Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã
Thích Tâm Hạnh
DỤNG TÂM TU THIỀN
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh 2013
MÂY VÀ TRĂNG
Hôm nay là ngày mười bốn tháng tám, là ngày
Tết Trung Thu. Nhắc đến Trung Thu thì người ta thường nhớ đến trăng. Quý vị còn nhớ
năm ngoái (2003), cũng vào dịp Trung Thu này,
chúng ta đã bàn về Trăng Thu rồi.
Cho đến nay là tròn một năm, quý vị đã ngắm được vầng Trăng Thu đó
trọn vẹn chưa? Tuy chưa ngắm được
trọn vẹn, nhưng
thỉnh thoảng mình cũng có ngắm được phần nào chút chút, rồi sau đó mây bay qua
che khuất lại, phải không? Nhưng khi đang bị mây che thì trăng có bị mất đi đâu không? Trăng thì luôn luôn sẵn đó, lúc nào cũng đang
sáng tỏ, nhưng do vì mây che cho nên
chúng ta không thấy được thôi. Cũng vậy,
bản tâm chân thật của mỗi
chúng ta khi nào cũng sẵn đó, nhưng do mây mờ của
ngoại duyên,
vọng tưởng che khuất nên chưa thể nhận lại được vầng trăng
chân thật của mình một cách
trọn vẹn.
Vậy thì, nếu muốn ngắm, muốn thể nhận vầng Trăng Thu sáng tròn,
mầu nhiệm đó thì
chúng ta phải vạch mây, xua mây để thấy vầng trăng ấy, hay là không cần vạch mây để thể nhận vầng Trăng Thu
đặc biệt đó?
Hôm nay, nhân ngày Trung Thu có dịp nói về Trăng,
chúng ta cùng bàn về MÂY VÀ TRĂNG để biết cách
thưởng thức vầng Trăng Thu một cách
trọn vẹn. Chỉ
một lần thưởng thức đó, sẽ là hành trang cho suốt lộ trình vượt thoát
sanh tử của người tu
chúng ta.
I/ VẦNG TRĂNG NÀO NƠI CHÚNG TA?
Trước tiên, quý Thầy xin nhắc lại một
giai thoại trong nhà thiền. Ngài
Trường Sa Cảnh Sầm là sư thúc của ngài
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Một hôm, ngài
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch cùng với ngài
Trường Sa Cảnh Sầm đi ngắm trăng. Ngài
Ngưỡng Sơn chỉ
lên mặt trăng và nói:
- Mỗi người trọn có cái này, chỉ vì dùng chẳng được.
Cái này là cái gì? Là
mặt trăng trên trời phải không? Không. Nó chính là cái mình vừa thấy thì liền biết, chưa qua
phân biệt, chưa từng động. Chỗ này,
Thiền sư Hương Hải có nói kệ rất hay:
Vượn lẻ hú rơi, trăng lưng núi,
Khách quê ngâm lụn
ngọn đèn khuya.
Cảnh đấy, người đây ai biết được,
Thiền tăng ngồi lặng sâu núi kìa.
Dưới cảnh gió mát trăng thanh, chỉ có thế thôi hay còn gì khác nữa? Nếu
chúng ta là chú vượn lẻ, không
bám víu bè bạn bên ngoài, thì khi hú lên một tiếng sẽ làm cho trăng sau núi rụng rơi từng mảnh. Nếu mình là một gã khách quê thẳng đó không mưu lược thì mới ngâm lụn được
ngọn đèn giữa đêm khuya
thanh vắng. Nếu được như thế thì giữa cảnh trăng thanh và người đang ngắm, nào có chỗ xen hở cho tình thức
phân biệt xen vào! Mới hay ra, có một vị
thiền tăng đang ngồi
lặng lẽ bất động trong núi sâu thẳm kia kìa. Vị đó là ai? Là người đang biết ngắm trăng đây!
Khi
chúng ta ngắm trăng, cái gì vừa thấy vầng trăng thì biết mà không động đó? Ngài
Ngưỡng Sơn nói, ai cũng có cái đó hết mà đáng tiếc là chưa biết dùng, chưa dùng được.
Vừa lúc ấy, Ngài Trường Sa nói:
- Ta sẽ dùng thay cho ông.
Lại có thể dùng thay cho người khác được sao? Nếu là người đã tỏ thì sẽ thấy cơ ngài Trường Sa đang sống. Nếu chưa tỏ thì đây là cái bẫy lầm chết người. Ngài
Ngưỡng Sơn không dễ dàng như người khác, liền tung thêm bẫy:
- Thỉnh Sư thúc dùng xem!
Ngài Trường Sa đạp một đạp khiến ngài
Ngưỡng Sơn té nhào.
Chỉ là dùng cho người khác thấy thôi sao? Với Ngài
Ngưỡng Sơn đã
tỏ rõ thì hai bên không ngăn cách, nhưng mỗi bên đều có
tác dụng kỳ đặc
rõ ràng. Quý
phật tử thấy cái dụng chưa? Nói là ai cũng có cái đó, nhưng mà không dùng được. Nếu mà không dùng được thì ai đang biết nói đó, đang mở miệng biết nói
rõ ràng thì sao lại nói là không dùng được? Dù cho có nói là “không dùng được”, “chưa dùng được” thì cũng là đang dùng nó. Đạp một đạp té nhào là biết dùng được hay không liền. Ai đang đạp và ai liền đó biết té? Ngài
Ngưỡng Sơn lồm cồm ngồi dậy nói:
- Sư thúc thật giống như một con cọp.
Đây là một lời
tâm đắc đáo để, như một con cọp mạnh, đụng đến liền vồ.
Nếu không phải là người thường sống trong ấy thì không thể vồ nhanh như thế được. Và phải là Ngài
Ngưỡng Sơn thì mới có thể
nhận ra con cọp hùng này. Ngài Trường Sa có hiệu là
Cảnh Sầm nên sau này người ta gọi Ngài là con cọp Sầm.
Quý vị đã rõ vầng trăng nơi chính mình chưa?
II/ THỂ NHẬN LẠI
TRỌN VẸN VẦNG TRĂNG TÂM CHÍNH MÌNH NHƯ THẾ NÀO?
