KINH PHẬT ĐỊA
Hán dịch: Đại Đường Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
Tôi nghe
như vầy, một hôm
Đức Phật trụ vào ánh sáng
vi diệu tuyệt vời (với)
bảy báu trang nghiêm, rồi phóng vừng
hào quang chiếu khắp tất cả
thế giới vô biên, làm đẹp
vô lượng cõi nước
hoàn toàn không giới hạn. Ánh sáng
tuyệt vời kia vượt thoát chỗ sở hành của
ba cõi, vượt ngoài khởi (tưởng) của
thiện căn thế gian, là tướng tịnh thức
vô cùng tự tại.
Ở nơi tướng sáng
Như Lai, các chúng
Đại Bồ tát cùng
vân tập, các vị trời, rồng, nhơn và phi nhơn…nhiều không kể hết cũng thường theo hầu, vâng giữ
pháp vị hỷ lạc rộng lớn, làm tất cả điều
lợi ích cho các
chúng sinh, diệt những
phiền não triền cấu nghiệt ngã, rời xa chúng ma bằng sự
trang nghiêm đó.
Ở nơi
sở y Như lai trang nghiêm là đại Niệm, Huệ, Hành dùng làm du lộ, đại Chỉ và
diệu Quán dùng làm
phương tiện,
đại Không,
Vô tướng,
Vô nguyện và
Giải thoát là chỗ
nhập môn, các sự
trang nghiêm công đức nào thể suy lường.
Ở nơi
kiến lập chúng
Đại Bảo Hoa Vương, bên trong đại cung điện là
Đức Phật Tối
Thanh Tịnh Giác, hiện hạnh
bất nhị nơi pháp
vô tướng, trú vào Phật trụ,
đạt được tất cả
Phật tánh bình đẳng và đến được nơi không còn ngăn trở. Chuyển pháp
vi diệu, hành tung
vô ngại, nơi
thành lập đó không thể nghĩ bàn.
Đi qua
ba đời Pháp tánh bình đẳng,
Phật thân trãi khắp tất cả
thế giới, không còn
nghi ngờ và hạn cuộc đối với tất cả
Pháp trí,
thành tựu Đại giác trong tất cả hạnh, không còn
nghi hoặc đối với
Pháp trí, ở chỗ
hiện thân không thể
phân biệt. Tất cả hàng
Bồ tát Chánh
Sở Cầu Trí đạt được
Phật tâm không hai, trú ở bờ kia cao tột, không có xen tạp các tướng.
Như lai (đã)
giải thoát với
diệu trí rốt ráo, sự
chứng ngộ không có ngằn mé,
Phật địa bình đẳng tuyệt cùng
pháp giới, tánh khắp
hư không xuyên suốt
vị lai, cùng các chúng
Đại thanh văn tụ hội nhiều không
thể tính, tất cả các vị đã được điều hòa và là
Phật tử.
Ở nơi Tâm thiện
giải thoát, Tuệ thiện
giải thoát và
Giới thiện thanh tịnh, các vị này ước muốn nghe nhiều và
ghi nhận Pháp lạc. Sự nghe tích tập thì khéo suy tư nơi điều suy tư, khéo nói nơi việc nói, khéo làm nơi
việc làm,
thành tựu các tuệ bảo như: Tiệp tuệ, Tốc tuệ, Lợi tuệ,
Xuất tuệ, Thắng
quyết trạch tuệ, Đại tuệ,
Quảng tuệ và
Vô đẳng tuệ, đầy đủ Ba minh,
đạt được Đệ nhất Hiện
pháp lạc, trú vào
Ruộng phước thanh tịnh vĩ đại,
thành tựu đầy đủ
uy nghi tịch tĩnh Đại nhẫn nhu hòa, đã khéo
phụng hành Thánh giáo của
Như lai.
