28. PHẨM TRÀ TỲ
THỨ HAI MƯƠI TÁM
Lúc đó tất cả
nhân dân nam nữ trong thành
Câu Thi Na hỏi ngài
A Nan pháp tắc
trà tỳ đối với
Đức Như Lai.
Ngài
A Nan thuật lại lời Phật nên theo pháp tắc
Chuyển Luân Thánh Vương.
Tất cả
nhân dân buồn khóc
rơi lệ trở vào trong thành làm kim quan dùng
thất bảo trang nghiêm, cùng lo sắm ngàn bức bạch điệp
vô giá,
vô số bông
đâu la miên mềm nhuyễn,
vô số chiên đàn,
trầm thủy, hòa hương
hương thủy, hương nê, phan lọng hoa hương v.v… Sắm sửa xong, cùng nhau đến trước Phật
rơi lệ nghẹn ngào mà dâng lên
cúng dường.
Lúc đó
đại chúng buồn thương
cung kính dùng bạch điệp tốt che tay đỡ
Như Lai vào trong kim quan đổ đầy dầu thơm, nắp kim quan liền đóng kín lại.
Nhơn dân trong thành
Câu Thi Na vì tham phước lành, không muốn cho
đại chúng trời người khiêng kim quan của Phật, họ sai
bốn đại lực sĩ thỉnh kim quan của Phật vào trong thành để
cúng dường.
Bốn đại lực sĩ nầy vận dụng
hết sức mình mà vẫn không động được kim quan. Trong thành lại sai tám
đại lực sĩ, rồi đến mười
sáu đại lực sĩ, nhưng vẫn không khiêng nổi.
Ngài
A Nâu Lâu Đà thong thả bảo các
lực sĩ rằng : “ Dầu cho tất cả nhơn dân trong thành cũng không khiêng nổi kim quan, huống là các ông. Các ông phải thỉnh
đại chúng cùng
chư thiên trợ lực các ông mới khiêng kim quan vào thành được.
Lúc đó
Thiên Đế Thích cùng
chư thiên cầm lọng
thất bảo lớn cùng
vô số hoa hương phan lọng các thứ
âm nhạc, khóc lóc
rơi lệ ở giữa
hư không giăng che
cúng dường kim quan của Phật.
Lục dục thiên cùng
sắc giới thiên cũng đồng
cúng dường kim quan như
Đế Thích.
Đức
Đại Bi của
Thế Tôn muốn cho
thế gian được
tâm bình đẳng đồng được phước, kim quan liền từ rừng
Ta La tự bay lên
hư không cao bằng một
cây Đa La.
Nhơn dân trong thành
Câu Thi Na và tất cả
đại chúng trời người, vì không được khiêng kim quan nên tự
cảm thương kêu khóc.
Chư thiên đem hoa hương
châu ngọc rải trước kim quan,
vần vũ quanh kim quan. Đồng
than thở xướng to rằng : Khổ thay ! Khổ thay !
Chúng ta vô phước chẳng đặng khiêng kim quan.
Lúc đó kim quan của Phật bay trên
hư không, từ rừng
Ta La bay chậm chậm vào cửa Tây thành
Câu Thi Na, Tất cả nhơn dân
đại chúng trời, người,
Bồ Tát,
Thanh Văn, hoặc đi
dưới đất, hoặc đi trên
hư không,
theo sau kim quan buồn khóc
than thở nghẹn ngào
rơi lệ.
Thành
Câu Thi Na mỗi phía rộng bốn mươi tám
do tuần. Kim quan của Phật bay chậm chậm trên
hư không vòng ra cửa Đông
hữu nhiễu vào của Nam, rồi vẫn bay chậm chậm trên
hư không mà ra của Bắc, lại tả nhiễu vào cửa Tây. Bay nhiễu đủ ba vòng như vậy, kim quan bay chậm chậm trên không vào cửa Tây rồi ra cửa Đông, tả nhiễu vào cửa Bắc lại ra cửa Nam,
hữu nhiễu trở lại vào cửa Tây, bay như vậy đủ bốn vòng.
