Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
8. Kinh Ca-diếp Sư tử hống
(Kassapa-Sìhanàda sutta)
(Kinh nầy còn có tên là Kinh "Đại
sư tử hống" - Mahàsìhanàda Sutta)
1.
Như vầy tôi nghe. Một thời
đức Thế Tôn ở tại Ujunnà (Uy-nhã-quốc), tại
vườn nai Kannakatthala. Lúc bấy giờ, lõa thể Kassapa (Ca-diếp) đến chỗ
đức Phật, nói những lời chào đón
hỏi thăm xã giao với
đức Thế Tôn và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, lõa thể Kassapa thưa với
Thế Tôn:
2. -
Tôn giả Gotama, tôi nghe
như vầy: "Sa-môn Gotama
chỉ trích mọi
khổ hạnh,
tuyệt đối phỉ báng,
mạt sát mọi
khổ hạnh, mọi
lối sống khắc khổ", có phải những vị ấy
nói đúng lời của
Tôn giả Gotama? Có phải những vị ấy đã vu oan không xác thật cho
Tôn giả Gotama? Có phải những vị ấy đã
tuyên bố như pháp, thuận pháp không? Có những chủ trương nào chính và phụ gặp phải cật nạn
không Thật sự
chúng tôi không muốn
chỉ trích sai lạc Tôn giả Gotama.
3. - Này Kassapa, những ai nói: "Sa-môn Gotama
chỉ trích mọi
khổ hạnh,
tuyệt đối phỉ báng,
mạt sát mọi
khổ hạnh, mọi
lối sống khắc khổ", những vị ấy nói không đúng lời của Ta, đã vu oan không xác thật cho Ta. Này Kassapa, ở đời này, với
thiên nhãn thanh tịnh,
siêu nhân, Ta thấy một số người
tu khổ hạnh, sống khắc khổ... Sau khi thân hoại
mạng chung, phải sinh vào ác sanh,
ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Này Kassapa, ở đời này, với
thiên nhãn thanh tịnh,
siêu nhân, Ta thấy một số người
tu khổ hạnh, sống khắc khổ... Sau khi thân hoại
mạng chung, được sinh vào thiện chú,
thiên giới,
thanh tịnh,
siêu nhân, Ta thấy một số người
tu khổ hạnh nhưng sống ít khắc khổ hơn... Sau khi thân hoại
mạng chung, phải sinh vào ác sanh,
ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Này Kassapa, ở đời này, với
thiên nhãn thanh tịnh,
siêu nhân, Ta thấy một số người
tu khổ hạnh nhưng sống ít khắc khổ hơn... Sau khi thân hoại
mạng chung, được sinh vào
thiện thú,
thiên giới, cõi đời này. Này Kassapa, khi đã biết đúng với
sự thật sự lai, khứ, sanh, diệt của những người
tu khổ hạnh như vậy, làm sao Ta lại
chỉ trích mọi
khổ hạnh và
tuyệt đối phỉ báng mạt sát mọi
khổ hạnh, mọi
lối sống khắc khổ?
4. Này Kassapa, có một số Sa-môn, Bà-la-môn là những nhà
bác học,
tế nhị,
biệt tài trong
tranh luận, (nhà thiện xạ) bắn chẻ hai sợi tóc, đi chỗ này chỗ kia như đả phá mọi
tà kiến với
trí tuệ của mình. Giữa Ta và những vị này, có những điểm tương đồng và có những điểm không tương đồng. Có điểm những vị này
công nhận là phải,
chúng tôi cũng
công nhận là phải. Có điểm những vị này
công nhận là không phải,
chúng tôi cũng
công nhận là không phải. Có điểm những vị này không
công nhận là phải,
chúng tôi công nhận là phải. Có điểm
chúng tôi công nhận là phải, các vị này cũng
công nhận là phải. Có điểm
chúng tôi không
công nhận là phải, các vị này cũng không
công nhận là phải. Có điểm
chúng tôi công nhận là phải, các vị này không
công nhận là phải. Có điểm
chúng tôi không
công nhận là phải, các vị này
công nhận là phải.
5. Ta đến các vị ấy và nói: "Này các
Hiền giả, những điểm bất
đồng ý, hãy để chúng yên như vậy. Những điểm
đồng ý, các vị có trí hãy hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau, giáo sư với giáo sư, hay chúng
đệ tử với chúng
đệ tử: "Những pháp
bất thiện hay được xem là
bất thiện, những pháp
lỗi lầm hay được xem là
lỗi lầm, những
pháp không nên
tuân hành hay được xem là không nên
tuân hành, những
pháp không xứng bậc Thánh hay được xem là không xứng đáng bậc Thánh, giữa những pháp
ô nhiễm hay được xem là
ô nhiễm, giữa quí vị
hiền giả này, ai đã
hoàn toàn xả ly những pháp ấy, Sa-môn Gotama hay những vị
Tôn giả,
sư trưởng các
giáo phái kia?"
