KINH PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁT NÊ HOÀN
Hán dịch: Đời Đông Tấn, sa-môn Pháp Hiển, người Bình Dương,
Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
Quyển 1
Phẩm thứ 1: TỰAĐúng thật như thế, chính tôi được nghe:
Một thời
Thế Tôn nằm ở khoảng giữa hai cây sa-la[3] trong rừng
Kiên cố[4], bên bờ Hi-liên[5], nơi vùng đất của bộ tộc
Lực sĩ, thuộc thành Câu-di[6]. Bấy giờ nhằm ngày trăng tròn tháng hai,
Thế Tôn sắp sửa vào bát-nê-hoàn[7], tám trăm ức vị tì-kheo cùng ngồi vây quanh
Thế Tôn.
Bấy giờ tất cả
chúng sinh đều được
an ổn khoái lạc,
thân tâm thanh tịnh, không niệm
nghi ngờ, không hề mỏi mệt. Ngày nay
Thế Tôn đã
tự giác ngộ thành bậc
Như Lai,
Ứng Cúng,
Đẳng Giác,
thương xót thế gian,
che chở hộ trì, làm chỗ nương tựa cho cả
thế gian, thương mọi
chúng sinh y như con một. Đại Mâu-ni[8] Tôn
điềm đạm ân cần bảo
chúng sinh rằng:
- Ta sắp nê-hoàn, trong
chúng hội đây ai còn
hoài nghi mau nên thưa hỏi, vì đây là lần thưa hỏi
cuối cùng.
Đại chúng biết vậy lòng rất đau buồn.
Bấy giờ từ trên khuôn mặt[9]
Thế Tôn phóng ra
vô số hào quang rực rỡ, xanh vàng đỏ trắng, sắc hồng
pha lê, ánh sáng đặc thù, chiếu khắp ba ngàn
đại thiên thế giới[10], chiếu khắp hết thảy
mười phương cõi Phật;
sáu đường chúng sinh[11] gặp ánh sáng này
phiền não nghiệp chướng đều được
tiêu trừ; có người
xúc động nước mắt
chứa chan, tuôn xuống như mưa, nhìn nhau bảo rằng:
- Ôi thôi nhân giả!
Thế gian trống vắng. Ôi thôi nhân giả! Phước
chúng sinh hết. Than ôi nhân giả! Pháp khổ sẽ tăng.
Như Lai không lâu sẽ bát-nê-hoàn!
Thế gian trống vắng sao mà chóng thế? Con mắt
thế gian sao diệt chóng thế?
Chúng ta hãy mau cùng nhau đến chỗ
Đức Phật Thế Tôn lễ bái cúng dường,
đồng thời thỉnh cầu xin Ngài chớ vội vào bát-nê-hoàn, xin Ngài trụ lại ở
thế gian này hoặc là một kiếp hoặc hơn một kiếp. Nếu Phật nê-hoàn, ai sẽ là người
dạy bảo chúng ta hành đạo từ bi, ai sẽ là người cứu vớt
chúng ta thoát khỏi khổ nạn?
Vì vậy các ông điều gì chưa hiểu mau đến chỗ Phật xin Ngài
quyết nghi.
Bấy giờ mặt đất
chấn động sáu cách[12].
Khi ấy tám trăm ức vị tì-kheo đều đã chứng đạt quả A-la-hán[13], tâm được
tự tại, việc mình đã xong, lìa sạch
phiền não,
hàng phục các căn,
ví như rồng lớn,
thành tựu Không tuệ[14], lợi mình đã đạt, như rừng chiên-đàn[15] muôn cây trong ấy đều được thơm lây,
công đức đầy đủ, xứng đáng gọi là đứa con
chân thật của
Đức Như Lai. Tên các ngài là: Đại Ca-chiên-diên[16], ngài Bạc-câu-la[17], Ưu-ba-nan-đà[18]… Các tì-kheo này vào sáng hôm ấy dùng cành
dương chi[19] súc miệng
thanh tịnh thì có ánh sáng
vô cùng vi diệu chiếu khắp thân mình, giống như
mặt trời lúc vừa mới mọc rọi lên cây xanh từng đường gân lá nổi lên trên ấy như mạch máu đỏ. Chư vị tì-kheo cũng giống như vậy,
toàn thân rung động, các lỗ chân lông thảy đều rướm máu tuôn chảy như mưa, lòng đau như cắt. Họ vì
thương xót tất cả
chúng sinh, muốn cho
chúng sinh an lạc hạnh phúc và muốn
phát tâm học pháp
Đại thừa[20],
phương tiện mật giáo[21]
hóa độ chúng sinh, cho nên nhanh chóng đến chỗ
Như Lai, lạy dưới chân Ngài, nhiễu trăm ngàn vòng,
cung kính hỏi thăm, đứng về một phía.
Lại có hai lăm ức tì-kheo-ni[22], đều A-la-hán, tâm được
tự tại, những việc cần làm thảy đã làm xong, lìa sạch
phiền não,
hàng phục các căn, thí như rồng lớn,
thành tựu Không tuệ, tự độ
viên mãn. Tên các vị ấy là tì-kheo-ni Câu-lân Nữ Tu-bạt-đà-la[23], tì-kheo-ni Ưu-ba-nan-đà[24], tì-kheo-ni Hải Trí v.v… Giống như
mặt trời lúc vừa mới mọc rọi lên cây xanh từng đường gân lá nổi lên trên ấy như mạch máu đỏ, các tì-kheo-ni cũng giống như vậy,
toàn thân rung động, các lỗ chân lông thảy đều rướm máu, tuôn chảy như mưa,
vô cùng thống khổ. Họ vì
thương yêu tất cả
chúng sinh, muốn cho
chúng sinh có được
an lạc và muốn
phát tâm học pháp
Đại thừa,
phương tiện mật giáo để làm
nhân duyên giáo hóa chúng sinh, liền đến chỗ Phật, lạy dưới chân Ngài, nhiễu trăm ngàn vòng,
cung kính hỏi thăm, đứng về một phía.
Lại có rất nhiều vị tì-kheo-ni vốn là bồ-tát, đã chứng
Thập địa[25]. Họ là những bậc dõng mãnh
vô song trong chốn
loài người, vì duyên
giáo hóa mới
hiện thân nữ. Họ đều có đủ
bốn tâm vô lượng[26], có
thể hiện thành thân Phật không khác,
biến hóa không cùng.
Lại có các vị đại bồ-tát nhiều như số cát trong một con
sông Hằng[27]. Họ là những người hùng dũng bậc nhất trong cõi
nhân gian, tất cả
công đức đều đã đầy đủ, dùng thân
phương tiện, tin sâu
Đại thừa,
chân chính hướng đến
cầu pháp Đại thừa,
đói khát Đại thừa, mong
cầu Đại thừa,
khát ngưỡng Đại thừa, khéo léo
tùy thuận tất cả
thế gian,
độ người chưa độ,
giải thoát cho kẻ chưa
được giải thoát. Họ đã
trải qua trong
vô số kiếp
tu tập tịnh giới,
độ thoát chúng sinh; trong số vô kiếp
tu tập tịnh giới,
an ủi chúng sinh; trong
vô số kiếp
tu tập tịnh giới,
hưng long Tam bảo; trong
vô số kiếp
tu tập tịnh giới,
chuyển bánh xe pháp; trong
vô số kiếp
tu tập tịnh giới, thành
đại trang nghiêm; trong
vô số kiếp
tu tập tịnh giới, hành xử
kiên cố. Họ đã
thành tựu vô lượng công đức như thế và thương hết thảy
chúng sinh y như con một. Tên của họ là: bồ-tát
Hải Đức, bồ-tát
Vô Lượng Trí v.v… Giống như
mặt trời lúc vừa mới mọc rọi lên cây xanh từng đường gân lá nổi lên trên ấy như mạch máu đỏ, các bồ-tát này cũng giống như vậy,
toàn thân rung động, các lỗ chân lông thảy đều rướm máu, tuôn chảy như mưa,
vô cùng thống khổ. Họ vì
thương xót tất cả
chúng sinh, muốn cho
chúng sinh có được
an lạc, muốn phát
Đại thừa phương tiện mật giáo để làm
nhân duyên giáo hóa chúng sinh, nên họ liền đến chỗ
Đức Phật nằm, dập đầu
đảnh lễ, rồi
đi nhiễu quanh hơn trăm ngàn vòng,
cung kính hỏi thăm, đứng về một phía.
Lại có những người là
cận sự nam[28] nhiều như số cát của hai
sông Hằng. Họ rất
vui vẻ tin sâu các pháp
đối trị[29] như là khổ đau
hạnh phúc, thường với
vô thường, ngã với
vô ngã, không với
phi không, y với
vô y,
chúng sinh với chẳng phải là
chúng sinh, hằng với phi hằng, kiết với phi kiết,
hữu vi vô vi, nê-hoàn với chẳng phải là nê-hoàn… Họ lại ưa nghe diệu nghĩa và muốn xiển dương
Đại thừa. Trong
vô số kiếp họ đã
tu tập phạm hạnh thanh tịnh chưa từng thối thất. Họ muốn
thực hành giáo pháp Đại thừa,
giảng giải cho người
tu tập tịnh giới,
tham muốn cầu học
Đại thừa vững chắc. Họ lại muốn học
tùy thuận thế gian, lại muốn cầu học
độ thoát thế gian, lại muốn cầu học
hưng long Tam bảo, lại muốn cầu học chuyển vận
pháp luân, lại muốn cầu học pháp
đại trang nghiêm. Họ đã
thành tựu viên mãn vô lượng công đức như thế và thương
chúng sinh giống như con một. Các
cư sĩ ấy tên Quang
Vô Cấu Xưng Vương,
Thiện Đức v.v… số nhiều như cát trong hai
sông Hằng.
Các
cư sĩ này vì muốn
cúng dường Đức Phật Như Lai, sáng sớm hôm ấy, mỗi người đều sắm năm ngàn giường, màn bằng gỗ chiên-đàn,
trầm thủy, chúng bảo,
thiên hương, uất-kim-hương hoa[30]… Tất cả giường, màn đều được xông ướp
ngưu đầu chiên-đàn[31], và
trang hoàng bằng
bảy báu[32]
vi diệu. Phía trên che bằng dây lưới
vàng ròng,
châu báu màu xanh phát ánh sáng xanh,
châu báu màu vàng tỏa ánh sáng vàng,
châu báu màu đỏ tỏa ánh sáng đỏ,
châu báu màu trắng tỏa ánh sáng trắng,
châu báu màu hồng tỏa ánh sáng hồng,
châu báu pha lê tỏa màu
pha lê,
bảo châu như ý phát màu
như ý, dùng nhiều màu sắc như vậy
trang hoàng cực kỳ lộng lẫy.
