THIẾU THẤT LỤC MÔN
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
NHỊ CHỦNG NHẬP
Trong việc
tu tập, tuy có nhiều đường vào đạo, nhưng về cơ bản mà nói thì cũng không ra ngoài hai nhóm này: Một là nương theo
nghĩa lý mà vào đạo, hai là nương theo
công hạnh mà vào đạo.
Nương theo
nghĩa lý mà vào đạo, đó là nhờ nơi
kinh giáo mà
hiểu rõ được
tông chỉ,
tin chắc rằng tất cả
chúng sinh đều có cùng một tánh
chân thật, thảy đều do
vọng tưởng nương theo các
duyên khởi lên
che lấp, làm cho tánh
chân thật ấy không thể
hiển lộ. Như có thể
lìa bỏ vọng tưởng,
quay về với tánh
chân thật, gom tâm về một mối như ngó vào vách đá, không có ta, không có người, thánh phàm cũng chẳng khác,
kiên trì giữ được như thế không lay chuyển, lại không bị
trói buộc vào câu chữ trong
kinh giáo, như vậy tức là
phù hợp với
nghĩa lý sâu xa, không còn có chỗ
phân biệt,
thể nhập vào chỗ
tự nhiên vắng lặng vô vi. Đó gọi là nương theo
nghĩa lý mà vào đạo.
Nương theo
công hạnh mà vào đạo, đây kể ra có 4 hạnh. Còn lại hết thảy các hạnh khác cũng đều không ra ngoài 4 hạnh này. Bốn hạnh là: hạnh báo oan, hạnh
tùy duyên, hạnh không mong cầu và hạnh xứng pháp.
Thế nào là hạnh báo oan? Đó là nói người
tu hành khi phải
chịu đựng khổ đau nên tự nghĩ rằng: “Ta từ trong kiếp xa xưa không người chỉ dạy, bỏ gốc theo ngọn, trôi dạt trong
ba cõi, thường khởi lòng oán ghét, gây
tổn hại khôn kể xiết. Nay tuy không mắc phải
lỗi lầm như thế, nhưng chính là
nghiệp ác đã tạo từ trước nay mới kết thành, như trái cây chín rụng, chẳng phải trời hại, chẳng phải người hại.” Nghĩ như vậy rồi
vui lòng nhẫn chịu, không một lời than oán.
Kinh dạy rằng: “Gặp khổ chẳng lo buồn.” Vì sao vậy? Là vì đã
hiểu biết thông suốt. Khi sinh tâm như vậy là
tương ứng,
phù hợp với
nghĩa lý sâu xa. Nhờ
chịu đựng oan khuất mà
tiến tới trên đường đạo, cho nên gọi là hạnh báo oan.
Thứ hai là hạnh
tùy duyên.
Chúng sinh vốn không có gì thật là “cái ta”, thảy đều
do nơi nhân duyên và
nghiệp lực quyết định. Mọi nỗi khổ vui ta nhận chịu đều là theo
nhân duyên mà sinh ra. Nếu như được
quả báo tốt đẹp, những việc
vinh dự, cũng đều là nhờ
việc đã làm trong
quá khứ. Khi duyên hết
trở lại thành không, có gì là vui? Việc được mất đều tùy nơi duyên ngoài, trong tâm vốn
thật không hề
thêm bớt. Những việc mừng vui vì thế chẳng làm cho tâm mình lay động, ngầm
thuận theo với đạo. Vì thế mà gọi là hạnh
tùy duyên.
Thứ ba là hạnh không mong cầu. Người
thế tục mãi sống trong
mê lầm, dù ở đâu cũng không khỏi sự
tham lam, đắm chấp, nên gọi là mong cầu. Kẻ có trí
hiểu rõ được lẽ
chân thật, ngược lại với
thế tục, trong tâm
an ổn không có chỗ làm, ngoài thân
tùy duyên động chuyển. Muôn vật đều là không, chẳng có gì đáng mong muốn,
ưa thích. Những việc tốt xấu xen đuổi theo nhau, ở mãi trong
ba cõi khác nào như căn nhà đang cháy. Đã có thân này là có khổ, nào ai được an ổn?
Hiểu rõ được chỗ ấy nên
buông bỏ mọi việc, dứt mọi
tư tưởng, chẳng còn mong cầu.
Trong kinh dạy rằng: “Có mong cầu đều là có khổ. Không mong cầu mới được vui.”
Rõ ràng biết được rằng không mong
cầu thực là hạnh của người tu. Vì thế mà gọi là hạnh không mong cầu.
Thứ tư là hạnh xứng pháp. Tánh thật vốn
thanh tịnh, lý ấy gọi là pháp. Tin hiểu được lý ấy thì hết thảy các tướng đều là không, chẳng còn
nhiễm ô, chẳng còn đắm chấp, không có ta, không có người.
Kinh dạy rằng: “Pháp không có
chúng sinh, cho nên lìa mọi
cấu nhiễm của
chúng sinh.
Pháp không có cái ta, cho nên lìa mọi
cấu nhiễm của cái ta.”
Người có
trí tuệ,
nếu có thể tin hiểu được lý này thì
việc làm xứng hợp theo pháp. Thể của pháp vốn không
tham tiếc, nên có thể dùng cả
thân thể, tánh mạng và
tài sản để
thực hành pháp bố thí ba-la-mật, lòng không
tham tiếc. Hiểu thấu được ba
pháp không, không còn
phụ thuộc cũng
không chấp giữ, chỉ cần
loại bỏ cấu nhiễm. Tùy
điều kiện mà
giáo hóa chúng sinh nhưng
không chấp giữ
hình tướng. Như thế là tự làm cho mình, nhưng cũng mang lại
lợi ích cho người khác, lại có thể
trang nghiêm đạo Bồ-đề. Việc
bố thí đã là như thế, năm pháp ba-la-mật khác cũng lại như thế. Vì trừ các
tư tưởng hư vọng mà
tu hành sáu pháp ba-la-mật, nhưng thật vốn không có chỗ làm. Như thế gọi là hạnh xứng pháp.
Có kệ dạy rằng:
Bên ngoài dứt sạch các duyên,
Trong lòng không một mối phiền khởi lên.
Tâm như vách đá lặng yên,
May ra đến được
cửa thiền một phen.
Hiểu rành nghĩa Phật nguồn tâm,
Thẳng đường
tu tập chẳng lầm
mai sau.
Chỗ làm chỗ hiểu hợp nhau,
Danh xưng là Tổ truyền trao
đạo thiền.