6. Này Kassapa, và
sự tình này xảy ra. Khi các vị có trí hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau. Các vị này nói: "Những pháp
bất thiện hay được xem là
bất thiện, những pháp
lỗi lầm hay được xem là
lỗi lầm, những
pháp không nên
tuân hành hay được xem là không nên
tuân hành, những
pháp không xứng bậc Thánh hay được xem là không xứng bậc Thánh, những pháp
ô nhiễm hay được xem là
ô nhiễm, giữa những vị
hiền giả này, Sa-môn Gotama đã
hoàn toàn xả ly những pháp ấy, còn những vị
tôn giả,
sư trưởng các
giáo phái kia chỉ xả ly một phần thôi". Như vậy, này Kassapa, những vị có trí khi hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau, một phần lớn
tán thán chúng tôi về
vấn đề này.
7. Này Kassapa, lại nữa các vị có trí lại hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau, giữa giáo sư với giáo sư, giữa chúng
đệ tử với chúng
đệ tử: "Những
pháp thiện hay được xem là thiện, những
pháp không lỗi lầm hay được xem là không
lỗi lầm, những pháp nên
tuân hành hay được xem là nên
tuân hành, những
pháp xứng bậc Thánh hay được xem là xứng bậc Thánh, những
pháp thanh tịnh hay được xem là
thanh tịnh, giữa quí vị
hiền giả này ai đã
hoàn toàn thành tựu những pháp này, Sa-môn Gotama hay những vị
tôn giả,
sư trưởng các
giáo phái kia?
8. Này Kassapa, và
sự tình này xảy ra. Khi các vị có trí hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau, các vị này nói: "Những
pháp thiện hay được xem là thiện, những
pháp không lỗi lầm hay được xem là không
lỗi lầm, những pháp nên
tuân hành hay được xem là nên
tuân hành, những
pháp xứng bậc Thánh hay được xem là xứng bậc Thánh, những
pháp thanh tịnh hay được xem là
thanh tịnh, Sa-môn Gotama đã
hoàn toàn thành tựu những pháp này, còn những vị
tôn giả,
sư trưởng các
giáo phái kia chỉ
thành tựu một phần". Như vậy này Kassapa, những vị có trí hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau, một phần lớn
tán thán chúng tôi về
vấn đề này.
9. Này Kassapa, lại nữa, các vị có trí lại hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau, giữa giáo sư với giáo sư, giữa chúng
đệ tử với chúng
đệ tử: "Những pháp
bất thiện hay được xem là
bất thiện, những pháp
lỗi lầm hay được xem là
lỗi lầm, những
pháp không nên
tuân hành hay được xem là không nên
tuân hành, những
pháp không xứng bậc Thánh hay được xem là không xứng bậc Thánh, những pháp
ô nhiễm hay được xem là
ô nhiễm, giữa những vị
hiền giả này ai đã
hoàn toàn xả ly những pháp ấy, chúng
đệ tử của Gotama hay chúng
đệ tử của những
tôn giả,
sư trưởng các
giáo phái kia?"
10. Này Kassapa, và
sự tình này xảy ra khi các vị có trí hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau. Các vị này nói: "Những pháp
bất thiện hay được xem là
bất thiện, những pháp
lỗi lầm hay được xem là
lỗi lầm, những
pháp không nên
tuân hành hay được xem là không nên
tuân hành, những
pháp không xứng bậc Thánh hay được xem là không xứng bậc Thánh, những pháp
ô nhiễm hay được xem là
ô nhiễm, giữa những vị
hiền giả này, chúng
đệ tử của Gomata đã
hoàn toàn xả ly những pháp ấy, còn chúng
đệ tử của những vị
tôn giả,
sư trưởng các
giáo phái kia chỉ xả ly một phần thôi". Như vậy, này Kassapa, những vị có trí khi hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau một phần lớn
tán thán chúng tôi về
vấn đề này.
11. Này Kassapa, lại nữa, các vị có trí lại hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau, giữa giáo sư với giáo sư, giữa chúng
đệ tử với chúng
đệ tử: "Những
pháp thiện hay được xem là thiện, những
pháp không lỗi lầm hay được xem là không
lỗi lầm, những pháp nên
tuân hành hay được xem là nên
tuân hành, những
pháp xứng bậc Thánh hay được xem là xứng bậc Thánh, những
pháp thanh tịnh hay được xem là
thanh tịnh, giữa những vị
hiền giả này ai đã
hoàn toàn thành tựu những pháp này, chúng
đệ tử của Gotama hay chúng
đệ tử của những
tôn giả,
sư trưởng các
giáo phái kia?"