Đặc biệt hiếm có là tấm
màn che bốn phía
xung quanh. Phía trên phủ bằng màn lưới
bảy báu. Bốn mặt
xung quanh treo nhiều phan báu, dùng nhiều loại hương phủ lên trên đó, từng sợi dải vàng rũ xuống thật đẹp. Bên trong màn báu lại được
trang hoàng bằng nhiều màu sắc khác lạ như trên. Lại dùng
bảy báu đúc thành tấm nệm, mềm mại thơm tho, trải lên trên giường. Mỗi một giường màn chở bằng xe báu. Những xe báu ấy cũng được
trang hoàng toàn bằng
bảy báu, trước sau đều có
tràng phan, dù lọng. Mỗi một dù lọng đều dùng
bảy báu đan kết làm thành, xanh vàng đỏ trắng
vô cùng trang nghiêm; lại được
trang hoàng bằng bốn loại hoa, là ưu-bát-la, hoa bát-đàm-ma, hoa câu-mâu-đầu, hoa phân-đà-lợi[33]; cũng dùng
bảy báu trang sức như trước. Dùng nhiều
vật báu kết thành
tràng hoa, tươi tắn
xinh đẹp. Lại vẽ
bức tranh cuộc đời Đức Phật,
diễn tả bồ-tát từ lúc
phát tâm đến ngày
thành đạo,
trong khoảng thời gian thọ nhận thân này bồ-tát nhẫn chịu bao nhiêu
khổ hạnh. Còn hai bên đường bày trí
kỹ nhạc, mà các nhạc cụ làm bằng
bảy báu,
âm thanh hòa nhã, phát ra những tiếng
vô thường, khổ, không, phát ra những câu: ‘Than ôi
thế gian từ nay trống vắng’! Giai điệu réo rắt, nghe đến
não lòng, trời đất
chấn động. Họ dùng
vô số các thứ
hoa thơm, bột hương mịn màng,
đồng thời bày biện nhiều món
thức ăn thơm ngon bậc nhất,
đặc biệt được nấu bằng nước thượng nguồn và bằng củi thơm, làm cho
thức ăn mềm dẻo thơm ngon, đủ cả
mùi vị.
Lại nữa, bên trong bên ngoài khu rừng
Kiên cố đều được rưới nước, quét
dọn sạch sẽ, rồi rải lên trên lớp cát
bảy báu, phía trên trải tiếp các tấm y báu đều được
ướp hương,
bảo tòa sư tử làm bằng
bảy báu xếp ở
xung quanh ba mươi hai hàng. Mỗi một
bảo tòa,
điêu khắc chạm trổ hoa
văn tinh xảo, lấp lánh năm màu, dùng nhiều hương thơm xong ướp
bảo tòa, phía trên trải bằng nệm lót
bảy báu. Chuẩn bị đầy đủ phẩm vật ấy xong, các
nam cư sĩ khởi niệm nghĩ rằng:
- Tất cả
chúng sinh, ai ưa muốn gì ta đều cho cả,
y phục thức ăn,
của cải tài sản, đất nước
vợ con, đầu mắt tủy não, máu huyết cơ thể, không kể sang hèn, phú quý bần tiện, hễ ai cần gì, xin gì cho nấy, khiến cho đầy đủ, chỉ trừ những thứ
sắc dục bất tịnh, thuốc
độc hại người, thì không cho thôi.
Các
nam cư sĩ phát tâm bồ-tát lại nghĩ
như vầy:
-
Chúng ta cùng đem giường màn, xe báu, vô vàn phẩm vật
cúng Phật và Tăng lần sau cùng này là lần lớn nhất.
Các
nam cư sĩ lại nghĩ
như vầy:
- Phật và
đại chúng thụ nhận phẩm vật
chúng ta cúng xong, hôm nay
Như Lai sẽ vào nê-hoàn.
Suy nghĩ thế rồi lòng buồn vô hạn,
ví như mặt trời lúc vừa mới mọc rọi lên cây xanh từng đường gân lá nổi lên trên ấy như mạch máu đỏ, các
nam cư sĩ, cũng giống như vậy,
toàn thân rúng động, mỗi lỗ chân lông thảy đều rướm máu, tuôn xuống như mưa,
thân tâm đau tựa trúng phải thuốc độc, khóc than
thảm thiết.
Lại nữa, cạnh rừng
Kiên cố, các
nam cư sĩ dựng lều
bảy báu, cao rộng
đẹp đẽ,
trùm khắp hư không. Bên trong lều ấy dựng nhà
bảy báu. Bày biện xong rồi đến chỗ
Thế Tôn, lạy dưới chân Ngài.
Tràng phan, dù lọng, đem đến
cúng dường đầy cả
hư không. Khói hương như mây, hoa rải như mưa. Các
nam cư sĩ, đau buồn
than thở,
chấn động đất trời, đấm ngực gào khóc, nước mắt như mưa, nhìn nhau nói rằng:
- Than ôi
nhân giả,
thế gian trống vắng! Con mắt
thế gian, sao mau diệt vậy!
Rồi thì tất cả dập đầu
sát đất,
đồng thanh thỉnh Phật:
- Mong Phật và tăng
thương xót chúng con, cùng với
chúng sinh, nhận lời
cúng dường, Ngài
thụ thực xong rồi vào nê-hoàn, để cho chúng con được phước
cúng dường Đức Phật,
chúng tăng một lần sau cuối!
Thế Tôn biết thời,
lặng im không nhận. Họ thỉnh ba lần, Phật đều
im lặng.
Bấy giờ hết thảy các
nam cư sĩ tuyệt vọng vô cùng,
ưu sầu khổ não. Giống như cha lành có một đứa con,
rốt cuộc bệnh chết, ông đưa
hình hài của con đem chôn ở nơi gò mả, buồn bả
quay về,
đau xót vô cùng. Các
nam cư sĩ đau khổ tột cùng cũng
y như vậy. Họ
lạy Phật xong, đứng về một phía.
Lại có các vị
tín nữ cư sĩ[34]
thọ trì năm giới,
công đức đầy đủ, số nhiều như cát trong ba
sông Hằng. Các
cư sĩ này hiện làm thân nữ
hóa độ chúng sinh, tự trách thân mình như bốn
rắn độc[35]. Họ
quán thân thể giống như tòa nhà, cũng là
thức ăn của tám vạn trùng; thân này ô uế, do
tham dục sinh, thí như
xác chết, chẳng
mảy may ưa; thân này
bất tịnh,
chín lỗ bài tiết
thường xuyên thải ra những chất
dơ bẩn; máu thịt gân cốt, cùng với
y phục tạo nên thành quách,
hư ngụy giả dối; chân tay xương cốt, làm cột
chống đỡ, móng răng tai mắt là các cửa sổ,
tâm pháp dối trá làm
màn che cửa,
phóng dật kiêu mạn là kẻ giữ thành, lũ giặc
tâm vương ngự trong thành ấy,
tham lợi phóng túng chạy theo sáu cảnh.
Thân thể như
thành bại hoại như vậy, chư Phật bỏ đi mà kẻ
phàm phu thì
ưa thích lắm. Quỷ dữ
tham dục, giận hờn
ngu si nương tựa thân này, như loài hoa lan sống nhờ cây khác, chẳng có chút gì đáng ưa đáng thích; thân này tựa như những chùm bọt nước, như thân cây chuối, chẳng gì bền chắc; như tia điện chớp, tiếng vọng
âm thanh của loài ngựa hoang; như trăng
dưới nước huyễn hóa không thật; như cơn sóng biển nhanh chóng
lướt qua trên đầu ngọn cỏ phút chóc chẳng dừng; như nơi gò mả, như ở rừng hoang, ô uế dẫy đầy, từng đàn lang sói, kên kên cú mèo giành nhau
ăn thịt,
vô số vi trùng cạnh tranh sinh sống ở trong thân này. Tấm
thân thể này ô uế như vậy
an ổn được sao?
Nếu có thể đếm sợi lông, giọt nước ở trong biển lớn còn biết được số ít nhiều bao nhiêu, nhưng trong thân này
độc trùng tàn hoại, bốn trăm bốn bệnh,
vô lượng những điều ô uế
bất tịnh thật không thể nào tính hết cho được! Giống như
Thế Tôn đã từng
thí dụ, bao nhiêu cây cối ở trong
thiên hạ đem chẻ làm thẻ, hay lấy đất đá trên
quả địa cầu tán thành bụi nhỏ, cũng có thể đếm được số bao nhiêu, nhưng đối thân này những thứ
bất tịnh số nhiều
vô lượng,
vượt quá số kia, không
thể tính kể. Thân này
độc hại, hủy diệt
thiện pháp. Các
nữ cư sĩ đều có khả năng xả bỏ thân này như nhổ nước bọt,
tu hành pháp không,
vô tướng vô tác, tin ưa
Đại thừa, lại hay diễn nói cho người khác hiểu. Tên các vị ấy: Kỳ-bà-thi-lợi,
Thắng Man phu nhân, bà Tỳ-xá-khư… Các
cư sĩ này vào sáng hôm ấy, lúc ánh
quang minh chiếu khắp
thân hình liền biết
điềm lạ. Họ bèn nhanh chóng chuẩn bị phẩm vật đem dâng
cúng dường đầy đủ
thù thắng gấp đôi người trước. Rồi họ đến chỗ
Đức Phật Thế Tôn sụp lạy
sát đất, xin Phật và tăng
thương xót nạp thụ, nhưng
Đức Thế Tôn từ chối không nhận. Các
nữ cư sĩ lòng rất u buồn, đứng qua một phía.
Lại có những người bộ tộc Li-xa[36] ở trong và ngoài thành Tì-xá-li[37], cùng với vua quan các nước
xung quanh cõi Diêm-phù-đề[38], số nhiều như cát của bốn
sông Hằng. Những người Li-xa đều có niềm vui ở trong
chánh pháp, thuần tu
giới hạnh,
đạo đức tròn đầy,
hàng phục ngoại đạo, cùng với những kẻ
phá hoại Phật pháp. Những
Phật tử này đều có khả năng
thí pháp vô úy,
diễn thuyết cho người
pháp tạng vô tận; hết thảy đều có khả năng
tu tập diệu pháp cam lộ chư Phật đã dạy. Họ có khả năng nhiếp phục chúng ma, tà luận
ngoại đạo; tự
giữ giới luật, lại
hộ trì cho
chư Tăng giữ giới thêm được
an ổn; tự mình giữ luật, thích nghe
Đại thừa và còn diễn nói cho người khác nghe; ai cũng đều có tấm
lòng từ mẫn thương khắp
chúng sinh, đầy đủ
đức độ như những người trước. Tên các vị ấy là Tịnh
Ly Cấu Tạng, Thường Khoái Tịnh,
Hằng Thủy Ly Cấu Tịnh… Các
Phật tử này, mỗi người đều sắm tám mươi bốn ức giường, màn bằng gỗ chiên-đàn,
trầm thủy, uất kim, bách mộc[39], đâu-lâu
hương mộc[40]… mỗi một giường màn đều được chạm trổ,
điêu khắc tinh xảo bằng bảy loại báu,
đồng thời trang sức năm màu lấp lánh, đẹp tựa như trước. Mỗi người lại sắm tám vạn bốn ngàn ngựa báu
mạnh khỏe; tám vạn bốn ngàn voi chúa hùng dũng; tám vạn bốn ngàn cỗ xe bốn ngựa, và dùng đèn báu
Thần châu kết nối, trang sức
đoan nghiêm, chạy nhanh như gió; tám vạn bốn ngàn đèn báu
Minh Nguyệt, suốt cả ngày đêm thường luôn cháy sáng. Tràng, lọng, phan, hoa, màn, lều
đại bảo, tranh tượng thêu bằng len giạ màu trắng như những người trước. Lọng bằng hoa báu rộng một
do tuần. Những thứ len giạ
vi diệu mịn màng kết thành tranh tượng dài ba hai
do tuần. Mỗi chiếc lều cao một trăm
do tuần. Mỗi chiếc phan dài một ngàn
do tuần. Mọi thứ trang sức đều bằng
bảy báu giống như ở trước. Hương thơm
thức ăn theo gió bay đi khắp một
do tuần. Các
Phật tử này sắp xếp giường tọa, cùng các phẩm vật nơi rừng
Kiên cố đầy đủ xong rồi đến chỗ
Đức Phật, dập đầu
thỉnh cầu, đầu mặt
sát đất,
đảnh lễ xong rồi, đứng về một phía.
