26. PHẨM DI GIÁO
THỨ HAI MƯƠI SÁU
Lúc bấy giờ
Đức Phật bảo An Nan và
đại chúng : Sau khi ta
diệt độ, hàng
tứ chúng phải siêng
hộ trì kinh Đại Bát Niết Bàn của ta. Trong
vô lượng vô số kiếp ta
tu tập pháp
Đại Niết Bàn khó đặng nầy, nay đã
giải thuyết rõ ràng cho
đại chúng.
Các người nên biết pháp
Đại Niết Bàn nầy là
bảo tạng Kim Cang thường , lạc, ngã, tịnh
hoàn toàn viên mãn của tất cả chư Phật. Tất cả chư Phật đều ở nơi pháp
Đại Niết Bàn nầy mà
nhập Niết Bàn. Pháp nầy là pháp
tối hậu rốt ráo chí lý cùng tột không
thiếu sót. Chư Phật đều phóng
xả thân mạng nơi đây, do đó nên gọi là
Đại Niết Bàn.
Đại chúng muốn đặng chơn thật
báo ân Phật, mau chứng
Bồ Đề, được chư Phật rờ đầu,
đời đời sanh ra chẳng mất
chánh niệm,
thập phương chư Phật thường hiện trước mình ngày đêm
giữ gìn làm cho tất cả
mọi người được pháp
xuất thế, thời phải siêng năng
tu tập kinh Đại Niết Bàn nầy.
Phật bảo A Nan : Lúc ta chưa
thành Phật thị hiện vào trong pháp
ngoại đạo của
Uất Đầu Lam Phất,
tu học tứ thiền bát định.
Từ khi ta
thành Phật đến nay bác bỏ những pháp ấy khuyến dụ lần lần các phái
ngoại đạo,
cuối cùng đến ông
Tu Bạt Đà La, cho họ đều vào
Phật Đạo.
Đức Như Lai dùng đuốc
đại trí đốt tràng
tà kiến, như đem lá cỏ khô ném vào trong ngọn lửa lớn.
Nầy
A Nan ! Nay những người dòng
Thích Ca ta rất
lo nghĩ đến họ. Sau khi ta
nhập Niết Bàn, ông phải siêng năng đem điều lành dạy răn, hàng
quyến thuộc của ta,
hết lòng dạy dỗ cho họ được diệp pháp. Chớ để họ
phóng dật tán tâm chơi bời hoặc theo
tà pháp.
Người chưa
thoát khỏi sự thống khổtrong
ba cõi phải sớm cầu
giải thoát. Phải lo sợ chốn
ngũ trược ái dục nầy, một khi mất thân người rất khó được lại,
trọn đời phải thường
soi xét. Khó lấy tình để cầu
thoát khỏi quỉ
vô thường.
Phải
thương xót chúng sanh, chớ giết hại dầu là côn trùng nhỏ nhít.
Thân nghiệp thanh tịnh thường sanh cõi
tốt đẹp.
Khẩu nghiệp thanh tịnh xa lìa những lỗi ác . Chớ
ăn thịt, chớ uống rượu.
Điều phục con rắn tâm cho nó vào
đạo quả.
Phải
suy nghĩ kỹ nghiệp nhơn
thiện ác cảm báo tốt xấu. Nhơn quả trong
ba đời tuần hoàn chẳng mất, như bóng theo hình. Đời nầy luống qua về sau
ăn năn không kịp.
Giờ
Niết Bàn đã đến, ta
tóm tắt dạy bảo như vậy.
A Nan nghe lời Phật dạy,
thân thể rung tâm động, buồn khóc nghẹn ngào,
mê muội té xuống
trước mặt Phật như người chết.
Lúc đó ngài A Nâu La Đà
an ủi A Nan rằng : “ Đâu nên quá
sầu khổ như vậy ! Đã đến giờ
Đức Như Lai nhập Niết Bàn, ngày nay dầu có Phật, sáng mai thời đã không. Ông
y theo lời tôi để thưa hỏi
Đức Như Lai bốn điều.
