp giữ
hình tướng, cùng mọi
ngôn thuyết và cả nê-hoàn cũng không thể nào
so sánh pháp thân.
Thành tựu công đức vô lượng như
vậy thì mới gọi là thân của
Như Lai. Này ông Ca-diếp,
thân tướng Như Lai là cảnh
sở tri để hàng
Thanh văn và Bích-chi-phật nhìn vào hiểu được.
Thành tựu được thân
Như Lai như thế chính là
pháp thân, không phải là
thân thụ thực ô uế, thì làm sao có các bệnh các não và bị hư hoại như đồ đất nung?
Tùy thuận hóa thân, hiện già, bệnh, chết, chứ
pháp thân Phật kim cang khó hoại. Này ông Ca-diếp, từ nay trở đi ông phải biết vậy, thân của
Như Lai không phải là
thân thụ thực ô uế, và vì người khác rộng nói điều này, từ nhân
vi diệu sinh làm
pháp thân, là
thân kim cang, là thân
thuần thục. Nên biết các
pháp thường trụ như vậy.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn!
Công đức Như Lai đầy đủ như vậy, tại sao còn có bị bệnh và chết? Từ nay trở đi con
quán pháp thân của
Đức Như Lai là
pháp thường trụ, pháp chẳng đổi khác,
vắng lặng tột bực, và vì người khác rộng nói điều này. Dạ vâng, Thế Tôn!
Pháp thân Như Lai giống như
kim cang không hề hư hoại nhưng nay chưa biết nhân ấy thế nào?
Phật bảo Ca-diếp:
- Nhân ấy chính là nhờ vào
công đức hộ trì chính pháp.
Ca-diếp
bạch Phật:
- Thế nào gọi là
hộ trì chính pháp?
Phật bảo Ca-diếp:
-
Hộ trì chính pháp là những
con người không giữ
năm giới, cũng không
thực hành oai nghi hiền thánh, ở trong
cuộc đời đầy dẫy
tội ác, không tiếc
thân mạng cầm những binh khí
bảo hộ pháp sư và người
trì giới. Những người như vậy gọi là
hộ pháp.
Ca-diếp
bạch Phật:
- Vị tì-kheo kia cùng đi cùng đứng với những người đời, cầm giữ binh khí,
phải chăng họ chẳng phải là tì-kheo?
Phật nói:
- Không phải như vậy!
Bồ-tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng:
- Đây phải gọi là hạng
cư sĩ trọc!
Phật bảo Ca-diếp:
- Chớ nói như vậy. Bởi vì tại sao? Nếu có người nào ở riêng
một mình,
tu hành chín pháp
khổ hạnh đầu đà,
khất thực, ít dục,
tĩnh mặc,
thiền định,
quán thân,
kinh hành, cũng vì người khác nói về
nhân quả công đức tu tập bố thí trì giới, nhưng không thể nào
giảng giải rộng rãi sự không
sợ hãi, cũng không thể nào
hàng phục người ác,
giáo hóa người dối. Phải biết người này không thể tự độ, cũng chẳng
độ tha, chỉ biết
tu hành phạm hạnh độc cư,
hành thiện mà thôi. Lại nữa, nếu tì-kheo nào
hành pháp đầu đà được sự
vô úy, giảng dạy
rộng rãi chín bộ kinh điển:
Khế kinh trường hàng,
Trùng tụng,
Thọ ký, Thi kệ,
Nhân duyên,
Như thị ngữ, Bổn sinh,
Phương quảng,
Vị tằng hữu[134], dùng chín kinh này
giáo hóa chúng sinh, độ mình
độ người, lại vì người khác giảng điều cốt yếu từng câu
khế kinh. Như nói kinh kia dạy người
xuất gia không được nuôi giữ nô tỳ, trâu, ngựa, các loài
súc sinh, không được cất giữ,
vật dụng phi pháp. Người nào nuôi giữ thì không đúng pháp của người
xuất gia, người ấy
phạm giới phải bị trục xuất. Các người
phạm giới nghe nói như vậy, cả bọn
nổi giận, hại
pháp sư kia. Vị
pháp sư ấy tuy bị
mất mạng, nhưng lại có thể độ mình
độ người.
Vì vậy, Ca-diếp! Các ưu-bà-tắc, hoặc vua, đại thần,
hộ trì chính pháp cũng phải
hàng phục hạng
cư sĩ trọc.
Lại nữa Ca-diếp! Thuở
quá khứ xưa, a-tăng-kỳ kiếp, có Phật ra đời hiệu là Nan-đề-bạc-đàn
Như Lai,
Ứng Cúng Đẳng Giác, cũng đã từng ở thành Câu-di này.
Thế giới lúc ấy rộng lớn
trang nghiêm, rất là
thanh tịnh, giống như
quốc độ Cực lạc Phương Tây.