Cụ thể, nơi mỗi
chúng ta ai ai cũng sẵn một vầng trăng tâm
sáng ngời, nhưng còn bị mây
vọng tình che lấp, vì thế
chúng ta không sống
trọn vẹn bằng vầng trăng đó, mà phải sống trong sự
tối tăm mê lầm và chịu khổ. Vầng trăng được ví cho
chơn tâm,
bản tánh sẵn có nơi mỗi
chúng ta. Muốn thể nhận lại vầng trăng tâm nơi chính mình một cách
trọn vẹn sáng suốt thì phải làm sao?
1/ MÂY TAN TRĂNG HIỆN
Đừng lầm chấp
cảnh giới giả tạm bên ngoài, biết rõ các tướng bên ngoài là giả tạm, hễ cái gì có tướng thì đều là giả tạm cả. Ngay trên tướng mà rõ biết là giả thì không sanh tâm
chạy theo, ngay đó trả lại vầng trăng
muôn thuở cho mỗi người.
Quý
phật tử nhìn lại có cảnh nào thật không? Người ta thường nói “Một đời ta,
ba đời nó”.
Một đời mình mà nó đã sanh đi diệt lại đến ba lần. Mình có thể làm ra của, chứ của không thể làm nên mình. Gặp lúc nguy nan thì bỏ của chạy lấy người. Đem thân này để so với
của cải thì đã đủ để thấy
của cải vật chất là giả tạm rồi, nếu phân tích kỹ hơn thì mình còn thấy giả tạm đến mức nào nữa. Còn sống thì mình còn phải làm ăn, nhưng đừng thấy nó là quan trọng, thấy nó là đồ tạm thì mình
thảnh thơi. Từ đó quý vị không còn bị mây
ngoại cảnh che mờ nữa.
Thân này có thật không? Nó không thể sống hoài mà không chết. Còn đây thì tạm sống, mai mốt cũng trả về, mình có muốn níu kéo nó lại cũng không được, mình không bỏ nó thì có ngày nó cũng bỏ mình mà đi, không có gì là thật hết. Nhưng khi mình rõ nó là giả thì không còn quan trọng nó một cách
thái quá, khi không quan trọng thì không
lệ thuộc nó. Khi không
lệ thuộc thì lỡ gặp ai đó
xúc phạm mình mà mình không còn
lệ thuộc, không còn quan trọng mình nữa thì thử hỏi những thứ ấy
xúc phạm ai,
xúc phạm vào đâu? Ngay đó, tất cả những thứ bên ngoài không còn cơ sở
chi phối mình,
chúng ta được nhẹ nhàng, không bị những
áng mây của chấp thân và cảnh bên ngoài che tối.
Tâm
sanh diệt này cũng vậy. Khi buồn, khi vui, khi bằng lòng, lúc
không chấp nhận... nó thay đổi
liên tục. Đôi khi có những
suy nghĩ biết là không phải, không đúng, mình muốn bỏ mà mình chưa gan dạ để bỏ. Đó là do
chúng ta chưa thấy tột tâm đó là
huyễn hóa, còn thấy nó là thật, là quan trọng. Xét ra, nó chập chờn lắm thứ
vớ vẩn, nó thường đổi thay, không ổn định, chỉ là cái bóng trong đầu
loạn động liên tục, không dùng được vào đâu cả thì làm sao nói nó là thật được. Khi mình đã biết những cái
sinh khởi đó không có một
giá trị tuyệt đối thật, thì quý vị sẽ không cho một
quan niệm nào là cố định, là đúng
tuyệt đối. Từ đó tâm mình sẽ tự mở ra, không
cố chấp,
nghe được rất nhiều
ý kiến khác, cái nhìn
của quý vị sẽ được thoáng và
sáng suốt hơn. Nếu mình chấp một cái riêng mình là đúng, thì khi nghe ai đó nói ra điều gì là “cái mình” này nó liền nhảy ra chặn đường và đẩy lùi những
ý kiến hay khác sang một bên. Như thế, mình đã tự đóng khung mình trong tự ngã, từ đó sẽ
nhận định sai, bị
thiên lệch, không thấy
chân lý. Nếu quý vị không cho tâm
sanh diệt là thật mình, không quan trọng nó thì quý vị không bị niệm đó làm mê mờ để rồi đánh mất
chân lý, lúc đó
chúng ta nhìn nhận
mọi vật một cách khách quan. Khi không quan
trọng tâm sanh diệt này thì mây tâm
sanh diệt không che mờ vầng trăng tâm
chúng ta được.
Đó là mới phân tích sơ qua bên ngoài, nếu nói kỹ hơn chút nữa để
chúng ta cùng
chiêm nghiệm thì sẽ thấy rất rõ,
thân tâm sanh diệt và
cảnh giới này thật là giả tạm
vô cùng. Khi biết là giả tạm thì sẽ bớt đi những sự
chi phối đối với mình, từ đó
chúng ta sẽ
sáng suốt hơn và không bị mây mờ làm cho mình
tối tăm, mù mịt nữa.
Tại sao
chúng ta phải nói thân là giả, cảnh này là giả, tâm
sanh diệt là giả? Vì
sự thật thân, tâm và tất cả
cảnh giới bên ngoài là giả cho nên
chúng ta phải
nói đúng như thật, nó là đồ giả.
Sự thật nó là như vậy, nhưng vì
con người chúng ta không biết nó là giả, lầm chấp nó là thật cho nên bao nhiêu mây mờ từ đó có ra. Trước một
hoàn cảnh xảy đến, hoặc
chúng ta sanh lòng tham, hoặc làm cho mình rối rắm, là từ đâu? Nếu quý vị thấy cảnh xảy ra là giả tạm, là không quan trọng, mình đây cũng không quan trọng thì có việc gì xảy ra không? Nếu mình thấy cái đó là quan trọng, là
xúc phạm tới tôi thì ngay đó
nổi giận lên và khổ liền.
Nếu không quan trọng cảnh đó, cái mình đây cũng giả luôn, cả hai đều giả tạm thì cái khổ làm gì có!