_ Sau khi Phật
nhập Niết Bàn Lục Quần Tỳ Kheo làm việc ô tha gia, cùng
Xa Nặc ác tánh, các
Tỳ Kheo làm thế nào để cùng họ cộng trụ và chỉ dạy họ ?
Đức Như Lai còn thời dùng Phật làm Thầy,
Đức Như Lai đã
diệt độ rồi lấy gì để làm Thầy ?
_ Lúc Phật còn nương nơi Phật mà trụ,
Như Lai đã
diệt độ nương gì để trụ ?
_ Sau khi
Phật diệt độ, lúc
kết tập pháp tạng, đầu các kinh phải để những lời gì ?
A Nan như ở trong mộng nghe ngài
A Nâu Lâu Đà khuyên bảo hỏi Phật bốn điều. Lần lần được
tỉnh ngộ chẳng xiết buồn thảm,
A Nan đem bốn điều trên hỏi Phật.
Đức Như Lai bảo
A Nan : “ Sao lại quá buồn khổ như vậy ! Chư
Phật thuyết pháp giáo hóa
việc làm đã xong, theo phải về nơi đây.
Lành thay !
Lành thay ! Bốn điều ông vừa hỏi, là lời hỏi
tối hậu, có
lợi ích lớn cho tất cả
thế gian. Các ông lóng nghe và khéo
suy nghĩ ghi nhớ.
Sau khi Phật
nhập Niết Bàn,
Tỳ Kheo Xa Nặc tâm tánh sẽ lần lần
điều phục nhu hòa bỏ
ác tánh cũ.
Nầy
A Nan ! Ông
Nan Đà trước kia rất nặng
ái dục, tánh rất xấu ác,
Đức Như Lai dùng thiện
phương tiện chỉ dạy cho ông ấy được
lợi ích vui mừng. Phật rõ biết
căn tánh của ông ấy, dùng
huệ bát nhã mà
giảng thuyết mười hai
nhơn duyên : Chính là
vô minh duyên hành,
hành duyên thức, nhẫn đến
lão tử ưu bi khổ não, đều là rừng bụi
vô minh yêu ghét, tất cả
hành khổ đầy tràn trong
ba cõi, chạy khắp trong
lục đạo. Cội gốc sự khổ từ
vô minh khởi lên. Dùng
huệ bát nhã
hiển bày tánh tịnh,
quán sát kỹ cội gốc thời dứt được
tội lỗi trong
ba cõi. Vì cội gốc
vô minh dứt nên
vô minh dứt,
vô minh dứt thời hành dứt, nhẫn đến
lão tử ưu bi khổ não đều dứt.
Lúc được
quán niệm nầy
nhiếp tâm đứng dừng thời được nhập
Tam Muội, do sức
Tam Muội được nhập
sơ thiền lần lượt nhập
tứ thiền không rời
chánh niệm luôn
tu tập như vậy, rồi sau tự sẽ được chứng thượng quả
thoát khỏi khổ trong
ba cõi Nan Đà Tỳ Kheo, tin sâu lời dạy của Phật, siêng năng
tu tập trong một ít lâu được
chứng quả A La Hán.
Nầy
A Nan ! Sau khi ta
nhập Niết Bàn, các ông nên
y theo giáo pháp chánh quán của ta mà chỉ dạy cho Lục Quần cùng
Xa Nặc,
hết lòng nương theo
chánh pháp thanh tịnh nầy, tự sẽ được chứng thượng quả.
Nầy
A Nan ! Phải biết rằng đều
do nơi vô minh mà
tăng trưởng cây
sanh tử trong
ba cõi, nên mãi trôi chìm trong
ái hà, chịu khổ mãi dưới vực
tối tăm, vòng quanh cột
sanh tử. Sáu thức là nhánh,
vọng niệm là gốc, lượn sóng
vô minh xúc khiến
tâm thức dạo chơi theo
lục trần, sanh mầm các sự
khổ não.
Vô minh nó
tự tại như vua, không ai
chế ngự được. Do đây nên ta nói ông chủ
vô minh niệm niệm làm hại,
chúng sanh chẳng hay biết, mãi
luân chuyển trong
sanh tử.
