Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã
Thích Tâm Hạnh
DỤNG TÂM TU THIỀN
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh 2013
CHÚNG TA TỌA THIỀN NHƯ THẾ NÀO
1. THIỀN LÀ GÌ?
Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng
như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường
chúng ta phải
biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt. Như quý vị muốn đi từ đây ra đằng kia thì đầu tiên phải
mở mắt trước, thấy đường rồi mới đi, còn nếu cứ nhắm mắt mà đi thì
chắc chắn sẽ bị té. Vì quý vị muốn
ngồi thiền cho nên quý Thầy sẽ nói sơ qua
lý do tại sao
chúng ta ngồi thiền, ngồi như thế nào, có những sự chuẩn bị gì, rồi trong khi ngồi
chúng ta phải
dụng công như thế nào…. Khi quý vị nắm vững,
hiểu rõ rồi thì khi ngồi sẽ có
sự phấn chấn, có lòng thiết tha, từ đó sự
tu hành sẽ dễ
tiến bộ hơn.
Cụ thể là
trước tiên mình phải hiểu thiền là gì, sau đó
ứng dụng tọa thiền mới có kết quả tốt.
Giả sử hôm nọ khí trời oi bức
căng thẳng, người không được khỏe, trong nhà có việc
xích mích không vui, ra đường gặp toàn những việc
vớ vẩn không đâu, lên
công sở, ra chợ bị
đồng nghiệp bạn bè hiểu nhầm hoặc quấy phá... khi ấy, nếu mình phải xem một tập
tài liệu gì đó, hoặc phải đọc một cuốn sách hay phải xem một tờ báo, quý vị thấy có
dễ hiểu hay không? Đọc thì đọc chữ thôi chứ ý này đá ý kia rất khó
tiếp thu một cách
trọn vẹn. Qua đó cho
chúng ta thấy, nếu để những thứ
lăng xăng lộn xộn trong đời chi phối trong đầu mình thì nó sẽ làm cho
trí tuệ chúng ta bị mờ tối và
con người chúng ta không được ổn định.
Một hôm khác
thức dậy với một sức sống
tràn trề, mọi chuyện trong nhà ổn định,
vui vẻ, khí trời
mát mẻ dễ chịu, ra đường yên ả,
mọi việc tại
công sở đều được trôi tròn,
đồng nghiệp thân thiện đáng quý, nhân khi rảnh rỗi, quý vị cầm một tờ báo hay một quyển sách mình thích lên đọc thì có
dễ hiểu hay không? Không những
dễ hiểu mà
chúng ta còn hiểu sâu, phát minh ra những điều mới lạ, thâu gọn hết ý bài văn muốn nói
gì nữa là khác.
Vậy thì khi tâm mình ổn định, lóng lặng, chính là lúc
trí tuệ mình được phát huy cao. Và ngay khi tâm lóng lặng,
tinh thần tươi sáng, người mình ổn định,
trí tuệ phát huy, ngay đó, quý Thầy tạm đặt cho nó cái tên gọi là Thiền.
Hoặc là trong cuộc sống bận rộn
hằng ngày, nhiều lúc
chúng ta bỏ quên một thứ gì đó, cố nghĩ xem để nó ở đâu, nhưng những công việc trong ngày bao nhiêu thứ lại
tới tấp đến mà
chúng ta phải
giải quyết, khi đó, càng cố nghĩ để tìm thì càng căng đầu, càng mệt.
Cho đến cuối ngày, lúc
xong xuôi hết
mọi việc,
thảnh thơi thì
tự nhiên lại nhớ ra đồ mình để quên. Từ đó suy ra, những công
việc hằng ngày làm cho tâm mình bị
xáo trộn, khuấy động nên mình không sáng. Khi
chúng ta lắng lại tất cả những
tư tưởng lăng xăng trong đầu
để tâm được
an định,
sáng suốt thì ngay
trạng thái đó là thiền.
Ví dụ như có một cốc nước đang bị đục,
chúng ta có đổ thêm nước trong vào thì nó vẫn đục. Muốn nước trong, không có cách gì hơn là
để yên cái cốc đó cho những cặn đục lắng xuống dưới thì nó sẽ tự trong. Như vậy, trong cái đục vốn đã có cái trong,
tại vì chúng ta lắc động nên nó đục vậy thôi. Tâm của
chúng ta cũng vậy,
tự tâm của mỗi người vốn sáng, nhưng vì theo
trần cảnh, không biết cách lắng lại nên đục đi, từ đó làm cho mình
bực bội,
mệt mỏi,
tối tăm,
rối ren,
lăng xăng,
lộn xộn, gặp việc gì cũng khổ đau, đó là
chúng ta sống với tâm
phàm phu tầm thường của
chúng sanh. Nếu
chúng ta lắng lại tất cả thì
trạng thái tâm thể LẶNG MÀ SÁNG
hiện tiền, ngay đó là THIỀN.
Khi vua
Trần Thái Tông trốn vào núi
Yên Tử tu hành gặp
Quốc sư Phù Vân (hiệu
Tĩnh Lự),
Quốc sư hỏi: “Lão tăng
đã lâu ở chốn sơn dã, xương cứng mặt gầy,
ăn rau đắng, cắn hạt dẻ, uống nước suối, dạo cảnh rừng, lòng như mây nổi theo gió đến đây. Nay bệ hạ bỏ ngôi vị nhân chủ, nghĩ đến cảnh
núi rừng hoang dã này, ắt hẳn muốn tìm cầu việc gì phải không?” Vua nghe nói
cảm động nên thưa: “Trẫm còn
thơ ấu đã sớm mất mẹ cha, chơ vơ đứng trên sĩ dân, không có nơi nào để nương tựa. Lại nghĩ rằng,
sự nghiệp đế vương đời trước hưng phế bất thường cho nên mới vào đây chỉ muốn cầu
thành Phật, không muốn tìm cầu gì khác.”
Quốc sư nói: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Tâm lặng mà biết, đó chính là Phật thật. Nếu bệ hạ ngộ được tâm này thì tức khắc
thành Phật, không nhọc tìm cầu bên ngoài.”
Ngài
Tĩnh Lự nói: “Tâm lặng mà biết, đó chính là Phật thật.”
Vậy thì, cái lắng lại mà hằng sáng biết đó là ở ngay nơi
chúng ta hay do Phật cho? Phật chỉ đưa cho ta chìa khóa để mở ra thôi chứ không thể làm thay cho ta được. Thiền cần một
sự thể nghiệm nơi mỗi người, chứ không phải chỉ học hiểu suông. Học hiểu là để làm, để
thực hành.
Vì vậy,
chúng ta cần phải HIỂU và
THỰC TẬP TỌA THIỀN.
2.
ĐỐI DIỆN ĐỂ
CHUYỂN HÓATất cả
chúng ta đi trong
sanh tử chịu khổ là vì cái gì thúc đẩy? Vì nghiệp
trói buộc nên
chúng ta thọ thân. Ví dụ khi
chúng ta chưa biết hút thuốc thì thấy đắng, rất khó chịu, nhưng khi hút một
thời gian quen rồi thì thấy ngon. Hút lâu ngày quen quá rồi, hôm nào không có điếu thuốc là
thơ thẩn, tìm mọi cách để có được một điếu thuốc hút.