Lúc kim quan của Phật bay vào thành,
vô số đại chúng mang
vô số gỗ thơm,
chiên đàn,
trầm thủy, tất cả hương báu cùng
vô số phan lọng
hương hoa chuỗi ngọc đến chỗ
trà tỳ.
Tứ Thiên Vương cùng
chư thiên cũng đem những thứ hương thượng diệu
cõi trời đến chỗ
trà tỳ.
Chư thiên cõi trời Đao Lợi nhẫn đến
chư thiên cõi trời Tha Hóa cũng đều đem
vô số thứ hương thượng diệu
cõi trời và phan lọng hoa hương
chuỗi ngọc gấp bội trời
Tứ Thiên Vương đến chỗ
trà tỳ.
Chư thiên cõi sắc, cõi
vô sắc chỉ đem
hương hoa đến chỗ
trà tỳ.
Ngài
A Nâu Lâu Đà, lệ đầy mắt chẳng xiết buồn thương, khất
gỗ thơm chiên đàn trầm thủy cõi trời đủ sáu ngàn cây đem đến chỗ
trà tỳ.
Lúc
Đức Thế Tôn mới
thành đạo, bờ phía Bắc
sông Hằng mọc lên một cây
chiên đàn, lớn như bánh xe, cao bằng bảy
cây Đa La. Hơi thơm bay tỏa khắp nơi Thọ Thần của cây
chiên đàn nầy sanh
đồng thời với cây, thường đem hương của cây nầy đến
cúng dường Phật. Giờ Phật
nhập Niết Bàn, cây
chiên đàn nầy liền chết nhánh lá khô rụng, Thọ Thần nầy cũng chết theo cây. Các vị thần khác đem cả cây
chiên đàn đã chết khô nầy đến chỗ
trà tỳ để
cúng dường.
Nơi đây là chỗ
trà tỳ của
tam thế chư Phật. Nơi đây có
vô lượng tháp báu của chư Phật
quá khứ. Nơi đây là chỗ đất
Kim cang cứng chắc.
Lúc đó kim quan của Phật bay
chầm chậm trên
không hữu nhiễu tả nhiễu bay quanh thành
Câu thi Na đủ bảy vòng, rồi từ từ hạ xuống trên giừơng
thất bảo, trong
thời gian đó
trải qua bảy ngày.
Nhơn dân
đại chúng trời người ,
Thanh Văn,
Bồ Tát cầm phan lọng hoa hương buồn khóc
rơi lệ theo sau kim quan trọn bảy ngày.
Do
thần lực của Phật, tất cả
đại chúng đều không
đói khát, không một ai nghĩ đến
ăn uống, chỉ
thành tâm cung kính mến luyến
Đức Như Lai.
Vì đã đủ bảy ngày sắp đem
Như Lai ra khỏi kim quan,
đại chúng kêu khóc
chấn động thế giới, dùng bạch điệp mịn nhuyễn che tay
cung kính phò
thân Kim Cang bất hoại đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của
Như Lai an lành ra khỏi kim quan để trên giừơng
thất bảo.
Đại chúng càng thêm buồn thương than khóc, đem hoa hương, trổi
âm nhạc cúng dường Như lai.
Mọi người mắt đầy lệ, miệng nghẹn ngào, dùng
vô số hương thủy,
cung kính tắm rửa thân
Như Lai từ đầu đến chân. Cũng rửa kim quan trong ngoài sạch sẽ.
Tắm rửa thân
Như Lai xong,
đại chúng lại đem
vô số hương hoa phan lọng buồn thương khóc lóc,
cúng dường như Lai. Dùng
vô số bông
đâu la miên mịn màng bao bọc
thân Kim Cang của
Như Lai từ đầu đến chân. Rồi lấy bạch điệp
vô giá tuần tự quấn ngoài bông
đâu la miên đủ một ngàn bức.