Nầy
A Nan ! Tất cả
chúng sanh vì
vô minh nầy mà khởi những
tham ái, bị
ngã kiến che đậy, tám muôn bốn ngàn
phiền não sai sử thân họ, làm cho
thân tâm họ tan vỡ không được
tự tại.
Nầy
A Nan ! Nếu
vô minh dứt thời
ba cõi đều hết, nên gọi là người
xuất thế.
Nầy
A Nan !
Nếu có thể quán sát kỹ mười hai
nhơn duyên rốt ráo không có ngã, sâu vào nơi bổn tánh
thanh tịnh, thời có thể
xa lìa ngọn lửa lớn
ba cõi.
Nầy
A Nan !
Đức Như Lai là đấng chơn ngữ nói lời
thành thật, đây là lời
phó chúc tối hậu, các ông phải
y theo tu hành.
Nầy
A Nan ! Ông hỏi sau khi
Phật diệt độ lấy gì làm Thầy ?â Nên biết
giới Ba La Đề
Mộc Xoa là
Đại Sư của các ông. Nương theo đó
tu hành thời có thể được
định huệ xuất thế.
Nầy
A Nan ! Ông hỏi sau khi Phật
nhập Niết Bàn nương gì để trụ ? Phải nương pháp
tứ niệm xứ mà trụ :
Quán sát tánh tướng của thân đồng như
hư không gọi là
thân niệm xứ,
quán sát sự
cảm thọ chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặn giữa, gọi là
thọ niệm xứ,
quán sát tâm chỉ có
danh tự tánh
danh tự rời rạc gọi là
tâm niệm xứ,
quán sát pháp thiện chẳng thể được pháp
bất thiện cũng chẳng thể được gọi là
pháp niệm xứ. Tất cả người
tu hành phải nương theo pháp
tứ niệm xứ nầy mà trụ.
Nầy
A Nan ! Ông hỏi sau khi
Như Lai diệt độ lúc
kết tập pháp tạng, đầu tất cả kinh để những lời gì ?
Nầy
A Nan ! Sau khi
Như Lai diệt độ lúc
kết tập pháp tạng đầu tất cả kinh nên để
như vầy : “
Như thị ngã văn nhứt thời Phật trụ mỗ phương mỗ xứ, cùng hàng
tứ chúng mà nói kinh nầy “.
A Nan lại
bạch Phật : Lúc Phật ở đời, hoặc sau khi Phật
nhập Niết Bàn, có
tín tâm đàn việt đem
vàng bạc bảy báu cùng tất cả đồ
cần dùng dưng cúng cho
Như Lai thời phải
xử trí thê nào ?
Phật nói : Lúc Phật còn, những vật
cúng dường Phật,
thời chúng Tăng nên biết. Sau khi
Phật diệt độ những vật
cúng dường Phật, thời nên dùng
tạo tượng Phật và tạo y của Phật, phan lọng
bảy báu, sắm các thứ hương dầu bông để
cúng dường Phật. Trừ việc
cúng dường Phật ngoài ra chẳng được dùng. Người
lạm dụng thời
phạm tội lấy trộm vật của Phật.
A Nan lại bạch : Lúc Phật còn có người đem
vàng bạc bảy báu điện đường phòng nhà
y phục đồ uống ăn tất cả đồ
cần dùng, hoặc
vợ con tôi tớ mà
cung kính cúng dường Như Lai. Sau khi Phật
nhập diệt nếu có người đem những vật như trên mà
cung kính cúng dường tượng Phật. Bạch
Thế Tôn !
Phước đức của hai người nầy ai nhiều hơn ?
Phật nói : Vì đều
cung kính cúng dường cả nên
phước đức của hai người được đồng nhau. Dầu
Phật diệt độ nhưng
pháp thân vẫn thường còn, nên
cung kính cúng dường được phước vẫn đồng như
Phật hiện tại.
A Nan lại bạch ; Lúc
Phật hiện tại nếu có người đem những vật như trên
cung kính cúng dường Phật, sau khi
Như Lai nhập Niết Bàn, nếu có người đem những vật như trên
cung kính cúng dường toàn thân Xá Lợi,
phước đức của hai người nầy, ai nhiều hơn ?