Sự thật nó là đồ giả, không có gì đáng mà
chúng ta lầm tưởng là thật, nên bao nhiêu cái khổ khác từ đó mà có ra. Có khi
chúng ta cũng biết nó là giả, nhưng vì thiếu cái nhìn cho mạnh, cho nên mình thầm thầm cho nó là thật, nên khổ hoài. Quý vị phải nhìn cho kỹ, nhìn cho mạnh, các cảnh vừa tới mình liền biết cái đó không quan trọng, cái mình này cũng không quan trọng thì không còn bị mây mờ nào làm cho
chúng ta tối tăm nữa. Ngay đó vầng trăng tâm mình sẽ dần hiện. Đây là bước thứ nhất.
2/ TRĂNG MÃI CÒN ĐÓ
Đến đây quý vị đã
hiểu rõ, lâu nay
sở dĩ mình lao ra bên ngoài và dính mắc là vì nhầm tưởng các thứ bên ngoài là có thật, là đẹp thật, là thích thật, và vì có cái mình ưa thật cho nên dính mắc, từ đó chịu khổ. Bây giờ nghe quý Thầy giảng, biết nó là giả rồi thì
chúng ta có còn theo đồ giả nữa không? Mình không cần
loại bỏ gì cả, ngay khi biết nó là giả, là đồ bỏ thì trong tâm mình vốn tự lìa. Ngay đó, nếu
chúng ta khéo nhận và sống thì mới hay ra, vầng trăng kia đã sẵn sáng và còn đó tự thuở nào tới giờ.
Quý vị còn nhớ
Hòa thượng Ân sư
chúng ta vẫn
thường hay ví dụ cho quý vị thấy. Ngài nói, cái nắm tay này là giả tạm.
Hòa thượng phân tích qua hai giai đoạn:
Thứ nhất là trước khi chưa co lại thì không có nắm tay, đợi co năm ngón lại thì tạm có nắm tay, nắm lại rồi mà xòe năm ngón ra thì nắm tay cũng không còn. Vậy trước không, nay tạm có, có rồi lại
trở về không, thì nắm tay này là giả. Nắm tay này là ví dụ cho tất cả cảnh.
Trần cảnh bên ngoài cũng vậy. Trước khi chưa sanh, nó là không, đủ duyên
hợp lại thì tạm có, có rồi cũng tan hoại
trở về không. Do đó
ngoại cảnh là giả,
không thật.
Cấp độ thứ hai,
Hòa thượng nói, khi đang có nắm tay, quý vị tìm một cái gì là nắm tay cũng không có. Một ngón này không thể làm nên nắm tay. Năm ngón co lại mà phải có thịt, gân, xương... mới tạo thành nắm tay. Tự nó không có một cái riêng lẻ là nắm tay mà phải đợi tất cả các
yếu tố hợp lại mới tạm có nắm tay. Khi đang có, chính nó không có một tự thể thật, cho nên nó là đồ giả. Ngay khi đang có, mình rõ được
tính chất huyễn hóa của nó thì nắm tay này là
không tịch (rỗng lặng). Nếu quý vị khéo nhận, khéo thấy rồi thì khi bỏ nắm tay này xuống, khi đi về nhà, ngay trên mọi
sinh hoạt hằng ngày mà vẫn là
không tịch, là rỗng lặng. Đây là điểm quan trọng, là cái
then chốt của người
học đạo. Quý vị cần
lưu tâm.
Thông thường khi đưa nắm tay lên, người ta cho cảnh này là thật, nắm tay là thật thì có đẹp, có xấu, có dính mắc,
mê lầm. Đẹp thì
ưa thích muốn đem về, xấu thì không ưa muốn đẩy ra. Đem về không được thì
bất an, xấu mà đẩy ra không được thì
bực bội. Từ cái mê mờ
ban đầu mà sanh ra bao nhiêu thứ
rắc rối và bị khổ đau. Ngay khi thấy nắm tay, ngay khi đối duyên
xúc cảnh mà quý vị tưởng là thật thì sự dính mắc có ra. Sự dính mắc có ra thì ngay đó mây mờ
che lấp vầng trăng tâm của mình và phải sống trong cảnh
tối tăm khổ sở. Khi mình rõ nó là giả, thấy tột nó là đồ giả thì tâm lao ra theo cảnh liền dừng. Ngay đó, cái thấy biết rỗng lặng, không động đang hiện
sờ sờ ra đó, khéo nhận lại liền xong.
Khi không dính mắc, trả lại cái thấy biết một cách
sáng suốt, rỗng lặng, không động thì nắm tay này không có trong tâm mình nên nó không phải có, không phải ở trong tâm. Nhưng mà lúc đó,
chúng ta cũng đang thấy biết nó một cách
rõ ràng cho nên nó cũng không phải là không, không phải là ngoài mình. Ngay đó, vốn nó là không động, không trong, không ngoài, không phải có, không phải không, mà nó vốn là một sự
hiện hữu trong
chánh định tự tánh của mình. Ngay đây,
tâm không thì cảnh tịch, nắm tay là
không tịch. Quý vị không cần
phân biệt kia là nắm tay, đây là mình, mà
chúng ta vẫn thấy biết một cách
sáng tỏ rõ ràng, trong lặng không động, vượt
năng sở, có không. Lúc này, nắm tay là nắm tay, cây gậy là cây gậy,
hoa hồng là
hoa hồng.
Đối với
vọng niệm sanh khởi cũng vậy. Khi một niệm khởi lên mình biết nó là đồ giả,
không thật, đừng theo nó, thì ngay đó tự lìa và
chúng ta vẫn thấy biết
rõ ràng, không động. Thể ấy vốn không vọng, vốn tự biết khắp, không phải đợi có vọng mới biết, không phải đợi có cảnh mới biết. Tánh biết đó nó vốn không động, ngay khi
vọng niệm vừa lặng, trả lại tự thể nguyên vẹn đang rõ biết một cách
rõ ràng,
sáng suốt.