Đại chúng lại khóc than
cúng dường rồi lấy bạch điệp che tay
cung kính phò thân
Như Lai vào trong kim quan, đổ đầy dầu thơm, nắp kim quan liền đóng lại.
Đại chúng lại buồn than khóc lóc trổi
âm nhạc dưng
hương hoa cúng dường kim quan.
Sau đó
đại chúng chất
gỗ thơm chiên đàn trầm thủy thành lầu hương lớn, bốn phía treo giăng những lọng báu phan đèn,
chuỗi ngọc, dây vàng. Mùi
gỗ thơm bay tỏa khắp thành.
Sau khi
dâng hoa hương, trổi
âm nhạc thương khóc
cúng dường,
đại chúng trời người dùng bạch điệp che tay
cung kính khiêng kim quan để lên lầu hương.
Đại chúng lại than khóc, nhiều người ngất xỉu. Khi
tỉnh lại đồng kêu rằng : Khổ thay ! Khổ thay ! Nào ngờ
cuối cùng không chỗ nương cậy ! Than xong nghẹn ngào
rơi lệ lại rải
hương hoa, treo phan lọng, trổi
âm nhạc cúng dường Như Lai.
Lúc đó sắp sửa nổi lửa
trà tỳ,
đại chúng lại kêu gào than khóc
chấn động cõi
đại thiên trần thiết
cúng dường kim quan của Phật.
Mọi người vừa khóc lóc lệ đầy mắt, đều cầm đuốc hương lớn cả ôm, cháy sáng cả vùng, đem đến châm vào lầu
gỗ thơm. Khi
đến gần lầu
gỗ thơm, tất cả ngọn đuốc đều
tự nhiên tắt.
Đại chúng lại thay
vô số đuốc khác ném vào dưới lầu hương, tất cả ngọn đuốc cũng đều tắt.
Trăm ngàn Hải Thần đem đuốc lớn
thất bảo đến châm vào lầu hương, những đuốc nầy cũng đều tắt.
Đại chúng chẳng biết cớ gì
trà tỳ chẳng được, đây có lẽ
Đức Như lai còn có
nhơn duyên gì chưa xong.
Lúc đó ngài
Ma Ha Ca Diếp cùng năm trăm
Tỳ Kheo ở tại
núi Kỳ Xà Quật cách thành
Câu Thi Na năm mươi
do tuần, đương nhập
Tam Muội, bỗng nhiên tim nhảy thân rung, liền
xuất định thấy núi cây đều
chấn động, biết rằng
Đức Như Lai đã
nhập Niết Bàn. Ngài bảo các
Tỳ Kheo : Đức
Đại Sư Thế Tôn của
chúng ta đã
nhập Niết Bàn bảy ngày rồi, hiện đã vào trong kim quan.
Khổ thay ! Khổ thay !
Chúng ta phải mau đến chỗĐức
Như Lai, sợ rằng đã
trà tỳ rồi chẳng còn được thấy
sắc thân chơn tịnh
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của
Đức Phật.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp vì lòng
kính trọng Phật nên chẳng dám dùng
thần thông bay đi, bèn dắt các Thầy
Tỳ Kheo đi bộ bảy ngày mới tới thành
Câu Thi Na.
Trên đầu đường cửa Đông, ngài
Ma Ha Ca Diếp thấy một
Bà La Môn tay cầm một nhánh
thiên hoa đi ngược chiều, liền hỏi : “ Ông từ đâu mà đến đây?”
Bà La Môn đáp : “
Đức Phật đã
nhập Niết Bàn, tôi vừa ở chỗ
trà tỳ về”.
_ Ông đương cầm đó là hoa gì ?