Lại có các hàng đại
Trưởng giả ở trong Diêm-phù-đề số nhiều như cát của năm
sông Hằng. Họ đều vui ưa tin sâu
chánh pháp,
giới hạnh thuần thục,
thành tựu các đức,
hàng phục ngoại đạo cùng với những kẻ
phá hoại Phật pháp, khiến cho kẻ ấy tin sâu
Đại thừa. Tên các vị là
Nhật Nguyệt Quang Vương Đảm Bặc
Hoa Thủ, Pháp Thủ… Những
trưởng giả này
đem theo con trai, cùng với con gái số nhiều như cát của năm
sông Hằng. Các
trưởng giả này buổi sáng hôm ấy, nương
thần lực Phật sắm sửa phẩm vật đầy đủ
trang nghiêm gấp đôi người trước, đem đến chỗ Phật,
cung kính dập đầu, lễ
chân Như Lai, rồi tất cả cùng đứng về một phía.
Lại có
quyến thuộc nội ngoại của vua thành Tì-xá-li, vua và
nhân dân, chủ các thành ấp,
tụ lạc thôn xóm lớn nhỏ ở trong cõi Diêm-phù-đề, trừ A-xà-thế[41], còn lại tất cả các bậc vua chúa, như Nguyệt
Ly Cấu Tạng, Nhật
Ly Cấu v.v… số nhiều như cát của sáu
sông Hằng, mỗi người
đem theo một trăm tám mươi vạn ức
quyến thuộc, đều là những người dõng mãnh
phi thường, như rồng, voi chúa, đi nhanh như gió, hết thảy tin ưa
giáo pháp Đại thừa,
giữ giới thanh tịnh,
oai đức đầy đủ,
hàng phục ngoại đạo cùng với những kẻ
phá hoại Phật pháp. Họ cũng sắm sửa phẩm vật
cúng dường trang nghiêm thù thắng gấp đôi người trước, đem đến chỗ Phật
thành kính cúng dường, xin Phật
xót thương từ bi tiếp nhận. Tất cả
mọi người dập đầu
sát đất, lễ
chân Như Lai, đứng về một phía.
Lại có các vua lớn nhỏ trong cõi Diêm-phù-đề này cùng với
phu nhân, cung tần mỹ nữ số nhiều như cát của bảy
sông Hằng, trừ A-xà-thế. Hết thảy
phu nhân, cung tần mỹ nữ đều chán thân nữ,
tu tập Không hành[42], tin ưa
Đại thừa, hay vì người khác giảng nói rộng rải
công đức tu hành và những điều khác như trước đã nói. Tên các
phu nhân gồm
Tam Giới Sa, Niệm Đức v.v… Họ sắm
lễ vật gấp đôi người trước, vào sáng hôm ấy đến chỗ
Thế Tôn, dập đầu
sát đất,
đảnh lễ chân Ngài, đứng về một phía.
[855a] Lại có
thiên tử Phổ Minh cùng với
chư thiên nhiều như số cát trong tám
sông Hằng. Những
thiên tử này ưa pháp
Đại thừa, cũng ưa giảng rộng cho người khác nghe. Họ tu
tịnh giới,
khát ngưỡng Đại thừa, những
chúng sinh nào ưa pháp
Đại thừa thì dùng pháp ấy
thỏa lòng khát ngưỡng; họ tu
tịnh giới, ham ưa
Đại thừa,
kiên cố Đại thừa,
giác ngộ Đại thừa, nơi pháp
Đại thừa chưa từng khởi lên tâm ý
kiêu mạn.
Họ hàng phục cả những kẻ
ngoại đạo cùng với những kẻ phá rối
Phật pháp;
hộ trì chánh pháp,
tu hành tịnh giới,
tùy thuận thế gian,
độ người chưa độ,
giải thoát cho kẻ chưa
được giải thoát. Họ muốn chuyển vận bánh xe
chánh pháp,
hưng long Tam bảo mãi mãi không dứt; họ muốn
kiến lập quốc độ trang nghiêm. Họ đã
thành tựu viên mãn vô lượng công đức như thế. Họ có
tâm từ, thương khắp
chúng sinh giống như con một. Các
chư thiên này, vào sáng hôm ấy, ánh sáng chiếu thân liền biết
điềm lạ, họ
suy nghĩ rằng: ‘Đức
Phật Như Lai chẳng bao lâu nữa vào bát-nê-hoàn’. Họ liền đến chỗ
Đức Phật Thế Tôn, thấy các phẩm vật dâng cúng đầy đủ, nhìn nhau bảo rằng:
-
Chúng ta quan sát người ở
thế gian sắm sinh phẩm vật
cúng dường Như Lai một lần sau cuối
trang nghiêm đặc thù chẳng khác
cõi trời. Bao nhiêu phẩm vật
cúng Phật cùng Tăng lần
cuối cùng này thật là
thù thắng,
vậy mà Thế Tôn thảy đều không nhận. Này chư nhân giả! Hôm nay
chúng ta thỉnh Phật cùng Tăng và các
quyến thuộc, làm lễ
cúng dường một lần sau cuối cho thật
thù thắng. Hôm nay
Như Lai,
chư Tăng cùng với tất cả
quyến thuộc thương xót chúng ta thụ nhận
cúng dường lần sau cùng này rồi vào nê-hoàn.
Đức Phật ra đời thật là khó gặp, nhưng được
cúng Phật một lần sau cuối lại càng khó hơn. Than ôi
nhân giả,
thế gian trống vắng! Con mắt
thế gian, sao diệt chóng thế!
Chư thiên cõi trời lại nghĩ
như vầy:
-
Chúng ta cũng phải
cúng dường Như Lai.
Nghĩ như vậy rồi, tức thì chuẩn bị phẩm vật
cúng dường tối thắng hơn cả người ở
thế gian. Giường, màn, xe cộ, tràng, phan, hoa, cái, tranh tượng, lều trướng, mỗi mỗi đều dùng hương, lụa,
vật báu của các
cõi trời để mà trang sức. Chuẩn bị đầy đủ phẩm vật xong rồi, họ đến chỗ Phật, ôm chân
đảnh lễ, nhiễu trăm ngàn vòng,
cung kính thăm hỏi, đứng về một phía.
Lại có vua của các loài rồng ở khắp cả bốn phương, nhiều như số cát của chín
sông Hằng, gồm Hòa-tu-cát[43], anh em Nan-đầu, Ưu-bát-nan-đà[44]… Các vua rồng này đầy đủ
công đức, có lòng
thương xót tất cả
thế gian. Sáng sớm hôm ấy, gặp ánh sáng Phật,
Long vương nghĩ rằng:
Như Lai không lâu sẽ nhập nê-hoàn. Chúng liền sắm sửa phẩm vật
thù thắng, nhiều gấp hai lần của chúng trời, người, đem đến chỗ Phật, ôm lạy chân Ngài, nhiễu trăm ngàn vòng, xong rồi tất cả, đứng về một phía.
Lại có vua của các chúng quỷ, thần và Tỳ-xa-môn[45], nhiều như số cát của mười
sông Hằng. Hết thảy quỷ vương sắm sinh
lễ vật đầy đủ như trước, đến chỗ
Đức Phật, đầu thành
đảnh lễ, nhiễu trăm ngàn vòng, xong rồi tất cả đứng về một phía.
Lại có, Già-lưu-la[46] vương, Long oán Già-lưu-la vương… nhiều như số cát hai mươi
sông Hằng; Càn-thát-bà[47] vương, Na-la-đạt Càn-thát-bà vương … nhiều như số cát ba mươi
sông Hằng; Khẩn-na-la[48] vương, Khoái kiến Khẩn-na-la vương… nhiều như số cát bốn mươi
sông Hằng; Ma-hầu-la-già[49] vương, Đại khoái kiến Ma-hầu-la-già vương… nhiều như số cát năm mươi
sông Hằng; A-tu-la vương, Du không A-tu-la vương… nhiều như số cát sáu mươi
sông Hằng; Đà-na-bà[50] vương,
Pháp Thủy Ly Cấu Thắng vương… nhiều như số cát bảy mươi
sông Hằng; vua loài la-sát, Quảng bố úy la-sát… nhiều như số cát tám mươi
sông Hằng; Chủ vương
tùng lâm, Dược hương tùng lâm… nhiều như số cát chín mươi
sông Hằng; vua loài
Trì Chú, Đại huyễn Trì Chú… nhiều như số cát một ngàn
sông Hằng; chúng
Dục Sắc,
Thiện kiến Dục Sắc… nhiều như số cát một ức
sông hằng;
chúng Thiên nữ, Lam-bà Thiên nữ… nhiều như số sát trăm ức
sông Hằng; vua chúng Phụ-đa, Túc-quân-để Phụ-đa vương… nhiều như số cát ngàn ức
sông Hằng;
thiên tử ở
cõi trời Tứ thiên vương… nhiều như số cát trăm ngàn ức
sông Hằng; Lại có thần gió nhiều như số cát trong trăm ngàn ức của con
sông Hằng; Lại có các vua làm mây, tạo mưa, vua của hết thảy, các thần làm cho mây, mưa
vắng lặng, nhiều như số cát một ức
sông Hằng.
Hết thảy các vua của muôn loài ấy, ngay sáng hôm đó, gặp ánh sáng Phật liền biết
điềm lạ,
suy nghĩ như vầy:
Như Lai không lâu sẽ nhập nê-hoàn. Họ liền sắm sinh phẩm vật
cúng dường vô cùng thù thắng, gấp đôi trời, người, đem đến chỗ Phật, đầu thành
đảnh lễ, nhiễu trăm ngàn vòng, đứng về một phía.
Lại có voi chúa
hương tượng[51], voi chúa thân vàng, voi chúa mắt xanh… nhiều như số cát hai mươi
sông Hằng. Các loài voi ấy
tùy theo sức mình, từ trong
Tuyết Sơn, dùng vòi bứt hoa cùng các
dược thảo. Có những bông hoa lớn bằng bánh xe, như ưu-bát-la, hoa bát-đàm-ma, hoa câu-mâu-đầu, hoa phân-đà-lợi. Nói chung tất cả những loài hoa mọc trên núi dưới khe, hoặc trên đất bằng, thảy đều
mang đến, dùng để trang sức giường màn các thứ. Các loài voi ấy
buồn rầu gào rống,
âm thanh chấn động khắp cả đất trời:
Thế gian trống vắng sao mà chóng thế? Con mắt
thế gian sao diệt nhanh vậy! Muôn loài voi chúa đến bên
chân Phật, sụp lạy
chân Phật, rồi thì tất cả đứng về một phía.
Lại có các vua của loài
sư tử, như Đại Chấn Hống… đều vì
chúng sinh cho sự
vô úy[52]; cùng với các loài vua của muôn chim, như Ca-lan-đà, Ca-lăng-tần-già[53]… nhiều như số cát của ba
sông Hằng, cũng
cúng dường Phật đầy đủ
trang nghiêm như loài voi chúa.
Lại có vua của các loài trâu, dê, đến rừng
Kiên cố cúng dường sữa thơm, hết thảy hào rãnh đều chứa đầy sữa. Lại có vua của các loài ong mật, mang đầy mật thơm chứa đầy hào rãnh. Các loài như vậy nhiều như số cát ở trong
sông Hằng, thảy đều đến chỗ
Đức Thế Tôn nằm,
đảnh lễ sát chân, đứng về một phía.