Quý vị thử
một lần buông hết đi, buông thân, buông tâm, buông cảnh bên ngoài, khi buông sạch rồi sẽ hay ra, còn đây một cái đang biết khắp, rõ suốt, không động,
buông bỏ cũng không được, mới biết nó là đồ thật. Ngay đó khéo nhận thẳng thì mới vỡ lẽ ra, ngay khi đối cảnh, ngay khi có niệm, tánh sáng biết không động này vẫn sẵn đó không thiếu vắng bao giờ. Bởi khi đang có niệm,
chúng ta bận biết về niệm, đang lo biết trên niệm mà quên cái
tính chất sáng biết
bất động đó nên chưa
nhận ra. Nếu người nào
lanh lợi, một nghe liền
nhận ra, thì ngay đó dùng hoài không hết. Nếu chưa như thế, quý vị nên thử một phen
gạn lọc cho sạch thì sẽ
nhận ra. Từ đó về sau không còn bị
lầm lẫn nữa.
Như trong một ngôi nhà có quá đông người, không biết đâu là khách, ai là chủ. Có người nào đó chỉ mặt ông chủ,
chúng ta lanh lợi thì
nhận ra ngay. Sau đó, dù cho ông chủ có
xen lẫn giữa muôn người ngàn người, nhưng mình cũng không
lẫn lộn giữa khách và chủ, không còn
lầm lẫn nữa. Nếu những người khác chưa
nhận ra được thì phải mời khách ra khỏi nhà hết, còn lại ông chủ có quyền ở trong nhà, không ai có quyền mời đuổi ông ra được thì
chúng ta cũng
nhận biết được ông chủ. Một phen gạn ra để
nhận biết rồi, sau đó người chủ đó có
trà trộn trong đám đông bao nhiêu người đi nữa,
chúng ta cũng không
lẫn lộn với ai khác được. Lúc này mới biết, giữa đám đông người, ông chủ cũng sẵn có trong ấy, chỉ là mình chưa khéo
nhận ra thôi.
Sự
tu tập cũng
tương tự. Nếu người có
căn cơ lanh lợi, một nghe liền ngộ,
nhận ra ngay đương vọng tức chơn, vốn không rời nhau. Nếu là người chưa được như thế thì cần có một phen
gạn lọc hết, buông sạch mới
nhận ra bộ mặt
chân thật muôn đời. Mới hay ra, lâu nay vẫn sẵn đó, chỉ vì
chúng ta lo biết theo vọng mà quên cái khả năng tự biết nơi chính mình cho nên nó tạm
vắng mặt vậy thôi. Bởi vậy, sau khi
ngộ đạo rồi, ngài
Thiện Chiêu nói:
Muôn xưa đầm biếc nguyệt trong không
Ba phen
gạn lọc mới được biết.
Tức là, vốn tự ngàn xưa trăng sẵn sáng, trăng vẫn mãi còn đó. Tuy là như vậy, nhưng phải ba phen
gạn lọc thì mới
nhận biết một cách
rõ ràng được. Khi quý vị gạn lại,
nhận ra mặt mũi
chân thật rồi thì phải khéo sống, ngay trên
trần cảnh luôn khéo
nhận ra mặt thật đó, ở mọi lúc
mọi nơi, không để
bản tánh chân thật đó thiếu vắng thì
ngoại cảnh không còn đủ
giá trị hấp dẫn chi phối mình. Khéo sống như vậy là quý vị đang sống trên nó, mới có phần
an ổn,
sáng suốt, không
mê lầm.
Lâu nay khi vọng khởi thì quý vị chỉ biết về vọng, vọng khởi lên rồi mình mới biết là vọng, như vậy mình biết theo đuôi nó mà
quên mình.
Chúng ta chỉ biết về vọng, biết theo vọng nên
chúng ta bị trôi dạt theo vọng. Bây giờ
nhận ra rồi thì ngay khi niệm khởi, không cần biết theo vọng mà chỉ là tự sáng biết
rõ ràng, vừa sáng biết thì nhảy vô liền, khéo nhận ngay đó thì quý vị sẽ tỏ suốt cái khả năng tự biết không động,
sáng suốt,
trùm khắp sẵn đó nơi chính mỗi người. Ngay đó, vầng trăng thu đang
hiển hiện, vằng vặc
sáng ngời. Nếu hay khéo
dụng công như
vậy thì mới tỏ được câu Ngài Đức Sơn nói: “May mảy buộc niệm là
nghiệp nhân của
tam đồ, chợt vậy tình sanh thì muôn đời bị khóa chặt”. Muốn kềm niệm không cho niệm khởi là đã có niệm muốn không cho niệm khởi, thì ngay đó chính là
nghiệp nhân đi trong
ba đường ác. Trong đó mà vừa khởi là vọng, là chơn thì muôn đời mình bị khóa chặt trong cái vòng
luân hồi của
vọng tình phân biệt.
Trong cuốn “Chỉ
Tâm Yếu Cho Người Tu Thiền”, ngài
Thanh Viễn Phật Nhãn có nói: “Nếu người biết là
vọng niệm,
tác ý dừng nó là vì còn thấy có
vọng niệm. Người biết có
vọng niệm tác ý liền
quán sát khiến thấy chánh lý cũng còn thấy có
vọng niệm.
Biết vọng nguyên là đạo mới không vọng”.
Ngài nói: “Nếu người biết là
vọng niệm,
tác ý dừng nó là vì còn thấy có
vọng niệm. Người biết có
vọng niệm tác ý liền
quán sát khiến thấy chánh lý cũng còn thấy có vọng niệm”. Bởi vì như thế là chưa rời vọng mà biết, và biết đó là biết theo vọng mà quên mất khả năng tự biết nơi chính mình cho nên chưa thoát ra khỏi
vọng niệm.
Ngài nói tiếp: “Biết vọng nguyên là đạo mới không vọng”.
Cụ thể là khi vọng vừa khởi lên,
chúng ta không thèm biết theo
vọng niệm mà chỉ sống về với thể tự sáng biết, nhận lại cái khả năng tự biết kia thì liền đó
vọng niệm rỗng lặng. Không phải nhận
vọng niệm làm đạo. Điểm
then chốt ở đây là
chúng ta phải nhận lại cái khả năng tự sáng biết, vừa biết nhận liền, khéo nhận thẳng ngay đó thì tất cả toàn là một sự
hiện hữu trong ngần
tuyệt đối không động, không còn nói là vọng hay chơn nữa. Khéo biết như thế thì mới không còn chìm kẹt trong vọng.