Phật nói : Hai người nầy được phước đồng nhau
công đức rộng lớn
vô lượng vô biên nhẫn đến hết khổ, phước đó chẳng hết.
A Nan lại bạch : Lúc
Phật hiện tại, nếu có người
cung kính cúng dường Phật như trên, sau khi Phật
nhập Niết Bàn nếu có người
cung kính cúng dường nửa thân
Xá Lợi ai được phước nhiều hơn ?
Phật nói : Vì hai người đều
cung kính cúng dường nên được phước đồng nhau
phước đức nầy
vô lượng vô biên.
Nầy
A Nan ! Nhẫn đến
cung kính cúng dường một phần tư
Xá Lợi, một phần tám , một phần trăm, một phần ngàn, một phần muôn, một phần
hằng hà sa, hoặc chừng bằng hột cải, người nầy được phước cũng đồng như người
cung kính cúng dường Đức Như Lai hiện tại.
A Nan nên biết rằng hoặc
Phật hiện tại hoặc đã
nhập Niết Bàn, nếu có người
cung kính cúng dường lễ bái tán thán, được
phước đức đồng nhau không khác.
Phật bảo A Nan cùng
đại chúng : Sau khi ta
nhập Niết Bàn, tất cả
chúng sanh hoặc
thiên thượng hay nhơn gian , được
Xá Lợi của ta mà
vui mừng thương cảm
cung kính lễ bái cúng dường thời được
vô lượng vô biên công đức.
Nầy
A Nan ! Nếu thấy
Xá Lợi của
Như Lai thời là thấy Phật, thấy Phật là thấy Pháp, thấy Pháp là thấy Tăng, thấy Tăng là thấy
Niết Bàn.
A Nan nên biết rằng do
nhơn duyên trên đây mà
Tam Bảo thường trụ không
biến đổi, có thể làm chỗ
quy y cho tất cả
chúng sanh.
A Nan bạch Phật : Sau khi
Như Lai nhập Niết Bàn, tất cả
đại chúng y theo phép tắc nào để
trà tỳ thân
Như Lai để được
Xá Lợi cung kính cúng dường.
Phật nói : “ Khi ta
nhập Niết Bàn rồi,
đại chúng nên
y theo phương pháp trà tỳ Chuyển Luân Thánh Vương.”
A Nan bạch Phật : “ Pháp tắc
trà tỳ Chuyển Luân Thánh Vương như thế nào ?”
Phật nói : Sau khi
Chuyển Luân Thánh Vương mạng chung, đình thi hài bảy ngày mới để vào quan tài vàng, rồi lấy dầu thơm
vi diệu đổ đầy quan tài đậy lại thật kín. Đủ bảy ngày đem thi hài ra, dùng
nước thơm tắm rửa,
đốt hương thơm
cúng dường. Dùng bông
Đâu La Miên bao khắp
thân thể, sau đó dùng ngàn bức bạch điệp
tốt đẹp vô giá thứ tự vấn chồng lên nhau khắp thi hài của
Luân Vương. Vấn xong đổ dầu thơm đầy trong kim quan rồi mới để thi hài
Luân Vương vào. Đậy kín quan tài xong, chở trên xe
thất bảo, bốn mặt treo các
chuỗi ngọc, dùng
châu báu trang nghiêm xe ấy,
vô số phan lọng bằng
châu báu tốt đẹp giăng treo trên xe.
Đốt hương thơm , trổi đại nhạc để
cúng dường. Sau đó dùng thuần những
gỗ thơm cùng những dầu thơm mà
trà tỳ.
Trà tỳ xong hốt lấy
Xá Lợi, xây tháp
thất bảo giữa đường ngã tư trong thành, bốn phía tháp có bốn cửa
an trí Xá Lợi trong đó, để cho tất cả
mọi người đồng
chiêm ngưỡng.
Nầy
A Nan !