Lại có các vị
thần tiên đã đạt năm thứ
thần thông[54], cùng với hết thảy chư vị
tiên nhân trong bốn
thiên hạ[55], như tiên
Nhẫn Nhục v.v… nhiều như số cát một vạn
sông Hằng. Các vị
tiên nhân biểu hiện
vô số thần lực biến hóa, sắm sinh lễ phẩm
thù thắng vi diệu, gấp đôi người trước, đem đến chỗ Phật, trải tóc trên đất, ôm
chân Như Lai,
thành kính đảnh lễ, đứng về một phía.
Bấy giờ tì-kheo và tì-kheo-ni mười sáu nước lớn[56]
vân tập đông đủ, kín một
do tuần, chỉ thiếu hai chúng của hai
Tôn giả Ca-diếp, A-nan[57]. Các vị tì-kheo và tì-kheo-ni, ngay sáng hôm ấy, đến chỗ
Đức Phật, ôm chân
đảnh lễ, nhiễu trăm ngàn vòng, đứng về một phía.
Lại có vua của các thần núi nhỏ và thần núi lớn; vua của
quỷ thần thế giới trung gian; vua của thần núi Tu-di[58], số nhiều như cát của vạn
sông Hằng. Những sơn thần này chỉ ăn những loại lá cây, bông, trái và có
thần lực phóng ánh sáng lớn. Họ cùng đến chỗ
Đức Thế Tôn nằm, ôm chân
đảnh lễ, đứng về một phía.
Lại có chư thần,
thiên tử trong tám sông lớn, biển lớn, đất lớn, số nhiều như cát, trong trăm ngàn vạn
sông Hằng. Các vua lớn nhỏ đều có
thần lực phóng ánh sáng lớn,
che lấp ánh sáng
mặt trời mặt trăng. Họ dùng
thần lực làm rừng
Kiên cố vọt nước
cam lộ[59] đầy cả
sông Hằng, mềm mại
trong suốt, khắp nơi đều làm bậc thềm
bảy báu, khiến cho
chúng hội xuống lên lấy nước chẳng hề thấy mệt.
Bấy giờ, nơi vùng đất của bộ tộc
Lực sĩ, về phía phương Bắc,
tự nhiên xuất hiện giảng đường Thiện pháp[60], hướng Nam
xuất hiện giảng đường Trọng các[61]. Các
giảng đường ấy chạm trổ tinh xảo,
bảy báu trang nghiêm, ánh sáng năm màu, lung linh
rực rỡ. Suối trong, hồ tắm,
hoa quả, vườn rừng, cũng
tự nhiên có. Thật chẳng khác gì khu
vườn Hoan Hỷ cõi trời Đạo Lợi,
vô cùng ưa thích. Chư vị trời, người, chúng a-tu-la, đều nhìn thấy tướng
thể nhập nê-hoàn của
đức Như Lai, lòng rất
bi cảm,
than thở buồn sầu.
Lại có một ức số a-tăng-kỳ[62] chư vị
thiên tử ở
Tứ thiên vương[63], đều đến hội họp, nhìn nhau bảo rằng: Các ông nhìn kìa, các chúng trời, người và a-tu-la, vì muốn
cúng dường Đức Phật Như Lai một lần sau cuối mà sắm phẩm vật
đặc biệt thù thắng, nhiều
vô số kể. Phật và
đại chúng sau khi thụ nhận phẩm thực họ cúng sẽ nhập nê-hoàn.
Chúng ta cũng phải sắm sửa phẩm vật nhiều gấp hai lần phẩm vật người trước, tất cả mọi thứ
thức ăn,
hương hoa, đều của
cõi trời, như mạn-đà-la[64], ma-ha mạn-đà-la, hoa ca-câu-la[65], ma-ha ca-câu-la, hoa mạn-thù-sa[66], ma-ha mạn-thù-sa, hoa tán-đa-na[67], ma-ha tán-đa-na. Họ sắm
vô lượng hương hoa cõi trời mang đến chỗ Phật, dâng lên
cúng dường, dập đầu
lạy Phật, đứng qua một phía.
Thích Đề-hoàn Nhân[68] cùng với
thiên chúng cõi trời Ba ba[69], số a-tăng-kỳ, sắm sửa
lễ vật đem dâng
cúng dường. Vua trời thứ sáu[70], cùng với
quyến thuộc, sắm sửa
lễ vật thù thắng hơn trước. Trừ các
cõi trời Bốn
vô sắc[71] và
Hữu sắc vô tưởng[72],
ngoài ra các
cõi trời khác đều sắm
lễ vật cúng dường thù thắng hơn trước.
Bấy giờ
Phạm thiên[73], chủ của
thế giới Ta-bà[74], cùng
Phạm thiên tử,
vô lượng quyến thuộc, thân
phóng hào quang che bốn
thiên hạ, làm cho ánh sáng trời, người cõi Dục đều bị
lu mờ. Áo trời, hoa trời, tung xuống như mưa;
đồng thời bày biện phẩm vật, tràng, phan, dù, lọng
cõi trời, xếp thành hàng dài, từ cõi
Phạm thiên đến rừng
Kiên cố. Họ chuẩn bị xong, đến chỗ
Thế Tôn,
cung kính đảnh lễ, đứng về một phía.
Lại có, Tì-ma-chất-đa[75], vua trời tu-la, cùng với
quyến thuộc, số nhiều
vô lượng, thân phóng ánh sáng che bốn
thiên hạ, khiến cho ánh sáng Thích Đề-hoàn Nhân và các
Phạm vương đều bị
lu mờ. Vua trời tu-la cũng sắm sửa nhiều
lễ vật dâng cúng, trong đó
bảo cái to lớn che khắp
tiểu thiên thế giới[76]. Họ chuẩn bị xong, phẩm vật
cúng dường, liền đến chỗ Phật,
cung kính đảnh lễ, đứng về một phía.
Bấy giờ,
Thiên ma Ba-tuần[77], cùng với
quyến thuộc,
ma nữ cõi trời, số nhiều
vô lượng. Họ dùng
thần lực mở tất cả cửa của các
địa ngục; rồi tùy
sở nguyện của các
chúng sinh trong
địa ngục đó,
cung cấp cho họ những thứ
cần dùng.
Đồng thời bảo với
chúng sinh trong
cõi địa ngục ấy rằng:
- Các ông
cần phải suy niệm
công đức tùy hỷ sau cùng mà
Đức Như Lai, Ứng
Chánh Đẳng Giác đã từng chỉ dạy. Nếu niệm như vậy, tất cả các ông sẽ thêm
sức mạnh, có thể
tu hành phước lợi
vô cùng, sẽ khiến các ông hưởng được
an ổn, khoái lạc
lâu dài,
mãi mãi thoát khỏi địa ngục khổ đau, vì
Đức Như Lai có
oai thần lớn, có thể khiến cho
tâm ma Ba-tuần
chuyển hóa điều phục, và cũng khiến cho
quyến thuộc của ma, bao nhiêu dùng cụ dùng để chiến đấu, đao, trượng, kiếm, cung, tên sắt, dùi sắt, búa sắt, dây buộc, lưỡi móc câu dài, thảy đều
biến hóa thành đồ
trang nghiêm.
Chúng sinh địa ngục xa rời
chánh pháp cho nên nhận chịu bao nhiêu khổ đau, đêm dài tăm tối sống trong ngôi nhà tường vách vây quanh, lửa dữ thiêu đốt, nhờ
thần lực Phật, mưa pháp rưới xuống khiến cho lửa dữ thảy đều tắt hết.
Khi ấy
chúng sinh trong chốn
địa ngục thoát khỏi khổ đau, được vui
an ổn. Sau khi thoát khổ được
an ổn rồi, mỗi mỗi cùng với
quyến thuộc của ma sắm sửa
lễ vật, đầy đủ
thù thắng, gấp đôi số trước, đến chỗ
đức Phật,
cung kính đảnh lễ:
- Cúi xin
Thế Tôn thương xót tiếp nhận cho con
cúng dường.
Đức Phật thọ nhận cho con cúng rồi từ đây về sau, nếu kẻ
thiện nam, người
thiện nữ nào xưng lên danh diệu hai chữ
Đại thừa[78], tất cả chúng con sẽ vì người ấy
bảo hộ cho họ không còn
sợ hãi.
Rồi nói chú rằng:
- Sá chỉ trá trá la, đà chỉ lỗ lâu lệ,
ma ha lô lâu lệ, a la,
ma la,
đa la, tất ba ha.
- Câu
thần chú này có thể khiến cho những người
loạn tâm được định
thâm diệu. Câu
thần chú này cũng có khả năng giúp người
sợ hãi lìa mọi
sợ hãi. Câu
thần chú này cũng có thể giúp cho vị
pháp sư biện tài vô ngại. Câu
thần chú này có thể
hàng phục các hàng
ngoại đạo. Những người đã có khả năng
hộ trì chánh pháp vững bền thì
tụng chú này được hai vị thần thường theo
hộ vệ. Những lời con nói về
thần chú này đều là
chân thật. Nếu ở những nơi đồng hoang nguy hiểm, các nạn
thú dữ, nạn nước, nạn lửa, người nào trì tụng câu
thần chú này, các nạn
tiêu trừ. Những người siêng
năng trì thần chú này, con sẽ giữ họ như rùa giữ kỉ sáu chi[79] của mình. Ngày nay chúng con, đều đã
xa lìa những lời xiểm nịnh mà ma
thường dùng. Nguyện xin
Thế Tôn thương xót nhận lãnh phẩm vật con cúng, nguyện xin
hứa khả, câu
thần chú này.
Khi ấy
Thế Tôn nói với
Ma vương:
-
Như Lai không nhận phẩm vật ông cúng, nhưng vì
an ổn cho các
chúng sinh, nay
Như Lai sẽ
chấp nhận thần chú là
pháp cúng dường của ông đã nói.
Ba-tuần
cầu thỉnh ba lần như vậy,
Thế Tôn im lặng không nhận
cúng dường. Khi ấy Ba-tuần cùng
hàng ma nữ, ôm chân
Đức Phật,
cung kính đảnh lễ, đứng về một phía.
Lại có, vua của
cõi trời Đại Tự Tại Thiên[80] và các
Thiên tử, đầy đủ
thần lực, số nhiều
vô lượng, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp ba ngàn
đại thiên thế giới, khiến cho ánh sáng của
trời Phạm thiên, Thích Đề-hoàn Nhân,
cho đến cõi giới của A-tu-la, đều bị
lu mờ. Vua cùng
Thiên tử Đại Tự Tại Thiên cũng sắm
lễ vật đầy đủ
trang nghiêm,
thù thắng hơn trước;
hoa cái[81] sáng rỡ, chiếu khắp ba ngàn,
đại thiên thế giới, khiến cho trăm ức,
mặt trời,
mặt trăng, đều bị
che khuất.
KINH ĐẠI BÁT NÊ HOÀN
Phẩm thứ 2: BỒ TÁT ĐẠI THÂN
[856c] Từ
thế giới này nhìn về phương Đông, cách khoảng
vô số cõi Phật như cát trong
vô số a-tăng-kỳ
sông Hằng, có
thế giới tên
Ý Lạc Mỹ Âm. Trong
thế giới ấy, có
Đức Phật hiệu là
Hư Không Đẳng,
Như Lai Ứng Cúng, Chánh
Đẳng Chính Giác.