_ Tôi ở chỗtrà tỳ được cành hoa trời nầy.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp ngỏ ý xin hoa ấy.
Bà La Môn nói : “ Không được ! Tôi muốn đem hoa nầy về cho
thân tộc tôi
cúng dường trong nhà.”
Ngài
Ma Ha Ca Diếp bèn mượn cành hoa, hai tay
cung kính để lên đầu mình, liền ngất xỉu té xuống đất. Giây lậu
tỉnh lại suy nghĩ rằng : Ở đây than khóc, chẳng thấy được
sắc thân hùynh kim của
Như Lai cũng không ích gì.
Nghĩ xong, liền cùng các
Tỳ Kheo đi gấp vào cửa Bắc thành
Câu Thi Na, ghé vào một
tăng phường thấy các
Tỳ Kheo đang hội họp.
Các
Tỳ Kheo nầy bảo ngài rằng : Xem các ông dường như từ xa mới đến, có lẽ nhọc nhằn
đói khát, nên ngồi nghỉ chờ đến giờ ăn.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp nói : Đấng
Đại Sư đã
nhập Niết Bàn,
chúng tôi còn lòng nào ở yên đây chờ ăn.
_
Đại Sư là ai ?
_ Khổ thay ,
đau đớn thay ! Các Thầy chẳng biết ư ? Đấng
Đại Giác Thế Tôn nay đã
nhập Niết Bàn.
Các
Tỳ Kheo nầy nghe rồi
vui mừng lắm, nói rằng : “ Sướng lắm ! Sướng lắm !
Đức Như Lai còn
tại thế cấm răn
chúng ta, đặt ra
giới luật nghiêm tuấn,
chúng ta chẳng chịu nổi. Nay đã
nhập diệt, những
giới luật nghiêm tuấn ấy cũng phải bỏ. Các ông
thong thả chờ
ăn uống, có gì phải vội gấp.”
Đức Phật dùng
thần lực bít tai
chư thiên và các
Tỳ Kheo theo ngài
Ca Diếp. Những
Tỳ Kheo nầy cùng
chư thiên đều chẳng nghe những lời ác của các
Tỳ Kheo vừa nói. Chỉ
một mình ngài
Ma Ha Ca Diếp nghe thôi.
Lúc đó, ngài
Ca Diếp dắt các
Tỳ Kheo rời
tăng phường vội vã đến chỗ Phật. Vừa đi vừa
suy nghĩ chúng tôi làm sao được có những đồ
cúng dường, để khi đến chỗ Phật dâng lên
cúng dường ?
Ngài
Ma Ha Ca Diếp lại
suy nghĩ : Tôi vốn sanh trưởng ở trong thành nầy, nay xin đồ
cúng dường có lẽ cũng được.
Ngài liền dắt các
Tỳ Kheo ghé từng nhà để xin, được ngàn bức bạch điệp tốt,
vô số bông
đâu la miên, cùng rất nhiều
hương hoa, hương nê,
hương thủy, hương du, phan lọng, hàng màu,
chuỗi ngọc.
Xin đồ
cúng dường xong, các ngài
lật đật mang ra cửa Tây. Từ xa nghe vẳng tiếng
đại chúng than khóc ở chỗ
trà tỳ. Nghe
đại chúng hỏi
Thiên Đế cúng dường đã xong làm sao có lửa để đốt lầu hương ? Nghe
Thiên Đế đáp rằng
đại chúng nên chờ, ngài
Ma Ha Ca Diếp sắp đến.
Tất cả
đại chúng đương buồn khóc thấy ngài
Ma Ha Ca Diếp cùng năm trăm
Tỳ Kheo vừa đi, vừa khóc mà đến, liền tránh đường nhường chỗ cho ngài
Ma Ha Ca Diếp đi thẳng vào lầu hương. Ngài
Ma Ha Ca Diếp dắt cácTỳ Kheo vòng lên kim quan mà
lễ bái kêu khóc ngất xỉu, giây lâu
tỉnh lại nước mắt tuôn rơi, hỏi
đại chúng rằng : “ Làm sao để được mở kim quan của Phật ?”