12. Này Kassapa,
sự tình này xảy ra khi các vị có trí hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau. Các vị này nói: "Những
pháp thiện hay được xem là thiện, những
pháp không lỗi lầm hay được xem là không
lỗi lầm, những pháp nên
tuân hành hay được xem là nên
tuân hành, những
pháp xứng bậc Thánh hay được xem là xứng bậc Thánh, những
pháp thanh tịnh hay được xem là
thanh tịnh, giữa những vị
hiền giả này, chúng
đệ tử của Gotama đã
hoàn toàn thành tựu những pháp này, còn chúng
đệ tử của những vị
tôn giả,
sư trưởng các
giáo phái kia chỉ
thành tựu một phần thôi". Như vậy này Kassapa, những vị có trí hỏi nhau,
tìm hiểu và
đàm luận với nhau, một phần lớn
tán thán chúng tôi về
vấn đề này.
13. Này Kassapa, có
con đường, có
phương pháp khiến ai
tuân theo sẽ tự thấy và tự biết: "Sa-môn Gotama
nói đúng thời, nói
chân thật, nói
lợi ích, nói
hợp pháp,
nói đúng luật". Này Kassapa,
con đường ấy là gì,
phương pháp ấy là gì khiến ai
tuân theo sẽ tự thấy và biết: "Sa-môn Gotama
nói đúng thời, nói
chân thật, nói
lợi ích, nói
hợp pháp,
nói đúng luật?" Chính là
con đường Thánh tám ngành tức là chánh
tri kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng,
chánh tinh tấn,
chánh niệm,
chánh định. Này Kassapa, chính
con đường này, chính
phương pháp này khiến ai
tuân theo sẽ tự thấy và tự biết: "Sa-môn Gotama
nói đúng thời, nói lời
chân thật, nói
lợi ích, nói
hợp pháp,
nói đúng luật".
14. Nghe nói vậy, lõa thể Kassapa
bạch đức Thế Tôn:
-
Hiền giả Gotama, những pháp
khổ hạnh này được những Sa-môn và Bà-la-môn
công nhận là đưa đến
Sa-môn quả và Bà-la-môn quả: Sống lõa thể, - Sống
phóng túng, không theo
lễ nghi (như đứng mà đi đại
tiểu tiện, đứng ăn, không chịu ngồi theo
lễ nghi), - Liếm tay cho sạch (sau khi ăn, không chịu rửa), - Đi
khất thực không chịu
bước tới (theo
yêu cầu để
thí chủ bỏ đồ ăn vào bát), - Không nhận đồ ăn
mang đến (cho mình, trước khi đi
khất thực), - Không nhận đồ ăn
đặc biệt nấu cho mình. - Không nhận mời đi ăn. - Không nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo (sợ nồi chảo bị nạo, bị cạy để
cúng dường đồ ăn), - Không nhận đồ ăn tại ngưỡng cửa (sợ dành riêng cho mình), - Không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy (sợ dành riêng cho mình), - Không nhận đồ ăn đặt giữa những cối giã gạo (sợ dành riêng cho mình), - Không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn (sợ đồ ăn chỉ do một người cho), - Không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai (sợ đứa con trong bụng mẹ bị
thiệt thòi), - Không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú (sợ sữa đàn bà sẽ bớt đi), - Không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu (sợ làm trở ngại sự giao cấu), - Không nhận đồ ăn đi quyên (bởi
tín đồ khi có nạn đói), - Không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng (sợ chó mất phần ăn), - Không nhận đồ ăn tại chỗ ruồi bu (sợ ruồi mất phần ăn), - Không ăn cá,
ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men. - Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng hay vị ấy chỉ nhận ăn tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà, vị ấy chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy chỉ nuôi sống với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy vị ấy sống theo hạnh
tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn
một lần.
Này
Hiền giả Gotama, những pháp
khổ hạnh này được chúng Sa-môn, Bà-la-môn
công nhận là đưa đến
Sa-môn quả và Bà-la-môn quả. Vị này chỉ ăn cỏ lúa để sống, lúa tắc, gạo lức, ăn hột cải nivara, ăn da vụn, ăn trấu, ăn nước bột gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống.