Đức Phật ấy bảo với người
đệ tử bậc nhất trong hàng
thanh văn bồ-tát tên là
Đại Thân:
- Này
thiện nam tử! Từ
thế giới này nhìn về phương Tây, có
một thế giới tên gọi Ta-bà. Trong
thế giới ấy có
Phật hiệu là
Thích-ca Mâu-ni,
Như Lai Ứng Cúng, Chánh
Đẳng Chính Giác, sắp vào nê-hoàn. Ông hãy cầm bát, đựng đầy cơm thơm, mà hương xong khắp ba ngàn
thế giới của
quốc độ này,
đồng thời chuyển lời
thăm hỏi của Ta đến với
chúng hội Đức Phật Thích-ca, và
thỉnh cầu Ngài thọ cơm Ta cúng rồi vào nê-hoàn. Lại nữa, ông hãy đem các giường, màn, phẩm vật
quý báu bậc nhất
cúng Phật Thích-ca. Thêm nữa, các ông ai có
hoài nghi hãy tự thưa hỏi nơi
Đức Phật ấy.
Bồ-tát
Đại Thân chắp tay lãnh giáo, cúi đầu
đảnh lễ sát chân
đức Phật, nhiễu quanh bên phải, rồi với
vô lượng các đại bồ-tát cùng nhau đi đến
thế giới Ta-bà. Bấy giờ ba ngàn
đại thiên thế giới mặt đất rúng động.
Đại chúng trong hội, Thích Đề-hoàn Nhân,
Phạm thiên, Tứ thiên,
Ma vương, Tu-la, hết thảy
chư Thiên có
thần lực lớn, thấy cả mặt đất
chấn động như vậy
toàn thân sởn ốc, ai cũng tự thấy ánh sáng của mình đều bị tắt lịm.
Đại chúng ai nấy cũng đều
sợ hãi. Khi ấy bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo với Thích, Phạm, Hộ thế,
Ma vương và
chư Thiên rằng:
- Các ông đừng sợ! Các ông đừng sợ! Từ
thế giới này nhìn về phương Đông, khoảng cách như cát của muôn
sông Hằng quốc độ chư Phật, có
một thế giới
Ý Lạc Mỹ Âm. Trong
thế giới ấy, có
Phật Như Lai hiệu
Hư Không Đẳng,
Ứng Cúng,
Đẳng Giác.
Đức Phật ấy bảo với người
đệ tử bậc nhất trong hàng
thanh văn bồ-tát tên là
Đại Thân: “Ông hãy đi đến
thế giới Ta-bà, ở đó có Phật
Thích-ca Mâu-ni,
Như Lai Ứng Cúng, Chánh
Đẳng Chính Giác sắp vào nê-hoàn, đem cơm
cúng Phật và chúng tì-kheo. Các ông ai còn
hoài nghi thì hãy tự mình thưa hỏi”. Tức thì bồ-tát
Đại Thân đảnh lễ sát
chân Phật ấy, đi nhiễu bên phải,
cung kính vâng lời. Rồi cùng
vô lượng chư đại bồ-tát cùng nhau đi đến cõi Ta-bà này. Vì thân quý Ngài phóng ánh
hào quang khiến cho ánh sáng của các ông đây thảy đều
lu mờ. Ở
thế giới kia, Phật
Hư Không Đẳng,
Như Lai Ứng Cúng, Chánh
Đẳng Chính Giác, vì muốn
cúng dường Thế Tôn chúng ta nên sai bồ-tát đến
thế giới này. Các ông nên phải, một lòng
tùy hỷ.
Khi ấy, Thích, Phạm,
Thiên vương, cùng với
Đại chúng bình tỉnh
trở lại đồng than lời rằng:
- Than ôi buồn sao,
thế gian trống vắng!
Như Lai không lâu sẽ vào nê-hoàn. Con mắt
thế gian sao diệt chóng vậy!
Rồi thì hết thảy khóc gào
thảm thiết.
Bấy giờ, bồ-tát
Đại Thân cùng
vô lượng đại bồ-tát
toàn thân tỏa sáng, từ bên
cõi Phật Ý Lạc Mỹ Âm đến cõi Ta-bà. Mỗi lỗ chân lông trên thân bồ-tát phóng ra ánh sáng,
hóa thành vô lượng những loài
hoa sen. Trên mỗi
hoa sen có bảy trăm tám mươi vạn thành ấp, cao rộng
trang nghiêm. Thành ấy bảy lớp, đều bằng
bảy báu, diêm-phù-đàn kim[82] làm đài
chống đỡ. Trên những đài ấy trồng toàn cây báu. Những cây báu này
trổ bông kết trái,
hoa quả sum sê. Dây vàng giăng mắc giữa các hàng cây. Bao bộc bên ngoài bảy lớp lưới báu, gió nhẹ thổi qua phát năm thứ tiếng[83],
âm thanh hòa nhã, tựa như
nhạc trời.
Nhân dân thành ấy
an ổn vui vẻ,
hạnh phúc tự tại. Bên ngoài thành ấy, bao bộc
xung quanh có
ao bảy báu,
nước tám công đức[84], trong mát dâng đầy, không lạnh không nóng, mềm mại
trong suốt, sinh ra
bốn loại hoa sen bảy báu, lớn như bánh xe, xanh vàng đỏ trắng, phát ra ánh sáng năm màu lung linh. Trong mỗi ao hồ có thuyền
bảy báu,
mọi người bơi thuyền dạo chơi nô đùa. Bên trong thành ấy, còn có ao tắm, trồng
bốn loài sen, hoa như bánh xe, năm màu
rực rỡ; bốn bên hồ ấy lót toàn
vàng ròng, bạch ngân,
lưu ly,
pha lê, khiến cho đôi bờ
đối diện phản chiếu ánh sáng rất đẹp; mai khôi[85] làm đáy, rải cát vàng lên; mỗi một ao tắm, đều có mười tám bậc thềm bằng vàng; khoảng giữa bậc thềm, dùng nhiều
vật báu,
trang hoàng rất đẹp; diêm-phù-đàn kim làm thành cây chuối trồng hai bên đường; những loài hoa trời như ưu-bát-la, hoa bát-đàm-ma, hoa câu-mâu-đầu, hoa phân-đà-lợi, lớn như bánh xe phủ khắp mặt ao. Những loài chim lạ bay liệng trong ao, líu lo ca hót. Bên bờ ao tắm trồng rất nhiều loại
hoa thơm cõi trời, bốn phương gió thổi, hoa rải khắp nơi ở trên mặt nước. Nước ấy thơm sạch như hương chiên-đàn ở trên
cõi trời. Trong ngoài thành ấy có tám vạn bốn ngàn
đại vương, mỗi
đại vương có
vô lượng phu nhân và các
cung nữ, họ tự
vui chơi với năm món dục. Nhà cửa
nhân dân rộng bốn
do tuần, hàng rào bảy lớp, đều bằng
bảy báu; cũng tự có đủ vườn kiểng ao tắm,
tùy ý vui chơi với năm món dục, đi lại
tự do, không cần theo chủ. Đất trong thành ấy rất là
mềm dẻo, bởi được nhào nhuyễn với hoa năm màu, và
ướp hương trời. Lại nữa xứ ấy, không có những hàng
Thanh Văn,
Duyên Giác, chỉ thuần một hàng
Đại thừa mà thôi. Trên mỗi bông hoa đều có
Đại vương ngồi tòa
sư tử, ghế báu đỡ chân, các
tràng phan báu che phủ ở trên, đem pháp
Đại thừa giáo hóa
chúng sinh.
Chúng sinh cõi ấy, ngồi ngay trên hoa
nghe pháp Đại thừa, hoặc cầm kinh tụng,
y pháp tu hành. Trên lỗ chân lông bồ-tát
Đại thân phóng ra ánh sáng
thần thông biến hóa. Các bồ-tát khác cũng giống như vậy. Bấy giờ
chúng sinh chẳng còn niềm vui, chỉ thấy đau buồn, nước mắt rưng rưng, theo chư bồ-tát, từ từ đi đến thành Câu-thi-na, nhìn nhau bảo rằng:
- Các ông nhìn kìa! Phẩm vật
cúng dường của trời và người
vô cùng đặc thù.
Chư vị bồ-tát mới đến cũng sắm phẩm vật
cúng dường. Tất cả
thực phẩm tinh khiết thơm ngon, không thể ví dụ. Từ lỗ chân lông bồ-tát
Đại Thân và hàng
quyến thuộc mọc ra
sen báu đựng lấy
thức ăn cúng Phật cùng Tăng.
Mùi vị thức ăn bay khắp ba ngàn
đại thiên thế giới,
chúng sinh ngửa được bao nhiêu
phiền não thảy đều
tiêu trừ. Những vật
cúng dường như
hoa sen báu,
tràng phan, dù lọng, cũng không có gì
so sánh cho vừa. Từ
cõi Phật ấy, chư vị bồ-tát nương giữa
hư không đến
thế giới này, tựa như đài cao, tất cả
chúng sinh thảy đều trông thấy. Bồ-tát
Đại Thân cùng các
quyến thuộc sắm sinh lễ phẩm gấp bội
chư Thiên. Chỉ trừ
hào quang của
Đức Như Lai, còn lại tất cả ánh sáng Phạm, Thích,
chư Thiên đều bị che mờ. Từ lỗ chân lông của chư bồ-tát tuôn mưa
hoa sen. Hương thơm hoa ấy bay khắp ba ngàn
thế giới đại thiên. Nếu có người nào ngửi được
mùi thơm của bông hoa này, bao nhiêu
tội cấu thảy đều
tiêu trừ và lại có thể
phát tâm bồ-đề[86]. Bồ-tát
Đại Thân có thân
vô lượng, lớn tựa
hư không, chỉ trừ chư Phật, còn
chúng sinh khác không thể thấy được bờ mé
vô cùng của thân bồ-tát. Chư vị bồ-tát
đảnh lễ Thế Tôn, dâng cơm
cúng dường, đứng về một phía.
Chư vị bồ-tát
thế giới phương Nam cũng đến chỗ Phật. Trên thân quý Ngài, từ lỗ chân lông mọc ra
sen báu như cõi Diêm-phù. Trên
hoa sen ấy,
hiện thành bảy báu,
thù thắng hơn trước. Chư bồ-tát từ
thế giới phương Đông,
thế giới Phương Tây đến cõi ta-bà, trên khắp
thân thể của chư bồ-tát, từ lỗ chân lông cũng mọc
hoa sen như bốn
thiên hạ; thành ấp, phẩm vật, các thứ
cúng dường,
thù thắng hơn trước.
Hoa sen mọc ra từ lỗ chân lông chư vị bồ-tát
thế giới phương Bắc số nhiều như một
tiểu thiên thế giới; thành ấp, ao tắm,
thù thắng hơn trước. Chư vị bồ-tát ở trong
mười phương thế giới vô lượng số a-tăng-kỳ, có thân như Ngài bồ-tát
Đại Thân đầy cả
hư không, từ lỗ chân lông
hoa sen mọc ra nhiều bằng ba ngàn
đại thiên thế giới. Các thứ bông hoa, phẩm vật
cúng dường tuôn xuống như mưa. Thân
của quý Ngài
tỏa ra ánh sáng che cả
chúng hội, chỉ trừ
Như Lai. Quý ngài
đảnh lễ, dâng lên phẩm vật
cúng dường đức Phật, rồi thì cùng nhau đứng về một phía.
Khi ấy, cạnh rừng
Kiên cố, vùng đất
tốt đẹp, đã được sắp bày ba mươi hai hàng
bảo tòa sư tử. Nơi ấy tuy hẹp, nhưng chư bồ-tát thân lớn
vô lượng, cùng với
chư thiên,
loài người hội họp mà vẫn đủ chỗ. Có người ngồi chỗ nhỏ như đầu kim. Có người ngồi chỗ, nhỏ như mảy lông. Có người ngồi chỗ nhỏ như ngọn gai. Có người ngồi chỗ nhỏ như mảy bụi. Tùy thân lớn nhỏ, đều được
ngồi yên, không thấy khổ nhọc. Bấy giờ
thế giới nhiều như số bụi có trong
mười phương đều bị
chấn động, rung chuyển sáu cách,
hiện tướng hy hữu,
biến hóa thần thông, mỗi
một thế giới,
tùy theo sức mình, đều sắm
lễ vật cúng dường như trước.