Đại chúng đáp : “ Phật
nhập Niết Bàn đã
trải qua hai thất, sợ có tổn hoại chăng ?”
Ngài
Ma Ha Ca Diếp nói : “ Thân của
Như Lai là
thân Kim Cang thường, lạc, ngã, tịnh, không thể có sự hư rã, thân Phật thơm tho ngào ngạt như núi
Chiên Đàn.”
Nói xong các ngài liền đến bên kim quan
than thở khóc lóc.
Lúc đó
Đức Như Lai Đại Bi bình đẳng vì ngài
Ma Ha Ca Diếp nên kim
quan tự nhiên mở nắp. Ngàn trương bạch điệp cùng bông
đâu la miên đều tự tháo tung, lộ bày thân huỳnh
kim ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Vừa thấy
kim thân của Phật lộ ra, các ngài liền ngất xỉu té xuống, giây lâu
tỉnh lại nghẹn ngào than khóc, nước mắt chảy tuôn đem hoa hương phan lọng hàng màu
chuỗi ngọc của mình xin đặng dâng lên
cúng dường, rồi lấy hương nê
hương thủy tắm rửa
kim thân của
Như Lai,
đốt hương rải hoa khóc lóc
cúng dường. Sau đó các ngài đem bông
đâu la miên của mình bao trùm
kim thân kế lấy bông
đâu la miên cũ bao ngoài. Lại lấy ngàn bức bạch điệp của mình
tuần tự quấn ngoài bông
đâu la miên, kế đó lấy ngàn bức bạch điệp cũ cũng theo thứ tự quấn ngoài bạch điệp mới. Sau khi quấn bạch điệp xong nắp kim quan liền đóng lại.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp cùng các
Tỳ Kheo khóc lóc
rơi lệ đi nhiễu kim quan bảy vòng, quì gối
chắp tay nói kệ
than thở :
Khổ thay khổ thay đấng
Đại Thánh, Nay tôi
đau đớn như cắt lòng,
Thế Tôn diệt độ sao quá sớm,
Đại Bi chẳng thể nán chờ tôi. Trong
thiền định ở núi
Xà Quật, Tôi khắp tìm Phật đều chẳng thấy, Nhìn lại thấy Phật đã
Niết Bàn, Thoạt vậy
thân tâm tôi kinh động. Bỗng thấy mây đen khắp
thế gian, Lại thấy núi cây đều
chấn động, Liền biết
Như Lai đã
Niết Bàn,
Chúng tôi vội đến chẳng được thấy.
Thế Tôn Đại Bi chẳng đến tôi, Khiến tôi chẳng thấy Phật
nhập diệt, Chẳng được nghe một lời
dạy bảo, Tôi nay côi cùng biết nương đâu !
Thế Tôn ôi ! Tôi quá
đau đớn,
Rối loạn tinh thần tâm
mê muội Nay tôi cúi lạy đầu
Thế Tôn, Và cũng kính lạy ngực
Thế Tôn,
Kính lễ hai tay của
Đại Thánh, Và cũng
kính lễ lưng
Thế Tôn,
Cung kính đảnh lễ rún
Thế Tôn,
Thâm tâm kính lễ chưn của Phật. Khổ thay chẳng thấy Phật
Niết Bàn, Xin hiện bày chỗ tôi
kính lễ.
Như Lai ở đời chúng an vui, Nay
nhập Niết Bàn đều rất khổ. Buồn thay buồn thay quá đớn đau,
Đại Bi hiện bày chỗ tôi lễ.