Này
Hiền giả Gotama, những pháp
khổ hạnh này được
công nhận bởi những Sa-môn, Bà-la-môn là đưa đến Sa-môn và Bà-la-môn quả. Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm rồi quăng đi, mặc vải
phấn tảo y, mặc vỏ cây tititaka làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện bằng từng mảnh da của con sơn dương đen, mặc áo bằng
cỏ cát tường (kusa), mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cú. Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người theo tập tục sống nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, không dùng chỗ ngồi, là người ngồi chò hỏ, sống theo hạnh ngồi chò hỏ một cách
tinh tấn, là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên
giường gai, sống dùng ván gỗ làm giường, sống nằm trên đất trần, thường
nằm ngủ một bên hông, sống để bụi và nhớp che dính thân mình, sống và ngủ
ngoài trời, theo hạnh bạ đâu nằm đấy, sống ăn các uế vật, theo hạnh ăn các uế vật (phân bò, nước tiểu bò, tro và đất), sống không uống nước lạnh, theo hạnh không uống nước lạnh, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch
tội lỗi).
15. - Này Kassapa nếu một người sống lõa thể, sống
phóng túng không theo
lễ nghi, liếm tay... như vậy sống theo hạnh
tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng chỉ ăn
một lần, nhưng nếu vị này không tu và không chứng được
giới cụ túc, tâm
cụ túc, tuệ
cụ túc, thời vị ấy cách rất xa Sa-môn vị, cách rất xa Bà-la-môn vị. Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống
tu tập từ bi tâm, không
hận thù, không ác hại và với sự diệt tận các
lậu hoặc,
tự giác chứng và
an trú ngay
hiện tại,
tâm giải thoát,
tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
Này Kassapa, nếu một người chỉ ăn cỏ lúa để sống, này Kassapa nếu người ấy chỉ ăn lúa tắc, gạo lức, ăn hột cải nivàra... ăn trái cây, rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống, nhưng nếu vị này không tu và không chứng được
giới cụ túc, tâm
cụ túc, tuệ
cụ túc thời vị ấy cách rất xa Sa-môn vị, cách rất xa Bà-la-môn vị. Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống
tu tập từ bi tâm, không
hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các
lậu hoặc,
tự giác chứng và
an trú ngay
hiện tại,
tâm giải thoát,
tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
Này Kassapa, nếu một người mặc vải gai thô, mặc vải gai thô trộn với các vải khác,... sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch
tội lỗi), nhưng nếu vị này không tu và không chứng được
giới cụ túc, tâm
cụ túc, tuệ
cụ túc, thời vị ấy cách rất xa Sa-môn vị, cách rất xa Bà-la-môn vị. Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống
tu tập từ bi tâm, không
hận thù, không ác hại và với sự diệt tận các
lậu hoặc,
tự giác chứng và
an trú ngay
hiện tại,
tâm giải thoát,
tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
16. Khi nghe nói đến đây, lõa thể Kassapa bạch
Thế Tôn:
-
Tôn giả Gotama, khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!
- Này Kassapa, đó là
lời nói thường tình ở đời: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh! Này Kassapa, như một người sống lõa thể, sống
phóng túng không theo
lễ nghi, liếm tay... như vậy sống theo hạnh
tiết chế ăn uống,
cho đến nửa tháng chỉ ăn
một lần. Này Kassapa, nếu sự khó hành, sự rất khó hành của Sa-môn hạnh, của Bà-la-môn hạnh chỉ
tùy thuộc khổ hạnh này và chỉ
tùy thuộc sự
thực hành khổ hạnh này, thời
thật không xứng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!" Một người
cư sĩ, hay con một người
cư sĩ cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi sống lõa thể, sống
phóng túng không theo
lễ nghi, liếm tay.... như vậy sống theo hạnh
tiết chế ăn uống,
cho đến nửa tháng ăn một lần".
Này Kassapa, vì ngoài
khổ hạnh này, ngoài sự
thực hành khổ hạnh này, Sa-môn hạnh hay Bà-la-môn hạnh vẫn khó
hành trì, vẫn thật khó
hành trì, do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!" Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống
tu tập từ bi tâm, không
hận thù, không ác hại, và với sự tận diệt các
lậu hoặc tự giác chứng và
an trú ngay
hiện tại,
tâm giải thoát,
tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
Này Kassapa, nếu một người chỉ ăn cỏ lúa để sống, ăn lúa tắc, gạo lức... ăn trái cây, rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống, nếu sự khó hành, sự rất khó hành của Sa-môn hạnh, của Bà-la-môn hạnh chỉ
tùy thuộc khổ hạnh này, và chỉ
tùy thuộc sự
thực hành khổ hạnh này thời
thật không xứng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh". Một người
cư sĩ, hay con một người
cư sĩ,
cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi chỉ ăn cỏ lúa để sống, ăn lúa tắc, gạo lức... ăn trái cây, rễ cây trong rừng, ăn trái cây rừng để sống". Này Kassapa, vì ngoài
khổ hạnh này, ngoài sự
thực hành khổ hạnh này, Sa-môn hạnh hay Bà-la-môn hạnh vẫn khó
hành trì, vẫn thật khó
hành trì, do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!" Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống
tu tập từ bi tâm, không
hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các
lậu hoặc,
tự giác chứng và
an trú ngay
hiện tại,
tâm giải thoát,
tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn!