Chuyển Luân Thánh Vương kia do chút ít
phước đức được nối ngôi vua, chưa
thoát khỏi ba cõi, còn đủ
ngũ dục thê thiếp,
ác kiến tham, sân, si, tất cả
phiền não kiết sử chưa dứt được một mảy. Sau khi
mạng chung mà
thế gian còn theo cách thức như vậy, dựng tháp
cúng dường để
mọi người chiêm ngưỡng, huống là
Đức Như Lai đã
trải qua vô lượng,
vô biên,
vô số kiếp bỏ hẳn
ngũ dục,
tinh tấn thật hành tất cả
khổ hạnh xuất thế của
Bồ Tát, đã
thành tựu đạo hạnh thậm thâm vi diệu thanh tịnh, giới, định, huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến, sáu môn
Ba La Mật,
tu tập thập lực,
đại bi, bốn
vô sở úy,
ba môn giải thoát, mười tám
đại không,
lục thông,
ngũ nhãn, ba mươi bảy phẩm, mười tám
bất cộng,
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
thọ mạng của tất cả chư Phật, tất cả
cõi Phật thanh tịnh, tất cả
pháp thành tựu chúng sanh, tất cả
khổ hạnh khó làm, tất cả
nhiếp luật nghi giới, tất cả
nhiếp thiện pháp giới, tất cả
nhiếp chúng sanh giới, tất cả
công đức, tất cả
trí huệ, tất cả
trang nghiêm, tất cả
đại nguyện, tất cả
phương tiện, tất cả
trí huệ phước đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, đều đã
thành tựu đầy đủ, dứt trừ tất cả ác, dứt trừ tất cả
phiền não, dứt trừ tất cả
phiền não tập khí,
thông đạt tứ đế thập nhị nhơn duyên, nơi cội
Bồ Đề hàng phục bốn ma thành tựu nhứt thiết
chủng trí. Được tất cả chư Phật xướng
lời khen lành thay !
Lành thay ! Đồng lấy nước trí
pháp tánh, rưới trên
đỉnh pháp thân, mới thành
vô thượng Bồ Đề. Do
nhơn duyên như vậy nên nay ta hiệu là
Thiên Nhơn Sư thập lực đẳng giác,
Thế Tôn vô thượng, nhơn gian
thiên thượng không ai bằng,
bình đẳng xem
chúng sanh như
La Hầu La, do đó ta hiệu là
Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư,
Phật Thế Tôn.
Duyên
giáo hóa thế gian đã xong, ta vì
chúng sanh ên hôm nay
thị hiện nhập Niết bàn. Vì muốn cho
chúng sanh khắp được
cúng dường, nên ta theo pháp
thế gian như vua
Chuyển Luân, mà tẩn táng cùng
trà tỳ.
Tứ chúng nhơn thiên đem
Xá Lợi của
Như Lai đựng trong bình
thất bảo xây dựng tháp
thất bảo để
cúng dường Xá Lợi, có thể làm cho
chúng sanh được
công đức lớn, lìa khổ
ba cõi đến vui
Niết Bàn.
Nầy
A Nan ! Hàng
tứ chúng xây tháp
thất bảo cúng dường Xá Lợi của Phật rồi, lại nên xây ba thứ tháp để
cúng dường : Tháp
Bích Chi Phật, tháp
A La hán, tháp
Chuyển Luân Thánh Vương, vì muốn cho
mọi người biết chỗ
quy y vậy.
A Nan bạch Phật :
Đức Như Lai ra đời
thương xót chúng sanh,
hiển bày thập lực,
đại bi, bốn
vô sở úy,
ba môn giải thoát,
tứ đế, mười hai
nhơn duyên, tám thứ
phạm âm vang rền
ba cõi,
từ quang ngũ sắc soi khắp
lục đạo,
tùy thuận tâm nghiệp của
chúng sanh mà
chuyển pháp luân, có người chứng được bốn quả của
nhị thừa tu tập, hoặc
chứng đạo Duyên Giác vô lậu vô vi, hoặc nhập lực
Bồ Tát bất diệt bất sanh, hoặc được
vô lượng Đà La Ni, hoặc được
ngũ nhãn, hoặc được
lục thông, hoặc thoát ba
ác đạo, hoặc ra khỏi
tám nạn, hoặc lìa khổ trời người
ba cõi. Đức từ
thanh tịnh của
Như Lai,
pháp môn giải thoát của
Như Lai đều chẳng thể nghĩ bàn.