Lúc ngài
Ma Ha Ca Diếp khóc than nói kệ rồi, đấng
đại bi Thế Tôn liền hiện hai bàn chân
thiên bức luân tướng ra ngoài kim quan. Từ thiên bức luân phóng ngàn
tia sáng chiếu khắp tất cả
thế giới ở
mười phương.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp cùng các
Tỳ Kheo thấy chưn Phật,
đồng thời cúi lạy tướng thiên bức luân. Vì quá
cảm động, các ngài
mê muội ngất xỉu, giây lâu
tỉnh lại nghẹn ngào kêu khóc,
đi nhiễu bảy vòng rồi lại
đảnh lễ chưn Phật buồn khóc nói kệ rằng :
Như Lai tâm
Đại Bi trọn vẹn,
Từ quang bình đẳng không
phân biệt,
Chúng sanh có cảm đều
ứng hiện, Cho tôi được thấy tướng túc luân. Nay tôi
thâm tâm quy mạng lễ, Đấng hai chân
thiên bức luân tướng, Trong
thiên luân phóng ngàn
tia sáng, Chiếu khắp
cõi Phật ở
mười phương. Nay tôi
quy y cúi đầu lạy,
Thiên bức luân tướng phóng ánh sáng,
Chúng sanh được chiếu đều
giải thoát,
Tam đồ bát nạn đều lìa khổ. Tôi lại
quy y cúi đầu lạy, Ánh sáng khắp cứu các
ác thú. Thuở xưa
Thế Tôn từ nhiều kiếp, Vì
chúng tôi siêng
tu khổ hạnh, Ngày nay chứng được
thân kim cang, Do đây dưới chưn ngàn
tia sáng. Buồn thương cúi đầu
quy mạng lễ,
Thiên luân an lạc các
chúng sanh. Phật
tu công đức vì tất cả, Dưới cội đạo thọ hàng
bốn ma,
Bốn ma hàng rồi dẹp
ngoại đạo, Nhơn đây
chúng sanh được
chánh kiến.
Cung kính quy y cúi đầu lạy, Chưn sáng khiến chúng được
chánh kiến, Phật là cha lành của tất cả, Chưn sáng
bình đẳng độ
chúng sanh. Tôi lại
quy y cúi đầu lạy, Chưn sáng
bình đẳng cứu thoát khổ, Tôi gặp chưn sáng thiên bức luân, Buồn mừng xen lộn
đau đớn lòng. Tôi lại khóc than cúi đầu lạy, Tướng sáng
thiên luân có
cảm ứng,
Quy y cúi lạy ánh sáng chưn, Nương thừa
rốt ráo ra
ba cõi.
Kính lễ chưn trời người
quy y, Ánh sáng khắp soi
ba cõi khổ,
Chúng sanh chưa
được giải thoát khổ, Thảy đều
qui mạng chưn thiên quang.
Chúng tôi luân hồi chưa ra khỏi, Cớ sao chưn Phật lại
bỏ rơi, Thương thay, thương thay cho
chúng sanh.
Tia sáng thiên luân mãi chẳng thấy,
Sám hối với đấng
Đại Từ Bi,
Đảnh lễ chưn vàng ngàn
tia sáng. Buồn thay nay gặp tướng
Thiên Luân, Từ đây lúc nào được thấy lại !
Ngài
Ma Ha Ca Diếp cùng các
Tỳ Kheo nói kệ trên đây rồi, lại ngất xỉu
mê muội, giây lâu
tỉnh lại nghẹn ngào buồn thương không dằn được.
Hai
chân Kim Cang
thiên bức luân tướng của Đấng
Đại Giác Thế Tôn tự rút vào kim quan đóng kín như cũ.
Tất cả nhơn dân
đại chúng trời người
ngó thấy ngài
Ma Ha Ca Diếp càng thêm
sầu khổ đấm ngực kêu gào, tiếng khóc than vang động cả
thế giới, đem
lễ vật nghẹn ngào dâng cúng.