Còn có thêm
vô lượng chúng
Bồ tát lớn từ các
cõi Phật đến tập họp đủ, các vị này trụ ở
Phương tiện, rong du trên Pháp
Đại thừa, tâm của các Ngài thì
bình đẳng đối với các
chúng sinh,
xa lìa sự
phân biệt và chẳng
phân biệt đối với
các loại phân biệt, bẽ gảy các sự
tà vạy, lìa hẳn tất cả
hệ niệm phân biệt của hàng
Thanh văn Độc giác, đã nắm bắt được
Pháp vị hỷ lạc rộng lớn,
vượt qua năm sự
sợ hãi, chỉ hướng đến bực
Bất thối chuyển, đã dứt được tất cả tâm
bức bách khổ não của
chúng sinh và có mặt trong lúc này; trong đây
Bồ tát Diệu sanh là vị
Thượng thủ.
Bấy giờ
Đức Thế Tôn bảo
Bồ tát Diệu Sanh rằng, Diệu Sanh ông nên biết, có năm loại pháp thâu tóm
Đại giác địa (tâm). Năm pháp đó là gì?
Đó gọi là
Thanh tịnh pháp giới,
Đại viên cảnh trí,
Bình đẳng tánh trí,
Diệu quan sát trí, và
Thành sở tác trí.
Diệu Sanh ông nên biết,
Thanh tịnh pháp giới đó
ví như hư không, tuy trong đó biến ra nhiều loại
sắc tướng nhưng không thể nói rằng có các
hình tướng vì thể (của nó) chỉ có một vị.
Như Lai Thanh tịnh pháp giới cũng giống như thế, dù có biến ra nhiều loại
hình tướng, rõ biết
cảnh giới, nhưng không thể nói rằng có nhiều
hình tướng, vì thể của (
Như Lai) chỉ có một vị.
Và như
hư không tuy biến ra các sắc nhưng không có tướng để
lìa bỏ, và không bị sắc kia làm cho
ô nhiễm;
Như lai Thanh tịnh pháp giới cũng giống như thế. Tuy
hóa hiện ra tất cả
tâm tánh chúng sanh, bởi là
chân thật, không có tướng để
lìa bỏ, và cũng không bị sắc kia làm cho
ô nhiễm.
Và như
hư không hàm dung tất cả nghiệp thân miệng ý, nhưng
hư không này không có khởi tác,
Như Lai Thanh tịnh pháp giới cũng giống như thế,
bao gồm tất cả
trí tuệ biến hóa ích lợi chúng sanh,
pháp giới thanh tịnh thì không có khởi tác.
Và như
hư không có nhiều loại
sắc tướng lúc sanh lúc diệt, nhưng
hư không ấy
không sinh không diệt, ở trong
Như Lai Thanh tịnh pháp giới,
trí tuệ biến hóa lợi ích chúng sanh nên có sinh có diệt, nhưng
pháp giới thanh tịnh không hề
sinh diệt.
Và như
hư không có nhiều
sắc tướng lúc tăng lúc giảm, nhưng
hư không ấy không tăng không giảm, ở trong
pháp giới vắng lặng của
Như Lai cũng thế,
thị hiện Như lai và
Thánh giáo cam lồ có tăng có giảm, nhưng
pháp giới thanh tịnh không hề tăng giảm.
Và như
hư không hiện hữu mười phương sắc tướng không cùng không tận, là cõi
hư không không có
giới hạn, và
hư không ấy chẳng đến chẳng đi chẳng động chẳng chuyển, ở trong
pháp giới vắng lặng của
Như Lai cũng giống như thế,
hóa độ mười phương tất cả
chúng sinh lợi ích an lạc, nhiều loại
tác dụng không có
giới hạn,
thanh tịnh pháp giới cũng
không giới hạn, và
pháp giới ấy không đến không đi không động không chuyển.
Và như ba ngàn
đại thiên thế giới trong
hư không lúc hoại lúc thành, nhưng cõi
hư không nào có thành hoại, ở trong
cõi giới thanh tịnh của
Như Lai cũng giống như thế, hiện
vô lượng tướng
thành Đẳng chánh giác, hoặc
thị hiện nhập
Đại niết bàn, nhưng
Pháp giới vắng lặng chẳng có Thành
chánh đẳng giác hay
Nhập niết bàn.