Do đó Ngài nói tiếp: “Cho nên người đạt đạo không sở đắc. Người
phát ý cầu đạo thì đạo có đắc.
Chỉ không cầu gì khác, biết không
mê vọng gọi đó là thấy đạo”. Tức là mình không mong cầu cũng không thêm cái gì khác, chỉ là biết suốt mà không một
mảy may mê mờ, không vọng thì ngay đó là thấy đạo.
Cụ thể là không mong cầu một cái gì bên ngoài, không thêm một điều gì khác, ngay khả năng vốn tự sáng biết không động nơi chính mình, biết suốt không ngăn trệ, sống ngay đó là thấy đạo.
3/ VƯỢT CẢ HAI BÊN, TRĂNG TÂM SÁNG VẰNG VẶC
Như vậy đợi hết vọng mới thể nhận hay không cần hết vọng mà thể nhận? Hay là đợi hết mây mới thấy trăng hay không cần đợi hết mây mà vẫn thấy trăng? Còn nói không phải vẹt mây hay phải vẹt mây mới thấy trăng thì còn dấu vết của hai bên. Còn nói đợi hết vọng và không cần hết vọng mới
nhận ra bản tâm thì cũng là đang chìm trong biển
đối đãi hai bên, là chưa rời khỏi vết mê, chưa rời vọng mà nói. Mà cái thấy chưa lìa hai bên, chưa qua được dấu vết của mê, chưa lìa vọng mà nói thì
rõ ràng vẫn còn nằm
y nguyên trong vọng. Trăng tâm đang
hiện hữu đó, đâu phải nói vẹt mây hay không vẹt mây. Chỉ khéo hay tỏ suốt, nhận lại
tính chất tự sáng biết mà không động kia thì vầng trăng tâm đang
hiển hiện ra đó, đâu cần đi tìm đâu xa mà phải nói là đợi vẹt mây hay không vẹt mây? Cho nên Ngài Trường Khánh nói: “Ở trong vạn tượng riêng bày thân” là vậy.
Lúc ngài Thiệu Tu cùng Ngài
Pháp Nhãn trên đường từ Viện
Địa Tạng của ngài
Quế Sâm đi Kiến Dương. Giữa đường bàn chuyện, ngài
Pháp Nhãn chợt hỏi:
- Người xưa nói “Ở trong vạn tượng riêng bày thân” là vạch vạn tượng hay chẳng vạch?
Thiệu Tu đáp:
- Chẳng vạch.
Pháp Nhãn bảo:
- Nói cái gì là vạch, chẳng vạch?
Thiệu Tu
mờ mịt chẳng hiểu,
trở lại Viện
Địa Tạng hỏi ngài
Quế Sâm:
-
Cổ nhân nói: “Ở trong vạn tượng riêng bày thân” ý chỉ thế nào?
Quế Sâm bảo:
- Ngươi nói người xưa vạch vạn tượng hay chẳng vạch vạn tượng?
Sư thưa:
- Chẳng vạch.
Quế Sâm bảo:
- Hai cái!
Ngay đó Thiệu Tu
kinh hãi lặng thinh. Sau đó, ngài Thiệu Tu hỏi tiếp:
- Chưa biết
cổ nhân vạch vạn tượng hay chẳng vạch vạn tượng?
Quế Sâm bảo:
- Ngươi nói cái gì là vạn tượng?
Ngay đó Sư liền
đại ngộ.
Vạch hay chẳng vạch là hai bên, là không rời vạn tượng mà nói, là vết mê đã lộ ra
rõ ràng. Tâm thái dồn về một mối,
cơ duyên chín muồi, Ngài
Quế Sâm chỉ cần điểm nhẹ: “Ngươi nói cái gì là vạn tượng?” ngay đó, ngài Thiệu Tu quên đi cái niệm vạn tượng trong đầu, liền
đại ngộ.
Nếu hay rõ suốt vạn tượng là
huyễn hóa thì ngay huyễn là lìa huyễn, liền tỏ suốt
bản tánh sáng biết rạng ngời không động. Khi ấy, vạn tượng sum la đều đang
hiển hiện trong
tự tánh chánh định của mình. Ngay đó,
pháp thân đang hiện bày khắp tất cả chỗ, nói gì là vạch vạn tượng hay không vạch vạn tượng? Nếu khéo nhận thẳng như thế thì trăng đang
hiển hiện ra đó, đâu nhọc phải nói vẹt mây hay không vẹt mây? Lúc này không còn nói vọng hay chơn, trăng thể
chân thật nơi ta đang hiện bày, không còn chạy đi tìm vầng trăng ở
đâu đâu nữa. Quý vị khéo sống thẳng như
vậy thì hằng ngày mới có thể dùng được
đạo vị, còn nếu chưa có khả năng như
vậy thì mình chỉ dùng tạm những thứ gì đó cho đỡ bữa thôi, chưa phải là món
thượng vị. Chỗ này,
Thiền sư Hương Hải có nói:
Mảnh trăng ngâm đầm lạnh,
Mây mỏng ánh trời xanh.
Với người đã đạt đạo,
Đấy là
tin tức thật.
Trong cái đầm lạnh ngắt có một mảnh trăng lẻ đang soi bóng trong đó. Trăng không có ý, đầm cũng
không tâm, hai bên rỗng lặng, không ở trong nhau, cũng không ở ngoài nhau, mà trong cái này
ảnh hiện cái kia, ngay đó đã lìa hai bên, vượt
năng sở, trăng đầm
ảnh hiện trong nhau sáng trong, vằng vặc.
Nếu
chúng ta chỉ nhìn thấy mây mà quên mất bầu trời thì đúng là mây đang che trời. Nhưng nếu suốt qua mây, thấu tỏ bầu trời xanh rồi thì mây không còn che bầu trời được nữa mà chỉ là trang điểm cho bầu trời lấp lánh thêm thôi. Ví dụ đằng kia có rặng núi rất lớn, nhưng nếu để ngón tay lên che
trước mắt mình thì
chúng ta có thấy được rặng núi to lớn kia không? Không. Vì bận nhìn theo cái ngón tay này nên nó
che lấp đi cả một rặng núi lớn. Đang nhìn ngón tay như thế,
thình lình có người nói đằng kia có rặng núi kìa, liền đó
chúng ta không nhìn theo ngón tay này nữa, mà thấu suốt qua ngón tay, mình sẽ thấy rõ, đằng kia một rặng núi đang
vòi vọi tự lâu rồi. Như vậy ngón tay vẫn còn đó, nhưng đâu có che được rặng núi kia? Mây mờ cũng vậy thôi, nhìn theo mây thì thấy mây che trời, tỏ suốt bầu trời thì
áng mây này
trở lại điểm tô cho bầu trời chứ không còn làm ngăn ngại bầu trời nữa.