Chúng sinh cõi này đều được
an lạc, không hề
đói khát, thuần chư bồ-tát. Phật ấy ở đời
vô lượng ức kiếp mới nhập nê-hoàn.
Giáo pháp còn trụ ở đời cũng lâu
vô lượng ức kiếp.
Phật pháp ngài giảng hơn bốn mươi năm chưa bị diệt mất. Bấy giờ có một tì-kheo tên là Phật-độ-đạt-đa
xuất hiện ở đời,
đại chúng quyến thuộc vây quanh trước sau,
thành tựu vô úy,
thuyết pháp tự tại, lấy
chín bộ kinh dạy các tì-kheo: Rằng
khế kinh nói, không được
nuôi dưỡng, nô tỳ,
súc sinh, và không cất giữ
vật dụng phi pháp. Những người
phạm giới liền
nổi giận dữ, cùng nhau kết đảng muốn hại
pháp sư. Bấy giờ
quốc vương nước ấy tên là Bà-già-đạt-đa, nghe bọn ác kia muốn hại
pháp sư, vì muốn
hộ pháp liền cầm dao bén, ra sức khổ nhọc đánh trừ bọn ác. Rồi vua
bị thương, đến chỗ
pháp sư.
Pháp sư vì vua nói về
công đức của người
hộ pháp. Vua
nghe pháp rồi
tức thời mạng chung, sinh về
thế giới của
Phật A-súc[135]. Bấy giờ
quyến thuộc của vua cùng làm
hộ pháp lần lượt mạng chung, đều được
vãng sinh về
thế giới của
Đức Phật A-súc. Những người
phát tâm tùy hỷ hộ pháp đều được
thành tựu đạo quả bồ-đề. Phật-độ-đạt-đa sau đó
mạng chung cũng
vãng sinh về
cõi Phật A-súc và làm
đệ tử thượng thủ thứ nhất,
quốc vương hộ pháp Bà-già-đạt-đa làm người
đệ tử thượng thủ thứ hai.
Phật bảo Ca-diếp:
-
Quốc vương thuở ấy đâu phải ai khác, chính là thân Ta.
Pháp sư thuở ấy là
Phật Ca-diếp. Này ông Ca-diếp, phải biết những người
hộ trì chính pháp công đức vô lượng. Ta vốn đã từng không tiếc
thân mạng hộ trì chính pháp nên được
pháp thân kim cang bất hoại.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Như
Thế Tôn dạy,
pháp thân Như Lai chân thật thường trụ, không phải là pháp hủy diệt từ từ, lòng con tin sâu như khắc vào đá.
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Vì
nhân duyên đó, các hàng tì-kheo và tì-kheo-ni, hàng uu-bà-tắc và ưu-bà-di
cần phải siêng năng
hộ trì chính pháp, cũng phải giảng rộng
phước báo của người
hộ trì chính pháp. Lại nữa Ca-diếp! Những vị
pháp sư trì giới thanh tịnh thường xuyên cảnh giác tự
hộ vệ mình,
nếu không đủ sức tự phòng hộ mình chớ có manh động mà phải
nương nhờ những ưu-bà-tắc chưa thọ
năm giới mà học
Đại thừa, vì tâm
hộ pháp cầm dao, gậy gộc, kết thành bạn lữ.
Bồ-tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Ngài đã dạy rằng, cầm giữ dao gậy là
phi luật nghi.
Phật bảo Ca-diếp:
- Ta nê-hoàn rồi,
trong đời ác trược, vì lúa đắt đỏ, bệnh dịch khắp nơi, những người trá hình, tham
cầu lợi dưỡng nhiều
vô số kể. Bấy giờ
pháp sư trì giới giữ luật,
oai nghi đầy đủ bị bọn người kia rượt đuổi đánh đập, hoặc hại hoặc giết. Ngay lúc bấy giờ
pháp sư trì giới đi qua thành ấp, đồng trống hiểm nạn.
Pháp sư nghĩ rằng: Ta nghe nước ấy
quốc vương, đại thần,
thường dân,
cư sĩ, và chiên-đà-la[136]…, không thụ
năm giới, có thể
hộ pháp, có thể cùng họ kết làm bạn lữ. Những hạng người ấy, tuy không
thụ giới nhưng nhờ
hộ pháp mà có
phước báo công đức vô lượng hơn người
thụ giới. Còn vị
pháp sư phụng
trì giới hạnh,
oai nghi thanh tịnh,
vui vẻ tin sâu
giáo pháp Đại thừa,
giảng giải rộng rãi cho người khác nghe có thể xử dụng các thứ
cúng dường, hương, dầu,
tràng hoa, cùng với
quốc vương, đại thần,
trưởng giả thay nhau dâng cúng, không để thiếu xót, nhưng không đánh mất
pháp hạnh sa-môn. Người này xứng đáng gọi là
pháp sư.