Lúc đó trong thành
Câu Thi Na sai bốn
lực sĩ đeo
chuỗi ngọc trang nghiêm nơi thân, tay cầm đuốc lớn như bánh xe ngọn lửa
chói sáng, đến đốt lầu hương để
trà tỳ Như Lai. Vừa đến lầu hương lửa đuốc liền tắt. Trong thành lại sai tám
lực sĩ,
lần lượt sai đến ba mươi
sáu đại lực sĩ, mỗi
lực sĩ vác đuốc lớn đến châm vào lầu hương để đốt. Tất cả lửa đuốc đều tắt.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp bảo các
lực sĩ cùng
mọi người rằng kim quan của Phật, lửa trong
tam giới không thể đốt cháy được.
Đại chúng nên biết rằng
giả sử tất cả những lửa
trên trời cùng nhơn gian đều không thể
trà tỳ kim quan của
Như Lai.
Mọi người chớ
gắng gượng luống đốt nhọc nhằn.
Đại chúng nghe lời trên đây càng thêm buồn khổ đồng nhau
đảnh lễ cúng dường đi nhiễu kim quan bảy vòng, tiếng khóc than vang động cả
mười phương.
Lúc bấy giờ
Đức Như Lai dùng sức Đại Bi, từ nơi ngực phóng ngọn lửa ra ngoài ki8m quan, lần lần đốt cháy lầu hương
trải qua bảy ngày mới cháy hết.
Tất cả
đại chúng trời người
cùng nhân dân
nam nữ trong thành cũng buồn than khóc lóc trọn bảy ngày không dứt tiếng,
đồng thời chẳng ngớt
cúng dường đảnh lễ.
Lúc đó Tứ ThiênVương đều nghĩ rằng : Tôi dùng
nước thơm rưới tắt lửa, gấp lượm lấy
Xá Lợi đem về
cõi trời cúng dường. Nghĩ xong,
Tứ Thiên Vương liền mang bình vàng đựng đầy
nước thơm, lại đem bốn cây cam nhũ, bốn cây nầy mọc ở trên bốn triền
núi Tu Di, mỗi cây cao trăm
do tuần, lớn một ngàn ôm, đồng đến chỗ
trà tỳ.
Thiên Vương trút
nước thơm trong bình, bốn cây tuôn nước cam nhũ tưới trên ngọn lửa. Tưới xong, thấy lửa càng mạnh không tắt.
Lúc đó Hải Thần cùng
Ta Già La Long Vương và Giang Thần, Hà Thần thấy Tứ ThiênVương tưới
nước thơm chẳng tắt lửa, đều nghĩ rằng :
Chúng ta đem
nước thơm tưới tắt lửa thâu gấp
Xá Lợi đem về
cúng dường tại chỗ của
chúng ta. Nghĩ xong, mỗi thần cầm bình báu đựng
vô lượng nước thơm mang đến chỗ
trà tỳ đồng thời tưới trên lửa, thấy lửa như cũ không tắt chút nào.
Ngài
A Nâu Lâu Đà hỏi
Tứ Thiên Vương cùng các Thần : “ Các ông tưới
nước thơm, có phải muốn lửa tắt để lấy
Xá Lợi về
cúng dường tại chỗ ở của các ông chăng ?”
_ Thưa ngài
A Nâu Lâu Đà ! Đúng như vậy.
Ngài
A Nâu Lâu Đà bảo
Tứ Thiên Vương : “ Các ông lòng quá tham ! Nếu tất cả
Xá Lợi đều theo các ông về
thiên cung, người ở địa cầu làm sao lên trời được để
cúng dường ?
Ngài lại bảo các Thần : “ Các ông ở trong biển lớn
dưới sông sâu, nếu các ông đem
Xá Lợi của
Đức Như Lai về chỗ ở của các ông, thời người trên mặt đất nầy làm sao đến đó để
cúng dường ?
Tứ Thiên Vương cùng chư Thần đều
sám hối.