Vọng niệm cũng vậy, khi khởi lên mình bận biết theo niệm thì quên cái
tính chất vốn tự sáng biết nơi mình. Vừa khởi niệm liền biết, nhận ngay cái
tính chất tự biết thì không bị vọng ngăn ngại. Cái lầm ở đây không phải do
vọng niệm che mình, mà tại cái thức mình bận biết về vọng, gá trên vọng nên bị nó che thật. Cho nên
Thiền sư Hương Hải nói: “Nếu với người đạt đạo, đấy là
tin tức thật”. Ngay trên cảnh, quý vị không
cần phải biết theo cảnh nữa, mà chỉ là đang sáng biết
rõ ràng, không
loại suy vật mà cũng không biết trên vật, ngay đó nó tự sáng biết khắp, không động, trên đó đang bàng bạc
pháp thân. Cho nên nói “Ở trong vạn tượng riêng bày thân” là vậy. Khéo sống như
vậy thì lúc nào trăng cũng đang
hiển hiện, không còn phải đợi đến trung thu nữa.
Có vị Tăng hỏi
Sơ Tổ Trúc Lâm:
- Khi muôn dặm không mây thì thế nào?
Sơ Tổ Trúc Lâm đáp:
- Mưa tầm tã.
Đã là muôn dặm không mây thì thẳng đó nhận đi, còn ôm ấp một vật đến đây mà hỏi thì không phải là mưa đang tầm tã sao! Vị Tăng lại hỏi tiếp:
- Khi muôn dặm mây phủ kín thì thế nào?
Sơ Tổ đáp:
- Trăng
sáng ngời.
Nếu thực sự mây đang phủ kín thì ai đang biết hỏi đó, sao không thể nhận mà còn đi hỏi! Mới thấy, cái
mê lầm của mình
đã lâu lắm rồi. Đang đứng đây, đang nói đây, chưa từng động đó mà không chịu nhận lại, còn ôm cái đó mà đi hỏi thì có phải là đã đánh mất đi cái
hiện hữu đang biết đó không? Vị Tăng lại hỏi tiếp:
-
Rốt ráo là thế nào?
Sơ Tổ nói:
- Chớ đụng đến! Đụng đến là ăn 30 gậy.
Trong đó mà còn hỏi nữa tức là còn muốn hiểu, mà hiểu là thức hiểu, dùng thức để hiểu thì làm sao hiểu đến chỗ
rốt ráo đó được. Ngay đó khéo nhận là phải, không thêm là tốt, muốn hiểu thêm liền sai, vì thế Ngài mới nói đừng đụng đến, đụng đến là bị ăn gậy rồi.
Có
giai thoại của hai vị Tăng, một vị tên Dạ Đài (biểu hiện cho cái tối), còn vị thứ hai là Thu Nguyệt (vầng trăng thu, biểu hiện cho cái sáng).
Tăng Dạ Đài người đất Tây Thục. Thuở bé, Sư
học thuật nhịn ăn. Sau gặp sư
Đại Trí ở núi Nga Mi xin
xuất gia,
thọ giới. Rồi từ biệt thầy đến với Ngài Phục Ngưu ở núi Chung Nam. Về sau Sư đến núi
Ngũ Đài, ngày ngày thường chỉ uống nước, ngồi
tĩnh tọa, ban đêm thì đi quanh Đài Sơn. Người ta nhân đó gọi Sư là Dạ Đài. Chu vi
Ngũ Đài khoảng 500 dặm,
nổi tiếng gió mạnh, đá lớn, lừa ngựa bị thổi bay như quét lá. Sư đi, áo mũ tung rơi, tay cầm gậy sắt, cứ gặp gió thì ngừng, hết gió lại đi. Có lúc trời tối mịt,
Sư bị rơi xuống hố, gậy sắt cong vòng mà Sư chẳng sao hết. Gặp cọp, Sư đến trước nó nạp mình, nói:
- Ngươi
ăn thịt ta, tức là cùng ta kết mối duyên nhỏ.
Gặp bọn cướp núi, Sư dộng gậy xuống đất, tiếng gậy
vang dội. Bọn cướp
kinh hãi bỏ chạy, la lớn:
- Bị sư Dạ Đài nhiếp phục!
Chúng chẳng dám động đến Sư. Có hôm tuyết lớn rơi đầy núi,
mọi người vác xẻng đi kiếm; thấy
Sư bị tuyết chôn đến thắt lưng, rét cứng. Họ khiêng Sư về hơ lửa, tắm nước nóng, chập lâu Sư mới
hồi tỉnh.
Vậy mà vẫn
tiếp tục đi đêm như cũ. Sư thường gặp
ánh đèn, lửa rừng, mãnh thú, quỷ quái trong đêm. Cũng có khi gặp được
Văn Thù, hoặc
hiện hình Tỳ-kheo già, hoặc hiện làm
phụ nữ đẹp ôm đứa con mới sinh còn trần truồng, chốc lát biến mất. Sư đi như thế đến hơn hai mươi năm.
Năm Quý Mão, Sư đến kinh đô.