- Người
trì giới là tự thân
giữ gìn các
pháp chân thật, giống như biển lớn,
oai nghi đầy đủ, đó là
trì giới. Lại nữa, người
trì giới là không ham khoái lạc, chẳng
thích danh dự,
chán ghét lợi dưỡng, thường dạy người khác ít muốn biết đủ. Còn như những kẻ
giữ giới mà bị tổn giảm
lợi ích của
bản thân mình,
quyến thuộc không ưa thì không phải là
pháp sư. Nếu
pháp sư nào
khởi tâm buồn chán với
đồ chúng mình, đó là hành động tự hoại
quyến thuộc, cũng gọi
phá Tăng. Tăng có ba hạng. Hạng
Tăng phạm giới, hạng Tăng trẻ con[137], hạng Tăng
thanh tịnh. Trong ba hạng này, hạng
Tăng phạm giới và Tăng trẻ con không
phá hoại được hạng Tăng
thanh tịnh.
Tăng phạm giới là
phàm phu ngu độn, theo kẻ
phạm giới, chẳng
kiểm soát nhau,
tham lam ô trược mà cùng
hòa hợp, những hạng người này là
Tăng phạm giới.
Giả sử tự thân có thể
trì giới nhưng vì lợi danh,
thường hay lui tới với người
phạm giới thì cũng liệt vào hạng
Tăng phạm giới. Những hạng Tăng này
thường hay thực hành những điều
phi pháp. Ai có khả năng
giáo hóa những người làm điều
phi pháp gọi là
pháp sư. Tăng trẻ con là những hạng người thường
tỏ ra vô sự, các căn
đần độn,
ngu si tăm tối, nếu được
lợi dưỡng thì cho
quyến thuộc,
tu tập riêng rẽ, không cùng
hòa hợp, đến ngày tự-tứ, hay ngày bố-tát cũng không
tham dự. Hạng Tăng trẻ con cùng đồng một hạng những kẻ
phạm giới. Ai có khả năng
giáo hóa những người
ngu muội phi pháp gọi là
pháp sư. Tăng sống
thanh tịnh như pháp như luật thì hạng Tăng này trăm ngàn chúng ma, cũng không thể nào
phá hoại được họ. Hàng Tăng bồ-tát, tính thường
thanh tịnh là thầy của hai hạng Tăng
phá giới. Tăng
trì luật là, khéo léo
giáo hóa biết đúng phải thời, biết trọng biết khinh, không bỏ những điều không phải
luật nghi, cũng không
ngăn cản người
giữ giới luật đúng
như pháp luật. Thế nào gọi là khéo léo
giáo hóa, biết đúng phải thời? Những người
giáo hóa, hoặc là bồ-tát hoặc là trẻ con. Nếu là bồ-tát vì tâm
hộ pháp không cần
quán sát hợp thời hay là không phải hợp thời, dư hay không dư, hoặc mở hoặc chế, tùy từng
trường hợp,
tự tại đi đứng qua nơi thôn xóm hay nơi gò mả, vì tâm
hộ pháp nên không trái phạm. Nơi mà
thanh văn không được đi đến, như nhà kỹ nữ, quả phụ,
dâm nữ, hoặc là
đồng nữ, thì những nơi đó đều là xứ sở bồ-tát
hộ pháp. Bồ-tát
hộ pháp tới lui khắp chốn, suốt cả đêm ngày cũng không
lỗi lầm. Đó là
pháp sư biết
thời giáo hóa.
Biết điều trọng là, chẳng hạn một kẻ ngay khi
Như Lai đầu tiên
chế giới họ đã
khởi tâm khinh chê,
phạm giới, nhẫn đến phạm phải bốn
pháp giới trọng[138], kẻ đó không được gọi là
xuất gia, đó là biết trọng. Thế nào là khinh? Là biết tì-kheo mỗi một
duyên do phạm vào
tội nhẹ,
tâm giới cũng nhẹ, hoặc tự nhớ nghĩ theo giới Phật chế, việc phạm không nhiều, đó là biết khinh. Không bỏ những điều
giới luật còn lại, như là nuôi giữ
súc vật, nô tỳ, và chứa những vật
bất tịnh v.v… với những điều này, nằm ngoài
giới luật, cũng không nên bỏ, phải thường giữ mình, không muốn
tranh chấp với người
phá giới, dù những điều đó không phải
giới luật nhưng không được bỏ, bởi tuy không phải là
giới luật nói, nhưng còn trong kinh nói giống
giới luật, cho nên gọi đó chính là
giới luật, nên không được bỏ. Hiểu trên
ngôn thuyết, là chấp câu văn, không hiểu nghĩa chữ.