Và như
hư không gồm nhiều
sắc tướng tiêu tán cháy khô đã bị
biến đổi nhưng cõi
hư không chẳng có
biến đổi hay là hư hại. Như thế nương vào
Như Lai tịnh giới và
Chúng sanh giới, phát sinh nhiều pháp
học xứ huỷ phạm của thân, ngữ,
ý nghiệp được biết, nhưng
Tịnh pháp giới chẳng có tướng
biến đổi hay là hư hại.
Và như
hư không có đất lớn, núi lớn, ánh sáng, lửa nước,
quyến thuộc Đế thích…cho đến
mặt trời mặt trăng nhiều loại khác nữa, nhưng tánh
hư không chẳng có các tướng kia. Như thế nương vào
Như lai tịnh giới mà có Giới uẩn, Định uẩn, Tuệ uẩn,
Giải thoát,
Giải thoát tri kiến và các uẩn khác, nhưng tánh
Tịnh giới chẳng có các tướng kia.
Và như
hư không gồm nhiều loại
nhân duyên triển chuyển sinh khởi, Ba ngàn
đại thiên,
vô lượng thế giới vần xoay trong đó mà cõi
hư không nào có dấy động. Như thế ở trong
pháp giới Như lai thanh tịnh, đầy đủ
vô lượng hình tướng chư Phật và
Chúng hội vần xoay trong đó mà
pháp giới vắng lặng nào có dấy động.
Còn nữa Diệu Sanh,
Đại viên cảnh trí, như các
hình ảnh hiện vào trong gương tròn đầy; như thế nương vào
Như lai trí cảnh (gương trí của Phật) mà có cảnh thức (gương
thức tâm)
hiện ra các hình bóng. Đây dùng Viên cảnh làm
thí dụ vậy. Phải biết Viên cảnh,
Như lai trí cảnh
hoàn toàn bình đẳng, cho nên
Trí cảnh còn gọi là Viên
cảnh trí.
Như gương tròn lớn có bóng hình người phước lạc, bóng gương
tuyệt đẹp treo ở trên cao không có lung lay, có
vô lượng (
hình ảnh)
chúng sanh qua lại,
quan sát nơi bóng gương nầy thì có tốt có xấu…vì
vậy mà muốn lưu lại bóng tốt và bỏ bóng xấu vậy.
Gương trí vằng vặc của
Như Lai cũng như thế, là
pháp giới vắng lặng không có
gián đoạn không có
dao động, vì muốn giúp
vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh, vì muốn
chúng sanh giữ tịnh bỏ nhiễm vậy.
Và như gương tròn
trong suốt tuyệt đẹp, ánh sáng chiếu khắp
trong sạch không dơ, như thế
Như lai Đại viên cảnh trí, về mặt
Phật trí thì đã hoàn hoàn
thoát khỏi tất cả sự
đau khổ của
Phiền não chướng và
Sở tri chướng, cực thiện
trong suốt làm
Y chỉ định, có sự nhiếp trì
thanh tịnh không động, ánh sáng chiếu khắp, khiến các
chúng sanh có được
lợi lạc.
Và như gương tròn
bản chất là tương duyên, có nhiều hình bóng
tướng mạo sinh khởi; như thế
Như lai Đại viên cảnh trí nương vào các duyên trong tất cả thời mà có nhiều trí
ảnh tướng mạo
sinh khởi, như trong gương tròn không chỉ có một mà là rất nhiều
hình ảnh nhưng mà
bản chất của gương tròn vốn không có các
hình ảnh, và gương tròn này không động không tác.
Như thế với gương
trí tuệ vằng vặc của
Như lai, chẳng phải một nhưng lại có nhiều trí
ảnh hiện ra, nhưng gương
trí tuệ tròn đầy không có các trí ảnh, và gương trí này vốn không lay động.