Thái hậu Từ Thánh
ban cho Sư
bình bát,
tích trượng và một bộ Tử lang Ca-sa, Sư bèn đến chùa Tháp Viện,
lập hội Thiên Bàn (ngàn mâm) rồi đến chùa
Long Tuyền lập hội Long Hoa bốn mươi chín ngày. Sau đến núi
Ngũ Đài, Nga Mi đúc một chuông
u minh nặng một vạn ba ngàn cân, lại đến núi
Phổ Đà, Nga Mi thỉnh hai bộ
Tạng kinh; đến núi Cửu Hoa lập
đạo tràng Thủy Lục. Bao nhiêu tiền gạo còn dư, Sư đem phân phát cho các
tịnh thất và những vị tăng nghèo, không hề bỏ túi riêng một
mảy may. Cho nên
tăng tục hết lòng tin cậy. Sau Sư
trở lại bốn danh sơn lớn,
tinh thần mỏi mệt. Từ đất Thục đến Quảng Lăng, Sư nhuốm bệnh. Có một
đạo nhân chặt ngón tay nấu cháo cho Sư dùng, ý mong cầu Sư lành bệnh. Sư mắng rằng:
- Người
xuất thế, sao lại học theo thói đàn bà. Hạn ta đã gần đến rồi.
Khỏi bệnh, Sư mua một chiếc thuyền lớn, bày tượng Thủy Lục miệng
phun lửa không ngớt.
Tháng mười, năm Canh Tuất, từ Thông Châu dong thuyền ra biển. Đi ngang Phước Sơn, Sư
vui vẻ muốn dừng lại. Sư giải tán
đệ tử, chỉ giữ lại một
đạo nhân già theo, rồi lên thuyền. Có hai người khách buôn ở Tấn An xin đi nhờ. Sư nói: - Người này có duyên.
Bèn bằng lòng cho đi. Thuyền giương buồm đi thật nhanh. Chợt Sư hỏi: - Trưa chưa?
- Trưa rồi!
Sư sai làm cơm cho hai người khách cùng ăn. Họ lấy tiền
cúng dường Sư, nhân đó lễ
mười phương chư Phật, Sư nói:
- Ta muốn vào biển!
Mọi người kinh hãi thưa:
- Nay đã ở trong biển rồi, còn muốn vào đâu nữa?
Sư nói:
- Ta nghe bậc Bồ-tát
giải thoát, khi tịch dặn các
đệ tử chia thân làm ba phần: Một cho loài
cầm thú, một cho tôm cá và một cho kiến trùng. Nay ta
cũng thế.
Mọi người khóc lóc níu lại. Sư lấy một tờ giấy đưa cho khách, đó là lời của Bồ-tát
giải thoát. Chúng vẫn buồn bã níu giữ không buông. Sư nói:
- Các ông hãy vì ta mà
lễ Phật.
Mọi người liền cúi lạy, Sư nhảy xuống biển. Họ định lấy buồm vớt Sư. Ngồi ngay trên sóng nước, Sư
vẫy tay nói:
- Cất buồm đi! Các ông thua ta rồi!
Phút chốc, có một đám sương trắng vàng bao phủ quanh Sư, rồi cuốn đi. Đó là ngày 25 tháng 10 năm Canh Tuất (1610) niên hiệu Vạn Lịch 38.
Vị đạo nhân già
trở về thuật lại. Hoa Đình Trần Mi Công bèn ghi chép lại chuyện này.
Vị
Tăng thứ hai là Thu Nguyệt. Ngài là một vị sư già ở núi
Huyền Cơ, Tô Châu. Sư
tinh thông giới luật, lễ tụng
chuyên cần, lấy uống trà
làm Phật sự. Ai đi qua
Huyền Cơ cũng đều ghé thăm Sư. Nhưng
nếu không phải người cao nhã thì Sư chẳng tiếp, gặp mặt cũng chẳng mời trà nước.
Lúc ấy, đang có giảng tịch của ngài Thiền Kỳ, người bốn phương
rầm rộ kéo đến. Sư vẫn
điềm nhiên như không hề hay biết. Có người khuyên Sư nên
tùy hỷ ra
một lần, Sư chỉ cười chẳng đáp.
Niên hiệu
Thiên Khải cải nguyên (1621), Sư từ biệt
bạn đạo trong núi, sáng sớm đi thuyền đến bể
Liên Hoa ở Nam Hải,
hốt nhiên đến đầu thuyền
lễ bái, lớn tiếng
niệm Phật rồi nhảy ùm xuống nước.
Mọi người vội níu lại nhưng chẳng kịp.
Sóng gió nổi lên rất mạnh, Sư nhấp nhô trên sóng, vẫn
chắp tay niệm Phật. Tiếng Sư xa dần rồi mất hẳn.
Qua hai
hình ảnh của hai vị Tăng, ngài Dạ Đài biểu hiện cho cái tối, Ngài chuyên đi trong đêm và làm rất nhiều
Phật sự, còn Ngài Thu Nguyệt biểu hiện cho cái sáng, Ngài không hề đi và không hề làm, là hai
hình ảnh ngược nhau, Ngài
Tinh Vân có lời bình:
Dạ Đài chạy khắp bốn núi lớn, vết chân in khắp nước. Thu Nguyệt tĩnh lặng
đóng cửa thất, chẳng màng đến việc bên ngoài. Dạ Đài rộng
tu phước nghiệp, Thu Nguyệt một việc cũng không làm. Hai Ngài bình
sinh trái nhau như thế, đến lúc cuối lại
giống hệt nhau. Dạ Đài giấu cái tĩnh trong động. Thu Nguyệt gởi cái động trong tĩnh. Dấu vết động tĩnh của hai vị
thoát khỏi mé
sanh tử không
mảy may chướng ngại. Tâm hai vị
thật không thể
so sánh ai hơn ai kém vậy.
Hai Ngài lúc sống thì ngược nhau, nhưng đến
cuối cùng khi tịch thì cùng nhảy vào biển
giống hệt nhau. Trên tướng bên ngoài thì thấy có sai khác, nhưng chỗ
rốt ráo cuối cùng thì tâm
thể không hai. “Dạ Đài giấu cái tĩnh trong cái động. Thu Nguyệt thì gởi cái động trong cái tĩnh. Dấu vết động tĩnh của hai Ngài
thoát khỏi sanh tử, tâm hai vị không thể
so sánh ai hơn ai kém vậy”. Tâm hai vị này không khác, làm và không làm, động và tĩnh không ngoài nhau, không ra ngoài
pháp thân sáng biết
trùm khắp bất động.