Sau khi
nhập diệt, hàng
tứ chúng dựng tháp
bảy báu cúng dường Xá Lợi được
công đức lớn, có thể làm cho
chúng sanh thoát khổ
ba cõi, được chánh
giải thoát. Do
nhơn duyên nầy nên khi Phật
nhập Niết Bàn, tất cả
thế gian vì
báo đáp từ ân vô lượng của Phật mà xây tháp
thất bảo để
cúng dường Xá Lợi, theo
lẽ phải như vậy. Ba thứ pháp kia có những
lợi ích gì đối với
chúng sanh mà
đức Phật bảo dựng tháp
cúng dường ?
Pật nói : “
Bích Chi Phật tỏ ngộ
nhơn duyên của các pháp
chứng nhập pháp tánh, đã thoát tất cả khổ hoạn trong
tam giới, có thể làm
phước điền cho nhơn thiên. Do đây nên xây tháp
cúng dường Bích Chi Phật được
phước đức kế nơi sự
cúng dường Như Lai, có thể làm cho
chúng sanh đều được
diệu quả.
Nầy
A Nan !
A La Hán kia đối với
ba cõi đã hết
sanh tử chẳng thọ thân
đời sau,
phạm hạnh đã lập có thể làm
phước điền cho
thế gian, nên xây tháp
cúng dường được
phước đức kế sự
cúng dường Bích Chi Phật, cũng làm cho
chúng sanh được
nhơn duyên giải thoát.
Nầy
A Nan !
Chuyển Luân Thánh Vương dầu chưa dứt
phiền não, chưa
giải thoát ba cõi, nhưng do
phước đức mà cai trị bốn
thiên hạ, đem pháp
thập thiện giáo hóa nhơn dân, là bực
tôn kính của
mọi người, nên
tứ chúng dựng tháp
cúng dường, được
phước đức cũng là
vô lượng .”
A Nan bạch Phật : “ Sau khi Phật
nhập Niết Bàn, hàng
tứ chúng nên làm lễ
trà tỳ đức Như Lai tại chỗ nào ?”
Phật nói : “ Sau khi ta
nhập Niết Bàn, nếu
tứ chúng làm lễ
trà tỳ ở trong thành
Câu Thi Na nầy, người trong thành tất
tranh giành đánh đập nhau, và cũng làm cho tất cả
mọi người được phước chẳng đồng nhau. Nên
tứ chúng phải làm lễ
trà tỳ ở ngoài thành, cho
mọi người đều
bình đẳng được phước.”
A Nan bạch Phật : “
Trà tỳ xong,
tứ chúng dùng bình báu để đựng
Xá Lợi, thời nên dựng tháp
thất bảo ở tại chỗ nào để cho tất cả
mọi người đều được
cung kính cúng dường ?”
Phật nói : “ Nên ở trong thành
Câu Thi Na, nơi ngã tư đường mà xây tháp cao mười ba từng,
trước pháp có tướng
pháp luân, phan lọng, lan can đều bằng
thất bảo, bốn mặt tháp đều mở một cửa, từng lớp cửa nẻo xứng nhau
an trí bình báu đựng
Xá Lợi của
Như Lai trong đó cho tất cả trời người
chiêm ngưỡng cúng dường.
Tháp của
Bích Chi Phật nên mười một từng . Tháp của
A La Hán nên bốn từng. Cũng đều dùng các thứ báu mà
trang nghiêm.
Tháp của
Chuyển Luân Vương cũng xây bằng
bảy báu nhưng không có từng cấp, vì
Luân Vương chưa thoát khổ
sanh tử trong
ba cõi.”
A Nâu Lâu Đà bạch Phật : Khi
trà tỳ xong, tất cả Trời người cùng
bốn bộ chúng phân chia Xá Lợi của Phật như thế nào ?
Phật nói : “ Nên dùng
tâm bình đẳng
phân chia Xá Lợi của Phật khắp
ba cõi để tất cả
thế gian đều được
cúng dường .”