Sức mạnh khiến mình phải đi tìm đó là
sức mạnh của nghiệp, nên gọi là
nghiệp lực. Nghiệp là tập lâu thành
thói quen.
Hằng ngày quý vị
huân tập bao nhiêu
thói quen rồi, chỉ cần nhắm mắt lại là
thói quen về nhiều lắm, làm cho mình
lộn xộn và
chạy theo. Ví dụ như khi quý vị chưa đến đây, chưa gặp quý Thầy, nếu có ai hỏi về
Thiền viện, quý vị có
hình ảnh gì trong đầu không, có thấy quý Thầy không? Chưa đến là chưa biết nên khi nhắc đến thì
chúng ta không có
hình ảnh gì trong đầu cả. Hôm nay đến đây rồi, ngồi nghe giảng, nói chuyện, khi về lại nhà mình có ai hỏi về chuyến đi thì những
hình ảnh này có
hiện lên trong đầu quý vị không? Có, quý vị có muốn xóa đi cũng không được. Gặp, tạo tác là có huân trong đầu rồi, dù mình không sờ mó được mà nó
vẫn có. Đây là một ví dụ điển hình cho tất cả các hành động của
chúng ta hằng ngày. Một chuyến đi về khi được khơi gợi lại thì thấy
rõ ràng không mất.
Vậy thì tất cả các
việc làm hằng ngày quý vị
huân tập, liệu có bỏ qua được không? Tất cả
việc làm hằng ngày, hành xử
đối đãi, đúng sai,
thiện ác đều
huân tập trong đầu không bao giờ mất, đến khi
chúng ta chuẩn bị chết là nó về
ồ ạt, làm cho mình bị rối. Quý vị muốn biết lúc sắp chết nó có về hay không thì bây giờ mình cũng có thể làm một thí nghiệm để thử. Hôm nào đó mình dẹp hết
việc làm,
đóng cửa phòng ở
một mình, không có điện thoại, tivi, sách báo gì cả, chỉ
ở không thôi, không được làm gì cả. Đến bữa thì có người mang cơm để bên ngoài, chờ cho người ấy đi khuất rồi mình mới ra lấy cơm vào ăn. Sống như thế khoảng ba đến bảy ngày thì sẽ thấy những gì từ tấm bé đến giờ nó sẽ đua nhau kéo về ào ạt,
rõ ràng mồn một không
thiếu sót tí nào, thậm chí khi nó về nhiều quá sẽ làm cho
chúng ta cảm thấy hoảng sợ, mất
tự chủ. Quý Thầy đã
nhập thất và đã từng
trải qua trạng thái này rồi. Khi
đóng cửa nhà mà các
huân tập đã đua nhau kéo về rồi huống nữa lúc sắp
lâm chung là lúc đóng lại cánh cửa
cuộc đời,
cuộc đời chúng ta kết thúc và cánh cửa được khép một cách
tuyệt đối thì nó sẽ
ồ ạt dồn nhau ập về đến dường nào. Nếu mình làm ác nhiều thì khi đó sợ, hốt hoảng, không
tự chủ và
đi vào đường xấu. Nếu làm lành nhiều thì thấy nhẹ nhàng,
vui vẻ và sanh đường lành. Như
chúng ta đang sống trên một vùng biển,
tình cờ có chuyện đi xa, ở nhà bị sóng thần cuốn sạch không còn gì cả.
Lúc ấy nếu người không có
công trạng gì với
cuộc đời, bị
chấn động mạnh dẫn đến
tinh thần không ổn định thì bị lang thang trôi dạt làm thuê làm mướn,
đi vào nơi khổ sở mà mình không có quyền
quyết định gì được cho mình. Nếu người có công với
xã hội,
mọi người sẽ đưa ra nhiều căn hộ khác nhau cho
chúng ta có quyền chọn lấy một căn,
chúng ta sẽ chọn lấy căn nào mình thích, đúng không? Việc theo
nghiệp thọ sanh cũng
tương tự như vậy. Người làm ác thì lúc sắp
lâm chung hốt hoảng bị cuốn đi đường dữ không
cưỡng lại được. Người làm lành thì sẽ có được nơi vui cho mình đến đúng với nghiệp mình đã tạo thành
thói quen. Nếu quý vị không tu thì sẽ theo luồng đó, nhưng có tu là đứng đằng sau những cái đó một chút, quý vị tỉnh
trở lại để nhìn nó thì
tự nhiên nó là một khối bên ngoài, mình là giác nên
tự chủ được, buồn vui tách ra ngoài, đi đâu là quyền của mình, không bị những thứ buồn và vui, thích hay không thích
chi phối. Đó là người đã có
căn bản bước đầu chập chững biết sống bằng thiền và làm chủ phần nào trong sự
sống chết. Khi quý vị
thực tập thiền, quý vị sẽ có khả năng sống đó, làm chủ ngay khi sống và đến khi chết cũng vậy.
Khi có
thời gian rảnh khoảng 1-2 ngày, quý vị
đóng cửa ngồi thiền, không
tiếp xúc với ai, quý vị sẽ thấy những ký ức trào về trong mình ghê gớm lắm. Khi đó mình nghĩ rằng, tại sao đi ra ngoài mình thấy
an lạc, thấy vui, mà
đóng cửa lại ghê gớm vậy? Tu mà dễ sợ hơn là sao?
Hằng ngày chúng ta tiếp xúc bị những
rối ren che mắt mình.
Chúng ta đóng cửa để tu, thấy nhiều không có nghĩa là tu bị lạc, mà vì hôm nay
mở mắt nên mới thấy những cái gì đang có trong tâm mình. Để rồi
một lần đối diện chúng ta chuyển hóa, thay đổi, lặng
trở lại cho những thứ đó tiêu đi. Đến khi chết, những thứ đó đã được thanh lọc rồi, nếu có về thì mình cũng đã thấy rồi, đã gặp rồi, đã quá quen rồi và đã
giải quyết rồi và mình
yên ổn.
Lúc ấy nếu sức giác mạnh thì mọi thứ chỉ như mây qua đỉnh núi, gió qua ngọn tùng, không có gì
chi phối được. Nếu yếu, quý vị thấy điều gì chưa tốt thì
ghi nhận và sẽ
sửa đổi sau, điều gì tốt thì sẽ phát huy nữa, thấy liền xem nhẹ và cho qua, không để cho những thứ đó
chi phối mình thì
chúng ta sẽ
tự chủ phần nào.
Như đống hồ sơ ở
văn phòng, hàng tuần
chúng ta đều
giải quyết gọn gàng rồi lưu hồ sơ theo tháng, theo năm một cách
ngăn nắp thì 10 năm sau, khi
thanh tra đến
kiểm tra,
lấy ra dễ không? Rất dễ. Đó là
tự chủ. Còn
chúng ta cứ để ùn một đống đó, khoảng 10 năm sau
thanh tra lại thì rất khó tìm được vì đã thành một mớ rối bòng bong.