Trở lại nơi tất cả
chúng ta, nếu nhận và sống được với vầng trăng
chân thật rồi thì làm tất cả mà chẳng khác gì một việc cũng không làm. Tâm mình đã không khác thì đã vượt lên trên hai bên
đối đãi. Động và tĩnh, có và không đều ở trong nhau, không phân biện. Cái tự biết này nó vốn không động, nó vốn đã tự tịnh, chưa từng động nhưng lại rất
sống động. Từ
tính chất vốn tĩnh, không động mà làm tất cả việc thì nó sẽ trở nên
sinh động chứ không phải
loạn động. Đây là chỗ sâu kín, không hai, chính là chỗ ngài Dạ Đài giấu cái tĩnh trong cái động, là trên động mà tĩnh, mà
bất động, không động bao giờ.
Đồng thời,
tính chất sáng biết đó nó
bất động nhưng
linh hoạt, hoạt dụng,
sống động, rõ suốt tất cả. Đây chính là chỗ ngài Thu Nguyệt gởi cái động trong cái tĩnh, trong tĩnh mà
sống động,
linh hoạt chứ không phải chìm dưới đáy của
an tịnh. Đến trong đây rồi, động và
tịnh không hai, không khác, đan xen mà rành rẽ
rõ ràng, tình thức không thể nghĩ lường đến được. Trong khi đối duyên
xúc cảnh hằng ngày, nếu
chúng ta khéo nhận lại tánh này thì sẽ thấy rõ lúc nào mình cũng sẵn cái biết khắp mà vốn không động. Quý vị vừa thấy thì thẳng đó liền sáng biết, không rơi vào hạn lượng của tình thức thì tỏ sáng cái vốn tự biết mà không động nơi chính mình. Nếu khéo dùng được như
vậy thì không
cần phải đợi lên
bồ đoàn mới dùng, mà lúc nào mình cũng đang dùng được.
Trong
đoạn kết của bài “Nói rộng một
con đường hướng thượng”, vua
Trần Thái Tông đã nói: “Có một
con đường hướng thượng xưa nay làm sao nói?”. Vì vừa mở miệng nói cho hiểu thì rơi vào hai bên
sanh diệt mất rồi. Chỉ là vạch ra cho khéo nhận lại thôi, chứ không thể nào nói hết được. Ngài nói tiếp: “Dốt! Lửa này chưa từng đốt miệng. Lắng nghe! Lắng nghe! Nếu
nghe được lời này thì tai điếc ba ngày”. Ngay tiếng quát lên: “Dốt!”. Nếu quý vị khéo nghe, khéo nhận thì tràn ngập không bao giờ mất, không bao giờ quên. Cho nên có một vị nói: “Một lần thôi, ăm ắp suốt nghìn năm”. Khi nghe ngài
Trần Thái Tông nói: “Lắng nghe! Lắng nghe!”,
chúng ta đừng
tìm hiểu Ngài nói cái gì, đừng
trông đợi Ngài sẽ nói ra một điều gì đó, mà hãy khéo lắng nghe lại “cái mình đang biết nghe” đây này! thì liền được điếc tai ba ngày, tức là không bao giờ mất, không bao giờ quên. “Nếu nghe chẳng được chạy qua nhanh”. Chần chờ khởi hiểu, chần chờ
suy nghĩ thì rơi vào hạn lượng của tình thức, ngay đó đã qua mất rồi. Chạy qua luôn đi, đừng
suy nghĩ nữa, không phải đâu! Và lại được Ngài
từ bi nói tiếp: “Lại trao cho chăng?” Có nghĩa là có trao cho nhau được không? Ngài bắt đầu nói kệ trao cho mình, quý vị chuẩn bị nhận:
Chốn chốn dương xanh nên cột ngựa,
Nhà nhà có lối thẳng
Trường An.
Trở về dưới nguyệt người ít đến,
Một ánh trăng soi khắp mọi miền.
Ngay khi quý vị vừa khéo nhảy vào thì phải nên cột ngựa ngay đó liền, đừng để cho tình thức có chỗ chen vào. Nhà ai cũng có một lối thẳng đi đến
Trường An (kinh đô), nghĩa là nơi mỗi
chúng ta ai ai cũng sẵn tánh Phật đó, mỗi người đều sẵn vầng trăng sáng vằng vặc đó. Nhưng mà: “Trở về dưới nguyệt người ít đến”. Về tắm dưới ánh trăng vằng vặc đó thì lại ít có ai đến được. Nếu đến được rồi thì: “Một ánh trăng soi khắp mọi miền”. Ánh trăng đó soi khắp tất cả chỗ,
sáng ngời, bàng bạc, không
thiếu sót nơi nào, không mây mưa nào làm ngăn ngại được. Nhận lại vầng trăng đó có khó không? Nói dễ cũng không phải mà nói khó cũng không phải. Dễ cũng thật là dễ, mà khó cũng vô vàn khó. Giống như con mắt của mình, con mắt không thể tự thấy nó mà chỉ thấy vật bên ngoài, khi thấy vật bên ngoài thì cảm nhận là con mắt đang sáng. Cũng vậy,
bản tánh chính là mình cho nên chỉ khéo nhận lại thôi chứ không cho thấy, không cho hiểu,
vì vậy rất khó. Nhưng nó lại nằm ngay nơi chính mình chứ không phải ở đâu xa, cho nên nhận lại cũng thật dễ. Không thể nói khó, không thể nói dễ. Nếu nó là cái gì đó bên ngoài cho mình thấy, mình đem vào thì quá dễ. Ngược lại, cái này lại ngay nơi chính mình nên vô vàn khó. Nhưng nếu khéo nhận thì nó lại là chính mình, không phải đi tìm ở đâu xa cho nên cũng
vô cùng dễ. Khéo nhận lại ngay đó liền đầy đủ.
Cuối cùng, quý Thầy mong
toàn thể quý
Phật tử, gặp chốn dương xanh thì phải nhảy vào cột ngựa liền, đừng chần chờ để cho nó rơi vào tình thức mà phải trả giá khổ đau. Phải dám mạnh mẽ tin rằng,
mọi người làm được thì mình cũng làm được. Được như vậy,
chúng ta sẽ
trở về được dưới ánh trăng, một vầng trăng bàng bạc,
sáng ngời, soi thấu khắp
mọi nơi, không bị mây mưa làm ngăn ngại.