Nếu có thể hiểu tất cả những gì chư Phật
ba đời đã nói trong kinh mà
tâm không hề một chút hoảng sợ, lại hay
thọ trì diệu nghĩa
vô lượng rộng lớn
thâm sâu mà Phật đã dạy liền thành
pháp vương chẳng thể nghĩ bàn của
Đức Như Lai.
Bấy giờ Bồ-tát Ca-diếp
bạch Phật:
- Dạ vâng, Thế Tôn!
Như Lai là
đấng Pháp vương vô thượng, không thể nghĩ bàn.
Như Lai là
pháp thường trụ không đổi. Con sẽ phụng trì và
giảng giải rộng cho người khác nghe.
Phật bảo Ca-diếp:
-
Lành thay! Lành thay! Ca-diếp phụng
trì Pháp thân kim cang không hề
biến hoại. Muốn học
bình đẳng quán thân
Như Lai phải
tu pháp quán
kim cang bất hoại. Bậc đại bồ-tát
tu hành như vậy liền được
đẳng quán,
Pháp thân vô thượng.
KINH ĐẠI BÁT NÊ HOÀN
Phẩm thứ 7: THỌ TRÌ[867c] Lại nữa, thiện nam! Nay ta sẽ nói,
công đức trọ trì
khế kinh thậm thâm. Nếu có
chúng sinh nghe được kinh này
đời đời không đọa trong
bốn đường ác[139], sinh ở chỗ nào cũng thường gặp Phật.
Bồ-tát Ca-diếp bạch
Đức Phật rằng:
- Kinh này tên gì, phụng trì thế nào?
Phật bảo Ca-diếp:
- Kinh này tên là Đại bát-nê-hoàn, đoạn đầu cũng thiện, đoạn giữa cũng thiện, đoạn cuối cũng thiện. Nghĩa thiện vị thiện, thuần một vị thiện.
Bảo tạng kim cang nay Ta đã thuyết. Này
thiện nam tử! Như Diêm-phù-đề có tám sông lớn đều chảy ra biển. Nước trong biển đó thật
vô cùng tận. Đại-bát-nê-hoàn cũng lại như vậy,
diệt trừ phiền não,
hàng phục chúng ma, xoay lưng
sinh tử, xả bỏ
hóa thân, nên gọi nê-hoàn. Hết thảy chư Phật là
diệu pháp này, không gì cao bằng. Lại như thầy thuốc có
pháp thuật hay,
vi diệu bí mật, bao nhiêu phương thuốc đều ở ông ấy nên gọi
đại y.
Pháp tạng bí mật Như Lai đã thuyết cũng lại như vậy,
chín bộ kinh điển nằm trong kinh này, cho nên gọi là Đại bát-nê-hoàn. Thí như
mùa hạ cày ruộng gieo hạt thường nuôi
hy vọng, khi thu hoặch xong mọi
hy vọng ấy cũng đều
chấm dứt.
Hành giả cũng vậy, đối với các kinh
tu tập thiền định
thường có hy vọng, đến khi học được kinh này xong rồi mau thành
giải thoát,
siêu việt ba cõi. Lại nữa thiện nam! Như người bệnh nặng, trước uống
đề hồ, rồi dần uống đến loại thuốc tám vị là loại tốt nhất trong tất cả thuốc.
Chúng sinh cũng vậy, đối với
giáo pháp bí mật của Phật có bệnh
mê lầm, tạm dùng
kinh điển Đại thừa giáo hóa, sau cùng mới nói
pháp dược tám vị Đại bát-nê-hoàn. Tám vị đó là:
thường trụ,
tịch diệt, không già, không chết,
thanh lương, hư thông,
bất động, khoái lạc[140]. Tám vị này là Đại bát-nê-hoàn. Nếu có bồ-tát
an trú ở nơi Đại bát-nê-hoàn thì
thường có thể ở khắp
mọi nơi thị hiện nê-hoàn, vì thế gọi là Đại bát-nê-hoàn. Nếu có
thiện nam muốn ở nơi pháp Đại bát-nê-hoàn mà bát-nê-hoàn phải học
như vầy:
Như Lai thường trụ, Pháp, Tăng cũng vậy. Nếu có
thiện nam hoặc người
thiện nữ hành trì kinh Đại bát-nê-hoàn này thì đối
Như Lai học
pháp thường trụ.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn!
Pháp thân Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Diệu pháp Ngài thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Công đức chúng Tăng chẳng thể nghĩ bàn. Và kinh này cũng chẳng thể nghĩ bàn. Từ nay con sẽ vì mọi
chúng sinh có tâm cang cường,
diệt trừ vô minh, đêm dài
sinh tử tối tăm cho họ.
Kinh Đại hát-nê-hoàn, hết quyển 2