Thanh tra có nói lỗi gì mình cũng phải chịu, vì không tìm được căn cứ để
giải thích và mất
tự chủ. Cũng như vậy, nếu trong ngày quý vị có
ít nhất 15, 30 phút, 1 tiếng hay nhiều hơn để
đối diện với
nội tâm mình, giống như hồ sơ đã được
kiểm tra rồi. Quý vị không cần
suy nghĩ, cứ lặng lại thì nó sẽ
hiện ra, cứ gạn lại thì những gì dơ sẽ nổi lên, mình nhìn thấy cái nào không phải thì
sám hối,
sửa đổi, điều nào được thì phát huy, cái nào không phải không trái thì bỏ qua. Làm được như vậy giống như quý vị
kiểm tra sổ sách
hằng ngày,
kiểm tra hết rồi thì tới khi nhắm mắt,
chắc chắn chúng ta sẽ
tự chủ được. Dù các niệm khởi có còn hay hết, có về hay đi thì
chúng ta cũng đã
kiểm tra rồi, không còn
bàng hoàng, không bỡ ngỡ, không
bối rối và không
sợ hãi nữa, vì
hằng ngày đã
đối diện và
chuyển hóa rồi. Còn
nếu không như vậy, khi nó ụp về một lúc nhiều quá quý vị sẽ rối rắm, hốt hoảng và
sợ hãi lắm.
Có nhiều vị nói, từ hồi nhỏ đến giờ sống
hết lòng với
gia đình, bạn bè, không nghĩ gì cho mình cả,
tự nhiên có một ngày
mọi người quay lưng lại với mình, không hiểu mình, khi đó thấy trống trải,
cô đơn, không biết nương tựa nơi đâu. Nhưng
thực ra, nếu mà cảm nhận được như
vậy thì đó là người có phước. Vì sao vậy?
Chúng ta dù muốn dù không, ai rồi
ít nhất trong đời cũng phải
đối diện với
trạng thái cô đơn một lần, chính là lần
cuối cùng chia tay
cuộc đời để ra đi. Khi quý vị già, yếu, bệnh, chết,
thân nhân có giúp mình được không?
Của cải đầy nhà có giúp mình được không? Tất cả chia tay hết,
một mình mình ra đi. Nếu như
chúng ta có
một lần buồn khi còn trẻ, còn khỏe mạnh,
chúng ta mới
ý thức, nếu bây giờ không
đối diện thì nay mai cũng phải
đối diện mà thôi, có ai trốn được đâu? Bị người
hắt hủi là chuyện
phũ phàng, nhưng với mình thì phải cám ơn đã cho mình một cơ hội để kịp
nhận ra nỗi
cô đơn ấy khi còn
thời gian,
tinh thần và
sức khỏe để
giác ngộ,
chuyển hóa. Đó là cơ hội tốt để
chúng ta trưởng thành và không lầm trong cuộc sống. Cho nên bây giờ còn trẻ, còn
sức khỏe, còn
trí tuệ, còn
thời gian thì mình phải
nhận biết và chuẩn bị những gì cần làm cho mình.
Cha mẹ, anh em,
vợ con, bạn bè,
của cải, mình
cảm thấy quan trọng nhưng rồi cũng có ngày phải bỏ lại. Tất cả những gì bên ngoài đều là
duyên trần, mình không bỏ nó thì có ngày nó cũng bỏ mình. Đừng
dại dột mà dính mắc
thái quá, giao cả
sứ mạng cho một cái không bền để rồi
chúng ta phải khổ. Phải
ý thức rằng, trong cuộc sống
tương đối này cũng cần có sự tương giao ở một mức độ nào đó, nhưng đừng để nó
chi phối mình lớn quá, đừng
lệ thuộc lớn quá để một ngày nó chia tay mình thì mình khổ. Cái chính là phải
trở về với tâm
rõ ràng sáng biết của mình. Khi
trở về rồi,
chúng ta định tĩnh, sáng mạnh, khi đó cái gì đến
chúng ta cũng sẵn sàng
đối diện với tất cả những thứ phải
đối diện, không có gì làm ngăn ngại. Xem nhẹ bớt mọi thứ
trong đời, tất cả chỉ là
bình thường,
không tâm thì
tự nhiên được sáng trong,
yên ổn và
an lạc.
Cuộc đời sống như vậy là đã sang một trang mới rồi. Người này khi nhắm mắt
chắc chắn sẽ nở nụ cười an vui.
Tọa thiền chính là lúc
đối diện với chính mình để thanh lọc,
chuyển hóa và làm chủ được tâm mình. Được như
vậy thì ngay khi ở
thế gian mình bình ổn, lúc chết được
tự tại, an vui. Ví dụ như quý vị đi trên một sa mạc nắng nóng, có ai cho một ly nước lạnh, uống có ngon không? Rất ngon. Khi về lại thành phố,
ăn uống đầy đủ, những gì ngon nhất đã
ăn uống rồi, ai cho một ly nước lạnh quý vị uống thấy ngon không? Cũng
bình thường. Như vậy, ly nước lạnh vẫn là ly nước lạnh, nhưng quá ngon khi
chúng ta đói và khát, và sẽ trở nên
bình thường khi
chúng ta no.
Cuộc đời này
cũng thế, hơn thua, được mất,
phải trái, tất cả mọi thứ chỉ là một ly nước lạnh. Nhưng mình lại cho nó quan trọng bởi vì
chúng ta đang đói với
thượng vị an định, trí giác, chưa cảm nhận và sống qua, không có gì khác hơn những thứ hơn thua được mất đó nên
chúng ta cho nó là quan trọng. Thử gẫm lại thời còn bé, đã có lúc
chúng ta có những cuộc
cãi lộn chiến thắng người khác
vinh quang lừng lẫy. Bây giờ có tuổi rồi ngồi gẫm lại xem có đem ra cái chiến thắng ấy ra
sử dụng vào đâu được không? Không xài được. Mới thấy nó không có gì đáng quan trọng, nhưng khi ấy vì còn non dại nên
chúng ta quan trọng nó một cách
thái quá và khổ vui theo nó một cách
vô ích. Gẫm
xa hơn nữa là khi
chúng ta nhắm mắt lìa đời, những thứ ấy đều để lại, không
đem theo được thì thử hỏi nó có
giá trị gì không?
Nếu không có lần ngồi gẫm
xem lại cho kỹ để
nhận ra thì
chúng ta sẽ
tiếp tục làm người non dại muôn đời trong ngôi nhà trí giác
chân thật của chính mình. Vì
chúng ta không có cái gì hơn những thứ tầm thường
trong đời nên bị nó cuốn hút và làm cho mình khổ. Nếu
chúng ta có cái gì hơn nó thì nó sẽ
trở thành tầm thường. Khi
chúng ta sống
trở về với tánh giác mạnh mẽ rồi thì sẽ có niềm an vui
vô thượng, những thứ bên ngoài này quý vị không cần bỏ mà
tự nhiên nó
mất giá trị, không còn đủ
giá trị tác động lên thân và tâm mình nữa. Không cần bỏ mà nó tự
mất giá trị, có và không giống nhau, ngay đây quý vị đã
được giải thoát.
Thực tập tọa thiền đúng
pháp chính là giúp quý vị
trở về với sức giác đó. Khi sức giác đủ lớn, đủ mạnh,
tự nhiên quý vị sẽ có được niềm vui,
trí tuệ sáng, định tĩnh cao, niềm
an lạc lớn. Chính lực đó sẽ giúp cho
chúng ta giải thoát ngay trong cuộc sống
hiện tại, nơi chợ búa,
công sở,
gia đình. Khi những thứ bên ngoài không còn đủ
giá trị làm mình lung lay nữa thì chính là lúc
chúng ta đã
được giải thoát rồi. Nếu
chúng ta đã no cái
thượng vị thiền rồi thì những cái còn lại
tự nhiên sẽ chia tay mình, dù có
đối diện hay không
đối diện cũng không
dính dáng.