Cõi Diêm-phù-đề bấy giờ chỉ thiếu hai chúng
đệ tử của ngài Ca-diếp và ngài A-nan cùng các
quyến thuộc vua A-xà-thế, còn lại bao nhiêu
chúng sinh đều đến nhóm họp chỗ Phật. Thậm chí rắn, rết, các loài có độc,
ma quỷ, la-sát chuyên làm hại người, đều sinh
lòng từ, không xâm hại nhau, đối xử
với nhau giống như con ruột, chỉ trừ một hạng là nhất-xiển-đề[87].
Lúc ấy, nhờ
thần lực Phật, mặt đất ba ngàn
đại thiên thế giới thảy đều mịn màng, không có gò đồi, đá sạn,
gai góc, các thứ cỏ độc, chỉ có muôn thứ
vật báu trang nghiêm, giống như
thế giới Tây phương Cực lạc. Khi ấy
đại chúng, trời, người, tu-la, thấy cả
vi trần mười phương thế giới hiện ra rõ ràng như những
hình ảnh phản chiếu trong gương.
Bấy giờ, từ trên khuôn mặt
đức Phật phóng ra
vô số hào quang vi diệu đặc thù, khiến cho tất cả ánh sáng trên thân của cả
chúng hội đều bị
lu mờ. Hết thảy
chúng sinh dập đầu
khuyến thỉnh. Luồng ánh sáng ấy, chiếu
chúng hội xong vào lại miệng Phật. Khi ấy
chư thiên, người, a-tu-la, tất cả
hội chúng, thảy đều
kinh hãi,
toàn thân sởn ốc, cùng nhau bảo rằng:
- Ánh sáng của Phật chiếu khắp
mười phương,
vô lượng thế giới. Luồng ánh sáng ấy, chiếu khắp nơi xong vào lại miệng Phật, không còn
bóng dáng. Sự việc như vậy, hẳn có
nguyên do, chắc hẳn là tướng nê-hoàn sau cùng. Kỳ lạ làm sao, trời, người
cúng dường, thảy đều không nhận, thoảng chốc xả bỏ bốn
vô lượng tâm. Ánh sáng
Phật huệ từ nay tắt lịm, thuyền báu
từ bi từ nay đắm chìm. Than ôi, khổ thay!
Chúng sinh tuyệt vọng!
Họ khóc nức nở, chảy máu nước mắt, tuôn xuống như mưa. Giống như mây đen che kín bầu trời, trút cơn mưa xuống,
đại chúng gào khóc, huyết lệ tuôn rơi cũng
y như vậy.
KINH ĐẠI BÁT NÊ HOÀN
Phẩm thứ 3: TRƯỞNG GIẢ THUẦN-ĐÀ
[857c] Bấy giờ trong chúng, có ông
trưởng giả tên gọi Thuần-đà[88], người thành Câu-di, cùng với năm trăm đứa con của ông, đầy đủ
uy nghi, thứ tự
trang nghiêm.
Trưởng giả Thuần-đà
quán sát chúng hội vân tập đủ rồi, liền chỉnh
y phục,
đảnh lễ đức Phật, trong lòng
lo lắng, như
ánh mặt trời lúc vừa mới mọc rọi lên cây xanh từng đường gân lá nổi lên trên ấy như mạch máu đỏ,
trưởng giả Thuần-đà cũng giống như vậy,
toàn thân rướm máu, lệ tuôn như mưa, nhiễu trăm ngàn vòng,
chắp tay bạch Phật:
- Cúi xin
Thế Tôn cùng với
Đại chúng,
thương xót chúng con được thỉnh
cúng dường một lần sau cuối, để cho chúng con cùng với
chúng sinh nhờ ơn
giải thoát. Thí như ruộng đồng của người
nghèo khổ, vào tiết tháng hai cày bừa gieo hạt mong cơn mưa xuống. Con nay cũng vậy,
thân khẩu ý nghiệp,
phiền não dẫy đầy, chỉ mong
tu tập chút ít
ý niệm chán lìa
ba nghiệp. Cúi xin
Thế Tôn cùng với
Đại chúng thương xót chúng con
ban ơn mưa pháp, nhận lời
khuyến thỉnh. Đám ruộng khô khan mong thấm ân từ!
Bấy giờ
Thế Tôn,
Nhất Thiết Chủng Trí[89], biết hết mọi thời, bảo với Thuần-đà:
-
Như Lai Ứng Cúng, bậc
Đẳng Chính Giác, cùng với
Đại chúng nhận lời ông thỉnh, thụ buổi
cúng dường một lần sau cuối.
Khi ấy trời, người, chúng a-tu-la, nghe
Đức Như Lai,
Ứng Cúng,
Đẳng Giác, nhận lời
thỉnh cầu của ông Thuần-đà thụ buổi
cúng dường một lần sau cuối, hết thảy
Đại chúng vô cùng hoan hỷ, khác miệng đồng lời cùng nói lên rằng:
- Thật là hy hữu!
Lành thay,
lành thay! Trưởng giả Thuần-đà đầy đủ đức nguyện. Lạ thay Thuần-đà, sinh trong
cõi người phước lớn khó được, nay ông đã được. Như hoa ưu-đàm[90],
thế gian hiếm có,
Đức Phật ra đời khó gặp hơn vậy.
Lòng tin đã khó,
nghe pháp càng khó. Nhưng Phật nê-hoàn được
cúng dường Ngài
một lần sau cuối còn khó hơn nữa. Lại nữa Thuần-đà! Thí như trăng tròn đêm rằm tháng giêng không một gợn mây, hết thảy
chúng sinh ai cũng nhìn thấy. Ông cũng như vậy,
Như Lai Ứng Cúng, bậc
Đẳng Chính Giác, cùng với
Đại chúng nhận lời ông thỉnh
cúng dường lần cuối liền lên bờ giác.
Lành thay Thuần-đà!
Vì vậy nói ông, như trăng tròn đầy, hết thảy
chúng sinh ai cũng
chiêm ngưỡng. Lạ thay Thuần-đà, quả là
đệ tử chánh chân của Phật. Tuy sinh
cõi người mà nay
quả thật là người
tối thắng trong hàng
chư thiên. Cho nên
chúng tôi cúi đầu
đảnh lễ, cùng nhau
đồng thanh nói kệ khen rằng:
Tuy sinh ở
cõi Người,
Mà phước Trời đầy đủ,
Ta cùng tất cả chúng,
Nay dập đầu lễ thỉnh.
Nếu Ngài thương
hứa khả,
Bày tỏ chút
tâm nguyện,
Muốn
cứu độ chúng sinh,
Xin hãy mau
thỉnh cầu.
Nay
tối thắng cõi Trời,
Giữa đời,
Điều ngự sĩ,
Mắt
thần thông thấy suốt,
Tướng
công đức vô lượng,
Vì
chúng sinh cầu thỉnh,
Xả
phương tiện nê-hoàn,
Trụ thế giữa trời, người,
Rộng nói pháp
cam lồ,
Mãi lìa khổ
sinh tử,
Được
an ổn từ đây.
[858b] Bấy giờ,
trưởng giả Thuần-đà
vui mừng khôn xiết. Giống như một người
cha mẹ chết cả, lòng đau như cắt, đưa ra gò mả làm lễ
tống táng bỗng nhiên
sống lại, thì niềm
vui sướng tả sao cho hết?
Trưởng giả Thuần-đà cùng với
quyến thuộc sung sướng reo vui cũng giống như vậy,
năm vóc sát đất,
chắp tay đảnh lễ, dùng kệ khen rằng:
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Có được
diệu quả ở
cõi người.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Vĩnh viễn đóng kín cửa khổ đau.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Gặp quả
vô thượng giữa cõi đời,
Giống như tìm vàng khi đãi cát,
Chợt được
kim cương sướng biết bao!
Vui thay! Nay ta được
thoát ly,
Các nẻo
súc sinh đường khổ dữ.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Tin sâu hiếm có như ưu-đàm[91].
Vui thay! Nay ta được
thoát ly,
Đói khát,
xan tham đường
ngạ quỷ.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Bố thí một lần đến bờ kia
Từ nay
vĩnh viễn lìa
ác thú,
Cảnh giới tu-la cũng rời xa.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Khó gặp
Như Lai giữa cõi đời.
Như được gặp hoa ưu-đàm nở,
Như nếm hạt cải dính đầu kim.
Vui thay! Nay ta được
thoát ly,
Đại vương bốn trời thường
nghĩ tưởng.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Tận mắt được thấy
Đại Pháp VươngMười chỗ thác sinh trời cõi dục,
Hiểu rõ rành rành chẳng luyến mê.
Vui thay! Ta nay được phước lớn,
Giữa đời khó gặp được
anh hùngGiống như hạt cải dính đầu kim,
Gặp đấng
Như Lai khó hơn thế.
Khó tựa đầu kim mà để được,
Ba cõi, hai lăm hữu[92]
đứng yên.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Gặp được
Như Lai ước nguyện tròn.
Diệt sạch tất cả mọi điều ác,
Vô lượng ngu si, giặc
vô minh.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Gặp Đấng
Ly Cấu tựa
hoa sen.
Vui thay! Nay ta mãi
thoát ly,
Sóng dữ
trầm luân biển
sinh tử.
Vui thay! Giữa đời gặp
Như Lai,
Rùa mù gặp bộng cây giữa biển.
Vui thay! Nay ta mãi
thoát ly,
Biển
sinh tử rùa mù lầm lạc.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Giữa đời
hy hữu, mấy ai bằng.
Trời, gười ai thỉnh đều không nhận,
Pháp Bảo khó thưa, ta được thưa.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Trời, người, tu-la thảy tin mong.
Vui thay! Nay được quả
hiện tại,
Lần cuối
Thế Tôn nhận lời ta.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Trời, Người
ai nấy xin
thỉnh cầu.
Bao nhiêu phẩm vật đều không nhận,
Thương xót nhận ta chút lễ này.
Vui thay! Nay ta được phước lớn,
Trời, người hiến cúng, trọn không thành.
Lễ mọn ta cúng tựa
y lan[93]
Như Lai từ bi thương xót nhận.
Cõi trời,
cõi người, a-tu-la,
Ưu sầu, than khóc, dập đầu thỉnh,
Như Lai đại bi thương tất cả,
Xem
chúng sinh tựa con một thôi,
Dù
cho không nhận chúng con cúng,
Xin thương trời, người, đừng nê-hoàn.
Tất cả trời, người chẳng mong gì,
Chỉ mong
Như Lai ở đời mãi,
Tựa núi Tu-di trụ biển khơi,
Để
kim cang luân[94] chẳng hề động.
Núi sông
ảnh hiện vô cùng đẹp,
Giữa hội
Như Lai cũng
sáng ngời.
Uy quang của Phật soi
bốn chúngChẳng khác mây đen lấp kín trời.
Mặt trời hiển hiện xua bóng tối,
Có Phật trời, người hết
u mê.
Lâu nay bóng tối
sầu bi phủ,
Nên nguyện
Như Lai trụ mãi đời,
Đại Trí,
Đại Hùng trụ thế mãi,
Vận nguồn
tuệ giác diệt
u mêĐể tâm chúng con lìa
sợ hãi,
Như núi Tu-di chẳng động lay.