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn
bạch Phật : “ Nay tôi xin
cung kính thỉnh nửa thân
Xá Lợi của
Như Lai để
cúng dường.”
Phật bảo Thiên Đế : “
Đức Như Lai bình đẳng xem
chúng sanh như
La Hầu La, ông chẳng nên thỉnh nửa thân
Xá Lợi. Nay ta cho ông một cái răng nanh
Xá Lợi hàm trên bên hữu, có thể xây tháp
cúng dường ở trên Trời, làm cho ông được
phước đức vô tận.”
Lúc đó tất cả
đại chúng Trời người buồn thương
rơi lệ không tự dằn được.
Đức Thế Tôn bảo khắp
đại chúng : “ Khi Phật
nhập Niết Bàn rồi,
đại chúng chớ quá
sầu não. Vì dầu Phật
nhập Niết Bàn mà
Xá Lợi vẫn thường còn để
cúng dường. Lại có những
pháp bảo vô thượng, tạng
Tu Đa La, tạng
Tỳ Nại Da, tạng
Ma Ha Đạt Ma, do đây
Tam Bảo và
tứ đế vẫn
thường trụ ở
thế gian, làm chỗ
quy y cho
chúng sanh. Vì
cúng dường Xá Lợi tức là
Phật Bảo, thấy
Phật Bảo là thấy
pháp thân, thấy
pháp thân là thấy
hiền thánh ,thấy
hiền thánh là thấy
tứ đế, thấy
tứ đế là thấy
Niết Bàn. Do đây nên biết rằng
Tam Bảo thường trụ không
biến đổi, có thể làm chỗ
quy y cho
thế gian.
Đại chúng chớ quá
sầu khổ. Nay ta ở đây sắp
nhập Niết Bàn. Trong những pháp :
Quy y,
giới luật, thường,
vô thường,
Tam Đảo,
tứ đế,
lục độ, mười hai
nhơn duyên v.v…, nếu ai có
điều chi nghi phải mau thưa hỏi, đây là lời hỏi
rốt ráo cuối cùng để sau khi Phật
nhập Niết Bàn không còn
nghi hối.”
Đức Phật phổ cáo trong
đại chúng ba lần như vậy.
Tất cả
đại chúng không ai thưa hỏi, vì
ai nấy đều
thông đạt hiểu rõ không còn
nghi ngờ.
Đức Thế Tôn khen rằng :
Lành thay !
Lành thay Đại chúng đã có thể
thông đạt các
pháp không còn
nghi ngờ như nước sạch rửa hết bụi nhơ nơi thân.
Đại chúng phải
tinh tấn sớm
được giải thoát, chớ
sầu não mê muội loạn tâm.
Lúc đó
Đức Thế Tôn ngồi trên tòa
Sư Tử, lấy tay vàng vạch
y tăng già lê để lộ ngực huỳnh kim cho
đại chúng thấy rồi bảo rằng : Tất cả
đại chúng Trời người nên
chí tâm nhìn xem
sắc thân hùynh kim của
Như Lai !
Đại chúng chiêm ngưỡng sắc thân vàng ròng của Phật thảy đều
sung sướng như
Tỳ Kheo nhập
đệ tam thiền.
Sau đó
Đức Thế Tôn phóng
vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức ánh sáng
Đại Niết Bàn chiếu khắp tất cả
thế giới mười hương,
che khuất ánh sáng của tất cả
mặt trời mặt trăng.
Phóng ánh sáng trên đây rồi
Đức Phật bảo
đại chúng :
Mọi người nên biết rằng
Đức Như Lai vì tất cả
đại chúng mà
cần khổ trong nhiều kiếp, đến chặt tay chơn lóc
da thịt,
đại bi đại nguyện thành bực
vô thượng chánh giác nơi đời
ngũ trược nầy, được
sắc thân Kim Cang bất hoại đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
vô lượng ánh sáng chiếu khắp tất cả. Ai thấy được hình, gặp được ánh sáng của Phật, đều
được giải thoát cả.
Nầy
đại chúng ! Phật ra đời rất khó gặp khó thấy như
hoa Ưu Đàm.