Này Kassapa, nếu một người mặc vải gai thô, mặc vải gai thô trộn lẫn với các vải khác... sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch
tội lỗi), nếu có sự khó hành, sự rất khó hành của Sa-môn hạnh, của Bà-la-môn hạnh chỉ
tùy thuộc khổ hạnh này và chỉ
tùy thuộc sự
thực hành khổ hạnh này, thời
thật không xứng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!" Một người
cư sĩ hay con một người
cư sĩ cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi chỉ mặc vải gai thô, mặc vải gai thô trộn lẫn với các vải khác... sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch
tội lỗi)", này Kassapa, vì ngoài
khổ hạnh này, ngoài sự
thực hành khổ hạnh này, Sa-môn hạnh hay Bà-la-môn hạnh vẫn khó
hành trì, vẫn thật khó
hành trì, do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!" Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống
tu tập từ bi tâm, không
hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các
lậu hoặc,
tự giác chứng và
an trú ngay
hiện tại,
tâm giải thoát,
tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
17. Khi nghe nói vậy, lão thể Kassapa
bạch đức Thế Tôn:
-
Tôn giả Gotama, khó biết thay một vị Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!
- Này Kassapa, đó là
lời nói thường tình ở đời: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Này Kassapa, nếu một người sống lõa thể, sống
phóng túng không theo
lễ nghi, liếm tay... như vậy sống theo hạnh
tiết chế ăn uống,
cho đến nửa tháng chỉ ăn
một lần. Này Kassapa, nếu
trở thành một Sa-môn, nếu
trở thành một Bà-la-môn chỉ
tùy thuộc khổ hạnh này, và chỉ
tùy thuộc sự
thi hành khổ hạnh này, thời
thật không xứng mà nói: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Một người
cư sĩ, hay con một người
cư sĩ cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi sống lõa thể, sống
phóng túng không theo
lễ nghi, liếm tay... như vậy sống theo hạnh
tiết chế ăn uống,
cho đến nửa tháng chỉ ăn một lần". Này Kassapa, nếu
trở thành một Sa-môn, nếu
trở thành một Bà-la-môn chỉ
tùy thuộc khổ hạnh này, chỉ
tùy thuộc sự
thi hành khổ hạnh này, thời
thật không xứng mà nói: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Một người
cư sĩ, hay con một người
cư sĩ cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh này: "Tôi sống lõa thể, sống
phóng túng không theo
lễ nghi, liếm tay... như vậy sống theo hạnh
tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng chỉ ăn một lần". Này Kassapa, vì ngoài
khổ hạnh này, ngoài sự
thực hành khổ hạnh này, vẫn khó biết vẫn thật khó biết một người Sa-môn hay một người Bà-la-môn, do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó biết thay, một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống
tu tập từ bi tâm, không
hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các
lậu hoặc,
tự giác chứng và
an trú ngay
hiện tại,
tâm giải thoát,
tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, vị Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
Này Kassapa, nếu một người chỉ ăn cỏ lúa để sống, ăn lúa tắc, gạo lức... ăn trái cây, rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống. Này Kassapa, nếu
trở thành một Sa-môn,
trở thành một Bà-la-môn chỉ
tùy thuộc khổ hạnh này và chỉ
tùy thuộc sự
thực hành khổ hạnh này, thời
thật không xứng đáng mà nói: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Một người
cư sĩ, hay con một người
cư sĩ,
cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi chỉ ăn lúa để sống, ăn lúa tắc, gạo lức... ăn trái cây, rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống". Này Kassapa, vì ngoài
khổ hạnh này, ngoài sự thực
khổ hạnh này, vẫn khó biết một người Sa-môn hay một người Bà-la-môn. Do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó biết thay, một Sa-môn! Khó biết thay, một Bà-la-môn".
Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống
tu tập từ bi tâm, không
hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các
lậu hoặc,
tự giác chứng và
an trú ngay
hiện tại,
tâm giải thoát,
tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
Này Kassapa, nếu một người mặc vải gai thô, mặc vải gai thô trộn lẫn với các vải khác... sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch
tội lỗi). Này Kassapa, nếu
trở thành một Sa-môn,
trở thành một Bà-la-môn chỉ
tùy thuộc khổ hạnh này, và chỉ
tùy thuộc sự
thực hành khổ hạnh này thời
thật không xứng mà nói: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!"