Và như gương tròn cùng các
hình ảnh, chẳng hợp chẳng ly, chẳng có
tụ tập mà hiện các duyên kia vậy. Như
thế Đại viên
cảnh trí của
Như Lai cùng các trí ảnh chẳng hợp chẳng lìa, không có
tụ tập cũng chẳng tản mất.
Và như gương tròn
trong sáng, mặt gương soi tất cả nơi, và các
hình ảnh biến khởi theo duyên. Như thế gương trí Đại viên của
Như Lai không lìa
vô lượng duyên mà
hành thiện pháp, vì các trí ảnh biến khởi đều nương duyên; nghĩa là có hình thái về các trí ảnh của
Thanh văn thừa, hình thái trí ảnh của
Độc giác thừa, hình thái trí ảnh
Vô thượng Đại thừa bởi vì muốn giúp cho hàng
Thanh văn thừa nương theo cỗ xe
Thanh văn mà
xuất ly, muốn giúp hàng
Độc giác nương vào cỗ xe
Độc giác mà
xuất ly, và muốn giúp hàng
Đại thừa nương nơi cỗ xe
Vô thượng thừa mà vượt thoát vậy. Như gương vằng vặc có đủ các hình bóng, bao hàm các hình thù địa cầu, các núi lớn, cây to, nhà cửa cung điện quy mô mà kính tròn này không có
phân biệt khi soi chiếu. Như thế trên Viên
cảnh trí của
Như lai từ cõi
Cực hỉ địa đến
cõi Phật địa, các
hình ảnh này đều hiện trong gương trí, và tất cả pháp
thế gian và
xuất thế gian, gương trí đều hiện đủ mà gương trí vằng vặc kia đâu có
phân biệt.
Và như gương tròn không bị
che khuất và
hình ảnh kia mới hiện. Gương trí tròn lớn của
Như Lai cũng như thế, chẳng phải
phân chia xấu tốt
tà chánh,
chướng ngại chúng sanh nhưng các trí ảnh nương đây mà hiện; nhưng gương trí kia cũng chẳng phải là
vật dụng vậy.
Và như gương tròn không chỗ
che lấp nên các
hình ảnh mới hiện.
Như Lai Đai viên kính trí cũng lại như thế, trí
ảnh hiện hữu chẳng có sự ưa ghét, mê mờ đối với
chúng sanh, và gương trí kia cũng chẳng phải là
vật dụng vậy.
Và như gương tròn chẳng phải cách ly
hình ảnh mà hiện.
Như Lai Đại viên kính trí cũng lại như thế, các trí
ảnh hiện khởi
hoàn toàn thanh tịnh với sự
dung nạp pháp nghiệp,
chúng sanh bất tín, nhưng gương trí kia không phải là
vật dụng vậy.
Lại nữa Diệu Sanh,
Bình đẳng tánh trí là do mười loại tướng
viên mãn thành tựu: (1)
Chứng đắc chư tướng tăng thượng hỉ ái (rõ thấu các
pháp tăng trưởng
tâm hỉ ái đối với
chúng sinh) nhờ
thành tựu đầy đủ
Bình đẳng pháp tánh. (2)
Chứng đắc nhất thiết lãnh thọ duyên khởi (thấu rõ tất cả sự
lãnh hội duyên khởi) nhờ
thành tựu đầy đủ
Bình đẳng pháp tánh. (3)
Chứng đắc viễn ly dị tướng phi tướng (thấu rõ và
buông bỏ các tướng
đối lập) nhờ
thành tựu đầy đủ
Bình đẳng pháp tánh. (4) Hoằng tế
đại từ (tâm
đại từ hoằng hóa) nhờ
thành tựu đầy đủ
Bình đẳng pháp tánh. (5) Vô đãi
đại bi (tâm
đại từ không
phân biệt) nhờ
thành tựu đầy đủ
bình đẳng pháp tánh. (6) Tùy chư
chúng sanh sở lạc
thị hiện (
thị hiện theo sự mong cầu của
chúng sanh) nhờ
thành tựu đầy đủ
Bình đẳng pháp tánh. (7)
Nhất thiết chúng sanh kính thụ sở thuyết (tất cả
chúng sanh cung kính nghe pháp) nhờ
thành tựu đầy đủ
Bình đẳng pháp tánh. (8)
Thế gian tịch tĩnh giai đồng
nhất vị (thấy rõ tướng
vắng lặng của
thế gian không có sự
sai biệt) nhờ
thành tựu đầy đủ
Bình đẳng pháp tánh. (9)
Thế gian chư pháp khổ lạc
nhất vị (thấy rõ pháp khổ vui của
thế gian đều không sai khác) nhờ
thành tựu đầy đủ
Bình đẳng pháp tánh. (10) Tu thực
vô lượng công đức cứu cánh (
đạt được sự
rốt ráo của
vô lượng công đức) nhờ
thành tựu đầy đủ
bình đẳng pháp tánh vậy.
Lại nữa Diệu Sanh,
Diệu quan sát trí ví như thế giới gìn giữ cõi giới chúng sanh,
Diệu quan sát trí của
Như Lai cũng lại như thế, nắm giữ tất cả pháp
Tổng trì Tam ma địa, là
diệu pháp Vô ngại biện thuyết của chư Phật.
Và như
thế giới là các
chúng sanh, sinh ra tất cả
vô lượng nhân duyên tướng thức (tâm và vật), như thế
Diệu quan sát trí của
Như Lai hay phát sinh ra tất cả
nhận thức,
Diệu trí vô ngại, nhiều loại
nhân duyên của tướng- thức.
Và như
thế giới có các thứ
xinh đẹp, các nơi
trang nghiêm như vườn rừng ao hồ… cực kỳ đáng yêu,
Diệu quan sát trí của
Như Lai cũng như thế,
gồm có các pháp
trang nghiêm đáng quý như
Ba la mật đa,
Bồ đề phần pháp,
Thập lực vô úy,
Bất cộng Phật pháp cực kỳ đáng quý.
Và như
thế giới bao gồm các châu,
mặt trời mặt trăng,
cõi trời Tứ thiên vương,
cõi trời Tam thập tam,
cõi trời Dạ ma,
cõi trời Đâu suất đa,
cõi trời Lạc
biến hóa,
cõi trời Tha hóa tự tại,
cõi trời Phạm thân v.v… và nhiều
cõi giới đẹp đẽ.
Diệu quan sát trí của
Như Lai cũng như vậy,
gồm có nhân quả thịnh suy,
thế gian và
xuất thế gian,
cảnh giới viên chứng của hàng
Thanh văn Độc giác, tất cả
cảnh giới đều được
quán sát đầy đủ.
Và như
thế giới vì các
chúng sanh mà có sự
thọ dụng rộng lớn, như thế
Diệu quan sát trí của
Như Lai thị hiện tất cả
chúng hội của chư Phật. Có mưa pháp lớn khiến cho
chúng sanh nhận
pháp vui lớn. Như trong
thế giới có năm nẻo
luân hồi, đó là
cõi địa ngục,
cõi ngạ quỷ, cõi
súc sanh,
cõi người, và
cõi trời, như thế ở nơi
Diệu quan sát trí của
Như Lai, tất cả
cảnh giới nhân quả năm đường khác nhau đều
hiển hiện trong đó. Như trong
thế giới có các cõi Dục, Sắc và
Vô sắc, như thế ở nơi
Quan sát trí của
Như Lai, tất cả
ba cõi nhân quả sai biệt đều
hiển hiện đầy đủ. Như trong
thế giới Tô mê lư… có
Đại bảo sơn vương hiển hiện trong đó, như thế ở nơi
quan sát trí của
Như Lai là
oai thần dẫn dắt của chư Phật và
Bồ tát với
giáo pháp thậm thâm và
quảng đại được tuyên bày. Như trong
thế giới quảng đại thậm thâm không thể làm khuynh đảo được biển lớn. Như thế ở nơi
Diệu quan sát trí của
Như lai, tất cả
thiên ma ngoại đạo dị luận cũng không thể nào khuynh đảo được
pháp giới giáo pháp sâu thẳm kia.
Và như
thế giới bao bọc bởi các núi Đại Tiểu Luân Sơn,
Như Lai Diệu quan sát trí cũng như thế, không rời tất cả ngoại vi của
tự tướng và
cộng tướng vậy.
Lại nữa Diệu Sanh,
Thành sở tác trí giống như
chúng sanh Cần lệ
thân nghiệp, nghĩa là
chúng sanh mong cầu thu hoạch nhiều lợi vụ và dốc sức đối với
mọi việc. Như
thế Thành sở tác trí của
Như Lai là Cần thân hóa nghiệp, nghĩa là
Như Lai thị hiện nhiều loại công xảo để bẽ gãy tâm
kiêu mạn của
chúng sanh, xử dụng
trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa
chúng sanh vào được
Thánh giáo thành tựu giải thoát.
Lại nữa
chúng sanh là
Thụ dụng thân nghiệp, cho nên
chúng sanh Thụ dụng nhiều loại hình thù và
cảnh giới sai khác, như
thế Thành sở tác trí của
Như Lai là Thụ thân hóa nghiệp, nghĩa là
Như Lai đi vào nhiều
cảnh giới khác nhau của
chúng sanh,
thị hiện đồng loại nhưng ở
địa vị tôn quí, do
thị hiện đồng loại mà nhiếp phục được tất cả
chúng sanh dị loại, dùng
trí lực phương tiện thiện xảo này mà đưa
chúng sanh vào được
Thánh giáo Thành tựu giải thoát vậy.
Lại như
chúng sanh Lãnh thọ thân nghiệp, do đây
chúng sanh lãnh thọ hành động
nghiệp quả của
thiện ác. Như
thế Thành sở tác trí của
Như Lai là Lãnh thân hóa nghiệp, nghĩa là
Như Lai thị hiện lãnh thọ, nhiều đời nhiều kiếp tu các hạnh khó, dùng
phương tiện thiện xảo này để đưa
chúng sanh vào được
Thánh giáo thành tựu giải thoát.
Lại như
chúng sanh Khánh úy (luôn trụ)
ngữ nghiệp, do đây
chúng sanh triển chuyển đàm luận, xoay vần nơi
trụ tướng này. Như
thế Thành sở tác trí của
Như Lai là Khánh ngữ hóa nghiệp, nghĩa là
Như Lai tùy theo mỗi
pháp lạc mà trình bày văn nghĩa xảo diệu, dùng
trí lực phương tiện thiện xảo này để giúp cho hàng
chúng sanh tiểu trí vừa nghe thì
phát khởi lòng tin, đưa các
chúng sanh vào được
Thánh giáo và
Thành tựu giải thoát vậy.
Lại như
chúng sanh ở nơi
Phương tiện ngữ nghiệp, nghĩa là
chúng sanh triển chuyển truyền đạt nhau, đặc trách của
tác nghiệp là hủy ác
tán thiện để cùng nhau
sinh tồn. Như
thế Thành sở tác trí của
Như Lai là
phát khởi Phương tiện ngữ
biến hoá nghiệp, nghĩa là
Như Lai thành lập Chánh xứ học, đẩy lùi nghiệp
phóng dật (
buông lung,
biếng nhác)
ca ngợi hạnh
tinh tấn, và còn
kiến lập các pháp tín-hạnh khế lý
khế cơ, dùng
trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa
chúng sanh vào được
Thánh giáo Thành tựu giải thoát vậy.
Lại như
chúng sanh Biện dương
ngữ nghiệp, nghĩa là
chúng sanh triển chuyển khai thị,
đề xướng các
luận giải bất liễu nghĩa. Như
thế Thành sở tác trí của
Như Lai là Biện ngữ hoá nghiệp, nghĩa là
Như Lai cắt đứt
vô lượng nghi hoặc của
chúng sanh, dùng
trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa
chúng sanh vào được
Thánh giáo Thành tựu giải thoát.
Lại như
chúng sanh Quyết trạch ý nghiệp, nghĩa là
chúng sanh tự
quyết định chọn lựa những gì có thể làm và những gì không thể làm. Như
thế Thành sở tác trí của
Như Lai là
Quyết ý hóa nghiệp, nghĩa là
Như lai chọn lựa bốn vạn tám nghìn
tâm hành sai biệt của
chúng sanh, dùng
trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa
chúng sanh vào được
Thánh giáo Thành tựu giải thoát vậy.
Lại như
chúng sanh Tạo
tác ý nghiệp, do đây
chúng sanh gây tạo nhiều
hành vi khởi nghiệp. Như
thế Thành sở tác trí của
Như Lai là Tạo ý hóa nghiệp, nghĩa là
Như Lai quán các
hành vi tạo nghiệp của
chúng sanh, có tạo tác và không tạo tác, hoặc được hoặc mất, có thủ có xả…dùng
trí lực phương tiện thiện xảo này để
đối trị tạo tác của
chúng sanh và đưa
chúng sanh vào được
Thánh giáo Thành tựu giải thoát.
Lại như
chúng sanh Phát khởi ý nghiệp, nghĩa là
chúng sanh tạo ra nhiều nghiệp. Như
thế Thành sở tác trí của
Như Lai là
Phát ý hóa nghiệp, nghĩa là
Như Lai vì muốn
tuyên thuyết pháp này để
đối trị Phát khởi ý nghiệp, làm rõ sở lạc của pháp (
Phát ý hoá nghiệp) bằng cú tự văn nghĩa, dùng
trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa
chúng sanh vào được
Thánh giáo Thành tựu giải thoát.
Lại như
chúng sanh Thọ lãnh ý nghiệp, do đây
chúng sanh thọ lãnh khổ vui.
Thành sở tác trí của
Như Lai là Thọ ý hóa nghiệp, nghĩa là
Như Lai cân nhắc với sự
quyết định đối với sự thắc mắc đặc để, ngài làm sự
thọ ký riêng biệt,
tùy theo người đáng
thọ lãnh (
tiếp nhận) đối với các nghĩa ở nơi
quá khứ,
hiện tại và tương lai, dùng
trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa
chúng sanh vào được
Thánh giáo Thành tựu giải thoát vậy.
Bấy giờ
Đại bồ tát Diệu Sanh bạch với
Đức Phật rằng, thưa
Thế tôn, việc này chỉ riêng
Như Lai ở nơi
tịnh pháp giới (
pháp giới thanh tịnh), có sự
thọ dụng hòa hợp, sự-trí
nhất vị, nhưng chư
Bố tát có thể làm được như thế không?
Đức Phật bảo
Bố tát Diệu Sanh rằng, hàng
Bồ tát cũng có sự
thọ dụng hòa hợp, sự-trí
nhất vị vậy.
Bồ tát Diệu Sanh lại
bạch Phật rằng, thế nào là sự
thọ dụng hòa hợp, sự-trí
nhất vị của hàng Bồ tát?
Đức Phật bảo rằng đó là chư
Bồ tát chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Bởi vì chư
Bồ tát kia ở trong pháp
vô sanh, khi đắc được Nhẫn Giải thì
đối trị với nhị tưởng, nghĩa là
thoát ly hai loại tưởng của tự và tha (mình và người) cho nên
đạt được tâm bình đẳng; từ đây trở đi hai loại
vọng tưởng dị và tha của các
Bồ tát kia không còn khởi hiện nên có sự
thọ dụng hòa hợp, sự-trí
nhất vị vậy.
Bồ tát Diệu Sanh lại
bạch Phật rằng,kính mong
Như Lai nói rõ ví dụ để giúp cho hàng
Bồ tát rõ được
ý nghĩa cao sâu này để
tùy nghi hóa duyên lưu truyền rộng rãi khiến cho các
chúng sanh nghe được điều này liền
liễu ngộ được
Vô sanh pháp nhẫn.
Đức Phật bảo ngài Diệu Sanh,
ví như chư thiên cõi trời Tam thập tam chưa vào được Tạp Lâm trọn không thể
lãnh hội pháp sự hoặc lĩnh thọ
vô ngã,
ngã sở và
hòa hợp thọ dụng. Nếu họ vào được Tạp Lâm tức không còn tâm
phân biệt tùy ý thọ dụng, do đây Tạp lâm có
Như thị Đức có thể khiến cho
chư thiên khi vào được chỗ rừng này rồi có
quả báo hoặc về
Sự hoặc về Thọ của
thiên giới,
vô sở tư duy,
hòa hợp thọ dụng.
Như thế hàng
Bồ tát nếu chưa
chứng đắc Vô sanh Pháp Nhẫn trọn không
thể đạt được
tâm bình đẳng, xả
bình đẳng và cùng với tất cả hàng
Thanh văn Độc giác không có
sai biệt.
Nếu có nhị tưởng,
hành giả không thể trụ vào sự
thọ dụng hòa hợp, sự-trí
nhất vị. Nếu đã
chứng đắc vô sanh pháp nhẫn,
thoát khỏi nhị tưởng cho nên
đạt được tâm bình đẳng, cùng với hàng
Thanh Văn Độc giác không khác. Bởi
tâm bình đẳng mà có thể trụ ở tánh xả,
thọ dụng hòa hợp, sự-trí
nhất vị.
Lại nữa Diệu Sanh, thí như các dòng nước lớn nhỏ chưa vào biển lớn nên có chỗ
y cứ khác biệt nhau, nước ở trong dòng có sự khác biệt, có lên có xuống,
tùy theo ngạch nước mà tạo
thành sự khác biệt nhau, nước là nơi
y trì thấp của
đời sống loài thủy tộc… nếu dòng nước nhập với biển lớn thì không còn sự khác biệt đối với
sở y, nước không có sự
sai biệt, nước không có hạn lượng, nước đồng
tác nghiệp không có lên xuống, nước là nơi
y trì rộng lớn của
đời sống loài thủy tộc.
Hàng
Bồ tát cũng như thế, nếu chưa
chứng nhập biển lớn của
Như lai Thanh tịnh pháp giới thì từng chỗ
Sở y đều có các Trí tăng giảm như có Thiểu trí và Dị trí,
tùy theo Trí nghiệp kia mà
hành vi tạo tác đều sai khác nhau. Một số
chúng sanh nương nơi các trí làm chỗ
y chỉ và
thành tựu căn lành; nếu đã vào được biển lớn
Thanh tịnh pháp giới của
Như Lai thì chỗ
sở y không có khác nhau và trí (chứng) kia cũng chẳng
sai biệt. Trí (chứng) không có hạn lượng không có tăng giảm,
thọ dụng hòa hợp, sự-trí
nhất vị, nó là chỗ
y chỉ của sự
thành tựu thiện căn của
vô lượng chúng sanh.
Bấy giờ
Đức Thế Tôn mới nói kệ rằng:
Tất cả pháp
chơn nhưNhị chướng-
thanh tịnh tướng
Pháp trí làm
nhân duyênTướng
Tự tại Vô tậnTrùm khắp trí
Chơn nhưTu tập đạt
rốt ráoCác
quả vị bất tận
An lập ở hai pháp
Thân ngữ và tâm hóa
Thiện hóa đường
tu tậpĐịnh và
Tổng trì mônHai
thành tựu vô biênTự tánh pháp-thọ dụng
Biến hóa sai khác nhau
Tịnh pháp giới như thế
Là điều chư
Phật thuyết.
Lúc
Đức Thế Tôn nói kinh này rồi,
Đại Bồ tát Diệu Sanh cùng chư
Bồ tát và các
đại chúng Thanh văn,
Thế gian, Trời, Người,
A Tu La v.v… tất cả
nghe lời Phật nói đều rất
vui vẻ, tin nhận
phụng hành.