Đại chúng gặp ta đây là lần sau cùng, đối với thân nầy chớ để luống qua. Do sức
thệ nguyện mà ta sanh nơi cõi uế ác nầy. Duyên
giáo hóa đã hòan tất, nay ta muốn
nhập Niết Bàn.
Đại chúng nên
chí thành nhìn xem
sắc thân hùynh kim của ta,
cố gắng tu tập nghiệp
thanh tịnh như vậy, đời
vị lai sẽ được
quả báo nầy.
Đức Thế Tôn ba phen
ân cần khuyên bảo như vậy,
đồng thời bày thân chơn kim cho
đại chúng thấy.
Sau đó
Đức Phật từ trên giường
thất bảo sư tử bay lên
hư không cao bằng một
cây Đa La, bảo
một lần rằng : “ Ta sắp
nhập Niết Bàn,
đại chúng nhìn xem
sắc thân huỳnh kim của ta !”
Lần lượt đức Phật bay trên cao bằng bảy
cây Đa La, bảy lần bảo rằng : Ta sắp
nhập Niết Bàn,
đại chúng nên
chí tâm nhìn xem
sắc thân huỳnh kim của ta !
Từ
hư không xuống ngồi trên giường
sư tử Đức Phật lại bảo : Ta sắp
nhập Niết Bàn,
đại chúng nên
chí tâm nhìn xem
sắc thân huỳnh kim của ta !
Đức Thế Tôn từ trên giừơng
sư tử lại bay lên
hư không cao bằng một
cây Đa La, thời
một lần bảo
đại chúng,
lần lượt bay cao bằng bảy
cây Đa La, bảy lần bảo rằng : Ta sắp
nhập Niết Bàn,
đại chúng nên
chí tâm nhìn xem
sắc thân huỳnh kim của ta !
Từ
hư không xuống ngồi trên giừơng
sư tử Đức Phật lại kêu
đại chúng mà bảo rằng : Ta sắp
nhập Niết Bàn,
đại chúng nên
chí tâm nhìn xem
sắc thân huỳnh kim của ta!
Lần thứ ba,
Đức Thế Tôn cũng từ trên giừơng
sư tử bay lên
hư không cao bằng bảy
cây Đa La,
đồng thời cũng bảy lần bảo
đại chúng như vậy. Từ
hư không xuống ngồi trên giừơng
thất bảo Đức Phật lại bảo : Ta sắp
nhập Niết Bàn ,
đại chúng nên
chí tâm nhìn xem nơi
sắc thân của ta !
Đức Phật hai mươi bốn lần
ân cần bảo
đại chúng như vậy, rồi lại bảo rằng : Ta sắp
nhập Niết Bàn,
đại chúng nên
chí tâm nhìn xem
sắc thân vô úy Kim Cang bất hoại của ta rất khó gặp gỡ như
hoa Ưu Đàm, như người quá khát gặp nước trong mát thời uống đến no không còn khao khát,
đại chúng cũng phải như vậy, nên
chí tâm chiêm ngưỡng sắc thân của
Như Lai lần sau cùng, sau lần thấy nầy không còn thấy lại nữa.
Đại chúng nên
chiêm ngưỡng cho
thỏa mãn để về sau khỏi
ăn năn.
Sau khi ta
nhập Niết Bàn,
đại chúng phải
tinh tấn tu hành sớm ra khỏi
ba cõi, chớ có giãi đãi
phóng dật tán tâm.
Lúc đó tất cả
đại chúng Trời người trong tất cả
thế giới mười phương được gặp ánh sáng
Niết Bàn, được
chiêm ngưỡng đúc Phật đều
được giải thoát. Những
chúng sanh được gặp được thấy đều được dứt hẳn
tam đồ bát nạn, bốn tội trọng,
năm tội nghịch, đến tất cả
phiền não đều dứt hẳn không còn thừa.
Sau khi lộ bày
sắc thân huỳnh kim cho
tứ chúng chiêm ngưỡng và
ân cần khuyến cáo xong,
Đức Thế Tôn kéo y
tăng già đắp lại như cũ.