Một người
cư sĩ hay con một người
cư sĩ,
cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi mặc vải gai thô, mặc vải gai thô trộn lẫn với các vải khác ... sống một đêm tắm ba lần". Này Kassapa, vì ngoài
khổ hạnh này vẫn rất khó biết một người Sa-môn hay một người Bà-la-môn. Do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống
tu tập từ bi tâm, không
hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các
lậu hoặc,
tự giác chứng và
an trú ngay
hiện tại,
tâm giải thoát,
tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
18. Khi nghe nói vậy, lõa thể Kassapa
bạch đức Thế Tôn:
-
Tôn giả Gotama, thế nào là giới cụ túc? Thế là tâm cụ túc? Thế nào là tuệ cụ túc?
- Này Kassapa, nay ở đời,
Như Lai xuất hiện, là bậc A-la-hán,
Chánh Biến Tri... (xem Kinh
Sa-môn quả, đoạn kinh số 40-42)... thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt,
thọ lãnh và
tu học trong
giới pháp,
thân nghiệp,
ngữ nghiệp thanh tịnh, sanh hoạt
trong sạch,
giới hạnh cụ túc,
thủ hộ các căn, đầy đủ
chánh niệm,
chánh trí và biết
tri túc.
Này Kassapa, thế nào là Tỷ-kheo
giới hạnh cụ túc? Ở đây, này Kassapa, Tỷ-kheo
từ bỏ sát sanh, tránh xa
sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết
tàm quý, có
lòng từ, sống
thương xót đến
hạnh phúc của tất cả
chúng sanh và loài
hữu tình. Như vậy là
giới hạnh của vị ấy trong
giới luật ... (như Kinh
Sa-môn quả, đoạn kinh số 43-61),... Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường vẫn còn tự nuôi sống bằng những
tà mạng, như dùng các
ảo thuật để được
an ổn, để khỏi làm các điều đã hứa... (như Kinh
Sa-môn quả, đoạn kinh số 62)....
ngăn ngừa công hiệu của thuốc. Còn vị ấy thì tránh xa các
tà mạng kể trên. Như vậy là
giới cụ túc của vị ấy. Và như vậy, này Kassapa, vị Tỷ-kheo ấy, nhờ
giới luật cụ túc nên không thấy
sợ hãi từ một chỗ nào về sự
hộ trì giới luật. Này Kassapa, như một Sát-đế-lỵ đã làm
lễ quán đảnh, đã
hàng phục kẻ thù địch, không còn thấy
sợ hãi chỗ nào về sự
thù địch. Cũng vậy, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy nhờ
giới luật cụ túc, nên không thấy
sợ hãi từ một chỗ nào về sự
hộ trì giới luật. Vị ấy nhờ
cụ túc giới luật cao quý này, nên hưởng
lạc thọ,
nội tâm thanh tịnh. Như vậy, này Kassapa, Tỷ-kheo
giới luật cụ túc.
19. Này Kassapa, thế nào là vị Tỷ-kheo
bảo hộ các căn? Này Kassapa, khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo không nắm giữ tướng chung... (như Kinh
Sa-môn quả, đoạn số 64)... những
nguyên nhân gì vì
ý căn không được
chế ngự, khiến
tham ái,
ưu bi, các ác,
bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo
chế ngự nguyên nhân ấy,
hộ trì ý căn,
thực hành sự
hộ trì ý căn. Vị ấy, nhờ sự
hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng
lạc thọ,
nội tâm thanh tịnh... Như vậy, này Kassapa Tỷ-kheo
hộ trì các căn... (như Kinh
Sa-môn quả, đoạn kinh số 64-75)... khi quán tự thân đã xả ly năm
triền cái ấy,
hân hoan sanh; do
hân hoan nên hỷ sanh; do tâm
hoan hỷ, thân được
khinh an; do thân
khinh an,
lạc thọ sanh; do
lạc thọ, tâm được định tỉnh. Tỷ-kheo
ly dục, ly
ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, với tầm với tứ. Tỷ-kheo
thấm nhuần, tẩm ướt làm cho
sung mãn tràn đầy thân mình với
hỷ lạc do
ly dục sanh, không một chỗ nào trên
toàn thân không do
hỷ lạc từ
ly dục sanh ấy
thấm nhuần. Này Kassapa, như một người hầu tắm lão luyện hay
đệ tử người hầu tắm. Sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được
thấm nhuần nước ướt, nhào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này Kassapa Tỷ-kheo
thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho
sung mãn, tràn đầy thân mình với
hỷ lạc do
ly dục sanh, không một chỗ nào trên
toàn thân không được
hỷ lạc do
ly dục sanh ấy
thấm nhuần. Như vậy là tâm
cụ túc của vị ấy.