Công năng tọa thiền rất lớn là vậy.
Quay trở lại,
chúng ta sanh tử là do nghiệp, mà nghiệp là do thân, miệng, ý tạo. Ý khởi nghĩ, miệng nói, thân làm theo, tạo nghiệp, có
sanh tử, có khổ đau. Nếu ý không nghĩ thì thân, miệng có làm được gì không? Cho nên trị ngay nơi ý. Khi ý vừa khởi lên mà
đi theo thì tạo nghiệp trong
sanh tử. Bây giờ ý khởi lên,
chúng ta lắng lại, không theo, không tạo nghiệp thì dứt
sanh tử.
Tọa thiền, lắng những niệm tưởng lại là một
biện pháp dứt nghiệp.
Đức Phật nói
Niết Bàn là củi hết, lửa tắt.
Tọa thiền có
giá trị lớn như vậy, nhưng
đơn giản và
thực tế vô cùng.
3.
NHẬN BIẾT ĐỂ
CHUYỂN HÓAThiền là một danh từ rất nhiều người mượn để làm
hình thức che giấu những cái khác ở bên trong.
Vì vậy, khi
tu thiền, quý vị cũng phải nắm vững những điều cơ bản,
nếu không dễ bị chữ thiền này làm lòa mắt, khiến
chúng ta thực hành sai. Đó là
lý do nhiều người nói
tu thiền điên. Muốn
kiểm tra có đúng hay không, phải
từ tâm mà nghiệm biết. Cơ bản là các phương thức làm lắng lại các
vọng niệm, tâm mình tự sáng ra, đó là đúng. Còn nếu tìm cầu một điều gì đó ở bên ngoài thì không đúng. Con mắt của
chúng ta chỉ thấy các vật bên ngoài mà không thể tự thấy được con mắt. Như vậy, thấy là thấy cái gì bên ngoài rồi chứ không phải thấy con mắt. Con mắt không thể thấy con mắt mà chỉ có thể thấy cái ly, bông hoa, đồng hồ… Chỉ là khi thấy hoa, đồng hồ thì biết con mắt mình đang sáng chứ không thể thấy được con mắt của mình. Cũng vậy, khi thấy một cái gì đó, dù đó là
hào quang hay ánh sáng lạ thì nó đều là cái bên ngoài,
không thật, không phải là tâm mình. Nếu chính thực là tâm mình thì chỉ có thầm nhận chứ làm sao mình lại thấy trở ngược lại cái tâm của mình được! Trên
thế gian này,
vật chất quý nhất là vàng ngọc, nhưng nếu nghiền nát bỏ vào mắt thì có thấy xốn không? Con mắt vốn tự thể là
trong suốt, nó không nhận thêm bất cứ một thứ gì dù đó là vật quý nhất trên
thế gian này. Cũng vậy,
bản tâm chúng ta vốn tự lặng trong,
thanh tịnh, vốn không một vật. Ánh sáng,
hào quang hay bất cứ cái gì bên ngoài cũng chỉ giống như mạt vàng làm xốn thêm con mắt mình mà thôi. Tâm nó không nhận tất cả những thứ đó. Cho nên các Ngài nói, khi
ngồi thiền, gặp Phật
giết Phật, gặp ma giết ma. Phật hay ma trong khi mình ngồi mà thấy chẳng qua chỉ là
ảo tưởng thôi, ma cũng có thể
hóa thành Phật để
dụ dỗ mình. Cho nên Phật là
tự tâm, không phải tìm cầu bên ngoài. Nếu
tu tập đúng, mình
trở về tâm Phật nơi chính mình. Còn nếu mong cầu Phật tới thì ma sẽ
hóa hiện đến lôi kéo mình làm
quyến thuộc của ma. Khi
tọa thiền, những gì diễn ra đều là giả. Thấy cái gì đó bên ngoài dù là hay cũng không phải tâm mình, thêm vào chỉ làm tâm bị
ô nhiễm thêm mà thôi. Tổ
Huệ Năng nói: “Xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi nhơ”.
Đức Phật dạy, ngoài tâm mà cầu Phật thì đó là
ngoại đạo.
Ngồi thiền mà thấy ánh sáng này,
hào quang nọ, đó là
hiện tượng bên ngoài, không
dính dáng đến
bản tâm, chỉ cần không
để ý đến thì nó qua. Còn nếu thấy vậy rồi nghĩ mình đã chứng thánh là sai, dễ dẫn đến
bệnh hoạn. Cho nên không biết
tu thiền mới là điên, còn nếu biết thì rất tốt.
4. BUÔNG XUỐNG
Bây giờ
đi thẳng vào việc
thực tập.
Tu thiền nói khó,
thực ra không phải khó. Quý vị nghĩ tâm mình ở đâu, nơi mình hay nơi người khác? Nơi mình thì mình có quyền
lấy lại dễ dàng. Chung quanh mình có
vàng bạc,
châu báu, nhà cửa..., quý vị thử bỏ đi có được không?
Vẫn có thể bỏ được. Rồi
bà con thân thích, quý vị
đóng cửa một ngày dưỡng bệnh, không gặp ai hết, cũng bỏ được. Gần nhất là thân mình đây, quý vị đừng nghĩ đến nó nữa, thử bỏ một chút có được không? Được. Vì có cái để bỏ mà. Rồi tâm của mình, nghĩ đúng, nghĩ sai, nghĩ phải, nghĩ trái, một lúc nào đó không nghĩ nữa, bỏ cũng được.
Của cải vật chất,
bà con thân quyến, bạn bè,
thân tâm suy nghĩ, quý vị thử bỏ hết, ngồi lắng lại, đừng
suy nghĩ gì hết, quý vị có nghe thấy quý Thầy nói không? Có nghe. Mình lắng
trở lại vẫn
nghe được, quý vị có dẹp đuổi cái nghe này đi được không? Không, mà
cụ thể là
chúng ta đang nghe thấy
rõ ràng, đúng không? Ngay cái thấy, cái nghe chưa động đây, là quý vị đang sống bằng cái thấy biết của thiền. Những cái gì bỏ được,
chúng ta đã bỏ rồi, còn một cái không thể bỏ được, muốn bỏ cũng không được, thì cái đó mới
trung thành với
chúng ta. Cái gì bỏ được thì không
trung thành, có ngày nó sẽ ra đi. Còn cái không bỏ được thì chính nó luôn là mình, chính thực là mình.
Có vị Tăng đến hỏi
Thiền sư Tùng Thẩm ở
Triệu Châu:
- Khi một vật chẳng đem đến thì thế nào?
Sư đáp:
- Buông xuống đi.
Một vật đã chẳng đem đến, tức là không còn có gì cả, nhưng vì sao ông Thầy này lại còn thấy có
vấn đề để hỏi? Nếu còn có một
vấn đề gì đó để hỏi là còn có một vật rồi, buông nó xuống luôn đi! Khi buông sạch rồi, không còn gì để buông nữa, thì nhìn lại coi, ai đang biết hỏi đáp một cách
rõ ràng đó? Ngay đó khéo thể nhận lấy thì
toàn thể hiện bày.
Khi gạn tất cả mọi thứ, còn một tánh sáng lặng chưa từng động, ngay đó mà sống thì đó là thiền. Cho nên
Sơ Tổ Trúc Lâm nói: “Buông xuống! Buông xuống! Cái buông chẳng được, chính là kẻ ấy.” Cái buông cũng không được, bỏ cũng không được, nó chưa hề bị
sanh diệt chính là cái
chân thật của mình. Sống ngay đó là phải. Như vậy
chúng ta mới thấy sự
tu tập thiền là sống bằng tâm đó.
Tu thiền là gạn những cái
huyễn hóa để nhận lại cái thật, sống với cái đó thì quý vị không muốn
giải thoát cũng tự
giải thoát. Khi quý vị
an định, tâm sáng, trí sáng, tất cả mọi thứ tràn đầy niềm vui thì những cái
thế gian tự nhiên mất giá trị với mình, không còn
đủ sức tác dụng chi phối mình, ngay đó tự mình
giải thoát, không tìm cầu một cái gì đó bên ngoài.
Sự giải thoát có ngay trong cuộc sống
cho đến lúc chết cũng vậy thôi. Khi nhắm mắt xuôi tay, tất cả mọi thứ bỏ lại,
đối diện mọi thứ trong
trạng thái tĩnh, lực đó làm chủ nghiệp và
chúng ta muốn đi đâu là quyền của
chúng ta. Đây là
năng lực cơ bản
ban đầu của người
tu thiền.
Từ từ
thực tập rồi quý vị sẽ thấy. Khi
ngồi thiền mà
chúng ta chưa biết
dụng công thì
tự nhiên nhiều thứ nó
chi phối mình. Nhưng khi biết rồi, chỉ cần giác
trở lại thì những thứ đó tự nó
tiêu tan, không còn. Việc này không khó, có khó chăng là tại
chúng ta chưa tập quen nên thấy khó
trở về, còn tập quen lâu ngày
thuần thục rồi thì rất dễ, vì ngay nơi chính mình chứ không phải ở đâu hết.
5.
DỤNG CÔNG CHÁNH THỐNG THIỀN
Kế nữa
đi vào thực tế, trong bốn
oai nghi, đi cũng thiền, đứng cũng thiền, ngồi cũng thiền, nằm
chúng ta cũng có thể
thực tập được, nhưng ngồi vẫn là một tư thế
thù thắng giúp cho
chúng ta có sức tỉnh cao, mạnh mẽ và có
hiệu quả nhất. Cho nên
cần phải thực tập tọa thiền là vậy. Khi ra chợ
chúng ta vẫn
ứng dụng được, chỉ cần tỉnh
trở lại, không theo cảnh thì
chúng ta đã sống với thiền rồi. Cho nên vua
Trần Nhân Tông nói: “Đối cảnh
vô tâm chớ hỏi thiền”. Khi đi, khi nói chuyện, trên tất cả mọi thứ
chúng ta luôn tỉnh
trở lại, luôn lặng sáng để làm tất cả việc thì lúc đó là thiền rồi. Nhưng nếu muốn có
công phu mạnh mẽ,
hiệu quả cao hơn,
thời gian tu tập nhanh
thuần thục hơn thì
chúng ta phải
tọa thiền. Ngồi là thế tốt nhất,
ưu việt nhất nên muốn tu tiến,
chúng ta cần phải ngồi thiền. Nếu quý vị nghe nhiều, hiểu nhiều mà không
thực tập thì nói chỉ
uổng công mà thôi. Quý Thầy
nói nhiều mà quý vị không thể nghiệm thì cũng chịu, giống như đến ngân hàng, đếm bao nhiêu tiền mà về nhà không có gạo ăn. Mình đang bị bệnh, đến
bác sĩ kê thuốc để uống cho hết bệnh, quý vị mua thuốc về nhưng không uống thì có lành bệnh không? Cũng vậy, nghe
nói nhiều, hiểu nhiều mà quý vị không
thực tập thì một
thời gian sau,
chắc chắn quý vị cũng sẽ
cảm thấy nhàm chán với những thứ
lý thuyết này thôi.
Chúng ta chỉ
cảm thấy hân hoan,
nhận ra giá trị chân thật khi tự thân
chúng ta dụng công, thể nghiệm. Cho nên,
thực tập tọa thiền là điều
cần thiết. Chỉ khi
thực tập tọa thiền, thể nghiệm, nhận chân được
giá trị đích thực thì
chúng ta mới
thích thú, phấn chấn trong
công phu tu tập, mới có duyên sâu với
chánh pháp,
đời đời sanh ra sức giác này sẽ nhắc thức mình sớm
giác ngộ,
tiếp tục tu hành, không bị lầm đường
lạc lối.
Muốn
tọa thiền tốt,
chúng ta phải chuẩn bị trước khi
tọa thiền. Nếu ăn no thì phải nghỉ
ít nhất đến hai tiếng đồng hồ sau rồi ngồi thì mới tốt. Còn nếu đang no mà ngồi liền thì
thần kinh phải tập trung làm việc với bao tử khiến cho
chúng ta cảm thấy buồn ngủ hoặc là nặng nề ì à ì ạch, rất khó tập trung,
hơi thở bị thô phù làm cho mình
tán loạn nhiều hơn, ngồi sẽ bị mệt.
Vì vậy,
ăn uống xong hai giờ sau quý vị mới nên
thực tập ngồi thiền.
Thứ hai, trong khi ngồi, nếu
chúng ta ăn đồ ngọt, đồ béo nhiều quá thì dễ bị nặng nề, dễ bị đau chân.
Kế nữa, khi chuẩn bị
ngồi thiền, quý vị nên nhớ giờ này là giờ của mình, mình
cần phải tập trung làm việc của mình. Trong một ngày 24 tiếng đồng hồ mình đã sống cho người khác rồi thì tối hoặc khuya, còn một ít
thời gian, mình phải làm cho được việc của mình. Khoảng nửa giờ trước khi chuẩn bị ngồi, quý vị nhớ đi đứng cho nhẹ nhàng, ăn nói
hạn chế, những chuyện đúng sai trong
gia đình,
xã hội, công
việc làm ăn mình
buông bỏ, đừng để trong đầu nữa, tốt nhất là
chúng ta nằm buông thư, thư giãn, tâm mình buông, không nghĩ gì hết. Thân mình cũng vậy, buông lỏng các cơ,
cho đến hơi thở cũng buông thở nhẹ nhàng,
tự nhiên quý vị sẽ
nhận thấy khinh an. Sau đó quý vị
đứng dậy đi
ngồi thiền thì sẽ dễ
an định. Còn nếu trước khi
ngồi thiền mà quý vị
tranh thủ quá, đi cho nhanh, tính toán công việc, tất cả mọi thứ cứ đang còn
lăng xăng lộn xộn mà bắt chân lên
ngồi thiền thì
hơi thở sẽ
hổn hển, không yên được. Rồi các chuyện cứ tấn công mình hoài, ngồi mấy tiếng đồng hồ giống như một đợt bị
tra tấn mạnh làm cho mình rối lên, nhúc nhích,
mệt mỏi... không an vui. Khi bắt đầu ngồi xuống cũng vậy, tất cả mọi động thái đều nhẹ nhàng, còn nếu làm mạnh và thô tháo quá sẽ không hỗ trợ được tốt cho mình khi
ngồi thiền. Cho nên muốn
ngồi thiền hiệu quả chúng ta phải có các bước chuẩn bị tốt trước khi ngồi.
Kế nữa là thế ngồi, nếu quý vị ngồi khom thì
hơi thở không thông, lâu ngày sẽ có
trạng thái giống như bị đau bao tử. Khi bị như vậy, cứ ngồi thẳng, thở cho sạch hơi, mọi thứ thông thì sẽ hết các
triệu chứng, không có gì trở ngại. Còn nếu ngồi mà
căng thẳng quá, vì muốn ngồi cho thẳng mà ngực bị ễnh về phía trước quá thì sẽ có
tác dụng phụ là dễ bị sân, nghe
tiếng động là
bực mình, nghe hơi bị tức ngực..., Khi có các
triệu chứng đó thì
biết mình ngồi bị sai thế, phải chỉnh lại thế ngồi cho ngay thẳng, buông thõng,
thoải mái,
bình thường,
hơi thở suốt thông thì các
triệu chứng phụ sẽ hết, đừng cố gồng cho thẳng rồi ưỡn ngực về phía trước quá sẽ không tốt.
Về cách
dụng công, cái chính vẫn là
trở lại nội tâm của mình, nhưng mà
ban đầu do chưa thuần nên hay bị
loạn động nhiều quá, thì đầu tiên dùng cách đếm
hơi thở. Hít vô,
thở ra đếm một, hít vô,
thở ra đếm hai, đếm đến mười thì bỏ, đếm lại từ đầu. Nếu đếm nửa chừng mà bị lộn hoặc bị quên thì cũng đếm lại từ đầu. Khi đếm
hơi thở thuần rồi, quý vị
cảm thấy thân tâm tương đối nhẹ nhàng,
hơi thở thông, số đếm không bị lộn,
vọng niệm thưa dần thì
chúng ta chuyển qua tùy tức,
hít vào hoặc
thở ra,
hơi thở đến đâu
chúng ta biết đến đó, biết theo
hơi thở một cách
rõ ràng. Khi tùy tức
thuần thục rồi thì qua bước thứ ba là
biết vọng, biết những niệm khởi đó là giả, không có tâm dẹp đuổi, không đè nén mà chỉ là không theo. Đến khi
dụng công thuần thục, quý vị
xem lại coi, ngay khi biết những niệm đó là giả, không theo, thì “biết” đó là
chúng ta “biết theo”
vọng niệm hay là
chúng ta “tự biết”? Ví dụ như khi thấy bông hoa thì phần đông
chúng ta biết về bông hoa, biết theo bông hoa và khi không có bông hoa thì mình không biết. Còn nếu
chúng ta tự biết thì đang sáng rõ, mình đang thấy thì khi có hay không có bông hoa mình vẫn đang thấy biết
rõ ràng đây. Khi quý vị thấy mà thấy biết theo bông hoa, thấy niệm mà biết theo niệm, biết về một niệm nào đó thì niệm có rồi mình mới biết theo, thế là
chạy theo đuôi niệm và như thế sẽ bị
vọng niệm dẫn mình hoài, không thắng được là vậy. Cho nên
ban đầu thì tạm dùng cái biết này để
vọng niệm nó không lừa gạt và dẫn mình đi. Đến khi
dụng công khá rồi thì trăm ngàn muôn thứ có đến, quý vị chỉ cần
an tịnh lại, lóng lặng lại và tâm mình đang tự sáng biết
rõ ràng đây thì mọi thứ tự
tiêu tan, cháy hết, ngay đó quý vị đang sống bằng
bản tâm chân thật chính mình. Sống bằng tâm thái đó thì ngay khi biết là
chân tâm mình đang
hiện tiền, ngay đó
chúng ta đã bắt đầu sống được với thiền rồi.
Quý vị cứ
yên lòng thực tập từ từ, rồi quý Thầy sẽ chỉ, đừng gấp quá, giống như mình đang tập
đi chập chững thì cứ đi từ từ, khi tiến nhanh hơn một chút, quý Thầy sẽ dìu thêm, chứ
đi chập chững mà ham chạy thì sẽ bị té.
Xưa kia,
Mã Tổ Đạo Nhất hằng ngày chuyên
tọa thiền, ngài
Nam Nhạc Hoài Nhượng thấy vậy biết đó là bậc
pháp khí (người hữu ích trong
Phật pháp) nên đi đến hỏi:
-
Đại đức ngồi thiền để làm gì?
Đạo Nhất thưa:
- Để
làm Phật.
Sau đó, Sư lấy một cục gạch đến trên hòn đá ở trước am
Đạo Nhất ngồi thiền mà mài.
Đạo Nhất thấy lạ hỏi:
- Thầy mài gạch để làm gì?
Sư đáp:
- Mài để làm gương.
- Mài gạch đâu có thể thành gương được?
-
Ngồi thiền đâu có thể
thành Phật được?
- Vậy làm thế nào mới phải?
- Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?
Ngồi kiết già đó mà không biết
dụng tâm thì cũng không thể gọi là thiền. Cái thân có nhúc nhích là do cái tâm ở bên trong. Bây giờ ngồi để
làm Phật mà không nắm vững cách
dụng tâm thì làm sao
thành Phật được. Thân này là chiếc xe, mà tâm là con trâu. Chiếc xe thì
vô tri vô giác mà con trâu mới có
tri giác và mình điều khiển được. Ngồi là một
phương pháp hỗ trợ để
chúng ta định tâm tốt nhất, ngồi đó là một tư thế để
điều trị tâm thì mới chính là
ngồi thiền chứ không phải ngồi là thiền. Không phải thấy ai bắt chân lên
ngồi kiết già là thiền, mà phải hỏi ngồi để làm gì, ngồi như thế nào và
dụng công như thế nào, gạn kỹ thì mới biết là đúng hay không. Cho nên cái
dụng công chính vẫn là
từ tâm.
Cụ thể là
ban đầu khi mới tập ngồi,
vọng tưởng nhiều quá cho nên
chúng ta đếm
hơi thở.
Phương pháp này rất quan trọng, quý vị đừng bỏ qua. Nó
sơ cơ, nhưng là nền tảng.
Ban đầu ngồi chưa quen,
hơi thở còn thô phù,
hổn hển cho nên
định lực chưa có và
vọng tưởng sẽ nhiều. Khi quý vị đếm
hơi thở là tạm thời mượn
hơi thở để quên cái
vọng tưởng kia.
Dụng công như vậy một
thời gian thì
hơi thở của mình sẽ tự nhẹ lại,
vi tế hơn, thân mình sẽ trở nên
khinh an,
dễ chịu. Chính cái nhẹ lại,
khinh an, thưa dần
vọng niệm sẽ giúp mình có sức làm chủ
vọng niệm. Khi
chúng ta đếm không lộn, thuần rồi thì qua tùy tức theo
hơi thở. Theo
hơi thở thuần rồi thì qua
biết vọng, thấy
vọng tưởng biết là giả nên không theo. Khi quen rồi mới
xem lại biết là biết theo
vọng niệm hay
tâm tánh mình đang tự sáng biết. Khi thể nhận tâm mình đang tự sáng biết rồi thì ngay khi biết là
chân tâm, là tánh
Phật hiện tiền. Sống ngay đó là
tu thiền chánh thống.
6. ĐIỀU HÒA
THÂN TÂM KHI
TỌA THIỀNThường quý vị mới tập thì ngồi khoảng chừng 15 – 30 phút,
trải qua khoảng 1-2 tuần thấy
thuần thục muốn tiến thêm thì tăng lên 5 phút.
Ít nhất phải một
tuần sau mới tăng thêm 5 phút nữa. Nếu
cảm thấy đau quá thì hai
tuần sau rồi hãy tăng thêm. Khi tăng rồi, đừng có lùi lại, thì
chúng ta sẽ tiến. Còn nếu ham quá, tăng
một lần nửa tiếng, gồng quá vài bữa sau nghe đến giờ
ngồi thiền thì liền có
cảm giác chán ngán, hơi ớn ớn và sợ, như vậy là hư việc. Cho nên tu phải có khoa học thì mới bền, và
điều kiện để tiến nhanh nhất chính là phải có
điều độ,
liên tục. Giờ sáng, giờ tối, giờ nào quý vị
cảm thấy có
thời gian tự do cho riêng mình thì chọn giờ đó để ngồi, và tới giờ đó quý vị luôn tập trung để ngồi thì quý vị sẽ tiến. Còn bữa nay ngồi, mai không ngồi nữa thì sẽ tiến chậm hơn. Nếu quý vị giữ
điều độ thì sẽ mau tiến, còn không
điều độ thì vẫn tiến, nhưng chậm hơn. Trồng cây cũng vậy, ươm mầm rồi tưới
điều độ thì cây sẽ lên, còn lâu lâu mới tưới
một lần thì cũng lên nhưng
yếu ớt.
Thứ hai, phải nhớ
ngồi thiền là tự nguyện để
an tâm mình chứ không phải là ai bắt buộc, cho nên giờ ngồi phải chủ động, mạnh mẽ, thì ngồi sẽ có kết quả. Còn ngồi giống như là ai bắt buộc, ngồi cho có thì ngồi là ngồi đó thôi chứ trâu hoang vẫn cứ chạy rong, không có
hiệu quả.
Thứ ba, quý vị nên nhớ,
con người chúng ta thường muốn có kết quả
sớm quá, hễ làm gì là muốn phải có kết quả liền, khi không có kết quả thì chán, muốn bỏ. Nhưng nếu cái gì dễ quá thì không quý, khó mà làm được thì mới quý. Cái gì hay thì hay, nhưng phải có
thời gian thực hành thì mới
đạt đến được, nếu nôn quá thì dễ bỏ cuộc. Cho nên khi
tu thiền, muốn
tiến bộ,
chúng ta phải có sự thiết tha, tức là mình mong muốn, thích
thực tập cho được, giống như đói muốn ăn, khát muốn uống.
Ngày xưa có nhiều vị khi đi tu, có người nói tu khó lắm thì chỉ
trả lời một câu: Thích là làm được. Khó gì thì khó mà thích thì làm được. Ngoài đời cũng có nhiều việc khó
vô cùng, nhưng khi thích thì làm được.
Tu tập cũng vậy, thích là
chúng ta làm được. Từ cái thích đó,
chúng ta phải có sự thiết tha, sau đó rồi phải có
quả cảm, phải có sự gan dạ, dám làm. Thứ ba là phải trường viễn, không phải là một ngày một bữa mà tu là
thực hành mãi, bất cứ khi nào
chúng ta thực hành công phu là
chúng ta đang ăn vị thiền, sống trong nhà thiền và chính cái tâm thiền đó sẽ giúp cho
chúng ta lớn mạnh và
giải quyết sanh tử. Lập được ba chí đó là
chúng ta thành công. Còn
nếu không thiết tha, làm cho có thì yếu, không
tiến bộ nhiều.
Chúng ta làm mà muốn được liền, nếu chưa được thì dễ nản, như vậy cũng không được. Còn nếu nhát gan quá, không tin tâm mình là Phật, không tin mình có khả năng
thành Phật, ngồi
mỏi chân một chút là muốn thả ra,
buồn ngủ thì thả ra đi ngủ, đau chân một chút là sợ,
không quả cảm, không dám làm thì sẽ không
thành công.
Khi đau chân, nếu quý vị gồng thì sẽ càng đau, lúc đó không nên gồng mà ngồi thẳng, hít sâu thở nhẹ cho
thân tâm lưu thông, đừng
để ý đến cái đau thì
tự nhiên cái đau sẽ tan biến. Ví dụ như khi có dao lam cắt vào tay mình, đầu tiên là đau. Bây giờ sẽ có hai cái nhìn về cái đau này, thứ nhất là kêu đau quá,
lo lắng, biết theo cái đau mà quên tánh mình đang sáng biết thì cái đau sẽ nhân gấp đôi làm cho mình hoảng loạn. Còn khi đau, nếu mình đang tỉnh sáng để nhìn nó thì tự nó tách ra khỏi mình, mình đang sáng biết một cách
rõ ràng thì cái đau sẽ giảm dần đến khi trong lặng
bình thường, nó không còn
dính dáng gì đến mình nữa. Khi đang lặng sáng để nhìn, tức là đang ở trong thiền để nhìn. Như thế cái đau này sẽ mất
tác dụng với mình.
7. THẤU TỘT
TRÍ VÔ SƯKhi đã
thực tập ngồi thiền tương đối ổn rồi thì trong
sinh hoạt hằng ngày quý vị cũng có thể
ứng dụng công phu được. Nếu chờ ngồi mới
thực tập, tới giờ tu mới
dụng công thì ít quá. Trong cuộc sống
sinh hoạt hằng ngày, nếu khéo một chút,
chúng ta cũng
thực tập thiền được.
Ngày xưa, khi lên xe,
chúng ta nghĩ bao nhiêu
việc phải làm, rồi
sực nhớ lại từ nãy giờ lái xe mà không
biết mình lái. Đó là mất mình, là quên
thực tập thiền. Bây giờ chỉnh lại, tỉnh sáng rồi mới chạy xe, thì mọi thứ trong lặng,
rõ ràng, chạy xe rất
an toàn, thơi thới. Đến
công sở ngồi vào bàn làm việc cũng vậy, tỉnh
trở lại hãy làm, có mặt mình hãy làm thì công việc
thông suốt. Ra chợ,
tỉnh lại rồi mua đồ. Vào bếp,
tỉnh lại rồi nấu nướng... Tất cả
mọi việc đều như vậy,
tỉnh lại, nhớ lại rồi làm.
Vận hành công việc khi đang tỉnh như
vậy thì công việc vẫn đang
vận hành mà không động. Đây là quý vị đang sống trong thiền mà làm và làm như thế thì tâm mình được
an định, trí sáng, cuộc sống trở nên an vui, tươi mát hơn. Còn
quên mình mà làm thì đang động, tâm mờ tối, trí
rối loạn, dễ bị công việc
chi phối và đưa đến khổ đau.
Thường
chúng ta hay
quan niệm mình có
trí thông minh, có được sự
hiểu biết là nhờ thầy cô giáo dạy dỗ cho mình. Nhưng nếu chỉ có thế thôi, chỉ nhờ dạy mới hiểu, chờ dạy dỗ mới có
trí thông minh và thầy cô giáo có thể cho
chúng ta sự
thông minh một cách
trọn vẹn, thì thầy cô giáo có thể giảng cho cái cột nhà hiểu được không? Không. Vì cái cột nhà nó không có khả năng hiểu. Nhưng nếu giảng cho quý vị nghe thì quý vị có hiểu không? Có, phải không? Bởi vì
chúng ta có khả năng hiểu. Như vậy, trước khi hiểu những lời giảng này thì quý vị đã sẵn có cái khả năng tự hiểu nơi mỗi người rồi, thì mới hiểu lời dạy này. Cũng vậy, thầy cô giáo muốn dạy cho
học sinh nên người thì
trước tiên,
con người ta đã có một khả năng tự hiểu trước, họ mới hiểu được
lời dạy của thầy cô giáo.
Vậy thì, mỗi người đều có khả năng tự hiểu, khả năng sáng, khả năng đó đang có ở nơi tất cả
chúng ta. Nhưng thông thường
con người chúng ta chỉ lo học theo một phần bên ngoài mà
bỏ quên đi khả năng nơi chính mình. Đây là cái sơ sót của
con người và quý Thầy đi tu là để tìm lại cái phần bị
bỏ rơi sót đó để được đầy đủ
trọn vẹn hơn chứ không bỏ cái gì cả.
Bỏ quên trí gốc này thì sống, làm việc,
sinh hoạt..., tất cả mọi thứ đều động,
không giải quyết được sự
đau khổ trong đời.
Chúng ta chỉ sống trong mộng mị, làm
mọi việc mà như người trong mộng đang ngủ mê nói mớ, sống mà như chết. Nhận lại trí gốc này thì mọi thứ vẫn
vận hành như vậy, nhưng với mình thì lặng trong, không động bao giờ. Ngay đó mới cảm nhận cuộc sống một cách
trọn vẹn.
Khi quý vị đang nghe đây mà nghĩ đi chỗ khác là đã quên mất mình rồi. Cũng khi nghe nói đây, quý vị
chú tâm nghe quý Thầy nói chuyện thì tưởng như là đang
nhất tâm,
an định. Nhưng lát nữa rời chỗ này đi ra ngoài thì quý vị có
bị động trở lại không?
Bị động liền, phải không? Cho nên, khi quý vị
chú tâm như vậy ngỡ là
nhất tâm, nhưng khi ra ngoài bị
biến đổi thì mới biết đó chỉ là tướng tịnh do cột tâm mà có thôi. Tướng tịnh này
đối đãi với cái động kia nên có còn, có mất, có sanh, có diệt. Mà tướng
thanh tịnh này có còn, có mất thì nó chưa phải là cái tịnh
tuyệt đối. Vì sao? Vì khi quý vị chú ý lắng nghe là vin theo lời này mà chú ý, đó là đã
bỏ quên mất chính mình. Đây là
bỏ nhà đi ra, mà đi ra là bị rơi vào
sanh diệt, nên biết tướng tịnh đó chưa phải là
chân thật. Bây giờ quý vị đừng chú ý nữa, cũng
trạng thái lặng mà sáng biết này, an
trở lại nơi chính mình thì
tự tánh đó nó sẽ tự động nghe một cách
linh thông, không ngăn ngại. Bằng tâm đó, dù ngồi đây hay đi chỗ khác thì
tánh thấy biết đó vẫn luôn
hiển hiện, không động, không thiếu vắng bao giờ.
Bản tánh này vốn nó tự tịnh, tự định. Chỉ sống
trở lại thì
tự tính chất nó là
an định, muốn động cũng không được, chứ không phải làm cho
trở nên an định. Nếu có làm cho được định thì cái định đó sẽ bị
sanh diệt đổi thay và
không thật. Ngay cái thấy biết chưa từng động đó là quý vị đã sống
trọn vẹn với
con người chân thật nơi chính mình rồi, là sống với khả năng
căn bản thông minh của mình rồi. Bằng cái sáng biết đó để
nghe lời giảng thì được cả hai, vừa sống về trí giác không động, bằng trí giác đó mà nghe thấy suốt thông một cách
rõ ràng,
thông minh hơn rất nhiều lần so với cái
hiểu biết phân biệt có
giới hạn kia. Còn
bỏ quên cái đó mà
nghe lời này thì chỉ được một nửa
hiểu biết vọng động theo lời bên ngoài mà thôi, không phải là bằng trí gốc
căn bản nơi chính mình để sáng biết không động.
Khi sống
trở lại trọn vẹn với chính mình thì
mọi việc sẽ
tự luân lưu một
cách thông suốt,
hiệu quả nhưng không động. Ra chợ, ngồi làm việc, vào bếp nấu ăn... quý vị nên
tỉnh lại rồi hãy làm. Trong
trạng thái tỉnh đó, quý vị đang sống bằng tâm thiền, thì những hành động đó tuy động mà tâm ta không động. Ngay trên công việc, trên cảnh mà không động thì đã có
tác dụng của thiền rồi. Còn nếu như làm mà
quên mình thì sẽ động, mà động là
sanh tử, là khổ đau. Còn
tỉnh lại là
vô sanh, là được
an lạc giải thoát. Ngay khi làm đó, quý vị đã
chứng nghiệm được thiền rồi, cái trí đó tự mình sẵn có chứ không ai cho mình được. Đây gọi là
trí vô sư, là trí gốc sẵn có không do thầy dạy. Còn trí do
học hỏi được từ thầy mới có là
trí hữu sư, đây là cái dụng bên ngoài thôi. Trên
chánh điện có câu “Vô sư trí vi tôn”, tức là cái
trí thể vốn chưa từng
sanh diệt, sẵn đủ nơi mỗi người không phải do thầy dạy mới có, trí đó là tôn quý hơn hết. Quý vị
thực tập tọa thiền là sống bằng trí đó,
hằng ngày quý vị
tỉnh lại mà sống thì đang sống bằng trí đó, không bị
thế gian làm mình động. Trí đó,
linh thông,
sáng suốt, vĩ đại hơn tất cả trí
thế gian. Trí đó giúp cho ta làm chủ cuộc sống. Chính sức
tự chủ đó, sức sáng đó, sức định đó là niềm an vui
vô tận. Nó đủ lớn để các việc
thế gian không đủ
giá trị tác động lên mình. Ngay khi quý vị sống được như vậy là lòng mình tự mở ra, thương cho những người khác vì sao lại mê mờ mà không cảm nhận được như mình. Bằng cái trí sáng, thương về cái mê, đó là
từ bi. Như vậy, ngay khi có trí thì có
từ bi, còn quên trí mà nói
từ bi thì không phải. Rời trí đó thì dù cho
tình thương có
bao la rộng lớn đến đâu, nó cũng chỉ là
bác ái thôi, không phải
từ bi. Như vậy, chỉ cần
trở lại tâm thiền, sống với thiền thì
tự nhiên những
giá trị khác tự tròn đủ. Cho nên ngài
Huyền Giác nói: “Lục độ
vạn hạnh thể trung viên” tức là sáu độ muôn hạnh, tự tròn đủ trong
thể tánh mỗi người
chúng ta là vậy.