[858c] Bấy giờ
Thế Tôn bảo Thuần-đà rằng:
- Đúng vậy Thuần-đà!
Đức Phật ra đời thật khó gặp được, như hạt
kim cương lẫn trong biển cát. Có được thân người còn khó hơn vậy. Đầy đủ
tín tâm càng khó hơn nữa, tựa như
rùa mù gặp bộng cây nổi. Được gặp
Như Lai thể nhập nê-hoàn,
cúng dường lần cuối, đến bờ
giải thoát, lại càng khó hơn, như hoa ưu-đàm suốt cả ngàn năm
một lần xuất hiện. Thuần-đà, nay ông chớ sinh ưu não, hãy nên
vui mừng. Vì sao như thế? Hãy nghĩ
như vầy: “Hôm nay
Như Lai cùng với
đại chúng nhận ta
cúng dường một lần sau cùng thật là lớn lao”. Vì duyên lành ấy ông phải
vui mừng. Này ông Thuần-đà chớ thỉnh
Như Lai trụ mãi đời này. Phải
quán thế gian đều là
vô thường,
bản chất các hành[95] cũng
y như vậy.
Bấy giờ
Thế Tôn vì ông Thuần-đà mà nói kệ rằng:
Dù
cuộc đời dài lâu
Chung quy rồi cũng diệt
Dù sinh
trời trường thọ[96]
Cuối cùng cũng chết thôi
Có hợp ắt có tan
Hữu vi[97],
pháp ma diệt[98]
Trẻ bị già hủy hoại,
Khỏe bị bệnh khốn vây,
Người sống rồi phải chết,
Vô thường, há
bền lâu.
Không
sức mạnh, sắc đẹp,
Thọ mạng vốn cũng không,
Vợ con cùng voi, ngựa
Tiền tài
cũng thế thôi
Thế gian người
thân thíchBà con đều
biệt lyBa cõi thật
đáng sợÁc đạo đầy khổ đau
Chung quy đều diệt hết
Làm sao chẳng chán lo?
Hữu vi, tướng sinh, già
Là pháp đáng
hổ thẹnBị
thường kiến dối lừa
Nên mới tin còn mãi
Pháp
thù thắng, nê-hoàn
Xa lìa chốn
sợ hãiThoát được tướng sinh, già
Các họa lớn bệnh, chết
Ngu si tâm
rối loạnNghiệp này đã
vượt quaVô lượng điều mong cầu
Không gì hơn
tịch diệtNghĩa này thật
vô thườngChẳng phải pháp
che chởChỉ do khổ nhóm hợp
Hư huyễn không chắc bền
Nơi này khó
kham nhẫnCũng chẳng thể thường tồn
Y như tằm kéo kén
Nhả tơ tự buộc mình
Luân hồi trong
ba cõiKhông một chỗ yên vui
Chỉ có khổ sinh, già
Và họa lớn bệnh, chết
Người biết nghĩa, thấy rõ
Ngày đêm mạng trôi lăn
Là pháp giảm,
hư dốiSợ hãi, chẳng chút vui
Tật bệnh, ưu, bi, não
Thứ
phi nghĩa dẫy đầy
Lửa dục quay không hở
Bao nhiêu nạn tụ về
Bậc trí mãi
xa lìaNhững nơi
thống khổ ấy
Họa
năm dục hiểu rành
Chưa hẳn có
công đứcPhải
ly dục,
vô thamThấu tỏ pháp chơn thật
Mới chính là
giải thoátTừ bỏ nẻo sinh, già
Khẩu nghiệp kết oán cừu
Cứu cánh lìa các hữu.
Từ đây
gấp rút lìa tất cả
Y như củi hết, lửa chẳng còn
Diệu sắc trạm nhiên thường
an ổnKhông bị già suy mãi hoại tàn
Vô lượng bệnh khổ không
bức báchThọ mạng vô hạn mãi
trường tồnBiển khổ
vô biên vượt qua hết
Không theo
thời tiết kiếp đổi dời
Vui thay!
Như Lai vượt
ba cõiSinh tử luân hồi chẳng lầm mê
Ông chớ xem Ta
diệt độ hẳn
Như núi Tu-di trụ biển khơi
Thuần-đà, nay Ta nhập nê-hoàn
Chánh pháp bình đẳng mãi
an lạcBậc trí
sáng suốt nghe nghĩa này
Thấu
tỏ rõ ràng không
lo lắngChớ đem thân
sinh tử bọt bèo
Trí tuệ thấp hèn, đo lường Phật
Thân Ta thật trụ nơi
an ổnChỉ có
Như Lai mới
tỏ tường.
[859b] Bấy giờ Thuần-đà bạch với Phật rằng:
- Ngưỡng bạch Thế Tôn!
Lành thay! Lành thay! Chúng con là kẻ kém hèn, làm sao hiểu thấu
Như Lai nê-hoàn! Ngưỡng bạch Thế Tôn! Hôm nay thân con vốn chẳng hề khác với chư bồ-tát, những bậc
đại nhân và a-la-hán. Như ngài Văn-thù chẳng có gì khác các a-la-hán. Trong
chúng hội đây, nếu có người nào đầu tiên
thọ giới liền được
giới thể dự vào Tăng đoàn, thì con cũng vậy, dù con chỉ là
phàm phu kém hèn,
nương nhờ oai thần của
đức Như Lai mà được đứng cùng chư
đại Hiền thánh,
dự vào Tăng đoàn. Dạ vâng
Thế Tôn, Nguyện xin
Như Lai trụ mãi ở đời, đừng vào nê-hoàn như lửa tắt ngấm.
Văn-thù-sư-lợi bảo Thuần-đà rằng:
- Này ông Thuần-đà, chớ nói như thế! Bởi vì sao vậy? Ông phải quán xét
bản chất đổi thay của
pháp hữu vi vốn là như vậy.
Quán chiếu được vậy đầy đủ
Không tuệ, người cầu
chính pháp phải học như vậy.
Thuần-đà đáp rằng:
- Thưa Ngài Văn-thù! Phàm
Như Lai là bậc tối tôn của các hàng trời, người, là bậc
Ứng Cúng lẽ đâu cũng là
pháp hành hay sao? Nếu là
pháp hành, là pháp
sinh diệt, thí như bọt nước thoạt nổi thoạt tan, vần xoay qua lại tựa như bánh xe. Nếu bảo
Như Lai cũng là
pháp hành thì không thể nào trên cả trời, người? Chẳng phải là người
tối thắng cõi trời thì không xứng đáng để mà
ứng cúng. Lại nữa, thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Ngài há chẳng nghe có trời trường thọ?
Vậy mà ngày nay
thọ mạng Như Lai không đầy trăm tuổi, như vậy chẳng là pháp
sinh tử chăng?
Đã vậy làm sao có thể tôn xưng là đấng tối tôn trong hàng trời, người, là bậc Ứng Cúng? Thưa ngài Văn-thù! Thí như có người làm chủ
tụ lạc,
tùy theo khả năng, công sức của mình, từ từ thăng tiến lên
địa vị cao,
mọi người kính trọng,
tiền của dồi dào,
quyền thế tự tại, nhưng khi phước hết
trở lại nghèo hèn, chẳng ai
tôn trọng.
Giả sử Như Lai, cũng là
pháp hành thì
y như vậy, chẳng phải là đấng tối tôn trời, người, thành kẻ
thấp hèn, không xứng
ứng cúng. Bởi vì sao vậy? Bởi vì
Như Lai là pháp
sinh diệt. Cho nên, thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Ngài chớ nói rằng
Như Lai Ứng Cúng, bậc
Đẳng Chính Giác là pháp
sinh diệt. Lại nữa Văn-thù! Ngài biết mà nói hay là không biết,
vọng tưởng cho rằng
Như Lai cũng là
pháp hành sinh diệt? Nếu
đức Như Lai đúng là
pháp hành, thì không được tôn
Pháp Vương Tự Tại ở trong
ba cõi. Bởi vì sao vậy? Thí như ông vua dõng mãnh
phi thường, có thể
một mình thắng ngàn
lực sĩ, thì lúc bấy giờ người ta sẽ gọi vua thắng nghìn người.
Như Lai Ứng Cúng, bậc
Đẳng Chính Giác cũng
y như vậy, Ngài đã
hàng phục ác ma phiền não,
ấm ma,
tử ma và ma Ba-tuần, như vậy tất cả các
ma lực sĩ,
cống cao ngã mạn điều bị
hàng phục,
vì vậy cho nên
Như Lai Ứng Cúng, bậc
Đẳng Chính Giác, được làm
Pháp Vương tự tại
ba cõi. Nếu bảo
Như Lai là pháp
sinh tử thì thật chẳng có
công đức gì cả. Do đó thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Ngài chớ
vọng tưởng nói rằng
Như Lai là pháp
sinh diệt. Lại nữa Văn-thù! Như ông
trưởng giả giàu có bậc nhất, sinh được đứa con, thầy tướng xem nó có tướng đoản thọ. Vợ chồng
trưởng giả nghe nói như vậy lòng rất đau buồn, nghĩ mình phước bạc, gia môn
bất hạnh, sinh phải đứa con đoản thọ
chết yểu, nên chẳng yêu mến. Bởi vì sao vậy? Bởi kẻ đoản thọ chẳng được trời, người, hàng bà-la-môn cùng với
quyến thuộc yêu mến
kính trọng. Bởi vậy thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Nếu
đức Như Lai cũng có tuổi thọ bằng với người đời thì cũng giống như người đời chẳng được
cha mẹ kính yêu.
Như Lai Ứng Cúng, bậc
Đẳng Chính Giác mà là
pháp hành, chẳng được trời, người, tu-la kính mến, vì
bản thân Ngài cũng bị đổi thay. Bởi vì sao vậy? Vì dùng các pháp
tri kiến thối thất mà đem giảng nói cho các
chúng sinh là pháp
giải thoát, với
ý nghĩa đó làm sao được gọi là bậc Chánh Giác? Thế nên, thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Ngài chớ
vọng tưởng cho rằng
Như Lai cũng là
pháp hành.
Lại nữa Văn-thù! Như người nữ nghèo chẳng có nhà cửa, bệnh tật ốm đau, thân lại mang thai,
xin ăn khắp chốn, ngày nọ dừng chân trước cửa nhà kia xin nhờ ở trọ để mà sinh nở. Chủ nhà không cho, lại còn
xua đuổi. Thế rồi người nữ sinh con giữa đường, ẵm bế trên tay đi qua nước khác. Giữa đường gặp phải bao nỗi khốn cùng, muỗi mòng, trùng độc, chực chờ
ăn thịt. Đến
bờ sông Hằng, ẵm con trong lòng, bà lội qua sông, gặp dòng nước xoáy, chẳng nở buông con, bởi vậy cho nên cả hai
mẹ con đều cùng chết đuối. Do nhờ
công đức từ ái thương con mà người nữ kia sau khi
mạng chung sinh trời
Tịnh Diệu. Bởi vì sao vậy? Bởi vì người nữ không tiếc
thân mạng thà chết cứu con. Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát cũng vậy muốn hộ
chánh pháp chớ dùng
pháp hành mà nhìn
Như Lai. Người dùng
pháp hành, phải biết người đó
nhục nhãn cũng mù, không có
tuệ nhãn. Đối với
Thế Tôn phải khởi
chính quán bất khả tư nghì. Phải biết
Như Lai chẳng phải
hữu vi, nhưng vì
chúng sinh hóa hiện cứu độ cho được
an lạc, như người nữ nghèo vì cứu con mình không tiếc
thân mạng, nhờ thế sinh lên
cõi trời Tịnh Diệu. Bồ-tát
hộ pháp cũng giống như vậy, biết rõ
Như Lai chẳng phải
hữu vi, là
pháp trường tồn, là pháp
cửu trụ, do đó
hộ pháp được quả
hiện tại mau thành
giải thoát.