Lại nữa, này Kassapa, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh
nhất tâm... (như Kinh
Sa-môn quả , đoạn kinh số 77-79)...
đệ tam thiền (như Kinh
Sa-môn quả, đoạn kinh số 79-81)... chứng và trú vào thiền thứ tư... (như Kinh
Sa-môn quả , đoạn kinh số 81-82)... đó là tâm
cụ túc của vị ấy. Này Kassapa, đó là tâm
cụ túc.
20. Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không
cấu nhiễm, không
phiền não,
nhu nhuyến, dễ
sử dụng,
vững chắc bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến
chánh trí,
chánh kiến. Vị ấy biết: "Thân này của ta là
sắc pháp, do
bốn đại thành, do
cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo
nuôi dưỡng,
vô thường,
biến hoại, phấn toái,
đoạn tuyệt,
hoại diệt, trong thân ấy thức ta lại nương tựa và bị
trói buộc."
Này Kassapa,
ví như một hòn
lưu ly bảo châu,
đẹp đẽ,
trong suốt, có tám mặt khéo giũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu nhạt. Một người có mắt cầm hòn ngọc ấy ở trên tay sẽ thấy: "Hòn ngọc
lưu ly bảo châu này,
đẹp đẽ,
trong suốt, có tám mặt, khéo giũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và sợi dây này được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, hay màu vàng nhạt". Cũng vậy, này Kassapa, với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không
cấu nhiễm, không
phiền não,
nhu nhuyến, dễ
sử dụng,
vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến
chánh trí,
chánh kiến. Vị ấy biết: "Thân này của ta là
sắc pháp, do
bốn đại thành, do
cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo
nuôi dưỡng,
vô thường,
biến hoại, phấn toái,
đoạn tuyệt,
hoại diệt. Trong thân ấy, thức ta lại nương tựa và bị trói buộc". Đó là tuệ
cụ túc của vị ấy... (như Kinh
Sa-môn quả, đoạn kinh số 85-98)... Vị ấy biết: "... không có
đời sống nào khác nữa". Đó là tuệ
cụ túc của vị ấy. Này Kassapa, đó là tuệ
cụ túc.
Này Kassapa, và không có một
giới cụ túc, tâm
cụ túc, tuệ
cụ túc nào khác cao thượng hơn,
thù thắng hơn
giới cụ túc, tâm
cụ túc và tuệ
cụ túc này.
21. Này Kassapa, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
giới luật. Những vị này dùng nhiều
phương tiện tán thán giới luật. Này Kassapa, nói về
giới luật tôn kính cao thượng nhất, Ta
nhận thấy không có một ai bằng
giới luật của Ta, làm sao có ai hơn được. Như vậy Ta hơn trên tất cả về
giới luật, tức là
tăng thượng giới.
Này Kassapa, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
khổ hạnh, yểm ly. Những vị này dùng nhiều
phương tiện tán thán khổ hạnh, yểm ly. Này Kassapa, nói về
khổ hạnh yểm ly
tôn kính cao thượng nhất, Ta
nhận thấy không có một ai bằng được
khổ hạnh yểm ly của Ta, làm sao có ai hơn được. Như vậy Ta hơn trên tất cả về
khổ hạnh yểm ly, tức là
tăng thượng yểm ly.
Này Kassapa, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
trí tuệ. Những vị này dùng nhiều
phương tiện tán thán trí tuệ. Này Kassapa, nói về
trí tuệ tôn kính cao thượng nhất, Ta
nhận thấy không có một ai bằng được
trí tuệ của Ta, làm sao có ai hơn được. Như vậy Ta hơn trên tất cả về
trí tuệ, tức là
tăng thượng trí tuệ.
Này Kassapa, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
giải thoát. Những vị này dùng nhiều
phương tiện tán thán giải thoát. Này Kassapa, nói về
giải thoát tôn kính cao thượng nhất, Ta
nhận thấy không có một ai bằng
được giải thoát của Ta, làm sao có ai hơn được. Như vậy, Ta hơn trên tất cả về
giải thoát, tức là
tăng thượng giải thoát.
22. Này Kassapa,
sự tình này có thể xảy ra. Các du sĩ
ngoại đạo có thể nói: "Sa-môn Gotama rống tiếng rống con
sư tử nhưng chỉ tại chỗ vắng người, không ở giữa đại chúng". Nên nói với chúng: "Chớ có nói như vậy. Sa-môn Gotama rống tiếng rống con
sư tử tại chỗ vắng người và cả giữa đại chúng". Này Kassapa, nên nói với chúng như vậy.