Lại nữa Văn-thù! Thí như có người đường xa
mệt mỏi, nghỉ nhờ nhà nọ,
đang đêm ngủ vùi, bỗng nhiên nhà ấy phát cháy
dữ dội. Người ấy choàng tỉnh, thấy lửa vây quanh, muốn
thoát thân ra khỏi nhà lửa này thật khó biết bao, áo quần cháy hết,
sợ chết lõa lồ, nên lòng
hổ thẹn. Rồi vì không thể
thoát khỏi nhà cháy nên bị thiêu chết. Do nhờ
công đức sinh lòng
hổ thẹn mà
sau khi chết người ấy được sinh lên
trời Đao Lợi, tám mươi ngàn kiếp làm vua trời ấy, rồi trăm ngàn kiếp làm vua
Phạm thiên, sau đó
trở lại sinh trong
loài người thường được làm vua
Chuyển luân thánh vương, không đọa
ác thú mãi sinh ở chốn
an ổn hạnh phúc. Tất cả phước ấy đều nhờ một niệm sinh lòng
tàm quý. Văn-thù-sư-lợi! Phải biết
Như Lai, làm
phương tiện đó, như người đi đường chết trong
hổ thẹn. Chớ theo
ngoại đạo huân tập tà kiến, làm thầy tì-kheo mà không
giữ giới, đối với
Như Lai là
pháp vô vi mà
khởi tâm tưởng cho là
hữu vi là tội
vọng ngữ. Người nào nghĩ rằng,
đức Phật Như Lai là
pháp hữu vi thì nên biết rằng người ấy thường lấy a-tỳ-địa ngục[99] làm nhà để ở.
Vì vậy chớ nên nghĩ rằng
Như Lai là
pháp hữu vi, mà nên nhớ nghĩ
Như Lai vô vi, từ đó mà được
trí tuệ vượt qua biển lớn
sinh tử, không bị
sống chết làm cho
mê hoặc, là được
trí tuệ thâm sâu giải thoát. Nhờ
trí tuệ này nhanh chóng
đạt được đầy đủ
tướng hảo của
đức Như Lai.
[860a] Bấy giờ Văn-thù bảo Thuần-đà rằng:
-
Lành thay thiện nam! Nên biết như vậy,
đức Phật Như Lai thường trụ,
vô vi, không phải là pháp
sinh diệt đổi thay. Này ông Thuần-đà! Ông có
trí tuệ, khéo dùng
phương tiện che
pháp hữu vi của
đức Như Lai, chẳng bao lâu nữa ông sẽ
thành Phật.
Công đức thù thắng vi diệu của ông chỉ
Phật Thế Tôn mới khen ngợi hết. Lại nữa Thuần-đà! Có hai cách thí,
bố thí kịp thời và
bố thí pháp.
Bố thí kịp thời vượt xa
bố thí tất cả
chúng sinh. Như có tì-kheo hoặc tì-kheo-ni, hàng ưu-bà-tắc hoặc ưu-bà-di, từ xa mới đến, trên lộ trình ấy nếu có người nào
tùy theo sức mình nhanh chóng
cung cấp những thứ
cần dùng cho những người ấy, thì
việc làm này đã gieo
hạt giống đàn-ba-la-mật[100], được
quả báo lớn. Hôm nay Thuần-đà
tùy theo sức mình
cúng Phật cùng Tăng
một lần sau cuối, phải biết lúc này mau dâng lên cúng, bởi sắp đến giờ
Thế Tôn diệt độ.
Thuần-đà thưa rằng:
- Kính bạch bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Việc gì ngài lại
hối thúc con dâng
thức ăn không mấy được
thanh tịnh này?
Như Lai lẽ nào chờ đợi được dùng
thức ăn này ư? Thuở xưa
Như Lai tu hành khổ hạnh suốt sáu năm trời, ngồi
dưới gốc cây, ngày ăn chỉ một hạt mè để sống mà còn chịu được, huống gì hôm nay, chỉ trong chốc lát không nhịn được sao? Ngài thật cho rằng
Như Lai thọ dụng thức ăn này ư? Thân của
Như Lai chính là
pháp thân, không phải là thân
thọ dụng thức ăn.
Bấy giờ
Thế Tôn bảo ngài Văn-thù:
- Những lời Thuần-đà đều là
chân thật.
Rồi Phật lại bảo với ông Thuần-đà:
- Hôm nay ông đã
thành tựu đại trí,
thấu triệt Đại thừa.
Văn-thù-sư-lợi bảo Thuần-đà rằng:
- Hôm nay ông đã
xưng tán Như Lai, nên được
Đức Phật thương yêu gia hộ.
Thuần-đà thưa rằng:
-
Như Lai đâu phải chỉ thương mình con? Tất cả
chúng sinh đều được chư Phật
bình đẳng thương yêu. Ngài chớ khởi lên
vọng tưởng điên đảo mà nói như vậy. Ngài nên biết rằng, chư Phật
thương yêu và người được Ngài
thương yêu che chở, cả hai người ấy đều chẳng phải là
pháp hành sinh diệt. Bởi
tình thương ấy, như con trâu mẹ, dù đang
đói khát, đi tìm cỏ nước, no hay chưa no,
chợt nhớ con mình liền vội
quay về. Chư
Phật Thế Tôn không có niệm này, thương khắp
chúng sinh như là con một.
Tình thương như vậy chính là
cảnh giới trí tuệ chư Phật. Lại nữa thưa Ngài Văn-thù-sư-lợi! Thí như xe báu được kéo bởi voi hay là bởi ngựa, nhanh chậm bất đồng.
Chúng ta cũng vậy, với chín loại kinh[101], không
đủ sức trí để mà thưa hỏi
trí tuệ của Phật. Văn-thù-sư-lợi! Như
chim cánh vàng[102] liệng giữa
hư không, bay qua biển lớn, thấy bóng của mình hiện trên mặt nước, rộng lớn
vô cùng,
đồng thời thấy rõ mọi loài thủy tộc,
thân hình lớn nhỏ. Như đứa trẻ bệnh đâu kham uống được thuốc của người lớn?
Văn-thù-sư-lợi bảo Thuần-đà rằng:
- Đúng vậy Thuần-đà! Như lời ông nói, ta vì bồ-tát
công đức thậm thâm mà nói lời đó.
Bấy giờ từ trên khuôn mặt
Thế Tôn phóng ra
vô số ánh sáng đủ màu. Văn-thù-sư-lợi thấy ánh sáng ấy, biết đã đến giờ
Thế Tôn nê-hoàn, liền bảo Thuần-đà:
- Ông muốn
cúng dường Như Lai nê-hoàn
một lần sau cuối, nay đã đến giờ, hãy mau thiết lễ. Thuần-đà nên biết,
Như Lai phóng ra
vô số ánh sáng là có
nguyên do, vì
ý nghĩa này, hãy mau hãy mau, chớ để đánh mất cơ hội hái hoa
đúng lúc phải hái.
Trưởng giả Thuần-đà,
thẩn thờ chết lặng.
Phật bảo Thuần-đà:
-
Như Lai ngay đây sẽ nhập nê-hoàn, nay chính là lúc ông
cúng dường Tăng.
Phật bảo ba lần, Thuần-đà nghẹn ngào
cất tiếng than rằng:
- Than ôi
thế gian, trống vắng nhanh thế,
Như Lai từ nay, lìa xa
mãi mãi.
Thuần-đà nghẹn ngào,
rơi lệ thỉnh cầu, xin Phật
thương xót trụ đời
lâu dài.
Thế Tôn bảo rằng:
- Này ông Thuần-đà! Ông đừng khóc gào làm
loạn tâm mình, phải
chính tư duy quán chiếu thân này như là ngựa hoang, cây chuối,
giấc mộng, ánh chớp, đồ gốm… chẳng gì bền chắc. Phải biết
hữu vi là ngôi nhà lửa, nguy hiểm
vô cùng.
Thuần-đà
bạch Phật:
-
Thế Tôn không muốn trụ lại ở đời nên đời trống vắng, thử hỏi làm sao chúng con không khóc?
Phật bảo Thuần-đà:
- Nay ta thương ông và mọi
chúng sinh mới nhập nê-hoàn. Pháp của chư Phật, vốn là như vậy.
Bản chất hữu vi cũng
y như vậy. Ông cũng là một trong tất cả
pháp hữu vi sinh diệt. Với tất cả
pháp hữu vi sinh diệt ông phải nghĩ rằng,
Như Lai xưa đã nói pháp
vô thường, khổ, không,
vô ngã; cũng đã từng nói thân này là mầm của mọi
tai họa, như chùm bọt nước,
sinh diệt tan biến. Ông chớ buồn khổ như bọn
phàm phu.
Thuần-đà
bạch Phật:
- Đúng vậy, Thế Tôn! Thật lòng con biết
Như Lai phương tiện thể nhập nê-hoàn, nhưng con vẫn buồn không
kiềm chế được.
Phật bảo Thuần-đà:
-
Lành thay! Lành thay! Này
thiện nam tử! Ông đã rõ biết
Như Lai phương tiện thể nhập nê-hoàn. Ông phải biết rằng, Phật đã
trải qua, như qua biển lớn, thấy biết
cùng tận các
pháp trường thọ với chẳng
trường thọ, dùng pháp
phương tiện,
pháp diệt, pháp huyễn, thời với
phi thời, tánh với phi tánh. Thuần-đà! Ông muốn nhanh chóng, vượt biển
tam hữu[103] thì mau sắm soạn lễ phẩm
cúng dường như chúng Trời, Người, chúng A-tu-la… Lần
cúng dường này là lần sau cuối, khiến cho tất cả
chúng sinh nhờ Ta mà được
bất động,
an ổn khoái lạc, ông và
mọi người gặp
ruộng phước lớn, đã
phát tâm thí đàn-ba-la-mật cho
Đức Như Lai, bậc Đẳng-Chánh-Giác, thì đừng níu kéo,
vấn nạn Ta nữa, nhưng
bản thân ông cũng đã
thành tựu ruộng phước Như Lai.
[860c]
Lúc ấy,
Trưởng giả Thuần-đà, vì muốn
cứu độ tất cả
chúng sinh, dập đầu than khóc, nước mắt như mưa. Giống như
mặt trời lúc vừa mới mọc rọi lên cây xanh từng đường gân lá nổi lên trên ấy như mạch máu đỏ,
Trưởng giả Thuần-đà máu lệ tuôn rơi cũng
y như vậy, mà
bạch Phật rằng:
- Dạ vâng Thế Tôn! Theo lời Ngài dạy,
ý nghĩa Như Lai thể nhập nê-hoàn thật là
thâm sâu, không phải
phàm phu ngu muội như con có thể lường biết, đến như các hàng
Thanh Văn,
Duyên Giác, cũng không hiểu thấu. Chỉ có chư Phật mới thấu hiểu hết
cảnh giới trí tuệ của các
Thế Tôn.
[861a] Bấy giờ Thuần-đà cùng các
quyến thuộc vì muốn
cứu độ tất cả
chúng sinh, dập đầu
sát đất, lạy chân
Đức Phật, nhiễu quanh bên phải, xông đốt
trầm hương,
rải hoa cúng dường Đức Phật Thế Tôn,
đồng thời cúng dường Văn-thù-sư-lợi.
Cúng dường hoàn mãn cùng
trở về nhà.
Kinh Đại bát-nê-hoàn
Hết quyển 1