Này Kassapa,
sự tình này có thể xảy ra. Các du sĩ
ngoại đạo có thể hỏi: "Sa-môn Gotama rống tiếng rống con
sư tử giữa
đại chúng, nhưng rống không với
tinh thần vô úy... với
tinh thần vô úy... và "Không có ai hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi gì... và "có người hỏi Sa-môn Gotama"... "Khi có người hỏi, Sa-môn Gotama không thể trả lời"... và "Khi có người hỏi, Sa-môn Gotama
trả lời cho chúng"... và "Dầu cho có
trả lời, câu
trả lời không làm tâm người ta thỏa mãn"... và "Câu
trả lời làm tâm người ta thỏa mãn"... "Nhưng người ta không xem
ý kiến của Sa-môn Gotama là đáng được nghe".... "Người ta xem
ý kiến của Sa-môn Gotama là đáng được nghe".... "Dầu cho có được nghe, người ta cũng không tin tưởng"... "Người ta nghe có
lòng tin tưởng"... "Dầu cho người ta có
lòng tin tưởng, người ta không
biểu lộ lòng tin tưởng"... "Người ta có
lòng tin tưởng và
biểu lộ lòng tin tưởng" ... "Dầu cho có
biểu lộ lòng tin tưởng, người ta không
đạt đến chỗ như thực".... "Người ta
đạt đến chỗ như thực".... "Dầu cho
đạt đến chỗ như thực, người ta không đem ra
thực hành được". Nên nói với chúng: "Chớ có nói như vậy. Sa-môn Gotama rống tiếng rống con
sư tử, rống ở giữa
đại chúng, rống với
tinh thần vô úy, có người hỏi Sa-môn Gotama, Sa-môn Gotama
trả lời khi được hỏi, câu
trả lời làm tâm người ta được
thỏa mãn, người ta xem
ý kiến của Sa-môn Gotama đáng được nghe, sau khi được nghe người ta
tin tưởng, khi có
lòng tin tưởng người ta
biểu lộ lòng tin tưởng, người ta
đạt đến chỗ như thực,
đạt đến chỗ như thực, người ta đem ra thực hành". Này Kassapa, nên nói với chúng như vậy.
23. Này Kassapa, một thời Ta ở tại
Vương Xá trên núi Linh Thứu. Lúc bấy giờ, có người
Phạm chí tu khổ hạnh tên là Nigrodha đến hỏi về
tối thắng khổ hạnh yểm ly. Khi được hỏi về
tối thắng khổ hạnh yểm ly, Ta đã
trả lời. Và khi được Ta
trả lời, vị ấy
phát tâm hoan hỷ như với một
hoan lạc tối thượng.
- Bạch
Đại đức, ai có thể sau khi nghe
Thế Tôn thuyết pháp, lại không
hoan hỷ như với một
hoan lạc tối thượng? Thật
vi diệu thay, bạch Đại đức! Thật
vi diệu thay, bạch Đại đức! Bạch
Đại đức, như người dựng đứng lại những gì bị quăng
ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín,
chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy,
chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều
phương tiện trình bày
giải thích. Và nay con xin
quy y Thế Tôn,
quy y Pháp,
quy y Tỷ-kheo Tăng. Bạch
Đại đức, con xin
xuất gia với
Thế Tôn, con xin thọ
đại giới.
24. - Này Kassapa, ai trước kia là
ngoại đạo, nay muốn
xuất gia, muốn thọ
đại giới trong pháp và luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú,
chúng Tăng nếu
đồng ý sẽ cho
xuất gia, cho thọ
đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng ta
nhận thấy cá tánh
con người sai biệt nhau.
- Bạch
Đại đức, nếu những người
xưa kia là
ngoại đạo, nay muốn
xuất gia, muốn thọ
đại giới trong pháp và luật này phải sống bốn tháng biệt trú, sau khi sống bốn tháng biệt trú
chúng Tăng nếu
đồng ý sẽ cho
xuất gia, cho thọ
đại giới, thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt trú bốn năm, nếu
chúng Tăng đồng ý, mong
chúng Tăng xuất gia cho con, thọ
đại giới cho con để thành vị Tỷ-kheo.
Và lõa thể Kassapa được
xuất gia với
Thế Tôn và được thọ
đại giới. Thọ
đại giới không bao lâu,
Đại đức Kassapa ở
một mình an tịnh, không
phóng dật, sống nhiệt tâm,
cần mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được
mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, hướng đến. Đó là
vô thượng cứu cánh phạm hạnh ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng
trí chứng, ngộ và
an trú: "Sanh đã tận,
phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có
đời sống khác nữa".
Đại đức Kassapa
liễu tri như vậy.
Và
đại đức Kassapa
trở thành một vị A-la-hán nữa.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt