NGHIÊN CỨU VÀ PHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
MA HA CHỈ QUÁN
PHÁP MÔN VIÊN ĐỐN
(The Great Calming and Contemplation)
THIÊN THAI TRÍ KHẢI
Neal Donner & Daniel B. Stevenson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2009
Tham khảo
1 Cùng với
ý nghĩa truyền thống chỉ
tình trạng thiền định,
Trí Khải thường dùng chữ tam-muội để
bao gồm những phương thức
hành trì đưa đến những
thực chứng như vậy.
Vì vậy bốn chữ ‘tứ chủng tam muội’ có thể được hiểu một cách
phong phú tức ‘bốn
pháp môn hoặc
đề mục tu tập tam muội’.
Sự
diễn đạt thứ hai của bốn loại
tam muội, gần với văn bản Maha
Chỉ Quán, thấy trong
tác phẩm ‘Quán
tâm luận sớ’ (Kuan-hsin lun shu, T no. 1921) của
Quán Đảnh (Kuan-ting) là
môn đồ và cũng là người
hiệu đính tác phẩm Maha
Chỉ Quán của
Trí Khải. Những
học giả gần đây nhận xét rằng chất liệu trong ‘Quán
tâm luận sớ’ lấy từ một phần trong Maha
Chỉ Quán là
tác phẩm có trước và
văn thể thuần túy hơn là bản văn đã
hiệu đính mà
chúng ta có ngày nay. Như vậy, trong nhiều
trường hợp làm
sáng tỏ ý nghĩa bản văn Maha
Chỉ Quán, (đọc Sato, Tendai daishi no kenkyu, pp.364-400).
Đại cương về phần
tu tập tứ
tam muội,
nghi thức,
văn tự, và
ý nghĩa trong
truyền thống mở đầu của
Thiên Thai Tông, đọc Stevenson, The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism, pp. 45-97. Phần tích
chi tiết về nội dung
nghi thức và nguồn gốc của tứ
tam muội, đọc Stevenson, The T’ien T’ai Four Forms of Samadhi and Late North-South Dynasties, Sui, and Early Tang Buddhism Devotionalism.
2 Chan-jan (
Trạm Nhiên), T46.182a 12-13, nói: {Mặc dù
hành giả có thể đã
phát khởi tâm
Bồ Đề,
hành giả cũng rất khó nói đến ‘địa’
nếu không dấn thân vào
thực hành. Vào vị chân chánh
Bồ Tát (Bodhisattvaniyama) là sự khác biệt theo lối
giải thích của
Bồ Tát đạo, nơi đó
Bồ Tát chứng đắc Phật tuệ, nhận
thọ ký là Phật tương lai, được
bất thối chuyển, và đến được
Phật giới.
Tùy theo cách thức của
truyền thống Ấn Độ hoặc Trung Hoa, trong đường lối
tiệm tiến, hoặc là đi suốt mười địa, hoặc là đến địa thứ tám. Theo
Viên giáo của
Thiên Thai Tông,
con đường bị cắt ngang, và chánh chân
Bồ Tát kể từ
Thập Trụ hoặc Phần-Chứng-Tức.
3 Vị thứ năm trong
ngũ vị hoặc sự chế
biến thành chất
đề hồ từ chất sữa.
Tỷ dụ được dùng trong
kinh Niết Bàn (T12.530b-532a) để đưa ra tiến trình tinh lọc cốt tủy của pháp. Trong những
chú giải của Trung Hoa,
tỷ dụ thường được hiểu là để
diễn tả những
phương tiện thuyết giảng khác nhau được Phật đưa ra trong
thời gian thuyết giáo.
Tuy nhiên, ở đây ‘chất đề hồ’
đặc biệt chỉ cho
Phật tuệ hoặc
trí tuệ trung đạo liên hệ đến
Viên Giáo. Chan-jan (T46.182a 17-20) trong một
chú giải cởi mở hơn đối với
ẩn dụ nầy, đã hợp bốn vị vào các địa của
Viên Giáo: {Từ
phàm phu cho đến ngũ phẩm đệ tử vị thì sánh với sữa tươi.
Lục căn [
thanh tịnh] thì sánh với kem, chất bơ, và chất bơ đặc.
Sơ trụ thì gọi là
đề hồ. Bất cứ ai khéo
tu tập tứ
tam muội nên biết rằng [sự
thanh tịnh]
lục căn và
quả vị sơ trụ có thể chứng đạt từ đó}. Bản văn Maha
Chỉ Quán đã được sửa lại ở đây dựa theo Chan-jan và những đoạn
kinh Niết Bàn.
4 T9.3a 3-4.
5 Các
phương pháp vì vậy được
phân chia rộng rãi tùy theo hình tướng sinh hoạt thuận tiện. Các
phương pháp ngồi và đi hầu hết được chọn với
mục đích tạo sự
thích hợp với các
nghi lễ đặc biệt của Bát-chu
tam muội (pratyutpanna),
nhất hạnh,
Pháp Hoa tam muội,
phương đẳng và
Quán Thế Âm sám pháp, tất cả đều nổi bậc trong giai đoạn [
hoằng pháp] của các
tôn giả Huệ Tư và
Trí Khải. Đọc Stevenson, The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism, pp.49-50.
6 Cùng định nghĩa được thấy trong
tác phẩm ‘Thích
Ma ha bát nhã ba mật đa
kinh giác ý tam muội’ (Shih mo-ho pan-jo p’o-lo-mi ching chueh-i san-mei, T45.622b19) trước đó của
Trí Khải. Chan-jan (T46. 182a 3-5) nói: {Tâm từ
vô thủy vốn từng cong vẹo. Vào [
tam muội] ... tâm được ngay thẳng, chỉ như một con rắn có
thói quen di chuyển ngoằn ngèo, trở nên
thẳng tắp khi bò trong một ống tre}.
7
Đại Trí Độ Luận, T25.110b.
8 Chan-jan (T46.182a 28-b3) nói: {Bốn sự
thực tập áp dụng như cùng khuôn thước đối với
nhất pháp giới [và như vậy, chữ ‘tam-muội’ dùng như một tên gọi tổng quát].
Tuy nhiên, khi đưa ra những sự khác nhau như ‘thường tọa’ hơặc ‘phi hành phi tọa’ thì các tên nầy được dùng trên
căn bản hoạt động [của thân]. [Hơn nữa], khi người ta
phân biệt chúng theo tên gọi hoặc theo
phương pháp thì luôn
ngồi thiền là một hạnh, luôn bước đi, có khi đi có lúc ngồi,
phương đẳng sám hối, chẳng đi chẳng ngồi,
tùy ý muốn.
9 Hai
tiểu phẩm ‘Văn Thù
Sư Lợi Sở Thuyết
Bát Nhã Ba la Mật Đa Kinh’, T no.232; sau đó thì gọi là ‘Văn Thù Vấn Kinh’ được
Trí Khải và
Quán Đảnh trích như kinh
căn bản pháp môn nầy, được Mandrasena dịch sang Hoa ngữ vào đời nhà Lương, năm 503. Kinh nầy rất
phổ thông trong
Phạn ngữ dưới tựa đề ‘Saptasatika-prajna-paramita’. Có thể đọc bản dịch Anh ngữ: Chang, ed. A Treasury of Mahayana Sutra, pp.100-114.
10
Bản kinh thứ hai,
Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh, T no. 468, về sau gọi là
Văn Thù Vấn Kinh, chẳng mang tên
bát nhã ba la mật cũng chẳng gồm trong loại kinh nầy. Trong
tác phẩm ‘Quán
tâm luận sớ’, T 46.600b 22-23,
Quán Đảnh không
đặc biệt trích dẩn kinh nầy như nguồn tư liệu
đặc biệt về ‘thường tọa’ hoặc ‘nhất hạnh’
tam muội nhưng thay vào đó đưa ra ‘nhiều
bản kinh Phật. khác nhau.’
Đoạn văn chính từ
Văn Thù Vấn Kinh (T14.507a) mà Maha
Chỉ Quán trích dẩn về thường tọa
tam muội đọc như sau: {Ngài
Văn Thù hỏi Phật: ‘Bằng những
phương tiện nào khác một người có thể đến được
tam muội nầy?’. Phật đáp: ‘Với
xấu hổ,
ăn năn, lòng
tôn kính, và
bố thí; ông có thể
phụng sự và nói với người về
pháp như bố thí cho một vị Phật. Ông có thể đến được
tam muội bằng bốn
phương pháp nầy. Rồi
trong suốt 90 ngày không khởi niệm về ngã. Chỉ ngồi xuống, dừng niệm, không xen tạp những
ý nghĩ khác. Ngoại trừ lúc
ăn uống, đi đứng, và làm những
việc làm hằng ngày,
tuyệt đối không vọng [niệm]’.}
11
Nhất hạnh tam muội (i-hsing san-mei) được
liệt kê vào thứ 81 trong số 108
tam muội của
Đại Thừa tìm thấy trong Pancavimsati và
Đại Trí Độ Luận (T25.401b20-25).
Tuy nhiên, trong hầu hết luận của Trung Hoa về
tam muội (gồm cả
Trí Khải) phần chính trích từ
Văn Thù Thuyết Kinh, T8. 731a 26-b8. Phần luận về
ý nghĩa của
nhất hạnh tam muội trong
Phật giáo Trung Hoa thời Trung cổ cũng như những tư liệu
liên quan đến giới học giả
Nhật Bản về đề tài nầy, đọc Faure, The Concepts of One Practice Samadhi in Early Ch’an, pp. 99-128.
Trí Khải thì không nói rõ về
ý nghĩa chính xác của hai chữ ‘nhất hạnh’, nhưng Chan-jan (T46.182b3-6) nói: {Sự
diễn tả ‘nhất hạnh’
toát yếu từ hoạt dụng chính của thân, và bỏ qua những
liên hệ phụ thuộc hình tướng.
Vì vậy, [hạnh nầy] được gọi là ‘nhất hạnh’. Nó không lấy cái tên ‘nhất hạnh’ từ
sự kiện dùng lý (li) như đối tượng
thiền quán.. Trong số bốn hạnh hoặc
thực tập, không một hạnh nào mà không lấy
chân lý làm
căn bản hoặc đối tượng quán chiếu}.
12
Quán tâm luận sớ (T46.600b23-24) dùng lối bố cục chia làm ba phần để trình bày nội dung của tứ
tam muội:
sự tướng (shih-hsiang),
quán pháp (kuan-fa), và khuyến tu (ch’uan-hsiu). Phần
sự tướng tiểu mục của Maha
Chỉ Quán thuộc về khẩu và thân; phần
quán pháp và khuyến tu thì thuộc về với tâm.
13 Chan-jan (T46.182b8) nói: {Cùng
thực hành trong một nhóm có nghĩa là trong
thiền đường (ch’an-t’ang)}.
14 Danh từ ‘tịnh thất’ (ching-shih) có nghĩa là ‘một gian phòng yên tịnh’ thường được dùng trong những tư liệu của
Lão giáo thời Trung cổ, chỉ cho những phòng hoặc nhà dành riêng cho các
đạo sĩ tế lễ hoặc
thiền quán.
15 Pitha, là một chiếc ghế được kết lại bằng dây, được dùng riêng cho việc
ngồi thiền. Kích thước được nói đến trong những
Luật tạng. Đọc Mochizuki, Bukkyo daijiten, 3.2545d.
16
Liên tục ngồi thiền trong giai đoạn 90 ngày được nói trong ‘Văn Thù Vấn Kinh’, T14.507a. Không có đoạn văn nào như trên trong ‘Văn Thù thuyết kinh’.
17 Theo Chan-jan, T46.182b16.
18
Tham khảo về chữ ‘xương sườn’ trong câu nầy thấy rõ rằng
Trí Khải đang nói đến thế ngồi trong một chiếc ghế có lưng dựa (hoặc thành ghế), không phải chỉ là một tấm đệm hoặc trên bục.
19 Chan-jan, T46.182b18-19, nói: {Hành giả không nên tự
cho phép mình được dựa, ngay cả
nằm nghiêng về bên phải, có khác gì một cái thây chết} có nghĩa là dựa ngữa. Cũng gọi là ‘thế ngồi hớ hênh của người đàn bà dễ dải’}.
20 Cankrama là
cách đi chậm rải (thường đi dọc theo đường thẳng) khoảng giữa các thời
ngồi thiền. Thêm vào việc giúp ích cho những cơn
buồn ngủ, trích trong
tác phẩm Tứ Phần Luật (Ssu fen lu), theo Chan-jan, Cankrama có năm
lợi ích (T46.182b22-27): (1) tạo thành khả năng đi được những quảng đường xa, (2) giúp vào việc
quán chiếu, (3) làm giảm bệnh tật, (4) giúp
tiêu hóa, và (5) giúp
hành giả trụ trong
thiền định một
thời gian khá lâu. Shiki (1.404)
phân biệt với những lối
đi nhiễu quanh.
21 Chan-jan, T46.182b28-29, nói: {[Cùng với
thiền hành] ăn
bữa ăn và xả thiền cũng được
chấp nhận. Nhưng có lẻ
hành giả không lấy cớ để trì trệ hoặc
xao lãng chính mình. Một khi làm xong (qua cơn
buồn ngủ hoặc quá
bữa ăn) thì không được làm.
22 Maha
Chỉ Quán và
Quán Tâm Luận Sớ hoặc các phần
tham khảo khác trước đó về
thiền tọa hoặc
nhất hạnh tam muội đều không có phần nói về một vị Phật
đặc biệt nào ở đây. Những
chú giải của Chan-jan về đoạn nầy,
tuy nhiên, đưa ra
chứng cớ về sự ưa
sùng bái Phật
A Di Đà trong
cộng đồng Thiên Thai Tông (T46.182b29-c4): {Phương hướng
hành giả quay mặt về nên là
hướng Tây, bởi vì, khi gặp
chướng ngại,
phương tiện ích lợi để nhớ nghĩ đến vị Phật theo
phương hướng vị Phật [
hành giả] niệm trú ngụ. Các kinh không nói
đặc biệt phải là phương Tây mà [chỉ nói rằng] khi gặp
chướng ngại hành giả nên
thanh tịnh xưng tán hồng danh một vị Phật. Nhưng trong nhiều
giáo lý khác, Phật
A Di Đà là vị Phật được
chúng sinh xưng tán nhiều hơn các vị [Phật] khác.
Vì vậy,
chúng tôi để
hướng Tây như một tiêu chuẩn}. Luận về
pháp môn Tịnh Độ trong các
tác phẩm của
Trí Khải, và chiều hướng cảm nhận về các
lối tu tập
tam muội hướng về bên trong, đọc Ando, Tendai Chigi no jodokyo, trong tập Tendai shiso-shi của
tác giả.
23 Chan-jan (T46.182c20) nói: {Người giữ im lặmg để
tu tập nghiêm túc, người nói ra để
vượt qua chướng ngại}.
24 Chan-jan (T46.182c24-26) nói: {Phiền não như
biên kiến,
ngã kiến là những chương ngại bên trong.
Ma vương và tà mỵ là những
chướng ngại bên ngoài.}
25 Từ ‘Văn Thù Vấn Kinh’, T14.507a. Chan-jan (T46.182c25-26) nói: {Không làm gì khác hơn là
chú tâm cầu Phật, đây là
sám hối. Không
ngần ngại hiến cả [thân và tâm] mình là ‘đặt
trọn đời mình vào Phật.’
26 Chan-jan (T46.183a1-2) ‘Đầy ắp’ có nghĩa là những tâm ý không
diễn đạt. Nổi buồn trỉu nặng hoặc niềm vui
vô cùng giữ trong lòng không nói ra [để vơi đi].
Vì vậy nên người lấy lời than hoặc câu hát của thân và khẩu để giải khuây.’
27 Biểu đồ về
tác động của khẩu được rút ra từ
Đại Trí Độ Luận, T25.103a. Ở đây nói rằng udana, một trong năm dưỡng khí trong thân người, vận chuyển từ rún
vượt qua bảy phần trong thân (trên đỉnh đầu, nướu răng, răng, môi, lưỡi, cổ họng, và ngực) trước khi phát ra từ miệng thành
ngôn ngữ.
Đại Trí Độ Luận, khác với
Trí Khải, không đưa ra những
phân biệt giữa những
tác động của thân và khẩu. Cái
Đại Trí Độ Luận nhấn mạnh là trên
ý tưởng ssỏ dĩ có tiếng và lời qua nhiều
nhân duyên, nhưng không có người thực sự nói, âm thinh dụ cho
pháp không chân thực.
28 Chan-jan (T46.182a 12-16) nói: {Mặc dù [
Pháp Hoa]
Huyền Nghĩa đưa ra
trường hợp hoạt dụng của tâm tạo thành cơ [
cảm ứng], nhưng ở đoạn văn nầy không có nghĩa rằng ‘tâm’ chấp giữ. Trong
trường hợp nầy
hành giả phải kíp
tu tập các
trợ đạo [thân và khẩu] vì
hành giả chưa thể
hoàn thành [
việc làm] chỉ trên nền tảng của tâm và tâm ý. Chính
bản kinh thuyết cả
tam thừa, nhưng chỗ nầy ‘tâm’
đặc biệt chỉ cho nghĩa
Viên Giáo, và không nói qua đến Thông và Biệt [Giáo]. Dù vậy, với
mục đích dẹp bỏ chướng ngại,
hành giả được dạy tưởng niệm [thân] của vị Phật
hiển lộ sự
đáp ứng,
dần dần trong phần
Chỉ và Quán Tâm,
hành giả được dạy tưởng
niệm pháp thân. Như vậy chỗ nầy hẳn nhiên là thuộc Viên [Giáo]}.
29 Chan-jan (T46.183a 21-25) nói: {Đọc
tụng kinh điển thì không gồm trong thường-thiền-tọa, nhưng
hành giả không nên nghĩ rằng những
điều kiện nầy
áp dụng đồng đều đối với
ba tam muội kia.
Vì vậy, mặc dù thường-tọa ‘tránh tụng
đọc kinh điển; càng ít được bàn chuyện thế gian’, sự
ngăn cản đọc tụng kinh điển chỉ
áp dụng vào lúc nầy. Cấm nói chuyện
vớ vẩn thì
áp dụng trong tất cả bốn pháp [
tu tập tam muội]. Như vậy, trong cả bốn
tam muội,
hành giả phải bỏ đi tất cả sự giao tiếp với người ngoài.
Thiền hành hoặc
thiền tọa đều không có những
giới hạn dựa vào kinh điển. Dù vậy, nó
mở rộng [sự
thực hành không giới hạn vào] tất cả
căn thức và hành động của thân, những chuyện nói và
việc làm hàng ngày thì không được khuyến khích}.
30 Chan-jan (T46.183a 25-b5) nói về phần nầy trong ‘Chỉ và Quán Tâm’ cũng như những phần hổ tương trong các
tam muội như sau: {Trong từng [
đề mục thuộc tứ
tam muội] từ đây
cho đến ‘chẳng đi chẳng ngồi’ những đoạn văn nói về quán thì được
xếp đặt theo nguyên bản quanh những chất liệu lấy từ các
bản kinh. Mặc dù
hình thức có thể
tương tự như mười loại
quán tưởng [
hệ thống thiền quán được nói
chi tiết trong
đại phẩm thứ bảy của Maha
Chỉ Quán], những đoạn văn trong
trường hợp nầy được nói ngắn gọn.
Hành giả không thể chỉ
dựa vào [những
diễn đạt ở đây] để
tu tập quán chiếu trong tất cả mọi khía cạnh. Cũng như vậy với tất cả [năm
đề mục trong phẩm ‘Đại Ý’], từ
tiểu phẩm ‘Phát Đại Tâm’ thứ nhất
cho đến hết ba phẩm [cuối]
theo sau [
đề mục tứ
tam muội nầy]. Đó là
lý do tại sao năm [tiểu] phẩm được gọi là ‘Đại Ý’}.
{Bản văn ở đây
áp dụng cho những
thí dụ tổng quát từ các kinh [
Văn Thù]. Những đoạn văn nầy chính chúng tách biệt và
ý nghĩa thì
sâu xa. Chúng không bị phân tích một cách
sai lạc. Nếu có người muốn
chú giải chúng một cách đầy đủ thì phải
thấu triệt mười pháp quán
theo sau. Chỉ như
vậy thì mới không vướng vào
lỗi lầm.
Tuy nhiên, nếu có người
áp dụng phần sau bản văn, [phần luận về mười pháp] sẽ thiếu
chi tiết liên quan đến bốn hành [của tứ
tam muội]. Như
vậy thì phần nói về mười pháp
quán tưởng chính nó đã được giản lược. Năm
tiểu phẩm [của phẩm
Đại Ý] gọi là ‘giản lược’ bởi vì, với cái nhìn của
thiền quán, chúng được làm ngắn gọn và không đầy đủ. Nhưng đối với sự (shih) thì không như vậy.}
31 Chan-jan (T46.183b 10-12)
ghi nhận nửa câu thứ nhất với ‘Chỉ’, và nửa câu sau với ‘Quán’.
32 Từ đoạn văn chính về
nhất hạnh tam muội trong ‘Văn Thù Thuyết Kinh’, T8.731a-b. Bốn chữ của dòng nầy và bốn [chữ] của dòng sau cũng thấy trong đoạn văn chính của ‘Viên
Đốn Chỉ và Quán’ trong bài tựa của Maha
Chỉ Quán. (Đọc T46.1c24). Các
học giả Nhật có khuynh hướng giữ vững bốn chữ ‘chi yuan fa-chieh’ như là ‘tức’ (chi) tất cả những đối tượng
tâm thức hoặc duyên (yuan) trong (hoặc với)
pháp giới (fa-chieh). Đọc Muranaka, p. 112 và Ono, Shishu-zammai no tenkyo to sono kosatsu-jo: joza-zammai to jogyo-zammai, p. 286. Trong ‘Văn Thù Thuyết Kinh’ cũng như trong những
tác phẩm của
Trí Khải, chi-yuan chỉ có nghĩa ‘trụ tâm vào một đối tượng
đặc biệt của thiền quán’. Đọc
Trí Khải,
Tiểu Chỉ Quán (Hsiao chih-kuan, T46.467a 6-8), và
Thứ Đệ Thiền Môn (Tz’u-ti ch’an-men, T46.492a 6-10). Những văn bản hiện nay ở Nhật thì không được hổ trợ bởi những bản chánh văn hoặc những
chú giải của Chan-jan (T46.183b6 và 151c).
33 Chan-jan (T46.183b14-15) nói trong đoạn văn: {Chỗ nầy
giải nghĩa tịch và chiếu,
chỉ và quán đối với người
quán tưởng. Mặc dù
hành giả ‘trụ tâm [vào đối tượng]’ hoặc ‘tu tập chánh niệm’,
hành giả cũng không bao giờ rời
pháp giới. Hoặc
hành giả tu Chỉ hoặc
tu Quán, tịch và chiếu cùng [có mặt] một cách tròn đầy}.
34 Từ
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.731c.
35 Cùng chỗ., T8.728b. Chan-jan (T46.183b15-22) nói: {Có
lòng tin rằng tất cả pháp..., khiến
hành giả có được tín [tâm].
Hành giả phải có
lòng tin rằng ‘không có trước không có sau’, bởi vì
pháp giới không bị bao quanh bởi ba thời. Sự vật hoặc
thực tại biểu trưng ‘hư không giới’; ‘là trước..., biểu trưng ‘giả giới’. Vì
thể tánh pháp giới luôn
thù thắng, không có lằn mức giả tạm hoặc
hư không.
Tự chứng là ‘giác’, dạy người là ‘thuyết’. Người giác và người thuyết không cách ly
pháp giới;
vì vậy nên nói ‘không
giác giả, không thuyết giả’. Vượt trên cái thấy
nhị nguyên,
pháp giới chẳng hữu cũng chẳng bất hữu. Vì không
thế gian (tức
siêu thế gian), nên không có ‘người giác’. Nhưng vì chẳng phải là trống không, nên không có ‘ không người giác’. Để hợp với
chỗ tối cao nầy,
chúng ta nói rằng ‘pháp giới rời tất cả cực đoan’. Nhưng vì ở giữa và
cực đoan [
nhị nguyên] tánh vốn đồng, ‘hành giả trụ ở nơi không có gì ở đó để trụ’. Tất cả chư Phật đều lấy
pháp giới là nơi
an trú.
Chúng ta sẽ trụ trong
pháp giới như chư Phật trụ trong đó.
Vì vậy mà nói rằng ‘nơi đó
hành giả trụ’}.
36 Mười
hình dung từ được nói trong ‘Văn Thù Vấn Kinh’, T14.506c 18-19: (1) Tathagata hoặc
Như Lai, (2)
A la hán, (3)
Chánh biến tri, (4)
Minh hạnh túc, (5)
Vô thượng sĩ, (6)
Điều ngự, (7)
Trượng phu, (8)
Thiên nhân sư, (9) Phật, (10)
Thế Tôn. Đôi khi hiệu thứ mười lại được chia ra làm hai, chữ ‘Thắng giả’ (jina) được thêm vào.
Chan-jan (T46.183b28-c21) nói: {Chỉ
quán pháp giới, mười
Phật hiệu diễn tả ứng thân được thấy
tương ưng với
chính pháp giới. Từ đó
hành giả biết được rằng mười hiệu của
Như Lai cũng
liên hệ đến
pháp thân. [
Liên hệ] như thế nào? [Phật] được gọi là
Như Lai vì Phật
phù hợp với
chân cảnh giới khách quan qua [cái dụng của]
trí tuệ bất nhị của Ngài... Mười hiệu của
ứng thân và
pháp thân thì cùng
một thể,
bất nhị.}
37 Tathagata hoặc
Như Lai là hiệu thứ nhất trong mười hiệu. Chan-jan (T46.183c19) nói: {Pháp thân đã nói ở trên được
diễn tả trong đoạn văn thứ nhất dụng như đối tượng ở đây}.
38 Cả đoạn văn ở đây
căn cứ vào ‘Văn Thù Thuyết Kinh’, T8.728a. Chan-jan (T46.183c17-21)
chú giải: {[Đoạn văn] từ ‘quán Như Lai’
giải thích đối tượng [của
trí tuệ] và cái trí [
quán tưởng] thì không phải là hai điều riêng biệt.
Pháp thân đã nói đến ở phần mở đầu đoạn văn trên là như đối tượng [muốn nói] ở đây. Làm sao
chúng ta có thể biết được rằng chính đối tượng [của
trí tuệ] đến từ cái trí làm việc quán tưởng?. Vì chỗ khởi đầu nói rằng: ‘hành giả không nghĩ đến
Như Lai [là
Như Lai]’. ‘Không nghĩ đến’ chính nó là
trí tuệ biết được [pháp là]
bất khả đắc. Câu ‘không có [
Như Lai]’ nói rằng đối tượng
quán tưởng là
vô tướng. Câu ‘chẳng có bất cứ
trí tuệ từ đó
Như Lai Tạng được biết’ cho thấy
trí tuệ là
vô tướng. Câu từ ‘Như Lai và trí tuệ’ nói rõ rằng
trí tuệ và đối tượng của
trí tuệ không phải là hai.}Kogi (1.415) nói: {Vì nếu
cảnh giới đối tượng bị bôi xóa thì
cảnh giới chủ thể cũng phải tan biến giống như vậy... Vì là bất hữu nên là đồng nhất.}
39
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.726b. Chan-jan (T46.183c22-184a1)
chú giải: {Trí tuệ và đối tượng của
trí tuệ là một
thực tại huyền nhiệm, là
ý nghĩa của câu ‘không có tướng nhị nguyên’.
Trí tuệ và đối tượng của nó
thể tánh hoàn toàn thâm nhập vào nhau là
ý nghĩa của câu ‘không có tướng động’.
Trí tuệ và đối tượng của nó vốn như vậy là
ý nghĩa của câu ‘không có tướng sinh’.
Chúng hội nhập vào nhau khắp nơi mà không có tướng
thâm nhập là
ý nghĩa của câu ‘không định vị trong bất cứ phương hướng’. Bởi vì dù rằng
vô tướng, chúng thực sự hội nhập khắp nơi, chúng được
mô tả là ‘không rời tất cả phương hướng’. Vì không
thế gian, không tập tục, chúng ‘không từ ba thời’. Nhưng cũng vì chúng không nằm ở ngoài
thế giới giả tạm, chúng được
mô tả là ‘không tách biệt ba thời’. Trung [đạo] là nơi hai
cực đoan đồng thời bị diệt được nói trong câu ‘không tướng nhị nguyên’. Trung [đạo] là nơi [hai
cực đoan]
đồng thời chiếu soi được nói trong câu ‘không rời nhị nguyên’. ‘Không ô nhiễm’ có nghĩa rằng chúng không pha trộn với
mê muội. ‘Không tịnh’ có nghĩa rằng chúng chẳng pha trộn với
trí tuệ. Câu văn [bắt đầu với] ‘sự quán nầy’ gồm những
tán tụng về
trí tuệ quán chiếu. ‘Rất là ít được’ có nghĩa rất hiếm có và độc đáo. ‘Giống như hư không’ vì
thâm nhập khắp nơi nhưng cũng
tịch diệt. ‘Không hư hoại’ vì không
dựa vào sự nối tiếp. Vì đến được chỗ
hòa hợp [
trí tuệ và đối tượng của
trí tuệ], nó ‘làm
tăng trưởng chánh niệm’.}
40 Nguyên đoạn văn
căn cứ vào ‘Văn Thù Vấn Kinh’, T14.506c-507a. Chan-jan (T46.184a 2-5) nói: {Khi
sự quán chiếu
hoàn toàn thành công,
hành giả sẽ thấy được Phật. Qua
sự quán chiếu,
hành giả thấy được
ứng thân Phật. Dù rằng đó không phải là
mục đích hoặc mẫu mực của sự
tu tập, nhưng
năng lực quán chiếu đưa đến [kết quả] như vậy. Vì
lý do nầy, cái mà
hành giả tiếp nhận được thì giống như bóng trong gương. Không dùng đến
thần thông để hội nhập,
hành giả thấy khắp
mười phương. Trụ trong
pháp giới,
hành giả có thể thấy tất cả chư Phật.}
41 Chan-jan (T46. 184a6-7) nói: {Qua lực
đại bi hành giả thấy tướng, trong khi qua lực
đại trí hành giả không chấp giữ chúng.
Niết Bàn và hai
đại trang nghiêm cũng được
xem như vậy.
42 Hai
đại trang nghiêm mà
Bồ Tát viên thành để
thành Phật đạo-
trang nghiêm hoặc
tích tụ công đức (punya-sambhara) và
trang nghiêm hoặc
tích tụ trí tuệ (jnana-sambraha).
43 Từ ‘Văn Thù Thuyết Kinh’, T8.726b.
44 Chan-jan (T46. 184a 11-13) nói: {Tánh là thể (t’i), tướng là
hình dáng bên ngoài (wai-piao) của pháp. Mặc dù
hành giả thấy được
Như Lai và
nghe được pháp thuyết ra,
hành giả biết rằng
nghĩa chân thực của
pháp không có sự thấy và nghe v.v... }.
45 Theo bản văn của Chan-jan (T46.184a 12-16): { Chính Phật biết rằng không có sự chứng hoặc
đắc pháp. Làm thế nào
hành giả lại có thể nói đến những sự
chứng đắc như vậy? Những câu văn
theo sau giải thích những
thí dụ đã đưa ra ở trên: điều Phật
chứng ngộ là
nhất chân pháp giới.
Pháp giới biết không
chứng không đắc. Vì
chứng liên quan đến việc nắm giữa kết quả; đắc
liên quan đến việc bám sát hoặc trụ trong một pháp, cả hai đều không thể được. Đó là
lý do tại sao bản văn nói ‘không có gì’.}
46
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.728b.
47 Chan-jan (T46.189a19-21) nói: {Không có sự chia cách hoặc
phân biệt giữa
chúng sinh và Phật, cũng không có bất
cứ sự khác biệt trong
cảnh giới [
chúng sinh và
cảnh giới Phật]. Vì [cả hai] viên đồng về lý (li) và cũng viên đồng về tánh.
Hành giả không nên tự làm [cả hai] ngăn ngại nhau bằng [cái nhìn] bám chặt vào sự
phân chia hình tướng.}
48
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.726c. Chan-jan (T46.184a 25-28) nói: {Trong sự
giải thích về sự ‘tương đồng’ của chư Phật và
chúng sinh, điểm
chính yếu là
hành giả nên quán
chúng sinh ‘đồng’ hoặc ‘như’ Phật. Vì
bản thể của cái ‘đồng’ nầy không có những tướng
phân biệt, đồng như
hư không rộng mở. Mặc dù đồng hư không-
trí tuệ chính nó như hư không- biết
cảnh giới đối tượng,
cảnh giới đó giống như
hư không.
Vì vậy mà nói rằng ‘hành giả trú trong
bát nhã với tánh đức của pháp vô trụ’.}
49 Chan-jan (T46. 184a28-29) nói: {Vì
chúng sinh đồng với Phật, không có phàm để thoát ra. Vì Phật đồng với
chúng sinh, không có thánh để
chứng đắc.}
50
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.727a. Theo Chan-jan, chỗ nầy
diễn đạt ‘Vô Tác Tứ Đế’ (T46.184a29-b2): {Trong
Vô Tác Tứ Đế, không có gì để lấy, không có gì để bỏ. ‘Chẳng lấy chẳng bỏ’ mà an trụ trong
chân lý.}
51 Chan-jan (T46.184b4-8) khó nhọc
tìm kiếm,
sắp đặt câu văn trong hai dấu ngoặc với
tam đế: {Hành viên tịnh là những cái hành [được hiểu từ cái thấy của]
Chân đế. Hành mà không hành là những cái hành của Giả đế. ‘Không [có pháp]
sinh tử...’ chỉ cho cái hành của
Trung đạo.} Kogi (1.423)
cố gắng đặt ‘hành vô hành’ vào Giả hơn là nói rằng những cái hành nầy đến với sự vật một cách tạm bợ- vì ‘sự’ rơi vào ‘giả’ nên chỗ nầy
thích hợp với Giả đế.
52 Chan-jan (T46.184b5-7) nói: {Không bỏ
tà kiến biểu thị Giả; chẳng xa vô-vi
biểu thị Không;
tu đạo Bồ Đề trong đường lối như thế đó
biểu thị Trung đạo.}
53
Văn Thù Thuyết Kinh, T8730a.
54 Năm
ác nghiệp (panca anantaryani-karmani) trong
Phật giáo được biết là năm nghiệp
tái sinh vào
cõi địa ngục vô gián. Năm
ác nghiệp nầy
gồm có: giết vị
A la hán, giết
cha mẹ,
phá hoại sự
hòa hợp của
tăng đoàn, và làm thân Phật chảy máu.
55 Chan-jan (T46. 184b23-24) nói: {Cả hai
bất nhị bởi vì
ác nghiệp và
Bồ Đề không hề ly khai
bản tánh của tâm.}
56
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.728c. {Chữ ‘thấy’ được dùng vì
hành giả chứng được tánh của tâm. Vì không có ‘người thấy hoặc sự thấy’ [
thực tại nầy],
chúng ta nói rằng ‘không người thấy biết’. Gọi là ‘thấy’ với nghĩa
đối diện với đối tượng. ‘Biết’ có nghĩa
thấu triệt từ bên trong. Thấy và Biết
đồng thể và không khác nghĩa. ‘Không người phân biệt’ có nghĩa sự vắng bặt của chủ thể dấy niệm
phân biệt trong và ngoài. Lại nữa,
nhận ra tánh của năm tội
vô gián là ‘thấy’; chiếu soi
Bồ Đề là ‘biết’; và biết hai pháp nầy là ‘phân biệt’.
57 Cùng chỗ. T8.728b.
58
Gồm có: (1)
Ma Ba Tuần (Machesvara Mara) hoặc
ma vương cõi Dục, (2) ma
ô nhiễm, (3) ma
ngũ uẩn, và (4) ma chết. Đọc
Đại Trí Độ Luận, T25.99b. Cùng với
bốn loài ma là những
yếu tố gây hư hoại
thiện pháp của
thế gian.
59
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.732c.
60 Chan-jan (
Trạm Nhiên) dùng dấu hiệu nầy như ‘dấu ấn của pháp giới’ để đưa ra nhiều
nhận xét hy hữu về chỗ đứng của quyển ‘Văn Thù Thuyết Kinh’ trong sự phát sinh của
Thiền Tông Trung Hoa,
đặc biệt phát triển từ Thiền
Đông Độ đến phương Nam (sông Dương Tử) sang đến các
tông phái phương Bắc (thủ đô và lưu vực sông Hoàng). Chan-jan (T46.184c11-13) nói: {Vì đó là dấu ấn của
pháp giới,
Thiền sư Đạo Tâm (Tao-hsin) vẫn dùng kinh nầy như
tâm yếu (hsin-yao). Người
đời sau theo dấu tiền bối của họ nhưng mỗi người
giải thích mỗi khác. Điều nầy mang lại những sự tương phản giữa tông (tsung) của Thiền ngoài sông Dương Tử, trong
đô thị và vùng sông Hoàng.
61
Văn Thù Thuyết Kinh, T8727b.
62 Tăng, ni,
cư sĩ nam,
cư sĩ nữ.
63 Đoạn văn nầy gợi lại vị thứ nhất trong ‘Ngũ Phẩm
Đệ Tử Vị’ thuộc
Viên Giáo, tức ‘Tùy Hỉ Phẩm’.
64 Đoạn kinh pha lẩn dẩn chứng từ ‘Văn Thù Thuyết Kinh’, T8.730a-b.
65 Chan-jan (T46.184c21-24)
chú giải: {‘Tòa’
mô tả rằng trên đó [Phật]
dựa vào. Phật
dựa vào chân lý. Bản văn nói: ‘đến gần tòa’ vì
hành giả nghe pháp ầy tiến về
chân lý. Phật là bậc
giác ngộ, pháp là cái đưa đến
giác ngộ. Đền gần chỗ Phật đã
giác ngộ tức ‘đến gần tòa của Phật’.}
66 Chan-jan (T46.184c26-27) nói: {nghe pháp nầy mà không rúng
động tức thấy được
pháp thân Phật.}
67
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.727c-728a. Chan-jan (T46. 184c27-29) nói: {Nếu
hành giả chứng được
sơ trụ và thấy được
pháp thân Phật thì đây là tướng
niệm bất thoái chuyển. Nếu
hành giả chứng được
lục căn thanh tịnh và đắc được cái thấy
tương tự như [
pháp thân] Phật, đây là
bất thoái đối với vị và hành. Khi ba loại
bất thoái chuyển nầy [được
chứng đắc], tất cả đều
viên mãn. Đây gọi là ‘đáo bỉ ngạn’ (paramita).}
68 Tiếng
sư tử hống (simha-nada) của Phật.
69 Có hai bản khác nhau về ‘thập lực’ (dasa-bala) có thể
tìm thấy trong các
tác phẩm Phật giáo. Bản xưa hơn trong
kinh A Hàm và các
kinh Đại Thừa, và bản mới hơn thì
đặc biệt ở các
kinh Đại Thừa. Như bằng chứng từ những
tác phẩm khác của
Trí Khải như ‘Pháp Giới
Thứ Đệ Sơ Môn’ (T46.665a); ‘Thứ Đệ Thiền Môn’ (T46.481b),
Trí Khải thường dùng Đại Trí Độ Luận để dẩn chứng
kinh điển Đại Thừa. Như vậy, ‘Pháp Giới
Thứ Đệ Sơ Môn’ (T46.694a-c) trích dẩn
Đại Trí Độ Luận (T25.235c-236a), đưa ra nhiều minh chứng có trước về ‘thập lực’: (1)
Tri giác xứ phi xứ
trí lực, (2) Tri
tam thế nghiệp báo
trí lực, (3) Tri
chư thiên giải thoát tam muội trí lực, (4) Tri
chúng sinh tâm tánh
trí lực, (5)
Tri chủng chủng giải trí lực, (6) Tri
chủng chủng giới trí lực, (7) Tri
nhất thiết chí sở
đạo trí lực, (8) Tri
thiên nhãn vô ngại trí lực, (9)
Tri túc mạng
vô lậu trí lực, và (10) Tri
vĩnh đoạn tập khí trí lực.
70
Tứ Vô Úy (vaisaradya) của Phật. Theo
tác phẩm ‘Pháp Giới
Thứ Đệ Sơ Môn’ (T46.694c) của
Trí Khải và
Đại Trí Độ Luận (T25.235c-236a),
gồm có: (1)
Chánh đẳng giác vô úy, (2) Lậu vĩnh tận
vô úy, (3) Thuyết
chướng pháp vô úy, và (4) Thuyết
xuất đạo vô úy.
71
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.730c-731b.
72 Cùng chỗ, T8.731b.
73 Cùng chỗ, T8.731c.
74 Các bản
mục lục có trước nói đến
Trí Khải với cẩm nang
Bát Chu Tam Muội (Pratyutpana Samadhi) có tên là ‘Bát Chu Chứng Tướng Hành Pháp’ (Pan-chou cheng-hsiang hsing-fa) không còn lưu lại; đọc Tao-hsuan, Ta Tang nei-tien lu, T55, 284b, và Sato, Tendai, daishi no kenkyu, pp.78-81.
75 Tựa đề kinh tiếng Phạn là ‘Pratyutpana-buddha-sammukha-vasthita-samadhi Sutra’. Bản Hoa ngữ
Trí Khải dùng dịch lại tựa đề là ‘Bát Chu
Tam Muội Kinh’. Tên của
tam muội thường nói trong các bản
văn Hoa ngữ là ‘Chư
Phật hiện tiền tam muội’. Đọc
Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận (Shih-chu pi-p’o-sha lun), T26.68c17-18. Thêm
chi tiết về
tam muội nầy và
ý nghĩa đối với
Phật giáo Đại Thừa, đọc Lamotte, Traite, 5.2263-2272.
Bát Chu Tam Muội Kinh cũng được biết với tựa đề ‘Hiền Hộ
Bồ Tát Kinh’ (Bhadrapala-bodhisattva Sutra) sau phần đối thoại chính. Bốn bản dịch Hoa ngữ (từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 6) còn lưu lại đến ngày nay có những
hiệu đính khác nhau dài từ một đến năm tập sách nhỏ.
Trí Khải dựa vào ba tập
Bát Chu Tam Muội Kinh (T no. 418) được ngài
Chi Lâu Ca Sấm (Lokaksema) dịch vào năm 179. Phần luận rất
giá trị về phẩm và lượng của những bản dịch Hoa ngữ cũng như những bản dịch qua
văn tự Tây Tạng, đọc Harrison, The Samadhi of Direct Encounter with the Buddha of the Present.
76 Theo
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905c, ba
yếu tố nầy có cái dụng đưa đến sự
hiện tướng một vị Phật, hoặc chư Phật trước
hành giả. Chan-jan (T46.185a28-29) nói: {Với sự
hòa hợp của [chánh] nhân và duyên ở đó liền có
cảm ứng đạo giao (kan-ying tao-chiao). Vì
lý do nầy
hành giả phải có đủ ba lực.}
77
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905a.
78
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, T26.88b13-14 (từ đây dùng để chỉ bản
Phạn ngữ tựa đề Dasabhumika-vibhasa Sastra). (Mặc dù được
lưu hành như một
bản kinh độc lập, về sau hợp vào một phần trong
kinh Hoa Nghiêm, làm
phong phú bản kinh Thập Trụ rất
phổ thông, và các luận
Ấn Độ ở Trung Hoa).
Tụng đọc và luận về
đặc tính của
Bát Chu Tam Muội Kinh xuất hiện trong phẩm thứ hai mươi lăm của
Thập Địa tỳ bà sa luận trong phần
thực hành hổ trợ cho
niệm Phật tam muội (T26.86a-88c). Phẩm nầy, cùng với hai mục trước trong
Niệm Phật (T26. 68c-71c) và Bốn Mươi
Bất Cộng Pháp Của Phật (T26.71c-83c)
Trí Khải dùng như mặt thứ hai trong việc
tu tập Bát Chu Tam Muội.
79 Những lực được nói đến ở đây không giống như ba lực nói trong
Bát Chu Tam Muội Kinh ở trên. Chúng
tượng trưng ba mức độ dõng mãnh
liên quan (1) Quán 32 tướng và 80 vẻ đẹp của Phật, (2)
Quán pháp thân qua
hình tướng 40 tánh đức
bất cộng của Phật, và (3)
Quán Phật chính là
thực tại vô nhiễm. Đọc
Thập Địa tỳ bà sa luận, T26.86a 7-19.
80 Đoạn văn nầy lấy trực tiếp từ
bài kệ trong
Thập Địa tỳ bà sa luận, ghi chú số 78. Đọc cùng chỗ, T26.88b16-20.
81 Từ ‘Bát Chu
Tam Muội Kinh’, T13.904b-c., giản lược khá nhiều. Chan-jan (T46.185b22-23)
giải thích: {Vì những
thân nhân đến từ
quê nhà thường
mang theo những
phức tạp,
hành giả không nên gần họ.}
82
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.909c.
83 Cùng chỗ, T13.909c và 916c. Chan-jan (
Trạm Nhiên) trích những
kinh điển khác nhau, đưa ra một
bình luận về những
ưu điểm trong việc
khất thực, khi nhận
biệt thỉnh hoặc cùng dùng bữa chung với
tăng đoàn: {Bởi vì tâm [trong tình huống về sau này] thường
tán loạn,
mơ hồ và xa đạo},
tôn giả khuyên {hành giả nên khất thực}(T46.185c17-18).
Tuy nhiên, những chỗ rải rác trong
tác phẩm Maha
Chỉ Quán T46.42a-b),
Trí Khải phân biệt ba
phương tiện nuôi
thân thích hợp trong việc tu định (
tùy thuận môi trường chung quanh): (1) lượm hoa trái... nếu
hành giả tu trên non vắng hoặc tận rừng sâu, (2) xin thức
bố thí nếu
hành giả tu tập hạnh đầu đà (dhuta) quanh xóm làng, và (3) thọ nhận sự
cúng dường từ tín chủ hoặc những giúp đỡ từ bên ngoài nếu
hành giả tu tập trong căn phòng riêng biệt trong một
đạo tràng.
Rõ ràng rằng ‘sự giúp đỡ từ bên ngoài’ là một sự
ám chỉ pháp môn Bát Chu Tam Muội của
Trí Khải.
84 Theo tập ‘Quán
Tâm Luận Sớ’ (Kuan-hsin lun shu, T46.601b15-16) của
Quán Đảnh (Kuan-ting),
tôn giả nói rõ ‘những vật thực
cúng dường, hương hoa’. Chữ ‘hsiao’ ở đây là những vật thực chuẩn bị theo
truyền thống chỉ cho những
thức ăn nấu chín như thịt, cá dành cho khách. Chan-jan (T46.185c20-21) lấy hai chữ kép ‘hsiang-hsiao’ để chỉ những ‘phẩm vật thanh tịnh’.
Tôn giả diễn tả chữ ‘hsiao-ts’ai’ là món rau nấu chín... không có loại cốc}. Cho thấy rõ rằng không dùng thịt cá
cúng dường.
85
Đặc biệt rửa tay và mặt, theo Chan-jan (T46. 185c21-22).
86
Tôn giả Quán Đảnh ghi chú trong ‘Quán
Tâm luận sớ’ (T46.601b16-17): {Khi ra thì bên trái và vào thì bên phải, thay đổi áo quần
tùy thời.}
87
Quán Đảnh giải thích trong ‘Quán
Tâm luận sớ’ (T46.601b17): {hành giả chỉ nên
đi nhiễu quanh, và không làm các động tác khác [như đứng im, ngồi, hoặc dựa ngữa]}
88 Chan-jan (T46.185c23-25) nói: {Giới thuộc thân và khẩu là bên ngoài; giới thuộc tâm là bên trong. Cả hai
Tiểu Thừa và
Đại Thừa đều giữ
tâm giới, gồm những
vi phạm của [25]
phương tiện thiện xảo về [tu định] cũng như ba trong mười
thiện hạnh và
tà hạnh ... [
Giới luật Tiểu Thừa] cũng được nhìn như ‘bên ngoài’, và [
giới luật Đại Thừa] được nhìn như ‘bên trong’. Nếu có người chỉ
giữ giới trong lối hành xử, và không biết gì về [dấu hiệu]
chướng ngại hoặc khó khăn [trong việc
tu tập], thì người ấy không đáng đứng vào chỗ đứng của một bậc thầy.} Phần
tham khảo chi tiết về nội và ngoại, đọc
Trí Khải,
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp, T46.947b7.
89
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.909c.
90 Sau cùng,
Trạm Nhiên (Chan-jan) dẩn chứng cả hai ‘Thập Địa
Tỳ Bà Sa Luận’ (T26.115c-116a) và
Đại Trí Độ Luận (T25.414b-c) về những
vấn đề hy hữu trong tình trò đối với thầy không bằng đối với đạo
tối thượng. Cả hai bản văn đều cùng một ý rằng một vị thầy nên được
kính trọng dù cho phạm
lỗi lầm gì đi nữa, chỉ vì để diệt cái
ngã mạn của học trò mà không phải vì
lý do nào khác. Chan-jan (T46.186a12-16 ) trích bản văn sau, nói: {Đừng nên chăm chăm vào cái thiện và dẫy nẩy [khi thấy] cái ác chỉ vì chấp vào cái giả tạm của
thế gian. Nếu một vị thầy có thể thuyết về
trí tuệ thì nên
hết lòng cung kính người ấy, và đừng nghĩ đến những
lỗi lầm khác của thầy. Đừng
quăng bỏ cả vàng vì cái túi đựng vàng hôi hám. Nếu một người xấu ác đang đi trên
con đường nguy hiểm trong đêm tối với
ngọn đèn trên tay, các ông sẽ không từ chối [nhận lấy] ánh sáng chỉ vì người giữ
ngọn đèn là một người không tốt.
Bồ Tát cũng giống như vậy.
Bồ Tát đến vì ánh
sáng trí tuệ và không nhìn những khiếm khuyết khác.}
91 ‘Những người giúp đỡ bên ngoài’ (wai-hu) chỉ cho những
cư sĩ hoặc các người trong
tăng đoàn đáp ứng nhu cầu của người [
cách biệt] bên trong. Những người
đồng hành là những người cùng
tu tập. Thêm
chi tiết về những tên gọi nầy, đọc Maha
Chỉ Quán (T46.43a-b), và
Quán Tâm Luận Sớ (T46.605b22-29). Ở đây
chúng tôi dò theo
ý nghĩa mà
Quán Đảnh đã đưa ra trong một đoạn văn song song
từ Quán Tâm Luận Sớ (T46.601b20-22): {Hành giả phải cần có người giúp đỡ từ bên ngoài, là những người kiên nhẩn
cung cấp thức ăn uống, giống như mẹ
lo lắng cho con trẻ.
Hành giả cũng nên có những người bạn
đồng hành có
tư cách và
giới hạnh vững vàng, là những người cùng đi trên một đoạn đường nguy hiểm.}
Chan-jan (T46.186b2-3) nói: {Những người giúp đỡ từ bên ngoài giống như những người mẹ... Họ sẽ không để cho
hành giả quá đói hoặc quá no, nhưng chỉ
săn sóc đúng với
tình thương và sự nghiêm túc. [Đoạn văn nói về] ‘những người
đồng hành là những người cùng đi trên một đoạn đường nguy hiểm’ có nghĩa rằng nếu một người mất dấu, tất cả sẽ bị hại. Những người
đồng hành nên như
vậy mà [đến với] đạo.
92 Bốn điều trong câu văn nầy là bốn điều đầu tiên nói trong phẩm thứ ba của
Bát Chu Tam Muội Kinh, có tựa đề ‘Tứ Hạnh’. Cả bốn đều đưa ra những
điều kiện thiết yếu giúp
Bồ Tát tiến nhanh trên đường
đạt đến tam muội nầy (T13.906a). [Bốn điều nầy] cũng được ghi lại trong ‘Thập Địa
Tỳ Bà Sa Luận’ (T26.86b-c). Về phần
phiên dịch tiếng
Tây Tạng, đọc Harrison, The Samadhi of Direct Encounter with the Buddhas of the Present Age, pp.45-46.
93 Ba-tập trong
Bát Chu Tam Muội Kinh (T13.906a) có cùng lối
diễn tả như Maha
Chỉ Quán ở đây ‘nằm hoặc rời chỗ’.
Tuy nhiên, tập-một cũng như trong
Thập Địa Tỳ Bà Sa Luận (T26.86c) lại nói ‘ngủ’ hoặc ‘buồn ngủ’. Bản văn tiếng
Tây Tạng hợp với hai bản văn sau: ‘không
uể oải hoặc bần thần’.
Chúng tôi theo bản của Chan-jan (T46.186b11-12) nên ghi lại ở đây là ‘không rời chỗ hoặc nằm xuống’.
94 Như đã nói ở trên, hai chữ ‘kinh hành’ (ching-hsing) lấy từ chữ Phạn là cankrama có nghĩa là
thực tập trong tĩnh lặng bước đi
chầm chậm theo đường thẳng. [Trong các
tác phẩm của
Thiên Thai Tông và
Tịnh Độ Tông] ở Trung Hoa, các chữ hsuan-jao và hsing-tao được dùng
chuyển đổi để
diễn tả cách đi nhiễu quanh (pradaksina) tòa
thờ Phật hoặc
thánh tích. Mặc dù bản có trước bằng tiếng Phạn ở đây dùng chữ
kinh hành (theo bản
Tây Tạng),
Trí Khải và các nhà
nghiên cứu về
Bát Chu Tam Muội Trung Hoa thời Trung cổ xác quyết lối
đi nhiễu quanh tòa
thờ Phật A Di Đà. Đọc Maha
Chỉ Quán, T46.12b5;
Quán Tâm Luận Sớ, T46.601b17).
Chúng tôi theo [bản văn] của Chan-jan ở đây (T46.186b19-20), là người ghi lại những khác nhau giữa ‘Thập Địa
Tỳ Bà Sa’ và các kinh, cho rằng câu kinh ‘ngoại trừ khi xả [thiền],
ăn uống, ngồi và đứng dậy’ thuộc về điều thứ ba trong bốn điều nầy.
95 Đây là bộ thứ hai trong bốn điều nói trong phẩm ba của tập-ba
Bát Chu Tam Muội Kinh (T13.906a 17-20).
Trí Khải không nói đến hai cặp thứ ba và thứ tư, có thể là vì chúng còn xa trong chu kỳ 90 ngày hơn là hai cặp nói ở đây.
96 T26.86b17-25. Ở đây,
chúng tôi theo Chan-jan (T46.186b20-23) là người đã nhìn cả bốn phần riêng biệt. Muranaka (pp.120-121) hẳn là theo những
bài kệ chú giải của ‘Thập Địa
Tỳ Bà Sa Luận’ (T26.86b), nói về
bài kệ một cách
hữu vi: {Nếu anh
trở thành bạn thân của
thiện tri thức, và không
hối tiếc, thì
trí tuệ của anh sẽ trở nên sắc bén,
đức tin của anh sẽ trở nên vững vàng}.’ Chan-jan (T46.186b10-11) nói về một vị thầy tốt như sau: {‘Tốt’ trong
trường hợp nầy có nghĩa là khéo biết được những dấu hiệu của vực sâu và hướng đi về chỗ [
thành tựu]
tam muội.}
97 Chan-jan (T46.186b24-26)
giải thích: {Đoạn văn bắt đầu từ ’90 ngày’
cho đến ‘tâm
niệm Phật A Di Đà không dừng nghỉ’ chỉ dẩn [
hành giả]
áp dụng ba nghiệp [thân, khẩu, ý]. Mặc dù nói rằng trước hoặc sau, hoặc
xưng tán và nhớ tưởng
cùng lúc, từng giây phút phải làm không dừng nghỉ.}
98
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905a. Trong
bản kinh, tên
quốc độ Phật thì
hằng hà sa số. Không thấy nói đến làm bằng
châu ngọc.
99 T13.905a-8. Những
bản kinh ở đây
đặc biệt đưa ra một giai
đoạn thực hành bảy ngày, nhưng một chu kỳ ba tháng cũng được nói trong bốn
quy luật phụ thuộc từ phẩm 3 trong kinh
Bát Chu Tam Muội.
100 Ẩn tướng trên đảnh của Phật. Gọi là ‘ẩn’ vì
chúng sinh mê mờ trong
ba cõi không thể thấy được, nhưng chư thánh thì có thể. Đó là một trong 80
tướng hảo của Phật.
Tham khảo về ẩn tướng cũng như những
phát nguyện trong đoạn văn nầy là từ
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905b.
Phương pháp nhớ tưởng
tướng hảo của Phật theo hai chiều thuận và nghịch không có trong
Bát Chu Tam Muội Kinh, nhưng trong
bản kinh rất
phổ thông là
Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (Kuan-fo san-mei hai ching) (T15.648c13-116) được ngài
Giác Hiền (Buddhabhadra)
giới thiệu vào đầu thế kỷ thứ V. Cũng vậy,
Bát Chu Tam Muội Kinh không nói về 32
tướng hảo và 80 vẻ đẹp [của Phật], nhưng hai bản văn
Quán Phật Tam Muội Hải (T15.648c-668b) và
Thập Địa (T26.68c-70c) thì nói
chi tiết.
101 Đoạn
văn kinh từ
Bát Chu Tam Muội (T13.908b). Bản văn
Tây Tạng có khái niệm về ‘đắc tam bồ đề’ (sambodhi) hoặc ‘giác ngộ
viên mãn của Phật’ chính là đối tượng
phản ảnh ở đây. Đọc Harrison, The Samadhi of Direct Encounter with the Buddhas of the Present Age, pp.68-69. Nhưng các bản
văn kinh Trung Hoa thì dùng chữ Phật (fo) hơn là chữ
Bồ Đề, tạo nên
hai nghĩa trong đoạn văn. Không
rõ ràng khi đọc
Đức Phật (te-fo) là vị Phật hoặc là tánh đức
Bồ Đề trong
quán chiếu và
tam muội, hoặc là khái niệm về
chứng đắc tam Bồ Đề.
Chúng tôi đi theo Chan-jan là người đọc đoạn văn một cách thấu suốt như
tranh biện về những
hình ảnh được hiểu về Phật và
Phật giới.
Chan-jan (T46.186c19-21)
giải thích: {Phần thứ nhất của đoạn văn phân tích [mối tương giao giữa] thân và tâm của [tánh đức] Phật [như được biết trong]
tam muội. Qua những
bảo hộ của ai mà thân và tâm nầy của Phật có thể được thấy hiểu?. Hai dòng đầu tiên đưa ra sự phân tích chính. Câu văn bắt đầu với: ‘Phật không thể được thấy bằng’... có sự phân định
nhận ra rằng tâm người và Phật cả hai
bất khả đắc. Làm cách nào tôi có thể thấy biết được thân và tâm của Phật qua thân và tâm
của riêng tôi? Điều nầy
lấy ra từ
tứ cú, rằng ‘Bồ Đề không
thể đạt đến hoặc thấy biết qua tâm’ có nghĩa rằng tôi không thể hiểu được tâm nầy của Phật qua tâm tôi; ‘không chứng và không đắc qua thân’ có nghĩa là tôi không thể đắc được thân Phật qua thân tôi. [Những câu] ‘không thấy hiểu
hình tướng của Phật qua tâm...’
đảo ngược thứ tự. Chữ ‘của tôi’ ở đây bị lướt đi.}
Kogi (1.444) ghi chú: {Cái thấy [Phật] nầy chỉ được
giải thích trên
căn bản của thức. Đó là để nói rằng, đối tượng chính là tâm.}
102 Đó là thọ, tưởng, và hành.
103 Từ
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.908c.
104 Đoạn
văn từ Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.908c. Chan-jan (T46. 186c21-25)
giải thích: {Thân [
sắc tướng] và
tâm Phật thì không có tướng,
hoàn toàn bất khả đắc. Thân và tâm của tôi cũng giống như vậy. Thân và khẩu
biểu thị tướng thân.
Trí tuệ biểu thị tâm. Sự
hiện hữu của thân và tâm đến từ [
ý niệm sai lầm của] ngã. Bởi vì ngã
tuyệt đối không [thực]
hiện hữu, cho nên [bản văn] nói: ‘các pháp vốn là bất-hữu’. Để xóa tan [bất cứ
ý niệm về] một sự bất hữu thuộc nền tảng, [bản văn] nói: ‘xóa bỏ căn cứ’. Cũng với
mục đích diệt đi
ý niệm về ‘diệt’, nên nói: ‘diệt bất cứ khái niệm về nền móng’}.
105 Ở đây khởi đầu một loạt sáu
ẩn dụ, tất cả đều từ
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905a-c.
106
Câu chuyện nầy cũng có ghi trong
Đại Trí Độ Luận, T25.110b. Trong cả hai
xuất xứ nầy và
Bát Chu Tam Muội thì có tất cả ba người đàn bà phóng đãng và ba người đàn ông mơ tưởng đến họ từ phương xa.
107
An Dưỡng Tịnh Độ Tây Phương hoặc ‘Cực Lạc’. Trong tập-ba
Bát Chu Tam Muội Kinh (T13.905b) ghi lại lời dạy của Phật
A Di Đà: {Hãy niệm
danh hiệu ta
liên tục nếu các ngươi muốn
vãng sinh cõi nước
Cực Lạc của ta}.
Tuy nhiên, tập-một (T13.899a 29-b1) đọc rằng: {Tưởng hoặc niệm danh liên tục}. Bản văn nầy được hai vị
giáo chủ Tịnh Độ Tông là
Đạo Xước (Tao-ch’o) và
Thiện Đạo (Shan-tao)
xưng tán, là những người
nhấn mạnh về sự
tái sinh cõi nước
Cực Lạc qua sự
chí tâm tụng niệm danh hiệu Phật và
đọc tụng năng lực của các
lời nguyện của Đức
A Di Đà. (Đọc Shan-tao, Kuan-nien fa-men, T47.24a 19-20).
Với những Tổ
Thiên Thai Tông như
Trí Khải và Chan-jan, đó là
tín hạnh của định, phát huy
tam muội, và
trí tuệ vào
bản tánh của tâm là cái
chính yếu. Với sự phát triển
vững vàng của những người
tin theo Tịnh Độ Tông trong
cộng đồng Thiên Thai vào cuối đời Đường và đời Tống,
tuy nhiên, có sự
tranh biện về
Phật tánh và sự
liên hệ với bổn tánh của tâm,
đặc biệt khi
liên quan đến pháp quán. Có phải rằng Phật được
cầu xin qua
quán chiếu và cơ cấu cứu rổi được giảm trừ vào tâm, và chỉ tâm mà thôi, hoặc là Phật còn là một ‘cái khác’ như tâm hổ trợ vào
năng lực và
thực tướng Như Lai?. Phần luận về những điều nầy, đọc Ando, Tendai gakuron: shikan to jodo, và Tendai shiso-shi cùng
tác giả.
108 Chan-jan (T46.186c25-187a2)
giải thích những
ẩn dụ về ba giấc mơ như sau: {Như
giấc mộng nầy, yếu tánh của tâm là nền tảng hoặc cánh đồng
nhận thức;
quán tưởng tương tự hóa hiện tư tưởng [về một đối tượng]; và phát triển đầy đủ về
sự quán tưởng nầy thì như một giấc mơ. Chỗ nầy ứng hợp
hoàn toàn vào phối cảnh
tu tập của từng
cá nhân. Hơn nữa,
pháp thân tương tự với nền tảng hoặc cánh đồng
nhận thức,
báo thân là
trí tuệ hóa hiện, và
ứng thân như
mộng huyễn. Điều nầy đưa đến sự ứng hợp với những
đặc tính của
Phật giới. Hơn nữa, vị Phật [được thấy]
tương tự nền tảng
nhận thức;
hành giả [người thấy] hợp với
tư tưởng hóa hiện; và cái thấy Phật thì
tương tự như mộng. Chỗ nầy xác định sự ứng hợp của cảm và ứng. Những
tác phẩm [
xếp đặt] như nhau về ba
giấc mộng.
Vì vậy, bất cứ nơi đâu
hành giả phát khởi cái thấy
thanh tịnh, và cái thấy nầy phát sinh như
nhận thức thực sự của tướng trạng, trong tất cả
trường hợp đều
tương ưng với ba khía cạnh nầy. Nếu
hành giả tìm Phật trong tướng rỗng lặng nầy, [Phật]
bất khả đắc. Như vậy,
hành giả nên biết rằng
giấc mộng thứ nhất và thứ ba cho thấy [
hình tướng trong mộng] thì
bất khả đắc mặc dù thấy được chúng.
Giấc mộng thứ hai cho thấy, dù rằng
bất khả đắc,
giấc mộng vẫn được thấy}.
109 Chan-jan (T46.187a 16-20) nói: {Ba
ẩn dụ về viên ngọc... cũng giống như
ẩn dụ về những
giấc mộng.
Giấc mộng thứ hai cho thấy tâm chủ động quy về đối tượng;
mã não biểu tượng cho cánh đồng
tư tưởng [hoặc chính đất tâm], và những
hình ảnh phản chiếu tương tự như cái thấy trong mộng.
Sự quán chiếu về xương trắng và
ảnh hiện trong gương cũng giống như ba khía cạnh nầy. Từ một sự khác biệt rất chi li [
chúng ta có thể thấy] cái gọi là sự lộ bày của Giả trên
căn bản Không:
mã não tương tự như Không, và sự
phản chiếu của
ảnh tượng tương tự như Giả đế. Ở đó không có xương trắng sánh với Không, trong khi sự
phản ảnh của ánh sáng sánh với [sự
phản chiếu] của Giả.
Gương sáng sánh với Không,
hình ảnh trong gương sánh với Giả. Ba
ẩn dụ trước về
giấc mộng cũng
bao gồm hai mặt Không và Giả, vì trên
căn bản của
tâm Không mà có Giả.
110 Harrison, The Samadhi of Direct Encounter with the Buddhas of the Present Age, p.37,
phiên dịch đoạn văn nầy từ bản
Tây Tạng như sau: {Vì
hình ảnh đẹp và
rõ ràng [nên] sự
phản chiếu xuất hiện}.
111 Cũng từ
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905c.
112 Mặc dù rất có tánh chất
thuyết phục, cả đoạn văn nầy bị hỏng, phần lớn đảo câu và khó đọc. Những bản Hoa ngữ có thể
tìm thấy: tập-một
Bát Chu Tam Muội Kinh (T13.899b-c), tập-ba
Bát Chu Tam Muội Kinh (T13.905c-906a),
Hiền Hộ Bồ Tát Kinh (T13.923a1-6),
Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh (T13.877b-c), và
Đại Trí Độ Luận (T25.276b). Đoạn văn nầy không có trong bản dịch tiếng
Tây Tạng nhưng trong
tác phẩm The Samadhi of Direct Encounter with the Buddhas of the Present Age, p.43. Đoạn văn nầy trong ‘Maha Chỉ Quán’ không khác với đoạn văn trong ‘Quán
Tâm Luận Sớ’ của
Quán Đảnh về thường-thiền-hành (T46.601c24-27).
Trong bản dịch theo đoạn văn xuất sắc của Chan-jan (cũng nên đọc Muranaka, pp.124-125)
chúng tôi ghi lại ở đây. Chan-jan (T46.187b10-21)
chú giải: {Giờ đây
chúng ta sẽ
giải thích toàn thể đoạn văn có trong tay: Dòng thứ nhất có thể hiểu từ
bản kinh.
Tiếp theo là chữ ‘Buddha’
xuất hiện nhiều lần bắt đầu với câu: ‘tôi tưởng niệm...’ trong mỗi
trường hợp đều có
hai nghĩa. Đầu tiên là cái thấy
Phật phát sinh trong
tam muội từ [
năng lực] của
tâm hành giả. Thứ hai là vị Phật thực sự từ phương Tây được
cầu khẩn [có mặt] qua
cảm ứng (yin-kan). Ở đây có cả
hai nghĩa, cùng
lập thành một đối tượng hoặc vị Phật được nhớ tưởng đến. [
Tuy nhiên], để hợp với lý, đoạn văn được
giải thích trên
căn bản phối cảnh thứ nhất [
hình ảnh Phật sinh ra trong
tam muội]. Một khi
đạt được tam muội, bất cứ điều gì
hành giả nghĩ đến đều
hiện ra.
Sự kiện về
kinh nghiệm thực chứng chính nó là
bản thể của tâm là cái có
ý nghĩa trong câu ‘tâm
sáng tạo hoặc sinh ra Phật’. Bởi vì vị Phật nầy
từ tâm sinh, khi
hành giả thấy
hình ảnh Phật thì gọi là ‘[tâm] thấy tâm’. Nếu
hành giả thấy tâm mình, tức ‘cùng lúc thấy Phật tâm’, bởi vì tâm đó hoặc
Phật trí đó thực sự là tâm của
hành giả. [Câu văn] từ ‘tâm nầy hoặc trí của Phật’ đến ‘thấy tâm’
giải thích rằng mặc dù
hành giả thấy Phật, khi
hành giả tìm kiếm người thấy, tâm cảm nhận, đối tượng, và hành động
nhận biết, tất cả đều
bất khả đắc.
Thể tánh [của
quán chiếu] chỉ là
hành giả tự quán tưởng tâm
của riêng mình cũng như
hình ảnh của Phật không tách rời
pháp giới. Như vậy, thấy tâm của Phật không khác thấy tâm
của riêng mình. Tâm của
hành giả và
tâm Phật không gì khác hơn là
trung đạo. Không
cần thiết phải xác định thêm nữa, như là sự tương diệt của cả hai ...
113 Chữ hsin (tâm) dùng ở đây có thể được hiểu là trí, với nghĩa ‘Phật được thấy’ là ‘trí của Phật’
từ tâm của
hành giả sinh ra.
114 Những bản Hoa ngữ ôn lại của
Bát Chu Tam Muội khác nhau ở đây, có nơi ghi chữ lạc (lo) là an vui hoặc kiên (chien) là
vững chắc.
Chúng tôi theo Maha
Chỉ Quán và Chan-jan.
115 Từ
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.906c.
116 Chan-jan (T46.187b6-7) nói: {Tất cả chư Phật đắc
Bồ Đề qua
sự quán tưởng rằng tâm
của riêng họ thì không khác với
Phật tâm.}
117 Maha
Chỉ Quán khác với kinh ở đây (T13.908c-909a). Chan-jan (T46.187b28-29) nói: {Chỗ nầy
giải thích [tánh của tâm] là đối tượng
sự quán tưởng đã nói ở hàng trên. Tâm thì giống như
tâm Phật.
Tâm Phật không có bất cứ
ô nhiễm, tâm
chúng sinh cũng vậy.}
118 Chan-jan (T46.187b29-c3) nói: {Năm cõi [
tái sinh]
từ tâm phát khởi.
Thể tánh của tâm vốn
thanh tịnh. Mặc dù vào năm cõi,
tâm không bị nhiễm bởi
sắc tướng.
Tương tự như người mắt bị nhậm, thấy
hoa đốm giữa trời. Mặc dù
hoa đốm trên bầu trời, bầu trời cũng không bị chúng
ảnh hưởng. Cũng như vậy đối với băng, sóng, dòng nước, hơi nước [đều không ngăn ngại
thể tánh của nước]}.
119
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.909a.
120 Cùng chỗ, T13.919b. ‘Phật ấn’ là tựa đề của phẩm sau cùng trong tập-ba
Bát Chu Tam Muội Kinh. Chan-jan (T46.187c4) nói: {‘Phật ấn’ chỉ cho [
bản tánh của] của đối tượng
quán chiếu trong
quá khứ: vì không gì khác hơn là chính
thực tại,
chúng tôi gọi là ‘Phật ấn’}.
121 Chan-jan (T46.187c5-8) nói: {Chỗ nầy
giải thích phẩm tánh của quán:
hành giả ‘không mong cầu’ Hữu, ‘không trở nên trói buộc’ vào Không, và không tìm gì ngoài
Trung Đạo. Vì
hành giả thoát ra ngoài ba
ý tưởng nầy,
chúng tôi nói rằng ‘tất cả
hiện hữu hoặc sự có mặt [của một đối tượng] và tất cả vọng dục đã khô cạn’. ‘Hiện hữu của một đối tượng’ chỉ cho đối tượng
quán chiếu. ‘Vọng dục’ chỉ cho
trí quán chiếu. Chủ thể và đối tượng cả hai tan biến, vì tan biến nên
không sinh [từ
Phật ấn] cũng không có bất cứ phươg tiện để [một dấu ấn như vậy] phát sinh’.
Không sinh cũng không diệt.
122 Chan-jan (T46.187c13-14) nói: {Ngay cả những người chủ trương
đoạn diệt của
Nhị Thừa không thể làm hư hoại nó được.}
123 Là một đoạn trong ‘Kinh
Bát Chu Tam Muội’, T13.919b.
124 T26.86a. Đây là từ bốn dòng kệ, đọc như sau: {Nếu một
Bồ Tát phát sinh
tâm giác ngộ tưởng nhớ đến
tướng hảo của chư Phật qua mười
hình dung, thì người ấy sẽ không mất
ảnh tượng về Phật, giống như người ấy nhìn
ảnh tượng của chính mình trên mặt gương}.
125 Cùng chỗ. T26.64c27-29. Những
bản kinh chỉ
phân biệt ba lối quán
hình tướng: thể của tướng, hành hoặc nghiệp tạo nên tướng, và kết quả của tướng. Maha
Chỉ Quán và Chan-jan trích câu thứ tư không được đề cập trong kinh nầy: cái dụng của tướng. Chan-jan (T46.188a4)
giải thích: {Mỗi [tướng] có cái dụng độc đáo làm
lợi ích người khác.}
126 Cùng chỗ. T26.86a. Ba mức độ
năng lực tu tập ‘niệm Phật tam muội’ hợp với ba thứ lớp
quán Phật: (1)
mười tướng hảo và ba mươi hai tướng, (2) bốn mươi
bất cộng pháp (
thần lực và
lợi ích) được kinh nói đến
như pháp thân, và (3) Phật tức
chân như (Sarvadharmabhutata). Tên mười tám
bất cộng pháp thường thấy trong
kinh điển Đại Thừa.
127 Cùng chỗ. T26.86a.
128 Từ
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.903b.
129
Thập Địa Tỳ Bà Sa Luận, T26.68c.
130 Kinh
Bát Chu Tam Muội (T13.913c): {Tam muội nầy là mắt của
Bồ Tát, là mẹ của tất cả
Bồ Tát, là
cảnh giới của tất cả
Bồ Tát, từ đó tất cả
Bồ Tát được sinh ra}.
Thập Địa Tỳ Bà Sa Luận (T26.25c) nói: {Bát Chu
Tam Muội là cha,
đại bi và
vô sinh [pháp] nhẫn là mẹ, tất cả
Như Lai đều sinh ra từ hai pháp nầy}. Đọc những
chú giải tương tự trong
Đại Trí Độ Luận, T25.314a.
Chan-jan, T46.188b13-16,
giải thích: {Trí tuệ biết được
chân lý là mẹ của chư Phật. Thấy được trung [đạo] là mắt Phật.
Phương tiện thiện xảo (upaya) là cha.
Tâm bi vô lậu [cũng] là mẹ}. Vấn: {Tại sao có hai
đề mục cho mẹ?}. Đáp: {Trí tuệ biết được
chân lý là [mẹ] sinh ra;
tâm bi là [mẹ]
nuôi dưỡng. Nếu như bi và trí không
đồng thời có mặt, đứa con lành sẽ không thể trưởng thành}.
131 Tất cả từ ‘Thập Địa
Tỳ Bà Sa Luận’, T26.87c-88a.
Tuy nhiên, một
ẩn dụ tương tự cũng thấy trong ‘Bát Chu Tam Muội’, T13.907c-908a.
132 Tập luận cũng đề cập người kia bị người xấu vây hãm (trong Maha
Chỉ Quán, những chữ ‘xấu xa’ và ‘côn đồ’ bị
đảo ngược),
sư tử, cọp, sói,
thú dữ, rồng,
rắn độc,
Dạ Xoa,
La Sát, quỷ Câu Bàn Đồ, quỷ
Tỳ Xá Da, nhân,
phi nhân, cũng như các chứng bệnh về mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng, răng, và những bệnh khác.
133
Thập Địa Tỳ Bà Sa Luận, T26.88a-b. (Cũng cần đọc
Bát Chu Tam Muội, T13.912c-913a). Đoạn văn trong Maha
Chỉ Quán về
Thập Địa Tỳ Bà Sa Luận hoàn toàn khác. Luận (T26.88b2-12) nói: {Nếu có người
nghe được tam muội nầy, sinh lòng
hoan hỷ trong bốn đường sẽ đưa về
giác ngộ tối thượng: (1) Khi luôn luôn tìm nghe làm cách nào chư Phật trong
quá khứ thực hành Bồ Tát đạo, lòng
hoan hỷ trong
tam muội của chư vị, mà nghĩ rằng ‘Tôi cũng sẽ được như vậy’, (2) Khi
nghe được chư Phật trong
hiện tại, người ấy sinh lòng
hoan hỷ trong
tam muội của chư vị mà nghĩ rằng ‘Tôi cũng sẽ được như vậy’, (3) Khi
nghe được chư
Phật vị lai sẽ
thực hành Bồ Tát đạo như thế nào, sinh lòng
hoan hỷ trong
tam muội của chư vị mà nghĩ rằng ‘Tôi cũng sẽ được như vậy, (4) Khi
nghe được những
tam muội chư
Bồ Tát trong
quá khứ, tương lai, và
hiện tại tu tập ... nghĩ rằng ‘tôi cũng hoan hỷ’. Những
tùy hỷ như vậy sánh không bằng một phần trăm, một phần muôn ức
công đức thực sự có được từ
tu tập tam muội nầy.
Công đức có từ
tam muội nầy không thể nói bằng
ngôn từ. Hạnh thực sự của
tam muội nầy không
thể tính kể, không thể
báo đáp.}
134 Trong
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.907a, ghi rằng người đàn ông nầy không những không thể ngữi mùi hương thơm, mà còn cho rằng nó hôi hám.
135 Cùng chỗ. T13.907a-b. Kinh viết người bán hàng muốn bán một viên ngọc cho cậu bé trong làng, ngọc sáng đến đổi có thể dùng thay đèn khi trời tối. Cậu bé không biết
giá trị của viên ngọc, và chỉ bằng lòng đổi lấy một con bò.
136 Tựa đề theo lối
dịch từng chữ; thực sự có nghĩa rằng ‘tu tập
tam muội trong lúc đứng hoặc trong lúc ngồi’.
137
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (Ta feng-teng t’o-lo-ni ching, T no. 1339) bộ
mật kinh do
Pháp Chúng (Fa-chung) đời Bắc Lương (đầu thế kỷ thứ năm) dịch.
Pháp môn nầy trải rộng ở Trung Hoa vào thời
tôn giả Tuệ Tư và
Trí Khải. Đọc Stevenson, The T’ien T’ai four Forms of Samadhi, pp.175-188; và Ono, Hotodara-nikyo ni motozuku sembo.
138 T21.645b. Kinh nói: {Đọc bản văn nầy 120 lần trong khi
đi nhiễu quanh 120 vòng, rồi dừng lại, ngồi xuống, và
tư duy. Sau khi
tư duy, lại
đọc tụng bản văn.
Tiếp tục thực hành trong bảy ngày.}
139 T9.6a-b. Đoạn
văn từ phẩm 28 ‘Phổ Hiền khuyến phát’, trích từ 21 ngày
Pháp Hoa Sám Pháp. Đọc Hurvitz, pp.333-337.
140 Trong
Đại Thừa Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (Mahavaipulya-dharani Sutra),
nghi thức đặc biệt về
phương đẳng sám hối thì rất hiếm và
xuất hiện rải rác trong bốn tập sách.
Nghi thức bảy ngày (cùng giữ hai mươi bốn giới) có nói đến trong tập-một (T21.645b2-c9); mười vị
pháp vương tử và những
hình thức cúng dường khác trong tập-hai (T21.650b),
y phục (T21.651a) và những sự chuẩn bị
nghi lễ và sự khẩn cầu mười hai vị thần tướng trong tập-ba (T21.652a-b). Thêm vào phần ngắn gọn nầy trong Maha
Chỉ Quán,
Trí Khải cũng soạn hai cẩm nang riêng biệt về
Phương Đẳng Sám Hối. Cả hai đều là những
nghi thức thực hành sâu rộng. Đó là
Phương Đẳng Hành Pháp, tập 6 trong KCLP (T46.796a-798c), và
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.943a-949a). Bản văn sau- nội dung và
hình thức rõ ràng là một
tác phẩm của Trí Khải- dường như mất dạng ở Trung Hoa vào đầu nhà Đường, chỉ từ
Nhật Bản trở lại vào thế kỷ thứ 11. Trong ba
tác phẩm của
Trí Khải mô tả về
nghi thức phương đẳng, thì
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp là
tác phẩm sớm nhất; KCLP
Phương Đẳng Hành Pháp xuất hiện khoảng giữa đời
hoằng pháp của
Trí Khải; và Maha
Chỉ Quán sau cùng. Đọc Sato, Tendai daishi no kenkyu, pp. 190-220.
Chan-jan (T46.46.189a14-15) ghi chú: {Chi tiết về
nghi lễ được đưa ra ở đây khó
thực hiện [như một bảng hướng dẩn]
thực hành,
vì vậy chính bản văn [của Maha
Chỉ Quán] hướng dẩn
hành giả đến [
Phương Đẳng Hành Pháp] trong Quốc Thanh Bách Lục}.
141 Theo
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (T12.641c17-642c27),
đà la ni trong
nghi lễ nầy được (bởi Phật
Đa Bảo) cho
Bồ Tát Hoa Tràng khiến vị nầy có thể
hàng phục ma quân nhiễu loạn tỳ khưu Lôi Âm. Khi tỳ khưu Lôi Âm đọc
đà la ni, chúng ma bị
hàng phục và nguyện
đời đời bảo hộ phương đẳng đà la ni và
nghi thức đà la ni.
Vì vậy chúng
trở thành mười hai vị thần tướng ban ra những
thánh tích cho phép được
cử hành đại lễ sám hối nầy.
142 Phật nói trong tập-ba của
bản kinh (cùng chỗ, T21.652a 5-b10) {Hoặc là Ta còn
tại thế hoặc là khi Ta đã rời khỏi
thế gian, nếu có
thiện nam hoặc
thiện nữ đến tìm ngươi và cầu học
đà la ni nầy, thì hãy bảo người ấy tìm mười hai vị thần tướng. Nếu người ấy thấy được một vị, thì ngươi có thể dạy người ấy
thực hành [
sám pháp] bảy ngày}. Tên của mười hai vị thần tướng cũng như
chi tiết về
giấc mộng cho phép cử hành đại lễ, đọc tập-một, T21.642a.
Trí Khải cũng
mô tả chi tiết về
nghi lễ sám hối trong
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.b16-20): {Bảy ngày [trước khi
cử hành đại lễ]
hành giả nên
thực tập đi nhiễu quanh và tụng đọc những câu chú đến khi
thuần thục.
Chí tâm sám hối những
lỗi lầm gây tạo, khẩn cầu các vị thần tướng cho
hành giả thấy được những dấu hiệu. Nếu được một vị [ban ân] thì được phép
thực hành lễ sám hối.} Cũng đọc KCPL,
Phương Đẳng Hành Pháp (T46.797a 8-17).
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.943a-944a) trích trong tập thứ
tư bản kinh (T21.656a-657b), cũng gồm những
nghi lễ sám hối phụ theo có thể được dùng bởi bảy
tăng già tha thứ những
tội lỗi làm
chướng ngại ân sũng
thực hành bảy ngày
sám hối.
143 Chan-jan (T46.189b23-25) nói: {Hành giả nên sửa soạn một chỗ
tôn nghiêm trong một
tăng đoàn. Nếu
hành giả là
cư sĩ, nơi nhà ở cũng được, có nghĩa là hai người (nam và nữ).
144 Chan-jan (T46.c10-11) nói về kiểu
bàn thờ hình tròn (t’an): {Trong cẩm nang
nghi lễ nói rằng đắp trên đất. Pháp Phật theo cách
hành lễ nầy, nhưng [
bàn thờ] theo hình
hoa sen.
Vì vậy bản văn nói ‘làm bàn hình tròn có màu tươi sáng.’}
Tôn giả nói về lọng hoặc phướn (T46.189c14-16): {Khi làm lọng hoặc phướn không được phép vẽ hình của Phật hoặc
Bồ Tát trên ấy. Phướn là vật
cúng dường được dâng cúng lên [chư Phật] trong buổi lễ}.
145 Đọc
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, T21.657a.
Bản kinh cũng chỉ dẩn (T21.650a): {Tô phết tường trong
tịnh thất, và vẽ những nét màu}.
Rõ ràng ở đây nói đến việc vẽ màu trên tường. Đọc những
chi tiết về
việc làm trang nghiêm và
thanh tịnh buổi lễ trong
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.945a 7-18) và KCPL,
Phương Đẳng Sám Pháp (T46797a 17-29). Những
chi tiết về hương và trầm được nói đến trong kinh, T 21.646b, 650b, 652b, ở nhiều chỗ. Chan-jan (T46.189c 16-17) ghi ‘hương trầm thủy’ như một loại trầm thơm.
146 Kinh (T21.646b15-16) nói rõ 24 chư thần được
tôn kính cúng dường nhưng không ghi rõ
danh hiệu của chư vị. Trong ‘Phương Đẳng Sám Pháp’ (T46.797b4-20),
Trí Khải cung thỉnh các chư vị theo thứ
tự như sau: mười vị Phật ghi trong kinh (
cung kính từng vị),
phụ mẫu đà la ni (chung), mười pháp tịnh (riêng), tỳ khiêu Lôi Âm và
Bồ Tát Hoa Tràng, mười hai vị thần tướng (chung), và chư
Thanh Văn (ngài
Xá Lợi Phất ... (chung)-tất cả là hai mươi lăm vị. Đọc tên của mười pháp tịnh trong T21.650b; mười hiệu của Phật trong T21.650c.
147 Theo Chan-jan, T46.189c25-26 và T46.185c20-21.
148
Chi tiết về
y phục, đọc
Đại Thừa Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, T21.651a. Trong kinh không đề cập đến
trầm hương.
Chi tiết về áo quần, giày dép thì có ghi trong
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.797a) và
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.944c-945a). Chan-jan (T46.189c27) ghi lại rằng đối với
áo tràng và
các loại giày dép được dùng trong và ngoài
đạo tràng.
149 Theo
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.944c, 945b) thì những
áo tràng sạch sẽ chỉ dùng bên trong
đạo tràng, khi ra ngoài thì thay đổi áo. Những
cảnh cáo sau đây được đưa ra để giữ
điều kiện vệ sinh của
đạo tràng (T46.945b23-24): {Nếu
hành giả không giữ được sự
thanh tịnh trong những đường lối nầy thì sẽ không hành động thuận hợp với những lề lối đã nói. [Nếu như vậy]
nghi lễ cử hành có thể sẽ không mang lại
lợi ích mà còn chuốc lấy
tội lỗi.
Vì vậy các người
tham dự rất nên tự
cảnh giác để
duy trì sự
thanh tịnh.}
150 Đây là [giới] hạnh thông thường đối với tăng sĩ và một trong tám
phát lồ sám hối (uposatha) dành cho
cư sĩ. Chan-jan (T46.190a2) nói: {Trong suốt [giới] hạnh nầy, họ giữ không ăn sau giờ ngọ}.
151 Đọc
Đại Thừa Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, T21.645b26-27.
Chi tiết về gian nhà tắm và cách thức giữ vệ sinh được nói rõ trong
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp, T46.945b.
152 Đọc
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (T21.646b).
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.945a20-22) nói: {Hành giả phải
cúng dường [vị tăng] trong ngày thứ nhất buỗi lễ và
một lần cúng dường vào ngày thứ bảy trước khi
chấm dứt buổi lễ. Sau khi những người
tham dự đã rời
đạo tràng,
thỉnh mời một nhóm
tu sĩ. Không có nói số [người].}
153 Đọc
chi tiết trong
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (T21.645b), cũng như
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.946a-b) và KCPL
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.797a).
154 Hai mươi bốn giới được nói trong
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, T21.645c-646b, được
xem như ‘hai mươi bốn giới của
Bồ Tát Đại Thừa’ (T21.646b7). Ngoài những nơi chốn
đặc biệt trong
tứ tướng tam muội của
Thiên Thai Tông,
phương đẳng sám pháp và hai mươi bốn giới đóng
vai trò quan
trọng như một
truyền thống thọ
Bồ Tát giới ở Trung Hoa. Đọc Stevenson, The T’ien T’ai Four Forms of Samadhi, pp. 176-188.
155 Sự
tụng niệm chú trong
buổi lễ bảy ngày được nói rõ trong
Đại Thừa Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (T21.645b) và
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.944a). Những câu chú khác được trao cho các tín chủ là những người đã phạm
đại tội, phải hành hạnh
thanh tịnh để được ân sũng
thực hành bảy ngày
sám hối nầy. Đọc
chi tiết trong kinh (T21.656b-658b) và
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.943b-944a).
156 Chan-jan (T46.190a 25-27) đề nghị phẩm hạnh của vị thầy hoặc người hướng dẩn nầy như sau: {[Người nầy hạnh] phải
thanh tịnh,
thực hành các pháp và [biết]
chi tiết thứ lớp
giáo lý,
quen thuộc với những [dấu hiệu]
chướng ngại. Nếu người nầy là kẻ
phạm trọng tội, và không biết gì về những chướng đạo thì làm cách nào
thích hợp trong việc sám hối?}.
157 Đọc
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, T21.645c2.
Chúng tôi theo
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.945a 7) và KCPL,
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.797b2-3) ở đây. Chan-jan (T46.190a 27-28) nói: {Với ngày thứ tám và ngày thứ mười lăm tháng trăng, hai tuần trăng mờ và trăng tỏ được
đánh dấu trong hai ngày thứ nhất và thứ tám tháng trăng tỏ, ngày mười lăm và hai mươi ba tháng trăng mờ. Hầu hết chọn ngày thứ tám.
Pháp Hoa Sám Pháp đặc biệt [đưa ra] bất cứ ngày nào trong sáu ngày
phát lồ sám hối.}
158
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh nói rằng có thể kéo dài hơn bảy ngày, ‘lâu như
hành giả có thể đáp ứng’ (T21.649b,651a). Cả hai
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.944a, 945a21, 946a9) và KCPL
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.797c2) nói rõ
thời gian cố định là bảy ngày. Chan-jan (T46.190a 29-b1) nói: {Bảy ngày
tượng trưng một
thời gian tối thiểu.
Hành giả không nên
giảm bớt. Nhưng nếu
hành giả muốn
tiếp tục sự
tu tập nầy thì người ấy có thể kéo dài bao lâu
tùy ý.
Vì vậy nên Ngài
Nam Nhạc (
Tuệ Tư)
thực hành hơn suốt bảy năm}.
159 Đọc
Phương Đẳng Tam Muội Đà La Ni Kinh, T21,655b27,
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp. T46.945a, và
Phương Đẳng Sám Pháp, T46.797b. Chan-jan, T46.190b2, luận về
nghi thức nầy vào thời sơ Đường, nói: {Nam Sơn (Nan-shan)
Đạo Tuyên (Tao-hsuan) kể lại: ‘Ta đã
chứng kiến cử hành [
nghi lễ]
phương đẳng ở kinh đô, đôi khi có cả trăm người, những lần khác, nửa số trên’.
160 Đọc
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, T21.650c-651a, và
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp, T46.944c.
161 Những
chi tiết trong kinh nói về
áo tràng, đọc
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, T21.651a.
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp, T46.944c-945a đưa ra ba loại
áo tràng được chuẩn bị. Áo sạch mặc trong
đạo tràng của
cư sĩ thì giống áo
khất sĩ, chỉ khác là tà đơn (T46.944c29-945a2): ‘Áo nầy chỉ
lấy ra mặc khi vào
đạo tràng lễ Phật ba lần. Dù mặc áo
khất sĩ nhưng
cư sĩ không cạo tóc’. Chan-jan (T46.190b15-16)
giải thích rằng [
cư sĩ] được phép mặc áo tà đơn, nhưng không được mặc áo ‘vá’ của
khất sĩ.
162 Theo Chan-jan (T46.190b19-21): {Thời lễ đầu tiên trong ngày thứ
nhất chỉ cho thời lễ vào buổi sáng sớm. Một người có giọng đọc
rõ ràng sẽ được chọn từ trong
đại chúng để tụng
thần chú. Khi người nầy chậm lại thì người khác nối theo}.
163 [
Hồng danh] của mười vị Phật có ghi trong KCLP,
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.797b), là Phật Ratnaraja và chư vị khác trích ra từ kinh [
phương đẳng]}. Một bảng
hồng danh khác cũng được ghi trong
Đại Thừa Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, T21.650c3-5,
gồm có Phật
Vô Lượng Thọ (Amitayus) và bảy vị
cổ Phật. Chan-jan (T46.190b22) ghi rằng đó là sự
phối hợp của hai bản văn: {Phật Ratnaraja ... cùng với bảy vị
cổ Phật.’
164 Chan-jan (T46.190b28) nói: {Phật là
pháp vương,
Bồ Tát là con Phật (
pháp vương tử)}. Mười vị
pháp vương tử chỉ cho mười
đại Bồ Tát,
gồm có Ngài
Văn Thù Sư Lợi,
Hư Không Tạng,
Quán Thế Âm ... ghi trong
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (T21.650b).
165
Nghi thức thỉnh giáo trong KCPL
Phương Đẳng Sám Pháp, T46.797b.
Phụng thỉnh tam bảo dưới các
nghi lễ xưng tán: (1) mười vị Phật trong kinh (riêng mỗi vị), (2)
phụ mẫu đà la ni (chung), (3) mười vị
pháp vương tử ghi trong kinh (riêng),
gồm có Bồ Tát Câu Tô Ma ... (4) Tất cả
Thanh Văn và
Duyên Giác như ngài
Xá Lợi Phất ... (chung), (5)
Phạm Thiên,
Đế Thích, và mười hai vị thần tướng (chung). Mỗi lần đều đọc như sau ‘Nhất tâm cung thỉnh!
Cung kính hướng về ...}. Lập lại tất cả ba lần như vậy.
Quán Đảnh đã đưa câu nầy vào Maha
Chỉ Quán sau khi
Trí Khải qua đời, vì KCLP được soạn vào năm 605, tức mười hai năm sau khi
Trí Khải mất.
166 Chan-jan (T46.190c5-7) nói: {Sám hối
tam nghiệp: thân quỳ gối lưng thẳng, miệng
xưng tán,
tâm tưởng niệm. Ngài
Nam Sơn (
Đạo Tuyên) nói rằng
nghi lễ nầy đã
lưu truyền từ
thượng cổ chưa được
tiêu chuẩn hóa.
Nghi thức tưởng niệm [và
cúng dường] ở đây
hoàn toàn được thuyết trong
Pháp Hoa Sám Pháp (Samantabhadra) của
Thiên Thai Trí Khải Đại Sư.
167 Chan-jan (T46.190c7-11) nói về
nghi thức cung thỉnh: {Trong tất cả
trường hợp,
hành giả phải
thành tâm.
Hành giả dùng thân lạy nằm dài mặt úp xuống mặt đất (li).
Đại khái về những động tác lạy nầy như sau: Hai đầu gối chạm [mặt đất] trước, hai cùi chỏ
tiếp theo, và sau cùng trán chạm đất, khiến cả thân người nằm dài trên mặt đất.
Hành giả thấy rằng chính mình đang phủ phục dưới
chân Phật, rồi đưa tay đỡ lấy
chân Phật, khi Ngài ở ngay
trước mắt hành giả. Trong tư thế gối quỳ, đầu và hai cánh tay thẳng, thân cúi nhẹ nhàng, hai bàn tay chắp lại, ngay ngắn trước Phật. Người thời nay hầu hết không giữ lễ nầy, và
hoàn toàn lướt qua cách quỳ lạy đúng phép. Bao lâu mà vòng dây
kiêu mạn chưa bị cắt bỏ thì
biển nghiệp sẽ khó mà vượt qua}.
168 Chan-jan (T46.190c15-16) nói: {Tư duy được nói đến trong mục
Chỉ và Quán Tâm}.
169
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (T21.645b27-29) chỉ nói
đại cương về
nghi thức: gội rửa
thân thể ba lần mỗi ngày, thay đổi quần áo, nhiễu quanh 120 vòng, và tụng đọc
thần chú, ngồi xuống
tư duy, lại
tiếp tục đọc tụng và
đi nhiễu quanh. KCPL,
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.943b) thiếu phẩm thứ 5 nói
chi tiết về
nghi lễ.
Sự khác biệt quan trọng giữa các bản văn Maha
Chỉ Quán và KCPL ở đây là trong bảy câu cuối (Bắt đầu ngày thứ hai...) bản trước (T46.13b21) nói: {từ giai
đoạn hoặc thời thứ hai bỏ qua phần cung thỉnh}, trong khi bản sau nói: {từ ngày thứ hai, bỏ qua phần cung thỉnh}. Chan-jan (T46.190c16-17) đưa ra: {Đây là giữa thời buổi sáng, vòng lễ thứ nhất vừa xong, và vòng lễ thứ hai bắt đầu. Không
cần phải cung thỉnh
chư thiên [
một lần nữa] mà thẳng vào lễ cung bái chư Phật.} Kogi (1.469) không
đồng ý, và bênh vực bản văn KCPL,
Phương Đẳng Sám Pháp bằng cách duyệt lại những
phương tiện thực hành nghi lễ Phật giáo.
Căn cứ vào những
chứng cớ trong
Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi (Fa-hua san-mei ch’an-ì) (T46.950a 21-23, 954b 14-17) [của
Trí Khải], lối
giải thích của Chan-jan đã
minh bạch.
170 Chan-jan (T46.190c 17-20) nói: {Đây là bản văn làm rõ nghĩa
phương pháp quán tưởng thực tướng (shih-hsiang kuan-fa). Từ đó
giải thích pháp quán được
áp dụng đối với
hiện tượng (li-shih kuan-fa), tất cả các kinh hoặc luận đều như vậy, không riêng gì đoạn văn ở đây}.
171 Mo-ho-t’an-ch’ih t’o-lo-ni, là phần chú chính trong bảy ngày lễ. Mo-ho dịch từ
Phạn ngữ Maha có nghĩa là đại; chữ T’an trong Hoa ngữ có nghĩa là
mang đi, hoặc ngăn chận; chữ ch’ih có nghĩa là làm
an ổn. Chữ T’an có thể được dịch từ chữ da trong
Phạn ngữ, nghĩa là cho, như Mochizuki (Bukkyo daijiten, 4.3183d-3184a) đề nghị, chữ Mahadahana là làm bùng cháy như thiêu rụi
ô nhiễm.}
172 Lối dịch nầy của
Trí Khải không
dựa vào kinh hoặc tựa đề của
thần chú.
173 Chan-jan (T46.190c28-29) có thể đưa ra những
diễn đạt tương tự trong
kinh Pháp Hoa và
kinh Niết Bàn nói: {‘Đại’ chỉ cho
sự kiện hiển hoặc ẩn
thiên kiến [nghiêng] về Tiểu [pháp]. ‘Mật’ có nghĩa rằng tất cả pháp trong đó chỉ là một pháp; ‘Thể’ có nghĩa một pháp bao trùm tất cả pháp.}
174 Chan-jan (T46.191a 22-23) nói: {Điều nầy muốn nói người tự
trói buộc vào
tam muội.}
175 Theo Chan-jan (T46.191a 23-24).
176 Giản lược từ
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, T21.645a 11-22.
177 Mười tám Không được nói rõ trong
Đại Trí Độ Luận, T25.285b-296b,
diễn đạt mười tám phủ nhận hoặc
chứng ngộ về Không, bắt đầu với
nội Không,
ngoại Không,
nội ngoại Không và
chấm dứt với
vô pháp,
hữu pháp Không. Bản Anh ngữ (thêm vào đến hai mươi mục), đọc
phụ lục của Murti, The Central Philosophy of Buddhism, pp.351-356.
178 T12.756c.
Kinh Niết Bàn giải thích ở đây về
giáo lý các pháp có
tự tánh (svabhava) chỉ là [để nói với] kẻ
thế tục. Rằng các
pháp không có
tự tánh là
giáo lý dành cho người trí, bởi vì thực sự không có gì để thấy.
Bát Nhã không thể được
tu tập,
Niết Bàn không phải để bước vào,
lục độ,
ngũ uẩn,
Như Lai, tất cả là Không. Phật dạy rằng: {Đó là
lý do tại sao tại
thành Ca Tỳ La Vệ, Ta dạy
A Nan đừng sầu thảm}(vì cái họa xảy ra cho thành và dân trong thành).
A Nan thưa rằng: {Bạch
Thế Tôn, tất cả
quyến thuộc của con đã bị hại, làm sao con lại không buồn khổ? cả
Như Lai và con đều sinh ra trong thành nầy, là thành phố của bộ tộc
Thích Ca, và có cùng
quyến thuộc. Tại sao chỉ riêng
Như Lai là không ưu sầu?}. Phật
trả lời: {Nầy A Nan! Ngươi nhìn
thành Ca Tỳ La Vệ như một cái gì đó thực sự có mặt, nhưng Ta thấy đó là
không tịch và bất hữu. Ngươi nhìn tất cả bộ tộc
Thích Ca là của ngươi, nhưng vì Ta dùng cái thấy Không, Ta không thấy bất cứ điều gì trong đó thực sự
hiện hữu.
Vì vậy, ngươi trở nên cực kỳ buồn thảm, trong khi thân và dáng vẻ của Ta càng ngời sáng
như tự bao giờ.}
179 Phần còn lại của bản văn Maha
Chỉ Quán về
phương đẳng sám pháp thì
hoàn toàn gần gủi (và có thể
căn cứ vào) một
đề mục trong
tác phẩm KCPL,
Phương Đẳng Sám Pháp, mang tựa đề ‘Biểu Tượng Của Nghi Lễ’ (T46.798a 20-b18). Ở đây chữ phương cũng có nghĩa là sự chỉ dẩn, với bốn cửa
tượng trưng cho bốn cửa nền tảng.
Ẩn dụ về ao nước tịnh thanh lấy từ kinh Pancavamsati và những bản luận quanh kinh nầy,
Đại Trí Độ Luận, T25.640c. Ở đây ngài
Tu Bồ Đề được xem là người ‘vào được cửa’
bát nhã ba la mật., nhưng Phật vẫn
chỉnh đốn tôn giả,
giải thích rằng tiềm năng
chứng đạo của một
hành giả không
tùy thuộc vào
căn tánh sắc bén hoặc trì trệ, mà
tùy thuộc vào [chánh]
tinh tấn, [chánh]
tư duy, và [chánh] định. Ngài
phân biệt ‘bốn cửa’ hoặc
pháp môn khế hợp
căn cơ chúng sinh. Về sau
Thiên Thai Trí Khải làm
sáng tỏ bốn cánh cửa như bốn mặt của
hiện hữu:
Hữu Môn,
Không Môn,
Diệc Hữu Diệc Không Môn, và
Phi Hữu Phi Không Môn.
180 Chan-jan (T46.191b13-14) nói: {Trong sự
thực hành pháp quán,
hành giả trước hết phải
tu tập Không và Giả. [Các chữ] ‘trước hết tu tập’ có thể cũng muốn nói rằng
hành giả áp dụng [
nghi thức]
sự tướng như
căn bản thực tập pháp quán.}
181 Trong bốn nhà
chú giải, không có ai đưa ra
xuất xứ ẩn dụ nầy thuộc kinh nào.
Chúng tôi đi theo Chan-jan (T46.191b17-23) là người đã đưa ra chú thích về chữ ‘tràng’ (ch’ang) lấy từ cặp chữ ‘đạo tràng’ (tao-ch’ang) như một phần của cánh đồng, nơi mà sau khi những bông lúa đã được gặt, mặt đất
trở lại bằng phẳng và lún xuống để có thể dùng làm chỗ đập lúa. Năm cơ sở hoặc
nền móng có thể chỉ cho năm
nền móng ảo vọng hoặc
ô nhiễm (vasabhumi), dù rằng không nói rõ như Chan-jan ở đây. Kinh Thắng Man (Srimala) (T12.230a-c) ghi là: (1)
kiến hoặc trong
ba cõi,
tu hoặc trong các (2) cõi Dục, (3) cõi Sắc, (4) cõi
Vô Sắc, và (5)
căn bản vô minh. Chan-jan thay đổi như sau: (1)
kiến hoặc và (2)
tu hoặc (cả hai để vào chung như những
chướng ngại từ sự chấp giữ
hình tướng), (3)
trần sa hoặc, (4)
căn bản vô minh. Đọc Nitta, Tendai jisso-ron no kenkyu, pp.448-454.
182 Về việc nên là phướn lụa không thấy nói đến trong Maha
Chỉ Quán có trước (T46.13b3), nhưng thấy trong kinh cũng như trong KCPL
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.797b4-5).
183 Chan-jan (T46.191b22-23) nói: {Vọng tưởng tức
pháp giới; vì thế chúng ‘không cách ly’}.
184 Chan-jan (T46.191b23) nói: {Hương thơm của
giới hạnh lan tỏa khắp nơi, ánh
sáng trí tuệ chiếu rạng tròn đầy}.
185 Chan-jan (T46. 191b24): {Phật với
trí tuệ giác ngộ viên mãn trụ trong Không tức
cảnh giới của lý (li).}
186 Đây là nhẫn thứ năm trong
ngũ nhẫn (ksanti) được nói đến trong
Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh (Jen-wang pan-jo p’o-lo-mi ching), T8.826b-827b, nơi mà
con đường đưa về
Phật giới hổ tương với hạnh nhẫn đắc được qua (1)
hàng phục phiền não, (2) tín, (3)
thuận đạo, (4)
vô sinh pháp nhẫn, và (5) tánh
tịch diệt (
Niết Bàn) của chính
Phật giới.
187
Thất Bồ Đề Phần (bodhyanga): (1) Niệm, (2)
Phân biệt các pháp, (3) Hỷ, (4)
Khinh an, (5) Xả, (6) Định, (7)
Tinh tiến.
188
Tam chướng gồm có phiền não, nghiệp, và báo.
Tam tuệ (
dựa vào Đại Trí Độ Luận, T25.257c-260c) là
nhất thiết trí (tức Không, sarvajnata),
đạo chủng trí (margakarajnata), trong đó
văn từ của
Thiên Thai Tông hợp với cái thấy Giả, và
nhất thiết chủng trí (sarvakarajnata) hoặc
Trung Đạo. Chan-jan (T46.191c6-7)
chú giải: {‘Rằng cái bị
gột rửa là
phiền não, cái làm việc
gột rửa là quán. Vì thân không phải là
bất tịnh, chủ thể và đối tượng
đồng thời thanh tịnh.}
189 [Hạnh] thứ năm trong mười
thanh tịnh hạnh hoặc những
giới luật được ghi lại trong
Thứ Đệ Thiền Môn (T’zi-t’i ch’an-men, T46.484c22-23), và Maha
Chỉ Quán (T46.36c27-28); cái thứ sáu trong Maha
Chỉ Quán (T46.17a). Cũng chỉ cho những ‘giới thuận với đạo’, thứ bậc
trì giới nầy được xem là ‘phát sinh với đạo’ vì đây là chỗ
thực chứng thứ nhất của
trí tuệ và bước vào cõi thánh (arya). Theo
A Tỳ Đạt Ma Câu Xá (Abhidarmakosa, T29.72b), đây là giới cao nhất trong ba giới của
Tiểu Thừa,
liên quan đến việc
tu tập của bậc thánh. Đây là kết quả của thiền
vô lậu (anasrava) trong các cõi Sắc và
Vô Sắc.
190 Theo Muranaka, p.133. Chan-jan (T46.191c9-10) nói: {Gọi là ‘bảo toàn sự ứng hợp’ vì các
pháp thành tựu không
sai lầm.
Thần chú diệt ba
điên đảo không sai lệch có nghĩa rằng ‘phù hợp’.
191
Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp Kinh (Pu-sa ying-luo pen-yeh ching, T24.1015a), mười
pháp như sau: (1) thấy 12 như ngã, (2) tâm là 12, (3) 12 là
vô minh, (4) 12
phát khởi trong nhau, (5) 12
giúp nhau thành tựu, (6) 12 trong
tam nghiệp (thân, khẩu, ý), (7) 12 trong ba thời, (8) 12 trong
ba loại khổ, (9) 12 như
vô tự tánh, (10)
sinh khởi 12.
Bản kinh không nói về
ý nghĩa của mười pháp nầy.
192 Chúng được biết là ba
điên đảo (san-tao) bởi vì: (1) Gốc rễ
phiền não (klesa) tạo nghiệp, (2) nghiệp (karma), đưa đến (3) khổ (duhkha) trong
hình tướng liên quan với nhau. Khổ
đi vòng sinh ra
phiền não khác. Như nói ở trên, chúng có từ
tam chướng (san-chang). Có thể nói rằng chúng là sự cô đọng của vòng xích
mười hai nhân duyên.
193
Sám hối thuận với lý tẩy xóa gốc rễ
vô minh qua
trí tuệ thấy được
tánh Không, vì
sám hối qua
sự tướng chỉ
ảnh hưởng trên những
yếu tố thuộc
hiện tượng và tiềm năng hổ tương. (Đọc Maha
Chỉ Quán, T46.39c3-41c6). Các
lập luận xuất sắc của
Trí Khải về các
hình thức sám hối khác nhau, đọc
Thứ Đệ Thiền Môn, T46.485b6-487a16.
194
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, T21.656b1-4, 26. Chan-jan (T46.191c6-7) nói: {Người
vi phạm những
lỗi nặng nề là một kẻ đã chết. Nhưng [
sám pháp nầy] có thể mang sự
thanh tịnh trở lại cho người ấy và mang lại cho đời
ý nghĩa của
giới luật. Nếu
thực hành pháp sám hối đầy đủ thì không có
tội lỗi nào không thể
ngăn ngừa được}.
195 KCLP,
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.796b) trước hết làm
xứng hợp tam đảo với
thập nhị nhân duyên. Theo đó,
phiền não hợp với [móc xích] thứ tám và chín (ái và thủ), nghiệp hợp với [móc xích] hai và mười (hành và hữu), khổ hợp với [móc xích] ba và bốn (thức và
danh tướng) v.v ... Những đoạn
văn từ kinh sau đó theo đây mà gọi là
tam chướng thay vì
tam đảo.
196
Xuất xứ đoạn văn nầy chưa tìm được thuộc kinh nào. KCPL,
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.796c) đưa ra một đoạn văn
hoàn toàn khác từ
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (T21.645c2-7): {Bất cứ ai khổ vì bệnh phong hủi, hãy nên
nhất tâm sám hối thì sẽ được cứu}.
197 Cùng chỗ, T21.653b-c.
198 Chan-jan (T46.192a 9-11), dẩn chứng ‘Đại Trí Tuệ’ (Mahavibhasa) nói rằng trong mười hai
duyên khởi (pratiya-samupada), hai vòng đầu tiên (từ
quá khứ) có thể được nhìn là gốc cội [cây]
luân hồi, năm vòng
kế tiếp (thuộc
hiện tại) là thân và nhánh, ba vòng
kế tiếp (thuộc
hiện tại) là hoa, và hai vòng sau cùng (thuộc tương lai) là quả.
199 Từ ‘Đại
Phương Đẳng Đà La Ni Kinh’, T21.645b11-12.
200 Bản văn trong Maha
Chỉ Quán, từ giữa câu thứ hai xuống đến dòng cuối đoạn văn được
rút ngắn cùng chỗ. T21.647c22-648a 16.
201 Cùng chỗ, T21.649a 16-20.
202
Pháp Hoa Tam Muội lấy tên và mặc khải từ
kinh Pháp Hoa là
bản kinh lớn trong các kinh quanh các
nghi thức lễ bái tề chỉnh và dùng để chỉ dẩn lề lối
nghi lễ (về nền tảng, đọc Shioiri, Hokke sembo to shikan, pp. 307-336). Vào
thời kỳ phôi thai của
Thiên Thai Tông, có hai môn
căn bản được xem là
Pháp Hoa Tam Muội: môn thứ nhất là
Pháp Hoa Sám Pháp (fa-hua ch’an-fa) hoặc
Phổ Hiền Sám Pháp (p’u-hsien ch’an-fa) là
nghi lễ kéo dài 21 ngày được bố cục
cẩn trọng dựa vào phẩm 28 (
Phổ Hiền Khuyến Pháp)
kinh Pháp Hoa, và ‘Quán
Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh’ (Kuan p’u-hsien p’u-sa hsing-fa ching, T no.277).
Bản kinh sau được xem là nói rộng về phẩm kinh cuối của
Pháp Hoa) được ngài
Pháp Tú (Dharmamitra) dịch vào đầu thế kỷ thứ năm, cùng với một
bản kinh khác được cho là tương quan với
Pháp Hoa là kinh ‘Vô Lượng Nghĩa’
đúng lúc nới rộng vùng [
ảnh hưởng] của
kinh Pháp Hoa.
Môn thứ hai là đối với
Pháp Hoa tam muội được biết là ‘An Lạc Hạnh’ (an-le hsing),
dựa vào phẩm thứ 14 của
kinh Pháp Hoa. Khác với
nghi lễ sám hối 21 ngày,
An Lạc Hạnh không được bố cục [
nhất định]-
hình thức hoàn toàn uyển chuyển và có thể kéo dài- và lối trình bày dành cho những
hành giả thượng căn là những người muốn nhẹ phần
nghi thức, chú trọng phần
tu tập tam muội dài lâu.
Giới học giả
cho biết rằng
Pháp Hoa /
Phổ Hiền Sám Pháp đã từng được
tu tập rất nhiều trước và bên ngoài
cộng đồng Thiên Thai Tông; nhưng [lối
thực tập nầy] thì
đặc biệt khác với
nghi thức 21 ngày của
Trí Khải và ‘An Lạc Hạnh’ của
tôn sư Trí Khải là ngài
Tuệ Tư. [
Pháp môn] nầy lần đầu tiên được ngài
Tuệ Tư nói đến trong ‘Pháp Hoa Kinh
An Lạc Hạnh Nghĩa’ (Fa-hua ching an-le hsing i, T46.700a 9-b8) cũng như trong ‘Pháp Hoa
Tam Muội Sám Nghi, (T46.949c12 và 955b18-c4) của
Thiên Thai Trí Khải- là hai tập luận trong
thời kỳ sơ khởi của
Thiên Thai Tông, dẩn chứng từ
Thiên Thai Pháp Hoa Tam Muội. Rất nhiều bài giảng trong
tác phẩm Maha
Chỉ Quán đặt
trọng tâm vào [
phương pháp]
tu tập Pháp Hoa tam muội từ hai
tác phẩm nầy. Phần nói về
Pháp Hoa tam muội trong
thời kỳ phôi thai của
Thiên Thai Tông, đọc Stevenson, The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism, pp.67-72.
203 Mười pháp căn cứ trực tiếp từ ‘Pháp Hoa
Tam Muội Sám Nghi’ của
Trí Khải (từ đây gọi
đơn giản là
Sám Nghi (Ch’an-i). ‘Sám Nghi’ được phân ra năm phẩm chính: Khuyến tu,
Phương tiện thiện xảo, Cách giữ
nhất tâm chuyên chú khi vào
đạo tràng,
Phương pháp thực hành nghi lễ, Làm
sáng tỏ những dấu hiệu
thành tựu. Phẩm thứ tư, ‘Thực Hành’ lại chia làm mười mục đưa ra nhưng
chi tiết căn bản về cung cách, dáng vẻ, và lời
thỉnh nguyện trong buỗi lễ.
Mười phương pháp đưa ra ở đây trong Maha
Chỉ Quán hợp với
mười phương pháp trong phẩm ‘thực hành’ thứ tư, ngoại trừ không có
đề mục thứ 5 (
Xưng tán Tam Bảo) của chánh bản ‘Sám Nghi’, và phẩm thứ năm ‘Làm
sáng tỏ những dấu hiệu thực chứng’ được đưa vào như
đề mục thứ 10. Đọc T46.950a17-23; về bản dịch
tác phẩm ‘Pháp Hoa
Tam Muội Sám Nghi’ của
Thiên Thai Trí Khải, đọc Stevenson, The T’ien T’ai Four Forms of Samadhi, pp.468-537.
204 Như với
phương đẳng sám pháp,
nghi thức thanh tịnh trước hết là sơn quét, trải
nước thơm, và dựng một
bàn thờ.
Tuy nhiên, trong
nghi lễ nầy không có
tôn tượng của
chư thiên, chỉ một
bản kinh Pháp Hoa được đặt trên
bàn thờ [như một đối tượng] để
lễ bái. Đọc
Sám Nghi, T46.950a 27-29.
Áo tràng mới hoặc sạch được mặc trong
đạo tràng.
Trong suốt bảy ngày trước khi
cử hành buổi lễ, những người
tham dự phải
thanh tịnh thân tâm,
chuyên tâm,
thực tập những
nghi thức, và ghi nhớ lời
thỉnh nguyện. (Đọc ‘Sám Nghi’, T46.949c13-21 và 950b9-13).
205 Sự
cúng dường thân, khẩu, và ý đối với
tam bảo thường trụ khắp
pháp giới bằng
phương tiện dâng hương và tưởng niệm đã nói đến trong
phương đẳng sám pháp ở trên (ghi chú 166). Thường được đề cập đến trong
giáo lý Thiên Thai Tông như ‘tam nghiệp cúng dường’, thể thức nầy có nói rõ trong
Sám Nghi (T46.950b14-c3): Bắt đầu với
thắp hương, một tay nâng bát hương, miệng
xưng tán và
lễ lạy tam bảo thường trụ khắp
mười phương. Như ‘Quán Phật
tam muội hải kinh’ (Kuan fo san-mei hai ching, T15.695a), khi cất lời
xưng tán,
cúng dường theo khói hương,
phảng phất khắp
mười phương Phật quốc. Ở đó mưa pháp ban bố cho muôn vạn
chúng sinh. Đọc KCPL,
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.797b6-12), KCPL, Kinh Lễ Pháp (Ching li-fa, T46.794a3-6), KPLC, Thỉnh
Quán Thế Âm Sám Pháp (Ch’ing kuan-shih-yin ch’an-fa, T46.795c7-12), và Maha
Chỉ Quán (T46.13b15, 14c28-29)
206 Như trong
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.797b) và Thỉnh
Quán Thế Âm Sám Pháp (T46.795b-c) cung thỉnh
tam bảo tại
đạo tràng dưới
hình thức đặc biệt- tức Phật, Pháp và Tăng thời
Pháp Hoa (đọc
Sám Nghi, T46.950c-951b).
207
Chư thiên trong buỗi lễ (
biểu tượng của
tam bảo) được cung thỉnh qua ba cách
xưng tán,
lễ lạy, và
đồng thời tưởng niệm như chư vị
ứng hiện. (Đọc
Sám Nghi, T46.951b-952b).
Sám Nghi, (cũng như hầu hết
nghi lễ của
Thiên Thai Tông) bắt đầu
nghi lễ với lời
xưng tán chư Phật. Đọc
Sám Nghi (T46.951b), và KCLP, Kinh Lễ Pháp (T46.794a 26), KCPL,
Phổ Lễ Pháp (T46.795a 22), KCPL,
Phương Đẳng Sám Pháp (T46.797b18-20).
208 Tụng đọc sáu đoạn văn
sám hối tổng quát các
tội lỗi sáu căn đã phạm (trích từ kinh ‘Quán Phổ Hiền’, T9.391c-392c). Theo
bản kinh (T9.391a 1-5) pháp
sám hối nầy khiến ‘sáu căn được thanh tịnh’ (liu ken ch’ing-ching) là chỗ mà
Thiên Thai Tông nói rằng tương đương với
quả vị Thập Tín hoặc
Tương Tự Tức (đỉnh
thánh vị và
bất thoái chuyển) của
Viên Giáo. ‘Sám Nghi’ (T46.952b-953b) xếp chung
sám hối với bốn
đề mục khác vào một thứ tự gọi là ‘Ngũ Hối’ (wu-hui) của
Thiên Thai Tông:
sám hối,
khuyến thỉnh,
tùy hỉ,
hồi hướng, và
phát nguyện.
209 Đọc
Sám Nghi, T46.953b29-c16.
Đọc tụng kinh Pháp Hoa trong khi
đi nhiễu quanh.
210 Theo
Sám Nghi, T46.953c-954a, có thể tụng đọc một phẩm
An Lạc Hạnh nếu
hành giả không
thuần thục kinh Pháp Hoa. Có thể tụng
đọc kinh vào lúc
ngồi yên tịnh sau khi
đi nhiễu quanh.
211 Cùng chỗ, T46.954a-b.
Sám Nghi cho rằng giai đoạn
đi nhiễu quanh và
ngồi yên tịnh cũng như
tư duy và
đọc tụng kinh, có thể
tùy theo khả năng và
tâm trí của
hành giả.
212 Thay vì là một phần trong
nghi lễ, ‘phân định những dấu hiệu thành tựu’ chỉ cho phẩm thứ năm sau cùng của
Sám Nghi (T46.954b-955c) , trong đó những hình thái khác nhau từ
nghi thức được phân loại thành ba bậc.
213 Được hiểu là
Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi, T no. 1941 thực sự do
Trí Khải viết.
Tuy nhiên, một [
tài liệu] Taisho
gần đây (và giới có
thẩm quyền Trung Hoa) vớí tựa đề ‘Pháp Hoa
Tam Muội Sám Nghi’ đưa ra một
lập luận rằng
tác phẩm nầy được soạn và
lưu hành bởi ngài
Tuân Thức (Tsun-shih) (964-1032) vào thời Bắc Tống. Bài
bình luận đặc sắc về
tác phẩm nầy, đọc Sato, Tendai daishi no kenkyu, pp.127-151.
214 Luận về
đề mục Chỉ và Quán đối với Ý, Chan-jan (T46.192b21-22) ghi chú: {Hành giả cũng nên nói rằng
Chỉ và Quán tâm cũng
liên quan đến [những nghiệp khác của thân và khẩu]. Phần
lưu thông riêng biệt [của
Sám Nghi] [luận về pháp quán] được
nghiên cứu trên nền tảng bốn mặt. Vì thế, [
Trí Khải] khai triển pháp quán nầy qua [
biểu tượng của] một con voi}.
215 ‘Quán
Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh’, T9.389c. Nội dung đoạn văn ghi lại trong kinh như sau: {Nầy
A Nan, nếu có
tăng ni,
cư sĩ nam nữ, trời, rồng, tám loài
phi nhân, hoặc bất cứ
chúng sinh tụng
đọc kinh điển
Đại Thừa,
hành pháp Đại Thừa, và sinh tâm
Đại Thừa; nếu người ấy muốn thấy được
thân tướng của
Bồ Tát Phổ Hiền, tháp Phật
Đa Bảo, Phật
Thích Ca Mâu Ni và những
hóa thân của vị Phật nầy; nếu người ấy muốn sáu căn thanh tịnh- thì nên học pháp quán nầy, là pháp mà
công đức có thể
san bằng chướng ngại, khiến người ấy thấy được thân
vi diệu của
Bồ Tát Phổ Hiền. Mặc dù chưa vào được
tam muội, nhưng vì tụng đọc và ghi nhớ
kinh điển Đại Thừa, không dừng quy hướng từng
tâm niệm, không để
cách biệt vớí
Đại Thừa, từ một ngày
cho đến ba-lần-bảy-ngày, người ấy sẽ thấy được
Bồ Tát Phổ Hiền.}
216 Đọc ‘Quán
Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh’, T9.390c27-319a5. Sáu
sám pháp được ghi lại trong những trang sau.
217 T9.37a. Câu văn bỏ lững được đọc như sau: {Nhưng nhìn tất cả các pháp với
thực tướng của chúng}. Đọc Hurvitz, p. 208.
218 Muranaka (p.135) cho rằng câu văn nầy có nghĩa: {Hai
bản kinh phụ lục hoặc làm đầy đủ cho nhau}.
Trí Khải nhìn ‘Quán
Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh’ như một
bản kinh chính nằm trong vùng
ảnh hưởng của
Pháp Hoa; như vậy có thể là một lối
giải thích trực nghĩa.
219 Hai đoạn văn trước được ngài
Tuệ Tư đưa ra như
căn bản khác biệt giữa ‘vô tướng
an lạc hạnh’ (
chánh hạnh) và ‘hữu tướng
an lạc hạnh’ (qua
nghi thức 21 ngày
Pháp Hoa sám pháp). Đọc
Pháp Hoa An Lạc Hạnh Nghĩa ( T46.700a 18-b7). Hẳn nhiên là có những lối nhìn khác nhau trong
cộng đồng Thiên Thai Tông đối với
vai trò của hai
pháp môn nầy; sau cùng
Trí Khải và
Quán Đảnh đi qua nhiều
lãnh vực để
kết hợp vào những câu văn
theo sau.
220
Pháp Hoa, T9.37a; Hurvitz, p.208.
221
Pháp Hoa, T9.38a; Hurvitz, p.216.
222
Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh, T9.392c. Đây là từ một đoạn kinh
nổi tiếng: {Tội lỗi là gì? Phước hạnh là gì? Vì tâm người chính nơi đó là Không, tội và phước không có chủ thể. Tất cả các pháp khác cũng đều như vậy: chúng không trụ, không diệt. Một
sám pháp như vậy- trong đó
hành giả quán tâm không có tự thể, và những pháp khác không trụ trong chính chúng, nhưng thấy rằng tất cả các pháp đều
buông xả, là
diệu lý tịch diệt- đây gọi là đại
sám hối, một
sự sám hối
trang nghiêm huyền vi, một
sự sám hối thoát ra tất cả các tướng của
tội lỗi, một
sự sám hối phá vỡ tâm và thức}.
223 Cùng chỗ, T9.393b.
224 Trong
Sám Nghi (T46.949c5-946a 15, và 955b-c)
Trí Khải giới thiệu sự khác biệt giữa ‘phát huy
nhất tâm kiên trì trên
căn bản sự (shih) và
nhất tâm kiên trì trên
căn bản lý (li)’, theo đó
đề mục nầy được đưa ra.
Sám Nghi cẩn thận ghi rằng cả hai
phương pháp có thể được
áp dụng cho
nghi thức 21 ngày
Pháp Hoa sám pháp,
tùy thuộc vào khả năng của
hành giả.
Tuy nhiên, hạnh
an lạc càng uyển chuyển thì càng
đi thẳng vào
lý quán.
225
Tôn giả Tuệ Tư, ‘Pháp Hoa Kinh
An Lạc Hạnh Nghĩa’ (Fa-hua Ching an-le hsing i / T46.700a 18-b7) nói: {Vô tướng hạnh (wu-hsiang hsing) không gì hơn là
an lạc hạnh (an-le hsing) [của
kinh Pháp Hoa]. Trong khi giữa các pháp, [
hành giả quán tưởng rằng] tánh của tâm thì
tịch diệt,
tuyệt đối không sinh khởi. Vì
lý do nầy nên gọi là ‘Vô Tướng Hạnh’.
Hành giả luôn đi sâu vào tất cả những hình thái định thâm vi, vì trong những
oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, an, nói ... tâm
tôn giả đều trụ trong
tam muội. Bởi vì không có cái tâm
bềnh bồng nào cả, nên gọi là
vô phân biệt hạnh ... Hơn nữa, có loại
tu tập tương ưng với
sắc tướng, như
đọc tụng kinh Pháp Hoa, và
cố gắng [
hàng phục] cái
tâm tán loạn như được dạy trong phẩm ‘Phổ Hiền khuyến phát’. Một người
tu tập phương pháp nầy, chẳng tu định, chẳng nhập
tam muội. Hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, người ấy đều tập trung vào hai chữ
Pháp Hoa, và
nhất tâm trì niệm không nằm xuống ngơi nghỉ,
ví như người ấy biết có đốm lửa đang cháy trên đầu. Đây gọi là lối
thực hành tương ưng với tướng [được nói] trong bản văn.}
226 Theo Chan-jan, T46.192c14-17.
227
Biểu tượng của ngài
Phổ Hiền trình bày dưới đây trích từ một đoạn trong ‘Quán
Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh’ (T9.389c-390a): {Với
tuệ lực,
Bồ Tát Phổ Hiền trên voi trắng sáu ngà và bảy chân
hiện thân trước
hành giả. Dưới bảy [bàn] chân nở bảy cánh sen. Voi trắng ngần trong hơn
pha lê hoặc [đỉnh tuyết]
Hy Mã Lạp Sơn, thân lớn 450
do tuần, cao 400
do tuần. Đầu mỗi cái vòi là một ao nước, trổ những cây hoa trời (parijata). Trong mỗi đài hoa có một
thiếu nữ diễm lệ dáng vẻ tươi sáng hơn một
thần nữ, với năm cây đàn thụ cầm
thần biến trong hai tay, và năm trăm nhạc cụ theo với mỗi cây đàn ... Trên đầu voi trắng có ba thần nam: một người cầm trong tay một chiếc
luân bảo bằng vàng, một người cầm ngọc bích, và một người cầm gậy
kim cương dùng để điều khiển voi. Voi không bước trên đất nhưng bảy chân bước giữa
hư không, mỗi
dấu chân có hàng ngàn
luân tướng vi diệu. Giữa mỗi
luân tướng có một
hoa sen lớn, và từ mỗi
hoa sen lại
hóa hiện ra một voi khác với bảy chân,
đi theo voi đầu tiên, khiến từng bước đi có bảy ngàn voi khác
theo sau như
quyến thuộc ... Trên lưng voi là một vị
Bồ Tát ngồi kiết già dáng
hoa sen, hiệu là
Phổ Hiền,
thân tướng trong sáng như ngọc ... với
hào quang tỏa ngời từ mỗi lổ chân lông trên thân.}
228 Sáu
thần thông vô lậu.
229 Shiki (1.493) trích từ
kinh Duy Ma Cật (T14.549c) là
xuất xứ của đoạn nầy: {Nước tịnh đổ đầy ao nước tám giải thoát}.
Tám giải thoát chỉ cho tám loại
thiền định phù hợp với
tứ thiền và tứ
vô tướng tam ma địa (samapatti).
230
Diệu nhân là
đại hạnh của
Bồ Tát Viên Giáo. Như được nói trong
tác phẩm ‘An Lạc Hạnh’ của
tôn giả Tuệ Tư (T46.698b-c) và ‘Pháp Hoa Huyền Nghĩa’ của
Thiên Thai Trí Khải (T33.682b, 771c-774c), đài hoa
tượng trưng nhân và quả. Trong
Viên Giáo, nhân và quả
đồng thời, không phải trước sau. Nền tảng
tu hành thuộc nhân,
đồng thời là quả
giải thoát.
231 Tứ nhìếp pháp (samgraha-vastuni) là những
phương pháp hàng phục chúng sinh và đưa về
giác ngộ,
gồm có:
Bố thí (dana), cho
chúng sinh cái họ muốn, hoặc là tài vật, hoặc là
giáo lý;
ái ngữ (priya-vadita) hướng dẩn tâm
chúng sinh bằng lời và ý; lợi hành (artha-carya) làm phát sinh
thiện hạnh của
chúng sinh qua thân, khẩu, và ý;
đồng sự (samanarthata) hướng dẩn
chúng sinh hành xử giống như người hướng dẩn hành xử.
232 Phổ-hiện-sắc-thân-tam-muội (P’u-hsien se-shen san-mei) thường được hiểu như một sự
thị hiện siêu việt trong
câu chuyện của nhiều vị
Bồ Tát trong
kinh Pháp Hoa. Đọc Hurvitz, pp.294, 307-309, cũng như ‘Quán
Phổ Hiền Kinh’. Tdusa Sokichi, trong phần luận về
Pháp Hoa tam muội, đã nhìn như một biểu đồ
tương nhập tam đế, và
thần lực phổ độ là quả [vị] của
Thiên Thai Viên giáo và
Pháp Hoa Tam Muội. Đọc Tdusa Sokichi, Chigi no hokkezammai.
233
Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh, T9.390c, nói: {Sau khi
thực hành phương pháp nầy ngày và đêm suốt ba lần bảy ngày,
hành giả sẽ chứng được
văn trì đà la ni. Với
đà la ni nầy, người ấy sẽ ghi nhớ và không quên pháp được nghe từ chư Phật và chư Bồ Tát}. Phẩm ‘Phổ Hiền’ trong
kinh Pháp Hoa cũng nói
tương tự: {[Thấy được Ta] người ấy liền chứng được
tam muội và
đà la ni có tên là
văn trì đà la ni.}(Hurvitz, p.333).
Thiên Thai Trí Khải, khi
giải thích về đoạn
kinh Pháp Hoa nầy trong ‘Sám Nghi’ đã nói: {Đà la ni là
đại trí tuệ, vì khi
chứng đắc đại trí nầy,
hành giả có thể
duy trì không bao giờ quên, và hiểu được không
chướng ngại bất cứ những gì
Phật thuyết ra}.
234 Tất cả
mọi người nam nữ trong
cộng đồng Phật giáo: tỳ khiêu, tỳ khiêu ni, người mới
xuất gia,
cư sĩ, và siksamanas (người nữ mới
xuất gia).
235
Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh, T9.393c6-7.
236 Cùng chỗ, T9.389c7-9.
237 Cùng chỗ, T9.389c19-20.
238 Cùng chỗ, T9.391a 12.
239 Cùng chỗ, cả hai đều có ở T9.393b20-21.
240 Cùng chỗ, T9.389c.
241 Cùng chỗ, T9.393b12.
242 Loại thứ tư ‘phi hành phi tọa’ không có ý như một sự phủ nhận hành và tọa, nhưng được đưa ra để đầy đủ bốn
phương pháp có thể
thành lập trên
căn bản của hai lối ‘hành’ và ‘tọa’.
243
Tôn giả Tuệ Tư soạn một tập sách tựa đề ‘Tùy Tự
Ý Tam Muội’ (Sui- tzu-i sam-mei / HTC 98) vẫn còn
lưu truyền đến ngày nay. Thời điểm
tôn giả biên soạn tập sách nầy được nói trong sato, Zoku Tendai daishi no kenkyu, pp.241-268.
Sơ lược về nội dung tập sách và sự tương quan với ‘phi hành phi tọa tam muội’, đọc Stevenson, The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism, p. 75.
244
Giác Ý Tam Muội (bodhyanga samadhi) được ghi là
tam muội thứ 72 trong số 108
Đại Thừa tam muội trong bản dịch ‘Maha
Bát Nhã Ba La Mật Kinh, T8.251b) của
ngài Cưu Ma La Thập. ‘Giác Ý’ là hai chữ được dùng
phổ thông (trước thời ngài
Huyền Trang) để chỉ cho ‘thất giác chi’, tức Niệm,
Trạch pháp,
Tinh tấn, Hỉ,
Khinh an, Định, và Xả. Những
hiệu đính khác nhau trong
văn tự Trung Hoa và Phạn (Pancavimsati)
giải thích rằng {‘Giác
Ý tam muội’ là một
tam muội trong đó tất cả
tam muội tựu thành bảy nhánh
giác ngộ (bodhyanga), và
hành giả đến được chỗ viên mãn}. Đọc
Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, T7.76b18-20; Quang Tán
Bát Nhã Kinh (Kuang-tsan pan-jo ching / T8.192a). Các
kinh luận Trung Hoa,
Đại Trí Độ Luận (T25.401a 25-27),
hoàn toàn xác định lối
giải thích nầy: {Trụ trong
tam muội nầy
hành giả có thể đến được tất cả những
tam muội vô lậu và đưa chúng về chỗ
tương ứng với bảy nhánh
giác ngộ, như một chin khoáng vật shih-han có thể đổi thành một ngàn chin đồng thành vàng.}
Thiên Thai Trí Khải vào khoảng thời gian đầu hoặc giữa
cuộc đời hoằng hóa của
tôn giả, có soạn một quyển ‘Thích Maha
Bát Nhã Ba La Mật Kinh Giác Ý Tam Muội’ (Shih Mo-ho pan-jo p’o-lo-mi ching chueh-i san-mei / T no. 1922; về sau gọi tắt là
Giác Ý Tam Muội).
Tác phẩm nầy rút [
yếu chỉ] từ
tác phẩm ‘Tùy Tự
Ý Tam Muội’ (Sui-tzu-i san-mei) của
tôn sư Trí Khải là ngài
Tuệ Tư, quay sang phát triển và
đi vào những
tác phẩm khác như ‘Tiểu Chỉ Quán’ (Hsiao Chih-kuan) và ‘Maha Chỉ Quán’ (Moho Chih-kuan). Những khái niệm
vén khéo cũng như những đoạn văn chính trong
đề mục ‘phi hành phi tọa’ của Maha
Chỉ Quán, đều từ
tác phẩm ‘Giác
Ý Tam Muội’ mà nói ra. Những
sửa chữa không phải do
Thiên Thai Trí Khải làm, mà do
Quán Đảnh trong
thời gian tôn giả hiệu đính Maha
Chỉ Quán. Phần luận về ngày tháng,
tác giả, và
ảnh hưởng của ‘Giác
Ý Tam Muội’, đọc Sato, Tendai daishi no kenkyu, pp. 173-189. Về
phương pháp định
mô tả trong
tác phẩm, đọc Stevenson, The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism, pp. 75-84.
245 Không kể
ý nghĩa minh bạch của chữ bodhyanga (
giác ý) đã trở nên
quen thuộc với
Trí Khải (đọc
Giác Ý Tam Muội, T46.621c23-622a 9)- ở đây
Trí Khải đưa ra một
ý nghĩa của hai của ‘giác ý’ tách biệt với những
ý nghĩa thường được hiểu qua
kinh luận (như
Đại Trí Độ Luận). Chữ ‘giác’ và chữ ‘ý’ được
Trí Khải sử dụng như động từ, từ đó
giải thích [bốn chữ] ‘giác
ý tam muội’ trong đường lối
thích ứng với ‘Tùy Tự
Ý Tam Muội’ của
tôn sư Trí Khải là
tôn giả Tuệ Tư. Tại sao
Trí Khải lại thay hai chữ ‘giác ý’ vào các chữ ‘tùy tự ý’ để
trở thành tên gọi ‘giác
ý tam muội’ thì vẫn còn là một việc
bí ẩn.
Tuy nhiên, có thể là vì
Trí Khải thấy rằng [những gì
tôn giả viết xuống] trong ‘Giác
Ý Tam Muội’ và Pancavimsati
dựa vào căn bản kinh điển trong việc
thực hành, trong khi ‘Tùy Tự
Ý Tam Muội’ gần với ‘Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội’.
246 ‘Điều phục, tu sửa, và kiên trì’. Đọc Maha
Chỉ Quán, T46.11a 25-26.
247 Bốn
đặc tính mô tả trong ‘fan-chao kuan-ch’a’
chúng tôi định nghĩa là ‘phản chiếu và quán sát’ có một
ý nghĩa cực kỳ quan trọng thường thấy trong những
tác phẩm nói về định của
Trí Khải và
tôn sư là
tôn giả Tuệ Tư.
Phản chiếu,
nghĩa đen là ‘quay
trở lại và làm sáng tỏ’ hoặc ‘quay ngược lại sự chiếu soi của hành giả’ mang
ý nghĩa sơ nguyên
quay về nguồn cội hoặc lật ngược dòng suối trược của tâm tư
ô nhiễm đã tạo nên những sự có mặt từ
mê lầm.
Thiên Thai Trí Khải viết những dòng đầu tiên trong
tác phẩm ‘Giác
Ý Tam Muội’ (T46.621a 10-12) của
tôn giả như sau: {Những ai muốn vượt bờ
sinh tử và đến với
Niết Bàn thì phải
thấu triệt gốc cội của ảo vọng và
thực chứng những yếu tính để đạt đạo. Gốc cội
mê vọng chính nó là
chân thực tại của tâm. Những yếu tính đạt đạo là cái
chúng tôi gọi là ‘phản chiếu’ nguồn tâm.}
Nhắc lại, trong phần luận về ‘tâm
thiện trụ trong sự
thực tập Chỉ và Quán’ của
Trí Khải,
đề mục thứ ba trong mười
đề mục quán chiếu thấy trong nội dung Maha Chỉ Quán-
Trí Khải (T46.56b24-28) nói: {Khi
quay về cội,
trở lại nguồn thì
pháp giới [được thấy là] toàn tịnh. Đây là cái
chúng ta gọi là ‘Chỉ’. Khi
hành giả tu tập ‘Quán’ theo đường lối nầy, tất cả dòng
mê vọng sinh khởi của tâm tư đến chỗ dừng lại. Khi ‘quán chiếu’,
hành giả tư duy rằng, từ chỗ sơ nguyên, tâm
vô minh hoàn toàn tĩnh lặng với
pháp tánh, và, vốn rỗng lặng. Cũng không khác, tất cả những
ý tưởng mê mờ và những [hành động] tốt xấu đều như hư không-
bất nhị và không thể phân ly.
Điều mà
Trí Khải và
tôn sư của
Trí Khải là
Tuệ Tư muốn lộ bày qua [hai
tác phẩm] ‘Giác
Ý Tam Muội’ và ‘Tùy Tự
Ý Tam Muội’ (và
ám chỉ qua những
tác phẩm nói về tứ
tam muội) là ‘quay
trở lại phản chiếu nguồn tâm’ để
tu tập, và ‘bất cứ và tất cả
cảnh giới đều có trong một niệm’.
248
Tam vị nhất thể Tâm-Ý-Thức (Citta-mano-vijnana) mà
Thiên Thai Trí Khải đưa ra ở đây là
một thể thức có cái dụng
thâm sâu trong
truyền thống Phật giáo từ xưa. Vì rằng tự lâu xưa, tâm và thức
trở thành một
vấn đề khó tìm được một lối
giải thích khả dĩ từ
truyền thống Phật giáo Ấn Độ.
Tuy nhiên, nói một cách tổng quát. Manas (ý) trình bày ‘tâm thức’ hoặc ‘ý căn’
hòa hợp năm thức khác làm đối tượng của các pháp thuộc về ‘tâm’ phát sinh từ hành động. Vijnana (thức)
phát khởi khi căn gặp cảnh.
Ý nghĩa của ba danh từ nầy càng trở nên
mơ hồ phức tạp với chữ hsin (tâm), i (ý), và shih (thức) trong
ngôn từ Trung Hoa. Không
nghi ngờ rằng
Trí Khải đã mượn những tên gọi nầy vì chúng được dùng rất
phổ thông vào thời Trung cổ ở Trung Hoa, nhưng
tôn giả đã đưa chúng về với
mục tiêu đặc thù
của riêng mình. Chan-jan, trong phần
chú giải về đoạn văn nầy,
nhấn mạnh ý nghĩa mơ hồ bằng cách đưa ra bốn lối
giải thích khác nhau. Chan-jan (T46.193a 26-b3) nói: {Có người nói rằng [Sự
phản chiếu] thuộc
quá khứ diễn đạt ‘hành động nhận thức’ hoặc ‘ ý’ (i), [sự
phát khởi của
tư tưởng]
vị lai diễn đạt tâm (hsin), và
hiện tại diễn đạt thức (shih). Có người lại nói rằng ‘tâm’ được
giải thích trong tương quan với dhatu, ‘ý’ trong tương quan với ayatana, và ‘thức’ trong tương quan với skandha. Cũng có người cho rằng
hình tướng diễn đạt tâm, vì sáu cõi thọ sinh
từ tâm mà có. Sự cột dính là ý, như năm căn kia có sẳn trong ý (manas). Khẩu và ý
diễn đạt thức, vì sự
phân biệt là sản phẩm của thức. Kosa nói: {Nhân duyên thì gọi là tâm. So lường là ý.
Phân biệt là thức (T29.21c).
Tuy nhiên, tất cả những lối
giải thích nầy đều từ
truyền thống Tiểu [Thừa]. Cả ba là một tuy khác tên gọi.
Vì vậy nên bản văn ở đây
giải thích rằng
hành giả không nên vướng víu [vào bất cứ lối nào] là cố định, hoặc là cho rằng chúng là ba, là một, là hội tụ hoặc là phân tán.}
249
Giác Ý Tam Muội (T46.621c8-9) đọc là: {Chỗ nầy đưa ra sự
phân biệt giữa tâm, ý, và thức. Nếu nắm giữ những
phân biệt như vậy,
hành giả sẽ rơi vào sự hư hỏng của tâm, sự hư hỏng của ý, và sự hư hỏng của thức}.
250
Giác Ý Tam Muội và Maha
Chỉ Quán có những
đặc tính ‘Tụ’ hoặc ‘Tán’
đảo ngược ở đây. ‘Không’ và ‘Hữu’ cũng
đảo ngược như vậy trong những dòng
theo sau. Qua nội dung đoạn văn trong cả hai
trường hợp, dường như Maha
Chỉ Quán có
tính cách luận lý hơn. Đọc T46.621c15-16.
251 Những điểm quan trọng
Thiên Thai Trí Khải dùng trong những
lập luận của
Đại Sư có thể tô đậm
con đường Trung Luận (Chung-lun) của
Long Thọ Bồ Tát về đồng và biệt. Đọc phẩm I ‘Nhân Duyên’ và phẩm VI ‘Ái Dục và
Tham Nhiễm Ái Dục’ (T30.8a-c); về ‘Hợp’ và ‘Tan’, đọc phẩm VI và VII ‘Ba Tướng’ (T30.9a-12b).
Chan-jan (T46.193b15-24) nói: {Chối bỏ ba tên gọi và những
phân biệt của chúng như
lầm lạc,
hành giả nên
quán sát bản tính vượt trên
cấu kết của
sắc tướng. Vì
lý do nầy, khi bản văn nói ‘không có mặt hoặc hiện hữu’ trong bất cứ chỗ nào trong sáu dòng nầy đều có nghĩa rằng chúng tức
thể tánh. Khi nói ‘không
vắng mặt hoặc bất hữu’ có nghĩa rằng khác tên gọi.
Xa hơn,
hành giả không được
vướng víu vào danh, thể, đồng, hoặc dị.
Vì vậy đều
bao gồm ‘không là một
chúng ta nói là ba’, ‘không là ba
chúng ta nói là một’. Phần còn lại, về ‘tụ’ và ‘tán’, có thể được hiểu
tương tự. [Bản văn] từ câu ‘nếu
hành giả biết được rằng danh tức vô danh’ cùng chứa đựng sáu loại mà trong cách thức uyển chuyển, nhắc lại điểm nầy. Sáu loại đều có
hiệu quả cùng
phế bỏ cùng chiếu soi (shuang-fei shuang-chao) [hai đối cực]. Kết cấu
giả lập và
thể tánh, cả hai đều không thể nắm giữ. Nếu
hành giả dùng đoạn văn nầy để
thành lập tam quán, bỏ một lấy ba, thì là biểu hiện cái Giả. Bỏ ba mà thuyết một thì đó là Không.
Thành tựu danh tức
vô danh, tánh tức
vô tánh, thì đó là
Trung Đạo. Năm phần còn lại có thể được hiểu
tương tự. Nếu, qua
con đường đã vẽ ra nầy,
hành giả vào được bổn tánh của tâm, thì đã
thành lập được diệu cảnh của
tam đế bất tư nghị [là đối tượng của pháp quán
viên mãn]}.
252 Chan-jan (T46.193b25-8) nói: {Pháp quán của Viên [giáo] không những
quán niệm hoặc ý như nền tảng của các pháp mà còn hủy diệt cội gốc
vô minh và
ô nhiễm.
Vì vậy hành giả phải biết rằng không những niệm hoặc ý
bao gồm [tất cả các pháp], nhưng ý chính nó tức
vô minh. Khi
vô minh bị
điều phục, tất cả
ô nhiễm an tại (an-tsai)}. Như Kogi đã
tiếp tục đưa ra, Tâm có thể được nhìn đồng với
Pháp Thân (dharmakaya), tức
chân như, và đồng với
ô nhiễm là cái làm
chướng ngại. Hiểu được cái Tức
đồng thời nầy thì chứng được đạo và
hàng phục được
vô minh. Như vậy,
chân lý và
vô minh là một ‘điều’, một ‘sự kiện’, một ‘pháp’ có hai tên gọi.
253
Giác Ý Tam Muội (T46.621c21) đọc như sau: {Vì vậy
chúng ta dùng sự tĩnh giác của niệm và ý để làm
sáng tỏ tam muội nầy}.
254 Cùng chỗ, T46.622b19.
255 ‘Giác
Ý Tam Muội’ của
Trí Khải tại điểm nầy đưa ra một
giải thích thứ hai về tên gọi của
tam muội, là lối
giải thích thấy trong Pancavimsati và
Đại Trí Độ Luận. Chỗ nầy cho thấy rằng
tôn giả chỉ cho
chúng ta Giác Ý Tam Muội là
Bồ Đề Tam Muội (bodhyanga samadhi) giúp
hành giả vào được các
tam muội khác với bodhyanga hoặc
thất Bồ Đề phần. Đọc T46.621a 23-622b23.
256 Nói cách khác, nếu một đường
lối tu tập đưa ra không giống với những
tác dụng của thân như thường tọa,
thường hành, hoặc bán hành, bán tọa.
257 ‘Thỉnh
Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục
Độc Hại Đà La Ni Kinh’ (Ch’ing kuan-shih-yin p’u-sa hsiao-fu tu-hai t’o-lo-ni ching / T no. 1043), còn gọi tắt là ‘Thỉnh
Quán Thế Âm Kinh’. Kinh ‘Thỉnh
Quán Thế Âm’ là
mật kinh được đưa vào Trung Hoa bởi một
cư sĩ người Ấn là
Nan Đề (Nandin) đời Đông Tấn (317-420).
Nghi lễ diễn tả ở đây được biết là ‘Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp’ (chi’ng kuan-yin ch’an-fa) trong
truyền thống Thiên Thai Tông, tên gọi nầy
xuất xứ từ tên kinh. Hai cẩm nang khác nhau về
nghi lễ nầy được
lưu truyền trong
cộng đồng Thiên Thai Tông sơ thời. Tập thứ nhất- ‘Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp’ ghi trong mục 4 KCPL (T46.795b16-796a3), (từ đây sẽ ghi là ‘KCPL, Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp’). [Tập sách nầy] đưa ra một
diễn tả cô đọng về
nghi lễ, cung thỉnh,
sám hối, và tụng đọc là
trọng tâm của
Quán Âm Sám Pháp. Pháp
quán chiếu được nói đến nhưng không
mô tả chi tiết. Tập sách thứ hai đã thất lạc, không còn
lưu hành, nhưng phần
mục lục còn thấy ghi lại trong ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’ (Ch’ing kuan-yin ching shu / T39.973a 19-23) là một tập
chú giải ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’ (Ch’ing kuan-yin ching). Cùng với những
chi tiết về
nghi thức [
sám hối] như trong tập sách thứ nhất, tập thứ hai nầy nói về
thiền tọa trong một mục chánh. Cả hai tập sách đều được tin là do
Trí Khải biên soạn. Đọc Sato, Tendai daishi no kenkyu, pp.504-508.
Chan-jan (T46.193c20-24) đề cập đến cả hai tập sách KCPL Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp cũng như tập ‘cựu’cẩm nang thú hai, nhưng vì
tôn giả chỉ được biết tập nầy qua ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’, thì hẳn rằng tập sách đã thất truyền trước thời
tôn giả. Tập sách thứ ba về
sám hối bằng cách
xưng tán danh hiệu Bồ Tát Quán Âm xuất hiện trể hơn, do ngài
Tuân Thức (Tsun-shih), một bậc thầy thuộc
Thiên Thai Tông biên soạn vào đời Tống, khi
tôn giả phục hồi [
hệ thống]
nghi lễ vào thế kỷ thứ 11. Những phụ bản của
tôn giả theo cách cấu trúc của KCPL, Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp, với những
chi tiết từ
tác phẩm sâu sắc của
Trí Khải là ‘Pháp Hoa
Tam Muội Sám Nghi’ (Fa-hua san-mei ch’an-i). Đọc ‘Thỉnh
Quán Thế Âm Tiêu Phục
Độc Hại Đà La Ni Tam Muội Nghĩa, T no. 1040).
Một
tác phẩm liên quan đến Quán Âm Sám Pháp, và chỗ đứng của
tác phẩm nầy trong
truyền thống Thiên Thai Tông đã được nói đến ở phần trên là
tác phẩm ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’. Tập sách nầy (
đặc biệt phần luận về lực hoạt dụng của
ba đà la ni trong kinh) trở nên một nguồn gốc quan trọng đối với thuyết hạnh tà (hsing e) có sẳn trong
Phật tánh mà
tôn giả Tứ Minh Tri Lễ (Ssu-ming Chi-li / 960-1028) đã khai triển vào đời Tống. Mặc dù loạt sách sau ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’ được tin rằng do
Trí Khải soạn, những
học giả hiện nay
lên tiếng phản đối quan niệm nầy, và đưa ra những
chứng cớ rằng rất có thể do
môn đồ của
tôn giả là ngài
Quán Đảnh biên soạn. Về những luận cứ nầy, đọc Ando, Tendai-gaku, pp.330-356 và Sato, Tendai daishi no kenkyu, pp.475-516; Sato, Sho’o shoso no soshosa wa Chigi ka Kanjo ka?; và Sato, Zoku Tendai daishi no kenkyu, pp.411-428.
258 ‘KCPL, Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp’ nói thêm rằng
nghi lễ nên được
cử hành trong một khoảng
thời gian cố định 21 ngày hoặc 49 ngày (T46.795b16).
259 ‘KCPL Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp’ đưa ra một cách thức khác: {Đặt một
tượng Phật quay mặt về hướng Nam, và đặt riêng một tượng Đức
Quán Âm quay mặt về hướng Tây} (T46.795b18-19). Không nói rõ rằng nên đặt tượng vị Phật nào ở bức tường hướng Bắc.
Nghi lễ cung
bái Phật Thích Ca và Phật
A Di Đà. Trong
tác Phẩm ‘Thỉnh
Quán Âm Tam Muội Nghĩa’ (T46.968c24) đặt tượng Đức
Quán Âm và tượng Đức
Đại Thế Chí quay mặt về hướng Đông; và đặt riêng tượng Đức
A Di Đà bên trái Đức
Quán Âm quay về hướng Nam. Tượng Đức
Thích Ca có thể đặt một chỗ khác.
260 ‘Nhánh cây nhỏ làm sạch răng’ (dantakastha), là nhánh liễu, nhưng không phải là cành dương liễu của
Bồ Tát Quán Thế Âm, mà là một
vật dụng làm sạch răng thông thường ở
Ấn Độ.
Tóm lại, đó là một nhánh cây nhỏ để làm sạch răng và nướu răng. Như một trong những vật
cúng dường mô tả trong ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’, chiếc tăm làm sạch răng nầy
tượng trưng cho lực dụng tẩy uế trược.
Vì vậy, trong ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’ (T39.973a),
Quán Đảnh nói: {Đây là hai
biểu tượng để thúc giục lòng mong cầu
giác ngộ: nhánh liễu làm sạch [những cáu bẩn]
tượng trưng cho
trí tuệ, nước sạch mát
tượng trưng cho sự
thẩm thấu của định}.
Chan-jan (T46.193c24-25) nói: {Đối với [
ý nghĩa] của nhánh cây nhỏ và
nước thơm mát ... là vì
Bồ Tát Quán Âm cầm trong tay trái của Ngài cành dương liễu và trong tay phải là chiếc bình chứa
tịnh thủy, nên phải soạn vật
cúng dường như trên}. Kogi (1.506) trình bày một cách
chính xác rằng sự
mô tả nầy không thấy ghi trong ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’. Trong những
chú giải của
Quán Đảnh cũng không thấy có ghi. Những
biểu tượng quen thuộc của Đức
Quán Âm tay cầm nhành dương liễu, tay cầm
tịnh bình được Chan-jan đưa ra bắt đầu
xuất hiện trong những bức họa
Bồ Tát vào thời vãn Đường.
261 KCPL,
Quán Âm Sám Pháp (T46.795b20-21) đọc như sau: {Tối đa mười người có
thể tham dự buỗi lễ. Họ nên ngồi trên những tấm đệm quay mặt về
hướng Tây.
Tuy nhiên, nếu sàn nhà
ẩm thấp, thì có thể làm thành những cái bục thấp. Họ phải thay đổi
áo tràng [khi rời
tịnh thất],
đi vào bên phải và ra bên trái. Sau khi tắm gội, họ thay áo sạch [khi vào
tịnh thất]}.
Chỗ nầy ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’ nói rằng ‘thoa phấn’ thay vì ‘ướp hương’ (T20.35c) Kogi và Shiki
ủng hộ Maha
Chỉ Quán và nói rằng đây là lỗi của những người chép kinh.
Tuy nhiên, trong
Phương Đẳng Sám Hối ở trên, khi [những người
hành lễ] tắm gội (trước khi thay
áo tràng) thì dùng phấn và nước
hoa thơm (Fang-teng san-mei hsing-fa, T46.945b2), và
tôn giả Tuân Thức (Tsun-shih) giữ nguyên văn chữ ‘phấn’. Đọc ‘Thỉnh
Quán Âm Tam Muội Nghĩa’, T46.968c5.
262 Sáu ngày
phát lồ sám hối (uposatha) gồm những ngày 8, 14, 15, 23, 29, và 30
âm lịch. KCPL, Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp (T46.193c27-9) nói thêm: {Hằng ngày [
hành giả] nên
hết lòng cúng dường, nhưng
nếu không thể
thu xếp được, thì phải nên tận dụng những
phương tiện để
cúng dường trong ngày thứ nhất. Rồi thì từng người một tay nâng bát hương, và quay mặt về
hướng Tây,
nhất tâm,
nhất niệm phủ phục năm phần
thân thể lạy xuống [trước
bàn thờ]}.
263 Chan-jan (T46.193c27-9) nói: {Ngũ thể
đầu địa như
chư tăng thường làm: ... hai cùi chỏ, hai đầu gối, đê đầu chạm sàn nhà. Đây cũng gọi là ‘ngũ luân’ vì năm phần làm thành vòng tròn}. ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’ (T39.972a-b) nói rõ năm phần
thân thể tượng trưng cho
ngũ uẩn: tay và chân trái thuộc âm nên
tương ứng với hành (samskara) và sắc (rupa); tay và chân mặt thuộc dương nên
tương ứng với tưởng (sanjna) và thọ (vedana); và đầu
tương ứng với thức (vijnana).
264 Đọc ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’, T2035c. Bảy vị
cổ Phật : Phật
Tỳ Bà Thi (Vipasyin), Phật
Quá Khứ (Sikhin), Phật Visabhu, Phật
Câu Lưu Tôn (Krakucchanda), Phật
Ca Diếp (Kasyapa), và Phật
Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni).
265
Ba đà la ni hoặc ba câu chú đọc giữa buỗi lễ:
đà la ni trừ độc hại,
đà la ni diệt
ác nghiệp, và
đà la ni lục tự (đều có ghi trong ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh, T20.35-36).
Thực ra có
đà la ni thứ tư là
Quán Đảnh đà la ni (abhiseka) ghi trong kinh, nhưng không có trong
nghi lễ hoặc trong phần
chú giải.
266 Như được nói rõ về cách
cung kính trong KCPL, Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp (T46.795b25-c6),
cung kính tam bảo dưới
hình thức của từng vị Phật,
đà la ni, và chư
Bồ Tát là
trọng tâm của ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’. Mỗi lần cung thỉnh, bắt đầu với lời
xưng tán: {Nhất tâm
đảnh lễ...} và
chấm dứt với năm phần
thân thể phủ phục. Cùng với
Bồ Tát Quán Thế Âm và
Bồ Tát Đại Thế Chí, cung thỉnh
chư Đại Bồ Tát, chư
Thanh Văn,
Duyên Giác, và chư thánh, hiền.
267 Được
mô tả trong ‘Pháp Hoa
Tam Muội Sám Nghi’, T46.950b24, của
Trí Khải như ‘gối bên phải quỳ, thân thẳng’. ‘Thân quỳ’ là
nghi thức truyền thống Phật giáo Ấn Độ và Trung Á Châu. Theo
Đạo Tuyên (Tao-hsuan) trong ‘Thích môn
quy kính nghi’ (Shih-men kuei-ching I, T45.863c), gối bên mặt quỳ
vững vàng trên sàn nhà, và gối bên trái đưa lên. Mông chạm nhẹ vào hai gót chân. Thân người quỳ thẳng, hơi nghiêng về trước, và hai bàn tay chắp lại
cung kính.
268 ‘Thắp hương và rải hoa’ được nói đến trong cẩm nang của
Trí Khải gọi là ‘tam hành cúng dường’- đi cùng với
xưng niệm tiêu biểu như trong
Pháp Hoa và
Phương Đẳng Sám Pháp đã nói ở trên. KCPL Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp, T46.795c8-12, chỉ dẩn: {Dâng hương và hoa, [
hành giả]
cúng dường theo
nghi thức thông thường. Khi xong phần tưởng niệm
tam bảo và
mười phương pháp giới, với
tâm thành kính, xướng lên rằng: ‘Trầm hương và
hoa thơm nầy như mây lan tỏa khắp
mười phương cúng dường chư Phật, Pháp, chư
Bồ Tát và
vô số Thanh Văn, thắp sáng và nối kết
vô biên cõi nước.
Vô lượng cõi Phật tiếp nhận để góp phần
thành tựu Phật sự, làm
thanh tịnh tất cả
chúng sinh và khiến họ
phát tâm Bồ Đề hằng
cầu đạo giác ngộ.’
269 ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’
mô tả tay trái đặt trên tay phải (T20.36c), khác với
truyền thống Ấn Độ nhưng
phù hợp với những lối
mô tả của
Trí Khải trong các bản văn viết về
thiền định cũng như với
truyền thống Phật giáo Trung Hoa về sau. Cách thức nầy
hoàn toàn khác thường so với những bản
văn Ấn Độ.
270 Thỉnh
Quán Âm Kinh, T20.34c. KCPK, Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp, T46.795c13-14, nói thêm rằng: {Hành giả nên giữ
tâm không tán loạn. Không nên đếm
hơi thở nếu
hơi thở hổn hển, khó thở, hoặc nặng nề}. Theo
lập luận của
Trí Khải về 25
phương tiện thiện xảo về định trong ‘Thứ Đệ Thiền Môn’( T46.490a 3-17) và
Tiểu Chỉ Quán (T46.466a 1-10), ba
điều kiện nầy làm trở ngại sự phát triển về định. Pháp quán chỉ có thể
thực hành thành công với
điều kiện thứ tư- khi
hơi thở nhẹ nhàng, tịch lặng- ‘nhẹ như tơ khi có khi không’}.
Chan-jan (T46.194a 6-18) về sau giảng rộng về
ý nghĩa đếm
hơi thở theo
quan điểm của pháp
thế gian cũng như theo
tứ giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên. Với
Viên giáo,
hơi thở được quán trong sự
hòa hợp với ‘ba
chân lý trong một niệm’.
Lập luận của
tôn giả hầu hết
dựa vào ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’, T36.972c.
271 Cả hai KCPK, Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp (T46.795c19-21) và
đề mục của
tác phẩm thất truyền là ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’,
gồm có nước sạch và nhánh cây nhỏ, như phần cung thỉnh
tam bảo. Tập sách trước ghi: {Quỳ gối thẳng và khấn nguyện rằng: ‘Nhất tâm [con] cung thỉnh
Đức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật!. [Ba thời cung thỉnh
chư thiên cùng
tam bảo]. Để
cúng dường chư vị, [con] dâng nhánh dương và nước sạch.
Cầu xin chư vị rộng
lòng từ bi
chấp nhận [vật]
cúng dường [của con].}
272 KCPL, Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp (T46.795c22), gần với Maha
Chỉ Quán,
phân biệt phần
xưng tụng nầy với phần cung thỉnh khác về
danh hiệu chư
thánh hiền tam bảo, nhưng phần
mục lục trong ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’ không
phân chia các phần cung thỉnh và
cúng dường. Chan-jan (T46.194a 19) đưa ra: {Xướng ba lần]
tượng trưng sự phá dẹp
tam chướng (
quả báo, nghiệp, và
phiền não).
Chi tiết hành lễ có nói trong tập sách về
nghi lễ, được ghi trong ‘Quốc Thanh Bách Lục’ (Kuo-ch’ing pai-lu) cũng như trong ‘Nam Sơn Đạo Tuyên’ (Nan-shan Tao-hsuan). Như vậy, bản văn có ghi rằng
hành giả có thể
nghiên cứu kinh sách để làm đầy đủ phần
thực hành.}
273 Những
bài kệ, ghi trong ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’ (T20.34c) cũng như từ Chan-jan (T46.194a) đọc như sau: {[Con]
cầu xin Ngài cứu [con] thoát khổ hoạn, với tâm
đại bi Ngài phóng tịnh quang khắp nơi nơi
diệt trừ bóng tối
vô minh.
Cầu xin [cho con] được thoát khổ, não phiền, và bệnh tật.
Cầu xin Ngài
ứng hiện tất cả nơi nào có con và
ban cho [con]
an lạc. Nay con khấu đầu
đảnh lễ Ngài, xin
cứu khổ nạn. Nay con quy tâm về Ngài, là đấng
đại từ bi đối với tất cả
thế gian. Con cung thỉnh Ngài cứu con thoát khổ do
tam độc gây tạo, và
ban cho con
an lạc trong đời nầy và
Niết Bàn về sau}.
274 Theo
đà la ni thứ nhất và thứ hai, KCPL Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp (T46.795c23-26), đưa ra những
bài kệ chọn từ kinh cũng như tên của chư
thánh hiền tam bảo.
275 Chan-jan (T46.194b12-13) nói: {Hai lần ngày và đêm bắt đầu mỗi thời khóa.
Vì vậy [bản văn] nói buổi sáng và trước buổi tối}.
276 KCPL, Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp (T46.796a 2) nói ở đây, {Suốt bốn thời khóa lễ [ngày và đêm],
thiền tọa và cung bái chư Phật như thường lệ}. [Cái gọi là] ‘như thường lệ’ nầy được
Trí Khải viết trong
tác phẩm ‘Lập Chế Pháp’ (Li chih-fa) là ‘bốn thời
thiền tọa và sáu thời cung bái chư Phật’ (KCPL, T46.793c8-9). Hai
nghi thức thường được
áp dụng tại
đạo tràng Quốc Thanh trên núi
Thiên Thai là ‘Kinh Lễ Pháp’ (Ching-li fa) và ‘Phổ Lễ Pháp’ (P’u-li fa) được ghi ở mục 2 và 3 trong KCPL (T46.794a-795b). Thêm
chi tiết, đọc Stevenson, The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism, pp.45-48.
277 Thỉnh
Quán Âm Kinh, T20.37a. Trong kinh, một vị tăng
thành thật và có
đức tin tên là Upasena hỏi ngài Sariputra (
Xá Lợi Phất): {Trong khi tôi đếm
hơi thở và cầu
Thế Tôn thuyết pháp giải thoát cho tôi, làm thế nào tôi có thể
duy trì sự tĩnh lặng? Vì
nhãn căn và
nhãn thức của tôi
đáp ứng với
sắc tướng, làm cách nào tôi có thể
duy trì sự tĩnh lặng? Tâm và thức (manovijnana) của tôi
đáp ứng với các pháp, làm cách nào tôi có thể
duy trì sự tĩnh lặng?... Như vậy, các thức nầy là
kẻ trộm sự
chú tâm,
nhảy nhót như khỉ vượn. Làm cách nào tôi có thể
duy trì sự tĩnh lặng ngay nơi những nghiêng ngữa của sáu căn và đối tượng của nó là các pháp có mặt mọi thời, mọi nơi?. Câu
trả lời của ngài
Xá Lợi Phất lập tức theo như kinh dạy, nhưng Maha
Chỉ Quán lấy một dẩn chứng từ
Đại Tập Kinh và một đoạn khác từ Thỉnh
Quán Âm Kinh.
278
Đại Tập Kinh, T13.168c, được Kogi (1.508)
ghi nhận là
xuất xứ, nhưng không đích xác.
279 Thỉnh
Quán Âm Kinh, T20.37a. Đoạn kinh văn đưa ra ở đây phủ nhận
di sản của
tứ đại: {Ngài Sariputra liền bảo ngài Upasena: ‘Giờ đây ông nên quán
địa đại thiếu tánh
kiên cố, tánh của
thủy đại thì không trụ, tánh của
phong đại thì không ngăn ngại... và tánh của
hỏa đại thì không thực; ... sắc, thọ, tưởng, hành, và thức mỗi mỗi đều có tánh và tướng như đất, nước, lửa, và khí. Tất cả đều vào thực tế’. Khi ngài Upasena nghe những lời nầy,
toàn thân ngài trở nên giống như nước và lửa. Ngài liền chứng được
tứ đại tam muội,
liễu ngộ được tánh rỗng lặng và
vô hình tướng của
năm uẩn,
diệt trừ được những
trói buộc, những
ô nhiễm trong tâm,
đắc quả A la hán, và dùng lửa trong thân thiêu thân mình thành tro và
nhập Niết Bàn.}
280 Những
thí dụ từ mười upamana hoặc ‘sự tương tự’ (tức bọt nổi, bóng nước,
huyễn ảo, bẹ chuối, biến hiện, mộng,
phản chiếu,
tiếng vang, mây khói, ánh chớp)
thường dùng trong
kinh điển để
biểu thị sự
mong manh, tánh chất dễ tan biến như sương của các pháp. Đọc Lamotte, L’Enseignement de Vimalakirti, pp.132-133, no. 23).
281 Chan-jan (T46.194c25-195a 1) nói: {Nếu không có [nền tảng]
quán huệ thì sự
tu tập trở thành chủ trương
khổ hạnh chẳng mang lại
lợi ích gì. Vì
lý do nầy,
hành giả phải dùng
thiền quán [thấy các cảnh như] huyễn hiện v.v... để
chứng ngộ được sự rỗng lặng của
pháp tánh và tướng
phân biệt, vào được
thực tế. Có hai cái hiểu về
thực tại:
Nhị Thừa dùng cái thấy của
Thông Giáo [để
giải thích thực tại là] chân hoặc thực.
Biệt giáo và
Viên giáo dựa vào [cái thấy]
trung đạo, và không nắm giữ cái thấy của Tiểu [Thừa]. Ở đây, [Maha
Chỉ Quán] đang nói về
Thông giáo, nhưng khi đến phần sáu câu
đà la ni ở bên dưới thì hợp vào cái thấy
trung đạo. Đây là tất cả những
trường hợp về quán
tà pháp nói ở phần dưới,
hoàn toàn căn cứ vào pháp quán
viên mãn.
Vì vậy, các ông nên biết rằng
ý nghĩa trong
đề mục nầy là
ý nghĩa của Viên giáo}.
282 Ba câu chú đầu tiên trong Thỉnh
Quán Âm Kinh (T20.35a 6-15) được
xưng tán trong
nghi lễ nầy. Chính kinh cũng ghi tên của
đà la ni nầy là ‘thần chú từ
mười phương chư Phật cứu độ chúng sinh hữu tình’, khác với tên gọi
Trí Khải đưa ra. Tên gọi của
Trí Khải (‘đà la ni tiêu phục độc hại’) thực sự là tên kinh gọi câu chú thứ hai (tức ‘đà la ni
diệt trừ chướng ngại từ
tà pháp,
tiêu trừ độc, và
hàng phục nguy hại). Đọc T20.35a 23-24.
‘Báo chướng’ là một trong
tam chướng (san chang)- tức
phiền não chướng,
nghiệp chướng,
báo chướng.
Báo chướng chỉ cho những
chướng ngại của
thân tâm cũng như cõi cảnh sinh ra từ nghiệp
quá khứ. Cặp
báo chướng và
phiền não chướng với
đà la ni thứ nhất và thứ ba đạt
đảo ngược trong Maha
Chỉ Quán và Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ. (Đọc T39.973a 24-29).
283 Thỉnh
Quán Âm Kinh, T20.35a 20.
Đà la ni nầy chữa lành bệnh dữ mà dân trong thành Vaisali đã vướng phải.
284 Cùng chỗ, T20.35a 22-b11.
Đà la ni thứ hai trong
ba đà la ni hợp với
nghiệp chướng vì kinh thuyết tên gọi là ‘thần chú
tiêu trừ nghiệp chướng,
chế phục độc hại.’ ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’ có nói về sự
hiệu nghiệm [của
đà la ni] (T20.35b8-13): ‘Tất cả
sợ hãi,
độc dược và
đe dọa sẽ biến mất. Tà thần, cọp, sói,
sư tử, khi
nghe được đà la ni nầy, sẽ
ngậm miệng lại, dừng việc gây nguy hại. Ngay cả người
vi phạm tịnh giới và phạm phải mười pháp cấm, khi
nghe được đà la ni nầy, sẽ gạn sạch
ô nhiễm và
trở nên thanh tịnh. Dù cho
nghiệp chướng của các ông sâu nặng đến mấy, hãy niệm
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và ghi nhớ
đà la ni nầy.
Nghiệp chướng ấy sẽ bị
tiêu trừ và các ông sẽ thấy được
Phật hiện ra
trước mắt.}
285 Cùng chỗ, T20.36a 6-12. Câu thứ ba trong
ba đà la ni. Tên gọi
đà la ni nầy là ‘lục tự chương cú’- là
vấn đề, vì nó không có bất
cứ sự liên hệ trực tiếp nào với năm mươi mẫu tự làm
thành thần chú trong Hoa ngữ, ngoài
sự kiện rằng
đà la ni gồm mười hai chữ nối tiếp, mỗi chữ có ba mẫu tự hoặc ba vần.
Chan-jan (T46.195b18-29)
hiệu đính ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’, nói: {Có người nói rằng đó là chỉ cho tên
tam bảo, mỗi một [bảo] có hai vần như Buddha (Phật), Dharma (Pháp), và Sangha (Tăng). lại có người nói rằng
tam bảo gồm có ba vần hoặc ba chữ, và
hồng danh Quán Thế Âm cũng có ba chữ, nhưng
thực ra không có
chứng cớ nào về những điều nầy được ghi lại trong chính
bản kinh.
Vì vậy,
chúng tôi bỏ qua [những
ý kiến nầy]. Phân tích những đoạn văn trong kinh, tập
chú giải ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’ đưa ra ba lối
giải thích về tên gọi ‘lục tự’. Lối thứ nhất nhìn ‘lục tự’ từ
quan điểm báo hoặc quả. Sau khi những
bài kệ giải thích chi tiết rằng làm thế nào, sau khi nghe bởi
tứ chúng,
lục tự có
năng lực nhổ tận gốc
khổ não trong sáu cõi [
luân hồi]. Lối thứ hai nhìn ‘lục tự’ từ
quan điểm của nhân: Khi ngài Upasena
nghe được lục tự chương cú, được dùng để quán
dòng tâm luân lưu, lục diệu [
pháp môn] được
giải thích chi tiết. Thứ ba, sáu căn tương đương sáu chữ. Ngài Sariputra (
Xá Lợi Phất) trong khu rừng đã
trả lời ngài Upasena khi vị nầy nói rằng: ‘Khi mắt
đáp ứng hình sắc..., kinh đã dạy tận tường về sáu thức. Mỗi ba đoạn văn trong kinh kết lại thành câu ‘Vì
nghe được lục tự chương cú...’. Như vậy,
ý nghĩa của
lục tự không nằm bên ngoài ba mục nầy. Bản văn [Maha
Chỉ Quán]
hiện có đua vào hai lối
giải thích nầy- lối thứ nhất và thứ ba}. Đọc ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’, T39.975b13-c11.
Oda’s Bukkyo daijiten (1827c) trích tập
chú giải chưa từng phát hành của Hotan (1654-1738) về ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’, Kanon-sangenki, cho rằng
lục tự đặc biệt chỉ cho sáu chữ amdali-pamdali trong
đà la ni. Câu nầy cũng có trong hai
đà la ni kia. Hotan nói rằng các chữ nầy có nghĩa là anapanasmrti (
quán hơi thở).
286 Cả Chan-jan (
Trạm Nhiên) và Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ đều không đưa ra một
giải thích minh bạch nào về
xuất xứ của
lục tự của Đức
Quán Thế Âm.
287 Từ
kinh Niết Bàn, T12.690b. Những
tam muội nầy
liên quan đến ‘hai mươi lăm Hữu’ ghi trong kinh, mỗi
tam muội đoạn diệt một hữu. Hai mươi lăm hữu chỉ là một sự
phân chia theo đường dọc trong
tam giới. Như vậy, cõi Dục có 14 hữu quy tụ trong sáu cõi- một hữu cho mỗi
cõi địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ,
a tu la; bốn hữu cho các
cõi người; sáu hữu cho các
cõi trời. Cõi Sắc có bảy hữu theo
tứ thiền. Cõi
Vô Sắc có bốn hữu theo bốn loại
thiền vô sắc (samapatti).
Chi tiết về hai mươi lăm
tam muội nầy đối với hai mươi lăm hữu (và chổ đứng trong đạo
Bồ Tát) có ghi trong
tác phẩm ‘Tứ Giáo Nghi’ của
Trí Khải (Ssu chiao I / T46.755c29-758b28).
288 Thỉnh
Quán Âm Kinh, T20.35c, 38a 6-7. Chan-jan (T46.196c1-2) nói: {Phát
khởi tâm đại bi và lấy
chân lý làm đối tượng,
hành giả chứng được
bất thoái chuyển.
Quả vị nầy tương đương với
sơ trụ hoặc
sơ địa tùy thuộc vào
Biệt giáo hoặc
Viên giáo, nơi mà
tâm không còn lui sụt}.
289 ‘Thất
Phật Bát Bồ Tát Sở Thuyết
Đà La Ni Thần Chú Kinh’ (Ch’i fo pa p’u-sa shuo t’o-lo-ni shen-chou ching, T no. 1332). Chan-jan (T46.196c9-14) nói: {Kinh nầy trước hết
hiển lộ rằng mỗi vị trong
bảy vị Phật có
thần chú, và
giải thích thêm rằng
đà la ni có
công năng như
phương tiện sám hối.
Tiếp theo,
bản kinh nói về tám vị
Bồ Tát... mỗi vị có một
thần chú và phương thức
sám hối hữu hiệu}.
290 ‘Quán
Hư Không Tạng Bồ Tát Kinh’ (Kuan hsu-k’ung-tsang p’u-sa ching, T 13.677a-677c). Theo Chan-jan (T46.196c8-197a 19), dẩn chứng
bản kinh,
thực tập gột rửa những nơi cáu bẩn được làm
hằng ngày,
thiền quán về
Bồ Tát Hư Không Tạng, và
sám hối trước 35 vị Phật. Pháp tu nầy kéo dài đến 800 ngày.
291 Toàn
đề mục giới thiệu trên bốn
tác động của
tư tưởng nầy (từ T46.15b21 đến 15c16) lấy từ phẩm 4
tác phẩm Giác Ý Tam Muội (T46.623a 8-b23) của
Trí Khải, giản lược và
xếp đặt lại. Phẩm nầy (Minh định các tướng của bốn
trạng thái chuyeên động) bắt đầu với câu hỏi: {Nếu một
hành giả muốn nhập
tam muội nầy, gì là những
tâm pháp đặc thù mà người ấy nên dùng làm pháp quán căn bản?}.
Trí Khải trả lời rằng bốn
trạng thái tâm hành thuộc
thế tục được dùng một cách
chính xác là pháp quán
căn bản (hơn là bất cứ đối tượng cố định thuộc
sắc tướng bên ngoài) bởi vì chúng
liên tục xuất hiện và trở đi
trở lại, qua từng
tư tưởng và hành động. Được hỏi tại sao những điều trên được xem là tướng [để]
quán chiếu,
Trí Khải trả lời rằng (T46.623a 19-23): {Vì là [cái] có thể được thấy hiểu và
phân biệt như một ‘tướng’.
Tâm pháp và thức thì không có
hình tướng.
Nếu không dùng bốn tướng của
tâm hành như
phương tiện để
phân biệt thì khó mà biết được. Nếu
hành giả không có khả năng biết được tâm một cách
rõ ràng [như một đối tượng], thì không thể nào
thực hành pháp quán.
Vì vậy, trước hết
hành giả phải biết rõ [tâm và những chuyển động giả tạm của tâm] qua
phương tiện tứ [tướng]. Nếu
hành giả quán tưởng đến chỗ
chứng ngộ được tướng tức
vô tướng, thì
hành giả sẽ vào được chỗ
bình đẳng viên toàn của nhất tướng}.
Chan-jan (T46.197a 26-b4) nói: {Chữ Yun có nghĩa là sự chuyển động. Từ ‘chưa’ đến ‘sắp sửa’; từ ‘sắp sửa’ đến ‘thực sự’; từ ‘thực sự’ đến ‘hoàn tất’. Như vậy [yun] được nói một cách tổng quát là sự chuyển động. ... Trong [pháp quán] về [lục] hành và [lục] thức
tiếp theo sau, nếu
hành giả không
phân biệt bốn [
trạng thái chuyển động] một cách
rõ ràng, pháp
quán tâm sẽ không có căn bản}.
292 Đoạn văn
đặc biệt nầy được rút ra và
sắp đặt lại
dựa vào một đoạn văn trong ‘Giác
Ý Tam Muội’, T46.623a 10-11.
293 Ở đây, Chan-jan dấn thân vào sự
bình luận về những lối
giải thích sai lầm đối với ‘
Tùy Tự Ý Tam Muội’ cũng như đưa ra thấu đáo những
phương pháp thực hành tôn giả cho rằng
chân chính. Đoạn văn trong câu hỏi đã đưa ra
kết luận sâu sắc cuộc tranh cãi về các
vấn đề thiền định giữa hai phái
Sơn Gia và Sơn Ngoại trong
Thiên Thai Tông vào đời Tống.
Chúng tôi phiên dịch đầy đủ (với một ít phần
toát yếu).
Chan-jan (T46.197b4-18) nói: {Hơn nữa, người nhiều nơi trên
thế giới ngày nay cho rằng cái tâm trong đó niệm
sinh khởi (sheng-hsin) là
sai trái, và
hành giả nên quán cái tâm [trong đó niệm] đã diệt. Cách quán thứ hai nầy [họ cho là] đúng. Nói như thế đó thì những người nầy
kết cuộc đã
hoàn toàn phá bỏ [
pháp hành thiền], [vì họ] nghĩ rằng cách tu như vậy mới biểu trưng được sự vô-sinh hoặc vô-khởi [của niệm].
Lỗi lầm của họ thực là
trầm trọng vậy. Những
hành giả tu định nầy đều cho rằng họ quán
vô sinh nhưng họ không có bất cứ manh mối nào để thấy được ‘vô sinh’. Cái [
tình trạng của
vô sinh] nầy trước đó
hiện hữu hoặc có mặt? Trước đó không
hiện hữu hoặc không có mặt? Nếu các ông nói rằng nó đã
sẳn có mặt thì các ông phải từng
chứng ngộ vô sinh. Nếu các ông nói rằng không
sẳn có mặt, thì làm sao các ông có thể gọi đó là pháp quán?...
[Quán] giống như
dập tắt ngọn lửa: [than đỏ] phải
hoàn toàn tắt. Nếu
hành giả chỉ xua tan những cái thấy được [lửa và khói], và không diệt đi mầm mống ngọn lửa
sinh khởi trở lại,
hành giả có thể ngay cả bị thiêu đốt bởi ngọn lửa chưa [kịp]
xuất hiện.
Quán tâm trong chuyển động ‘chưa sinh’ và ‘đã sinh’ là thực sự biết được cái tâm ‘sắp sinh’ và ‘đang sinh’. Những người nào đã dùng
sự quán chiếu
sai lạc nầy về [niệm]
vô sinh để tự
trói buộc mình [là những người] chỉ biết
quán tưởng tâm
hoàn toàn từ sản phẩm nó sinh ra, và đè nén nó, không cho nó phát sinh niệm. Họ không biết quán cái tâm trước khi khởi niệm. Bổn tánh của tâm vốn không
hiện hữu. Tánh bất hữu nầy là một cái gì thuộc nền tảng, sự
sinh khởi hoặc hành thì giống như
vô sinh khởi...
Hơn nữa, pháp quán về bốn
trạng thái chuyển động [của
tư tưởng] là pháp
thiền quán theo đầu ngọn và theo
hiện tượng (shih), bất cứ nơi đâu
tư tưởng đưa đẩy (
tùy ý). Mặt khác, những
phương pháp như thường-thiền-tọa
liên quan đến quán lý (li) hoặc [nhận thực] rằng không có pháp nào không là
pháp tánh. Như vậy,
hành giả phải biết chẳng thể bỏ qua pháp nào trong hai pháp nầy trong khi
tu tập tam muội. Cùng một ý như vậy, ‘Chiêm Sát Kinh’ (Chan-ch’a ching / T17.908a-b) nói: {Có hai pháp
thiền quán. Một là [pháp]
duy thức, nơi tất cả [được
nhận ra] là
duy tâm. Pháp thứ hai là quán
thực tại hoặc
chân như. ‘Duy thức’ là pháp quán ngay giữa
thế giới hiện tượng (shih). ‘Chân như’ là pháp quán về lý (li). Pháp quán về bốn
trạng thái [chuyển động] là
áp dụng vào
muôn vàn sự tướng trong mười
pháp giới được nói trong bản văn ở đây tương đương với quán
vạn pháp duy tâm nói trong ‘Chiêm Sát Kinh’. Luôn ghi nhớ
ý nghĩa đoạn văn ở đây: ‘Nếu
hành giả có thể
thấu triệt bốn [chuyển động],
hành giả sẽ vào được vô tướng’}.
Phần luận về ‘Chiêm Sát
Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh’ (Chan-ch’a shan-e yeh pao ching), đọc Lai, The Chan-ch’a ching: Religion and Magic in Medieval China.
294 Phần vấn và đáp nầy lấy từ ‘Giác
Ý Tam Muội’, T46.623a 24-b8. {Khả dĩ rằng
hành giả có thể
quán tưởng hai
trạng thái chuyển động ‘sắp sửa nghĩ’ và ‘đang nghĩ’. Nhưng vì ‘chưa nghĩ’ chưa
sinh khởi nên không có cái tâm [nghĩ].
Không tâm [trạng], không có tướng để phân biệt}.
295 Chữ ‘tâm’ (hsin) ở đây lấy từ một đoạn văn trong ‘Giác
Ý Tam Muội’, T46.623a 27. Chan-jan (T46.197c 9-10) nói: {[Vì tại điểm nầy
tư tưởng] chưa
phát khởi,
hành giả có thể nói rằng không
hiện hữu. Nhưng vì [tâm] không phải là
vĩnh viễn hoặc
hoàn toàn không có mặt [vào thời điểm nầy], nên
hành giả vẫn phải quán [tâm]}. Kogi (1.534) nói rằng mặc dù có những thay đổi trong
tâm hành, thể của nó không tan biến.
296 Chan-jan (T46.197c12-14) nói: {Nghĩ và chưa nghĩ mỗi cái
áp dụng vào những
điều kiện căn bản có trước. Mặc dù những
điều kiện nầy có đến có đi, tâm chính nó không mất. Vì không mất, một tâm như vậy có thể
sinh khởi hàng hàng
tư tưởng.
Vì vậy, trong pháp
quán tâm hành giả ngăn ngừa việc lấy cái
mê lầm hoặc ô nhiễm- chín cõi trong pháp giới- làm pháp nền tảng. Làm được như vậy,
hành giả vào được Phật trí}.
297 Nếu tâm
hoàn toàn diệt theo từng niệm diệt, sự
luân lưu của
nghiệp nhân và quả (cũng như
tu tập vì vậy)
trở thành không thể có được. Hẳn nhiên, đây là một trong những nền tảng
căn bản của
học thuyết Du Già (Yogacara) về thức A-lại-gia và thức Mạc-na như căn cứ
liên tục của
tâm hành bồi dưỡng sự sinh và diệt trong mỗi khoảnh khắc của ý (manas) và thức (vijnana). Mặc dù pháp quán về bốn
trạng thái [chuyển động] của
tư tưởng thì
hoàn toàn nhắc lại pháp thiền
Phật giáo cổ xưa về khoảnh khắc
sinh diệt của thức và những
yếu tố đi theo (như
ngũ uẩn, xứ, và giới);
tôn giả Tuệ Tư,
Trí Khải và
Trạm Nhiên đều ngầm hướng về
truyền thống pháp tánh Du Già (proto-Yogacara-tathagata-garbha) thời Trung cổ Trung Hoa.
298 Phần vấn và đáp nầy lấy từ ‘Giác
Ý Tam Muội’ (T45.623b8-23). Chan-jan (T46.197c16) cho rằng câu hỏi nầy
tương tự với câu
kinh Kim Cang, dù rằng không như nguyên văn- đọc
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh (T8.751b27-28): {Nầy Tu Bồ Đề! Tâm
quá khứ bất khả đắc, tâm
hiện tại bất khả đắc, tâm
vị lai bất khả đắc.}
299 Biết được số phận của người khác qua
thiên nhãn, biết nghiệp
quá khứ của mình và người, và biết được tâm
hiện tại của người khác là cái thông thứ nhất, thứ ba, và thứ tư trong
ngũ thông. Những
thông lực nầy được xem là thuộc
thế gian, ma chúng và
loài người đều có thể
chứng đắc. Thêm vào
ngũ thông nầy, chư thánh chứng được cái thứ sáu là
lậu tận thông.
300 Chan-jan (T46.198a5-8) nói: {Trí Khải dùng hai
tỷ dụ để đưa ra cái thấy của chủ
thuyết đoạn diệt. Người
đối lập trích đoạn văn ‘ba thời đều bất khả đắc’ để đưa ra
quan điểm rằng
tuyệt đối không có tâm. Chỗ nầy tương đương với hai [
tỷ dụ], chính chúng
hoàn toàn không
hiện hữu. Đây gọi là chủ trương đoạn diệt}.
301
Đại Trí Độ Luận, T25.64c. Hai dòng trước của
bài kệ đọc là: {Nếu có
hạt giống, thì cũng có quả. Sự nối truyền của nhân tố tạo ra
tác động cũng như quả là luật
thâm sâu,
tối thượng được
khám phá bởi Đức Phật}.
302 ‘Giác
Ý Tam Muội’, T46.623c2. Trong đoạn văn nầy
Quán Đảnh (Kuan-ting)
nhấn mạnh vào sự phát triển
con đường thiền quán đặc thù được
Thiên Thai Trí Khải đưa ra
chi tiết trong
tác phẩm ‘Giác
Ý Tam Muội’. Theo
tác phẩm nầy (T46.623b25-624c19),
hành giả tu tập ‘tam muội
duy trì tư tưởng luôn tĩnh thức’ trước hết phải
điều phục tâm mình qua sự
hành trì lục độ và
nuôi dưỡng một
chánh tín rằng tâm và
vạn pháp đều rỗng lặng. Rồi thì với ‘một cái tâm đã được mở dây trói buộc’,
hành giả ‘quay lại chiếu soi và quán tưởng’ bốn
trạng thái [chuyển động] của tâm trong từng niệm. Khi bốn
trạng thái nầy đã
thành lập đầy đủ như đối tượng
quán chiếu, và qua sự
chiêm nghiệm về bốn sự
luân phiên của bốn pháp, thấy được rằng chúng
bất khả đắc.
Giác Ý Tam Muội (T46.624b23-27) nói: {Sự quán về [chuyển động] chưa-nghĩ và sắp-sửa-nghĩ trong đường hướng nầy, nếu
hành giả không chấp nhận bất cứ
cực đoan nhị nguyên, [thì]
hành giả sẽ không hiểu theo
cực đoan nhị nguyên. Không hiểu theo
cực đoan nhị nguyên,
hành giả sẽ không còn
chấp chặt cực đoan nhị nguyên [cũng sẽ không
tiếp tục] gieo trồng
hạt giống nghiệp. Một khi
hành giả không nằm trong chủ trương
nhị nguyên, cởi bỏ những
hành vi đưa đến
ràng buộc, thoát ra những
chướng ngại, thì cái tâm chánh quán [sẽ
xuất hiện]
trong sáng và
thanh tịnh như
hư không. Như kết quả,
chánh trí trung đạo bừng sáng, và [
hành giả] sẽ đến được chỗ
đồng thời chiếu soi nhị đế}.
Theo
Giác Ý Tam Muội ‘chánh quán’ nói đến ở đây biểu trưng nền tảng của ‘giác
ý tam muội’. Có hơn chăng là một phương thức
cẩn mật về mặt
thực hành. Chánh quán trước hết phải được phát triển qua
thiền tọa, một pháp tu
Trí Khải gọi là ‘tổng quán’ (tsung-kuan). Chỉ khi pháp
quán chiếu bốn
trạng thái [chuyển động của
tư tưởng] và tánh
bất khả đắc của chúng đủ
vững vàng để được
gìn giữ một cách hữu hiệu qua những
thực hành khác thì có
thể không còn phải
tu tập thiền tọa
thường xuyên. Sự
áp dụng uyển chuyển pháp quán nầy trong tất cả các oai nghi- tức
lục thức và
lục hành dưới những
tình trường của thiện và ác- thì gọi là biệt quán (pieh-kuan). Khuôn thước nền tảng đối với sự phát triển ‘chánh quán’ hoạt dụng như một cấu trúc tâm điểm trong
tác phẩm ‘Tiểu-Chỉ-Quán’ (Hsiao Chih-kuan, T46.466c28-467a3)) của
Thiên Thai Trí Khải cũng như phần
giảng giải minh bạch về ‘Chánh Quán’ trong
đại phẩm VII của
tác phẩm Maha
Chỉ Quán (T46.100b16).
303
Bố thí,
Trì giới,
Nhẫn nhục,
Tinh tấn,
Thiền định, và
Trí tuệ.
304 Đi, đứng, nằm ngồi, nói, nín, và những thứ
linh tinh khác. Những chỗ nầy lấy từ Tùy-Tự-Ý-Tam-Muội của
tôn giả Tuệ Tư (HTC 98.344a) và Giác-Ý-Tam-Muội (T46.624c21-21), ngoài những chỗ khác nhau thay vì ‘nằm’ thì ngài
Tuệ Tư ghi là ‘ngủ’, thay vì ‘linh tinh’ thì là ‘ăn’.
305 Thức thứ nhất trong
lục thức, đọc Giác-Ý-Tam-Muội, T46.625b3-12.
306 Cùng chỗ, T46.625b6-10. Giác-Ý-Tam-Muội nói: {[Những
yếu tố]
lục căn, trần,
không gian, và ánh sáng không thể tự thấy và
phân biệt lẩn nhau. Đến
với nhau từ nhân và duyên, sinh ra
nhãn thức. Với
nhãn thức như nhân và duyên,
ý thức sinh ra. Khi
ý thức xuất hiện,
hành giả có thể
phân biệt nhiều loại
hình tướng. Cũng vậy,
nhãn thức có mặt qua sự
sinh khởi của
ý thức. Với
nhãn thức,
hành giả có thể thấy
hình sắc, và rồi thì bị
hình sắc ràng buộc. Vì
lý do nầy,
hành giả phải
quay trở lại chiếu soi và quán cái tâm tĩnh thức trước hình tướng}.
307
Phương pháp quán tưởng hai mặt của
Trí Khải ở đây-
bác bỏ các loại phát triển thuộc
thế tục và
bác bỏ những
yếu tố bên cạnh nhân và duyên- là khuôn mẫu điển hình đối với tất cả năm thức và sáu hành còn lại. Hai pháp quán nầy, cùng với pháp quán thứ ba đã được nói
chi tiết ở pháp thứ tư trong mười pháp quán (Sự tận diệt
hoàn toàn các pháp) trong
đại phẩm VII, Maha
Chỉ Quán (T46.63a 7-65a 2), cũng như trong
tác phẩm ‘Tam Quán Nghĩa’ của
Trí Khải (San kuan i, HCT 99.79a-80b). Đây là pháp
quán tưởng đối trị ba
giả định của tâm: nhân thành (yin-ch’eng),
tương tục (hsing-hsu), và
tương đãi (hsiang-tai).
Phương pháp căn bản cho tất cả ba là ‘chỉ cái
bất khả đắc của từng
vị trí bằng cách
bác bỏ một cách
hệ thống của tứ-cú-suy-kiểm }.
Trí Khải nói rằng
toàn thể hệ thống đều từ tập
Trung Luận (Mula-madhyamaka-karika) của
Bồ Tát Long Thọ. Đọc Maha
Chỉ Quán, (T46. 63c 16-21). Trong khi có một sự
tương tự không thể nhầm lẩn giữa những pháp quán nầy và pháp thứ ba (Quán sáu tình), thứ hai (Quán sự đến và đi), hoặc thứ bảy (Quán
ba tướng), và thứ nhất (Quán nhân và duyên) trong bộ
Trung Luận của
Long Thọ, sự
xứng hợp không phải là giống [y khuôn]. Đọc
Trung Luận, T30.1b-6b.
308
Giác Ý Tam Muội (T46.19816-18) nói trong phần quán về tưởng: {Hành giả quay [nổ lực]
quán chiếu trở lại quán tưởng nguồn tâm, hành động
nhận biết hoặc
ý tưởng, và thức. Khi
quán tâm một cách
cẩn trọng,
hành giả sẽ không thấy bất cứ một cái tâm nào cố định; cũng chẳng có [bất cứ tâm nào từ đó] các pháp khác nhau và tướng của
chúng sinh và diệt.
Nếu không có nơi chốn nào là nơi tâm trụ, cũng chẳng có sự sinh và sự diệt của các pháp và các tướng, thì
hành giả nên biết rằng tâm nầy bất khả đắc}.
309 Chan-jan (T46.198b16-18) nói rằng thức nên được thêm vào chỗ nầy để thành năm
yếu tố hợp lại để sinh ra tâm thấy: {Khi mắt nhìn
hình tướng, năm
yếu tố phải
trợ duyên trước khi
hành giả có thể thấy:
không gian, ánh sáng, căn, cảnh, và thức.
Nhĩ thức,
tỷ thức,
thiệt thức,
thân thức, và
ý thức không đòi hỏi ánh sáng}.
310 Nguyên câu văn nầy (cũng như nhiều câu
theo sau) lấy từ
Giác Ý Tam Muội (T46.625b6-10); đọc ghi chú #68 ở trên. Chan-jan (T46.198b24-27)
giải thích đoạn văn như sau: {Với
nhãn thức làm
nhân duyên phát sinh
ý thức,
nhãn thức hành động như chánh nhân (hetu), nhưng nó cũng có căn, cảnh,
không gian, và ánh sáng làm
trợ duyên (pratyaya). Ngay tức khắc nó sinh ra
ý căn. [Khái niệm] ‘nhãn thức có mặt trên nền tảng ý thức’ chỉ
căn cứ vào sự kiện rằng cái nhân [đối với] sự diệt
tức thời của thức
nhận biết hoặc
ý thức được
thành lập bởi căn
nhận biết hoặc
ý căn: khi [
ý căn chuyển đổi] vào chỗ
đối diện với các cảnh khác,
nhãn thức lại
sinh khởi. Như vậy hai thức thay phiên làm nhân cho nhau}.
Koroku (đưa ra Kogi 1.542) tin rằng nhóm chữ ‘các cảnh khác’
đặc biệt chỉ cho các pháp thuộc căn
nhận biết hoặc
ý căn, nhưng Kogi
chỉ trích lối
giải thích nầy, và nói rằng thay
vì vậy, nó cũng là đối tượng
nhận thức của các căn khác.
311 Chan-jan (T46.198b28-c1) nói: {Kế tiếp, bản văn
phân biệt từng [cõi] trong mười cõi [của
pháp giới]. Đoạn văn nói về bốn cõi đầu tiên- nơi mà ‘bằng
nhãn thức hành giả có thể nhìn thấy’ v.v...
căn cứ vào kinh và
hoàn toàn gần với
Tiểu Thừa. Như vậy muốn nói là ‘thức thấy’. [Tâm]
phát khởi đứng trên
căn bản nầy, với [
nhãn thức và
ý thức] thay nhau làm
nhân duyên cho nhau. Trong đường lối nầy, mười cõi trong
pháp giới dần sinh khởi}.
312 Theo Chan-jan (T46.198c6-13).
313 Khổ, lạc, và
vô ký.
314 Chan-jan (T46.198c17-20)
ghi nhận bốn cái đầu tiên như
thiền tứ niệm trụ (smrtyupasthana)-
vô thường,
bất tịnh, khổ, vô ngã-
đại diện cho
pháp hành của chư vị
Thanh Văn.
Yếu tố thứ năm,
duyên khởi (pratiyasamutpda) là
pháp hành của chư vị
Duyên Giác.
315 Được
ghi nhận bởi Chan-jan (T46.198c20) như
cảnh giới Bồ Tát.
316 Vật cho, người cho, và người nhận.
317 Đoạn nầy lấy từ hai đoạn kinh khác nhau trong
Kim Cang, T8.749a 12-15. Và 750b29-c3.
318
Sáu mươi hai kiến chấp biểu trưng tất cả những
kiến hoặc. Chan-jan
cống hiến sự
phân chia thành bảy định nghĩa,
dựa vào lập luận của
tôn giả Quán Đảnh (Kuan-ting) về
kinh Niết Bàn (
Đại Bát Niết Bàn Kinh Sớ, T38.169a-b). [Chan-jan] đưa ra những định nghĩa như sau: {Ngũ uẩn trong cõi Dục nhân với
tứ cú thành hai mươi lối thấy. Lại nhân với
tứ cú của cõi Sắc, thêm hai mươi. Vì không có
sắc tướng ở cõi
Vô Sắc, tứ uẩn nhân với
tứ cú thành mười sáu. Hai lối nhìn cực đoạn của hai chủ trương thường và đoạn
cộng thêm vào cho
ba cõi, sinh ra thêm sáu lối nhìn, tạo thành sáu mươi hai. Trong
tác phẩm ‘Pháp Hoa Văn Cú’ (T34.56b5-8),
Thiên Thai Trí Khải đưa ra lời
giải thích như sau: {Ngũ uẩn có thể được nhìn như ngã, hoặc như cái tách biệt với ngã, hoặc lớn hơn ngã, hoặc nhỏ hơn ngã, làm thành hai mươi. [Con số] nầy nhân với
tam thời thành sáu mươi, cộng với hai lối nhìn
sai lầm về thường và đoạn, tất cả làm thành sáu mươi hai}.
319 Bốn lối nhìn
đảo ngược dùng trong
Tiểu Thừa để
diễn tả cuộc
vận hành ảo hiện được nói đến trong
kinh Niết Bàn như bốn tánh đức của
Phật tánh hoặc tánh
giác ngộ có sẳn (T9.648a-653c).
320 Chan-jan (T46.26-27) nói: {Bởi vì trong tánh rỗng lặng
hành giả thấy dung chứa đầy đủ bốn [chuyển động] của mười cõi [
pháp giới], bản văn nói rằng ‘khác nhau’}.
321 Chỗ nầy, chữ ‘pháp giới’ (fa-chieh) nên được dịch là ‘cõi’ (gati) hơn là như dharmadhatu.
322 Dùng chữ ‘ghi lại’ hoặc ‘lưu ý’ cho thấy rằng phần nầy được
tôn giả Quán Đảnh đưa vào.
323 Chan-jan (T46.200a8) nói: {Hoạt dụng của tâm là cội nguồn [của mười
pháp giới]}.
Tôn giả đã
liên kết từng
tác động trong mười
tác động với từng cõi trong mười cõi:
phạm giới với
địa ngục, và phần còn lại với các
cõi ngạ quỷ,
súc sanh,
a tu la, người, trời,
chư thiên,
Thanh văn,
Duyên giác,
Bồ tát, và Phật.
324 Chan-jan (T46.200a 11-12)
ghi nhận ‘thiện hạnh’ với mười hành động thiện được
chư thiên cõi Dục hướng về và
thực hành; và
tứ thiền với cõi Sắc.
325 Theo Muranaka, p.154.
326 Trích từ
kinh Pháp Hoa, T9.3b; Hurvitz, pp.9-10.
327 Đó là sáu thức bên trong và sáu hành bên ngoài.
328
Trí Khải (hoặc
Quán Đảnh) không luôn luôn nói giống nhau trong những mục sau nhưng
tư tưởng căn bản thì
rõ ràng. Chan-jan (T46.200a 28-b2)
giải thích: {Với mỗi mục [trong mười hai mục] bản văn
giải thích về mười cõi [của
pháp giới] và
lục độ. Nhưng vì đoạn văn thường giản lược, có khi chỉ nói đến chín cõi, có khi chỉ nói về
cõi Phật. [Trong bất cứ
trường hợp nào], hoặc
mở rộng hoặc
tóm tắt,
hình thức đều tương quan, và cùng đưa về
Viên giáo. Hơn nữa, tại sao mỗi mục trong mười hai mục chỉ làm
phong phú lục độ? Sáu cái nầy cũng nên chứa đựng sáu cái kia. Như vậy, mỗi độ được
trang nghiêm bởi năm độ kia}.
329 Nguyên đoạn văn về
tu tập lục độ hầu như được lấy trực tiếp từng chữ từ những dòng đề tựa ‘Tùy Tự
Ý Tam Muội’ ( HTC98.344d) của
tôn sư Trí Khải là
tôn giả Tuệ Tư.
330 Chan-jan (T46.200b27-28) nói: {Vì
ý tưởng không sinh khởi nên gọi là ‘không bị khó khăn’. Ở khắp
mọi nơi có nghĩa là ‘vô trụ’. Vì các uẩn... chính chúng đồng với
pháp giới, nên ‘không xáo trộn’}.
331 Chan-jan (T46.200b29-c1) nói: {Trong từng niệm người ấy
áp dụng trực tiếp vào lý, và
hoàn toàn thoát khỏi những tiến trình nơi mà cái thấy hiểu chỉ đến sau khi suy luận}.
332 Chan-jan (T46.200c3-4) nói: {Vì
ý tưởng sau mỗi niệm thì đồng với
pháp giới nên không còn sự
phân chia giữa sinh và diệt}.
333 Chan-jan (T46.200c5) nói: {Người ấy
không chấp hai
cực đoan vì hai
cực đoan chính chúng đồng với trung đạo}.
334 Theo Chan-jan (T46.200c6-7).
335 Chan-jan
ghi nhận sáu nhánh là đầu, mình, hai tay và hai chân.
336
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh, T15633b-c. Đoạn văn có trong nguyên bản
tác phẩm ‘Tùy Tự
Ý Tam Muội’ của
tôn giả Tuệ Tư. Luận tổng quát về sự
lợi ích của
bản kinh nầy đối với
tác phẩm của
tôn giả Tuệ Tư, đọc Stevenson, The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism, pp.95-96. Phần
phiên dịch đoạn văn trên, đọc Lamotte, Concentration de la marche heroique, p.152.
337
Toàn phần nầy (từ ba đoạn văn xuống đến cuối phần luận về
tam muội và
tứ ma) được lấy trực tiếp từ
tác phẩm ‘Giác
Ý Tam Muội’ của
Trí Khải (T46.626a 14-b9).
338 Chan-jan (T46.201a 2-3) nói: {Hành
giả quán cái tâm vừa
phát khởi trói buộc, thấy được ngay nơi đó không có tâm. [Không có bất cứ tâm nào ở trong
tam muội] làm cách nào
hành giả còn tưởng đến một nơi chốn mà nơi đó thủ-lăng-nghiêm tam-muội phát sinh?}
339 Theo
ý nghĩa Chan-jan (T46.201a6-7) đưa ra: {Biết chính mình
đồng thể với
pháp giới và
đáp ứng vạn sự vạn vật khắp nơi- đây là
ý nghĩa ‘sinh hoặc khởi như phương tiện’.}
340 Jneyavarana. Phần luận về nhiều cách dùng và hiểu của
Trí Khải về chữ nầy, đọc Swanson, Chih-i’s Interpretation of Jneyavarana: An application of the Threefold Truth Concept. Thực sự,
Trí Khải nhìn những ‘trí tuệ chướng ngại’ như một
cản trở của
tư tưởng không nung chảy được với
trung đạo. Chan-jan, khi
chú giải đoạn văn nầy, nói (T36.201a 9-12): {Vì có ‘người toan tính’ mọi thứ cho nên nghĩa của ngã
hoàn toàn thô thiển. Còn [
thô bỉ] biết bao nếu có người tự ‘đánh bóng chính mình’.
Chừng nào thì [loại] nầy được xem là trí tuệ? Cái tâm
vướng mắc cản ngăn
trí tuệ,
vì vậy gọi là ‘tri chướng’. Những
tín đồ không đi trên đường của Phật hầu hết phạm vào [lỗi] nầy. Vì ‘sự tự đánh bóng’ ở đây không khác với
ngoại đạo, thì tại sao có thể được xem hẳn như một bước
sai lầm đối với
trí tuệ trung đạo? }.
341
Đại Trí Độ Luận, T25.190b; đoạn văn trích dẩn không
chính xác.
342
Đại Tập Kinh, T13.177b-c. Đoạn văn nầy lấy từ một phẩm trong Ratnacuda-pariprccha.
Lập luận ở đây đặt
trọng tâm quanh câu hỏi rằng cái tâm đang
thiền quán (sở quán) thì khác hoặc giống với cái tâm đang làm việc
quán chiếu (năng quán).
Phật thuyết về
quán tâm dạy rằng
bản tánh của
tâm không thể được hiểu rằng bên trong hoặc bên ngoài ayatamas (
lục căn, lục trần}, hoặc cả hai, hoặc trong skandhas (uẩn) hoặc trong dhatus (xứ) (T13177b11-13).
343 Một bảng tên không
liên hệ đến bốn pháp thiền của
Trí Khải, được biết là ba
pháp môn giải thoát (vimoka-dvara).
Pháp môn thứ ba, tức ‘vô tác’ ở đây, được
ngài Cưu Ma La Thập và những dịch giả
đời sau dịch là
vô nguyện (wu-yuan).
344 Tâm
điên đảo, hoặc không có khả năng thức tĩnh đối với
chân tâm;
kiến điên đảo hoặc đưa ra cái thấy ai lầm đối với
căn cảnh và thất bại trong việc
nhận ra chân tánh;
tưởng điên đảo hoặc sự
sinh khởi của
suy nghĩ và
trói buộc. (
Kinh Niết Bàn, T12.498b).
345 Các ma
phiền não, uẩn, căn, trần, xứ, tử, và
ma vương cõi Dục. Chúng ma
tượng trưng cho tất cả những
yếu tố làm hư hoại
thiện hạnh. Đọc
Trí Khải,
Thứ Đệ Thiền Môn (T’zu-ti ch’an-men, T46.506c-507a).
346
Tỷ dụ nầy, lấy từ
kinh Niết Bàn (T12.740a), được dùng để biểu trưng
tâm niệm của
Bồ Tát: một người được lệnh vua phải mang một bình đầy dầu đi trong đám đông người, nhưng không được phép để nhiễu ra ngoài một giọt dầu nào,
nếu không thì sẽ nhận lưỡi kiếm bén của người
đi theo sau.
347 Theo Chan-jan (T46.201c7-8). ‘Niệm dấy khởi’ được
chú giải là ‘các cõi của
lục đạo luân hồi’. Chan-jan đồng nhất chỗ nầy với
sự quán tưởng về đế thứ nhất trong tam đế- tức Không.
348 Chan-jan (T46.201c7-8) nói: {‘Chẳng trong chẳng ngoài’ chỉ cho sự rỗng lặng của
lục thức. ‘Chẳng đến chẳng đi’ chỉ cho sự rỗng lặng của lục hành}.
349 Chan-jan đồng nhất đoạn văn nầy với pháp quán về Giả đế.
350 Đó là mười
tà hạnh trừ hạnh của tâm. Đây là
sát sanh,
thâu đạo,
tà dâm (đối với thân),
vọng ngữ,
lưỡng thiệt,
ác khẩu, tạp ngữ (đối với khẩu).
351 Ở đây và phần dưới,
Trí Khải trình bày mười thứ lớp hoặc cấp bậc
nghi lễ đạo đức (dù rằng không hẳn là
giới luật). Nội dung không đến từ bất cứ một
xuất xứ đặc biệt nào, nhưng từ nhiều chỗ trong
Đại Trí Độ Luận (T25.225c-226a) và
kinh Niết Bàn (T12.675a). Bảng kể tên ở đây hơi khác với một bảng khác trong Maha
Chỉ Quán (T46.36b-c). Sự khác nhau phần lớn chung quanh sự đồng nhất của mục thứ sáu và thứ mười.
352 Theo Chan-jan (T46.201c15) chỗ nầy bắt
đầu phần nói về pháp quán ở thứ bậc
trung đạo, đế thứ ba trong
tam đế.
353 Chan-jan (T46.201a19-21) thêm vào hành động
tiếp nhận, để
duy trì sự song song với
tam đế trong đoạn trước.
354
Ba tam muội đã nói đến ở trên.
355 Giản lược từ
kinh Diệu Pháp Liên Hoa, T9.3b; Hurvitz, p.17.
356 Không rõ
xuất xứ, nhưng có thể từ
Đại Trí Độ Luận (T25.629b5-7): {Nếu một
Bồ Tát bắt đầu dùng
pháp môn tinh tấn, người ấy sẽ vào tất cả những độ khác. ‘Tinh tấn’ có nghĩa là
thực hành kiên trì năm độ kia, thân và tâm
tinh tấn, chẳng dừng nghỉ. ‘Tinh tấn’ không có tướng
đặc biệt hoặc tách rời nó}.
357 Theo Chan-jan (T46.202a 4-9), ‘những
thực hành khác’ là năm độ kia.
Tôn giả kkhẳng định rằng
tinh tấn phải có tướng
đặc biệt vì nó ‘chỉ dẩn hoặc hướng đạo năm độ kia’}.
358 Theo
Thứ Đệ Thiền Môn (T46.480a-b) của
Trí Khải các pháp ‘thiền định’
căn bản nầy chỉ cho
tứ thiền và tứ
tam muội. Chín pháp
thiền quán về sự chết là kỹ thuật
quán tưởng hình trạng hư hoại của một
xác chết. Pháp quán thứ chín
liên quan đến sự hỏa táng hoặc sự tan rã
hoàn toàn của
xác chết, và
vì vậy có thể đưa đến kết quả không còn [chấp] vào người quán và đối tượng [
quán chiếu]. Sự phủ nhận thứ tám là những
phương pháp sinh khởi và
thành tựu căn bản thiền và
tam ma địa (samapatti).
359 Chan-jan (T46.202b9-11) nói: {Khi cái tâm
bềnh bồng đang có mặt thì làm cách nào
hành giả nhận ra được cái tâm lắng đọng?
Pháp Chỉ ở đây là chín pháp thiền,
tám pháp giải thoát v.v...Không nắm giữ bất cứ [tâm] tịnh hoặc động,
hành giả chứng ngộ được
chân tánh của
thiền định. Và
chân tánh [nầy] bao trùm vạn pháp}.
360
Đại Trí Độ Luận, T25.402c-406b. Trong đoạn văn nầy, cả kinh và
kinh luận đều bỏ qua pháp thiền thứ chín về
hỏa táng xác chết. Trong
đề mục về thiền trong Maha
Chỉ Quán, T46.121c (pháp quán thứ sáu và thứ mười), nói rằng
hành giả nên
thực tập tất cả, ngoại trừ pháp sau cuối trong chín pháp. Đây hẳn vì
hỏa táng và
sự quán chiếu nầy
ám chỉ sự
hoàn toàn đoạn diệt [nơi
Niết Bàn], là điều không
thích hợp với
Đại Thừa.
Thập lực mô tả mười
trí năng khác nhau của chư Phật.
Tứ vô sở úy gồm có Đức Phật tuyên thuyết rằng Ngài là bậc
tối thượng,
hoàn toàn xa lìa tất cả
ô nhiễm, thuyết chướng
đạo đạt đến
giác ngộ, và
thuyết đạo vượt qua tất cả. Đọc
Đại Trí Độ Luận, T25.241b-c.
361 Không tìm được
xuất xứ của tập luận nầy.
362 Đoạn nầy trong
Đại Trí Độ Luận, T25.139a-140a. Ở đây,
Đức Phật thuyết sáu định nghĩa về
trí tuệ của
thế gian: là gốc rễ của
trí tuệ bất nhiễm; là trí
ô nhiễm; là mỗi thứ lớp trí từ
sơ phát tâm cho đến tận cùng
chứng ngộ; là cả hai trí
ô nhiễm và bất nhiễm; là bất nhiễm,
vô lậu và
nhất nguyên; là
bất khả thuyết và
hoàn toàn vượt trên những
giới hạn của tất cả những
đề xướng trên
căn bản tứ cú hữu. ‘Định nghĩa thứ bảy’ nói rằng tất cả sáu định nghĩa là đúng, là cái mà Phật chối bỏ. ‘Định nghĩa thứ tám’ nói rằng chỉ có định nghĩa thứ sáu là đúng, là cái mà Phật
chấp nhận.
363 Cái thứ nhất và thấp nhất của ba
loại trí diễn tả trong
kinh Lăng Già (T1616.500c), hai loại kia
xuất thế gian trí, và
xuất thế gian thượng thượng trí.
Thiên Thai Trí Khải giới thiệu những
phân biệt tương tự về thiền-
thế gian,
xuất thế gian, và
xuất thế gian thượng thượng-
dựa vào ba trí
kinh Lăng Già đưa ra. Đọc ‘Giác
Ý Tam Muội’, T46.621c5-622a4.
364 Chan-jan (T46.202c18-19) nói: {[Câu văn] được đọc là ‘Với sự
áp dụng của mỗi
thiện pháp trong mười hai
đề mục [thì như nhau]’.
Tuy nhiên, đoạn văn giản lược}.
365 Đây là hai trong chín
tỷ dụ của
kinh Niết Bàn (T12.793c 24-794a 10) được dùng để biểu trưng sự
đồng hành của
tam muội và
bát nhã. Trước hết chà xát xà-bông, rồi dùng nuớc sạch xả; trước hết nắm cỏ vào tay, rồi thì cắt với lưỡi liềm.
366
Trí Khải trong ‘Giác
Ý Tam Muội’ (T46.622b5-623a4) hợp
lục thành tựu với lục chướng: dục hoặc tham,
bất thiện (
phạm giới),
giận dữ hoặc
hiểm độc, lười biếng,
mơ hồ, và
ngu muội. Thể thức lấy từ
Đại Trí Độ Luận (T25.303c-304b). Khác với sự
xếp đặt của
Quán Đảnh (Kuan-ting) ở đây,
Giác Ý Tam Muội (T46.623a1-4) nhìn
lục thành tựu như ‘phương tiện thiện xảo’
cần thiết để
hàng phục tâm chướng ngại và biết manh mối
sự quán tưởng
chân chính: {Lục
thành tựu bao gồm tất cả
phương tiện. Một khi
hành giả biết khéo dùng chúng để
điều phục tâm
thô thiển với sáu
chướng ngại, và có thể khiến tâm uyển chuyển, hài hòa, thì mới có thể dùng tâm
sáng tỏ quán tưởng và vào được cổng chánh quán. Đây gọi là
phương tiện tu tập thậm thâm tam muội}.
367 Hoặc
thực hành lục thành tựu thuộc
sự tướng hoặc báo trong các
cõi địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ có thể là
chủ đề ở đây.
368
Thí dụ,
Bồ Tát hoặc Phật, là các bậc
tìm cách hữu hiệu để cứu rỗi
chúng sinh.
369 Không rõ
xuất xứ.
370 Một
tỷ dụ từ
Đại Trí Độ Luận (T25.262a). Đoạn văn nầy cho thấy rằng trừ khi
Bồ Tát ra khỏi
tam độc, người ấy
tương tự như một cái hủ chứa thuốc độc có thể làm hư hoại bất cứ
công đức nào rót vào đó. Chan-jan (T46.203b14-16) nói: {Thân
Bồ Tát giống như hủ chứa chất độc. Bị
phiền não chiếm ngự có nghĩa là ‘thuốc độc’.
Tu tập pháp Phật [dưới những tình huống nầy] giống như rót
thuốc tiên vào hủ [có chất độc].
Thuyết giảng những pháp nầy cho người, [
Bồ Tát] khiến họ
mờ mịt ‘thân mạng’ là
Phật tánh thường trụ}.
371 Hợp với cái mà
trung đạo nhận ra như một
thực tại thuần túy siêu việt và
bao gồm cả hai Không và Giả.
372 T12.648a28.
Đức Phật thuyết giảng cho ngài
Ca Diếp về bốn tánh đức
Bồ Đề (thường, lạc, ngã, và tịnh), và ngài
Ca Diếp bạch rằng từ ngày nầy về sau ngài được [thực sự]
giác ngộ.
373 Chan-jan (T46.203b20-23) nói: {Nhìn một hành động thuận [với
thực tướng] là ‘thiện’ và nghịch [với
thực tướng] là ‘ác’
mô tả một vị thế
tương đối. [Câu văn
kế tiếp nói rằng] ‘Nếu có người
đạt đến chứng ngộ’ v.v... sự
trói buộc được nhìn là ác, và sự
chứng ngộ là thiện. Người ấy phải
xa lìa ác cả
hai nghĩa tương đối và
tuyệt đối. Bám vào [
ý niệm] về Viên [giáo] thì vẫn là ác. [
Vậy thì bám vào] những
giáo pháp khác còn [là ác] đến đâu nữa?}.
374 Một sự
diễn đạt lấy từ
kinh Duy Ma Cật, T14.549a.
375 Chan-jan (T46.203b24-25) nói: {Ở đây
phân biệt chi tiết về ác với nhiều nghĩa. Chỗ nầy được đưa ra như một nền tảng
quán chiếu. Trước nhất,
thể tánh của ác bị
khám phá, tức lục chướng}. Kogi (2.3) nói: ‘Chỗ nầy chỉ
áp dụng cho pháp quán của kẻ sơ cơ’.
376 Mục thứ năm có trong mười mục từ
Đại Trí Độ Luận (T25.229a-232c). Gồm những
chủ đề về
vô thường, khổ,
vô ngã,
bất tịnh (đưa ra bốn lối nhìn
đảo ngược) sự chết,
thức ăn dơ bẩn, cho thấy rằng
thế gian không có gì vui, và ba phẩm tánh của
Niết Bàn (
xa lìa, tách rời, dứt
phiền não). Mười
đề mục nầy cũng được nói đến trong
Thứ Đệ Thiền Môn của
Trí Khải, T46.538c-540b.
377
Đại Trí Độ Luận (T25.232a 9-12) nói về tà [pháp] là
nhân không an vui của hai phối cảnh:
chúng sinh và các cõi nước.
378 Sự
xứng hợp giữa hai mục và sáu sự
tán loạn thì không giống in khuôn. Chan-jan (T46.203c14-17)
cố gắng chú giải đoạn văn như sau: {Sáu sự
tán loạn được nói giản lược ở đây nhằm
mục đích đưa ra ‘sự
sinh khởi đặc thù [của
chướng ngại]’. Bốn cái đầu tiên như vẫn thường thấy. Những
tâm trí say cuồng, là nhân
mờ mịt,
mô tả sự
mơ hồ của
tâm tán loạn. ‘Dễ dàng mất đi phẩm cách’ đồng như sự ngu muội}. Muranaka (p.164)
cống hiến một bản văn uyển chuyển hơn, là bản
chúng tôi đang dò theo ở đây.
379 Tù
bản kinh Đại Thừa ‘Ương quật ma la’, T2.512b.
Câu chuyện như sau: ‘Một người học trò trẻ dòng
Bà la môn, bị vợ ông thầy của mình ve vãn, từ chối không làm
như ý người đàn bà. Bà nầy
giận dữ và bịa chuyện với chồng rằng người học trò trẻ của chồng muốn
ép uổng bà ta. Ông thầy ra lệnh
Ương quật ma la phải giết đủ một ngàn người để được
tha tội. Người học trò
tuân lệnh thầy,
đi vào chợ giết người và cắt một ngón tay của mỗi nạn nhân kết xâu đeo vào cổ. Khi đang tìm giết người
cuối cùng là mẹ mình thì gặp được Phật. Trước hết Phật khiến người nầy rời khỏi người mẹ, sau đó
thuyết pháp, người nầy
đắc quả A la hán và được sáu
thần thông.
380 Lấy từ kinh Maha-maya (
Ma Ha Ma Da) (T17.585a-b). Khi một người con của
vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) là Kỳ Đà (Jeta) thường bị ép uống rượu trong những lúc giao tiếp với người.
Thái tử luôn
cố gắng kiểm soát chính mình, và nghĩ rằng uống ruợu với người là việc quan trọng để giữ
liên hệ với nhau.
Vì vậy thái tử xin Phật
rút lại lời nguyện giữ
ngũ giới cư sĩ, và thay vào đó tránh mười
tà hạnh, là những
giới không cấm uống ruợu.
Đức Phật khen ngợi và
chấp thuận lời
thỉnh cầu.
Cũng trong kinh nầy (T17.585b-586a) kể lại
câu chuyện của bà
Mạt Lỵ (Makika), vợ
vua Ba Tư Nặc, là người đã
nói dối, trang điểm thân mình để
cám dỗ, chầu hầu và chuốc rượu cho vua. Những
cử chỉ phạm giới nầy của
phu nhân nhằm
mục đích làm vua nguôi ngoai, bỏ qua
ý định giết người đầu bếp đã làm vua
nổi giận. Vì hành động của
phu nhân thiện và
thanh tịnh, nên được
Đức Phật khen ngợi.
Chan-jan (T46.205a 4-7) ghi chú: {Câu chuyện
phạm giới để cứu
chúng sinh vì lòng mong cầu làm
lợi ích chúng sinh của
Bồ Tát. Như vậy gọi là ‘thiện giữa ác’}... Bất cứ ai muốn làm theo những
thí dụ nầy, phải tự
xét mình. Nếu người ấy chỉ vì vọng dục thì không phải là
lý do đúng để phạm giới}.
381 Từ phẩm ‘Nhập Pháp Giới’ kinh ‘Hoa Nghiêm’, T9.716c-717b.
Bà Tu Mật Đa (Vasumitra)- là một trong năm mươi ba vị
thiện tri thức, là những bậc mà
Thiện Tài đồng tử được gặp trên bước đường cầu đạo- là một người đàn bà
thông minh, trẻ đẹp thường mời mọc những người đàn ông [
hiếu sắc] đến với bà để nhân đó mà
thuyết giảng chánh pháp.
382 Từ phẩm ‘Đề
Bà Đạt Đa’,
kinh Pháp Hoa (T9.34b-35a), Hurvitz, pp. 195-197. Dù rằng vị nầy bị nhìn như người
tà kiến phá Phật, hại
tăng đoàn,
kinh Pháp Hoa miêu tả Đề Bà Đạt Đa như một
đại Bồ Tát hành Phật đạo.
383 Chan-jan (T46.205c22-24) nói: {‘không thể ngăn chận’ có nghĩa là tà [pháp] có thể thay hình đổi dạng. Chúng khiến người
thực hành pháp chỉ quán ngay khi đang ở giữa
tà vạy.
Tuy nhiên,
hành giả nhất định không được [lấy việc nầy làm nhãn hiệu và tự vẽ cho mình
con đường] không ngừng tham đắm vào
tà pháp,
nếu không thì sẽ
vĩnh viễn là
phàm phu. Điều nầy không có nghĩa rằng
tà pháp không làm
chướng ngại [đạo]. [Bản văn] cũng nói rằng ‘đạo không
chướng ngại tà’ để cho thấy rằng ngay cả khi
hành giả [trên đường] hướng về chỗ
giác ngộ,
tà tâm vẫn chưa phải là dứt hẳn}.
384 Chan-jan (
Trạm Nhiên)
nhận diện chỗ nầy với
câu chuyện của ngài Nanda, nhưng không đưa ra
chi tiết liên hệ trong
Đại Trí Độ Luận (T25.70c), cùng
xuất xứ với hai
tỷ dụ tiếp theo sau. Cả ba
câu chuyện cho thấy chư vị
A la hán và
Duyên Giác khác với Phật [như thế nào].
Câu chuyện của ngài
Xá Lợi Phất cho thấy
tập khí của tâm sân vẫn còn,
câu chuyện của
Nan Đà cho thấy
tập khí tham dục,
câu chuyện của
Dư Tập cho thấy
tập khí của ngã. Chuyện ngài
Nan Đà là một
câu chuyện nhiều người biết đến, được ghi lại trong
văn học và những ngụ ngôn
Phật giáo. Đọc Lamotte, Traité, (1.118).
Nan Đà từ giả vị
hôn thê để
gia nhập tăng đoàn nhưng lòng không thôi vương vấn
bóng dáng người yêu. Để diệt tâm mơ tưởng của ông,
Đức Phật [dùng
thần thông] đưa ông lên cung
trời Đao Lợi, cho ông thấy những
thiên nữ xinh đẹp bội phần hơn người cũ, và bảo rằng
kiếp sau ông có thể được bất cứ cô nào ông
ưng ý, với một
điều kiện là kiếp nầy ông phải ở lại
tăng đoàn, sống
đời sống của một
tu sĩ. Khi Phật dạy lại cho những
tu sĩ khác về việc nầy thì tất cả
mọi người đều cười
chế nhạo Nan Đà.
Xấu hổ, ông liền
từ bỏ lòng
ái dục và
đắc quả A La Hán.
Một
câu chuyện được ghi trong ‘Tự Thuyết Kinh’ (Udana-varga) (T4.699b-c):
Xưa kia có một người đàn bà bị người chồng đa dâm
áp bức trong việc
sắc dục. Người đàn bà tìm gặp một tăng sĩ để hỏi
ý kiến, vị nầy khuyên bà về hỏi lại chồng rằng đó có phải là hạnh của một
Tu Đà Hoàn (
sơ quả trong
tứ quả A la hán). Nguời đàn bà làm theo
lời khuyên, chồng bà
xấu hổ liền đắc được quả
A na hàm (quả thứ ba).
Chú giải của Chan-jan về đoạn văn nầy trong Maha
Chỉ Quán được thấy là
kết hợp hai bản văn vào một.
385
Đại Trí Độ Luận, T25.71a. Vị tăng sĩ tên
Dư Tập (Pilindavatsa) có
ý muốn băng ngang
sông Hằng để
khất thực. Đến bờ sông, ông búng tay và nói với con sông ‘Tiện tỳ, hãy dừng chảy!’ Con sông
nghe lời để ông đi qua, nhưng thần phách của sông đi đến chỗ
Đức Phật và
than phiền về việc mạ lỵ nầy.
Đức Phật dạy ông
Dư Tập hãy nói lời
hối lỗi với thần sông. Ông
vâng lời Phật, đi đến bờ sông,
chắp tay lại, và nói với thần sông rằng: ‘Tiện tỳ, đừng giận, ta
hối lỗi với ngươi!’. Những người
nghe được đều cười.
Tuy nhiên, Phật
xác nhận với thần sông rằng đó là lời
xin lỗi chân thật. Chỉ vì ông
Dư Tập hơn năm trăm kiếp từng là một
bà la môn, thường
kiêu mạn và
mắng nhiếc người khác. Giờ thì ông không còn những tánh xấu ấy, nhưng chưa bỏ được lối nói
ngày xưa. Như vậy, ngay cả
Đại Trí Độ Luận cũng
xác nhận rằng dù
A La Hán là bậc đã diệt
phiền não, nhưng vẫn còn
tập khí (vasana).
386
Đại Trí Độ Luận, T25.70c-71a.
Đức Phật bảo ngài
Xá Lợi Phất rằng ngài đã ăn phải
thức ăn bất tịnh, ngài liền ói tất cả ra,
giận dữ thề rằng từ nay sẽ không nhận
biệt thỉnh hoặc
tiếp xúc với
đàn na thí chủ.
Vua Ba Tư Nặc rất
bối rối về chuyện nầy, và bạch cùng Phật rằng vua khó có được
lòng tin dưới những
sự kiện như vậy, vì vua rất thường được nghe những lời pháp
vi diệu của ngài
Xá Lợi Phất.
Đức Phật dạy vua rằng tâm ngài
Xá Lợi Phất vẫn không thay đổi, vì
ảnh hưởng của nghiệp
quá khứ, ngài là một người rất khó
thuyết phục. Có kiếp ngài là một loài
rắn độc lớn, đã cắn một vị vua. Vị thầy thuốc của vua dùng
pháp thuật buộc ngài hoặc là phải nuốt nọc độc của mình hoặc là chịu thiêu trong lửa đỏ, ngài đã chọn
giải pháp thứ hai.
387
Xuất xứ của
tỷ dụ nầy từ một đoạn văn trong bài tựa của
Trí Khải trong
tác phẩm Giác Ý Tam Muội, T46.621a14-b5. Chan-jan (T46. 206b5-8)
giải thích : {Trong
hư không chẳng có sáng hoặc tối, vì sáng và tối là những
hình tướng đối đãi lẩn nhau. Cũng như vậy, [bầu] ‘không hư’ của
pháp tánh vốn chẳng chánh chẳng tà. Chỉ vì
dựa trên kiến giải của
phàm phu mà
chúng ta nói
tà chánh ngăn ngại nhau. Như
sự kiện, tà chánh- khác lối hiểu bởi
Tiểu Thừa và người thế gian- không ngăn ngại nhau vì
thể tánh (t’i-hsing) của chúng không phải là hai. Ai là kẻ đến được sự
chứng ngộ nầy sẽ
chắc chắn làm
hiển lộ Bồ Đề. Đây là
lý do tại sao khuyến khích
hành giả tu tập chỉ quán ngay giữa lòng
thế tục.
Chứng ngộ được tà không phải tà, và hiểu được
thể tánh của tà tức biết rằng, ngay nơi
thể tánh đó, vốn chẳng có chánh cũng chẳng có tà}. Kogi (2.19) lấy những lời của Chan-jan như tấm ván để
bàn cãi về [
yếu tố] tà có sẳn trong
Phật tánh.
388 Chan-jan (T46.206b11-15)
giải thích: {Ngay cả khi dùng tất cả chín pháp thiền v.v... để
tiêu diệt và
hàng phục [
phiền não], [những
phiền não nầy có thể trở ngược lại] càng
gia tăng.
Vì vậy hành giả nên dùng bốn [pháp] đã nói để phân tích.
Hành giả để tâm tịnh nghỉ, nhưng
quản thúc thân và khẩu.
Tư duy về [tâm
ái dục] một cách tận tường qua pháp
quán tưởng, ngay đó
diệt ái dục. cùng ý nầy cho nên bản văn nói ‘không có sự
sinh khởi của
chướng ngại thì không có cơ hội
thực tập quáp quán}.
389 Chan-jan (T46.19-26)
giải thích đoạn nầy như sau: {Lòng
ái dục nặng nề
ví như sức mạnh của cá lớn. Sự
tu tập quán chiếu một cách
hờ hững sánh với sự
mong manh của sợi dây câu.
Hành giả e sợ rằng sức định của mình quá nhỏ, sẽ không
hàng phục được
ái dục. [Vì]
ái dục không thể bị
diệt trừ ngay
một lần,
hành giả quay sang dùng pháp quán.
Vì vậy bản văn nói rằng ‘[cá] không thể
lập tức bị kéo [ngay lên bờ]’.
Phương pháp quán chiếu là lưỡi câu; để cho
ái dục sinh khởi là miếng mồi}.
390
Tỷ dụ nầy
xuất xứ từ
Đại Trí Độ Luận (T25.526b): {Giống như một con cá lớn đang gậm nhấm miếng mồi câu: dù rằng nó vẫn còn có thể bơi lội trong ao hồ, người [buông câu] biết rõ rằng sẽ chẳng được bao lâu. Một
hành giả tu tập đạo cũng giống như vậy, khi người ấy có được
lòng tin và
an lạc với
trí tuệ, thì người ấy sẽ không còn
tiếp tục sống đời luân lạc bao lâu nữa}.
Chan-jan (T46.206b27-28)
giải thích ‘nắm kéo lên bờ’ như sau: {Khi vọng dục đã bị tận diệt và pháp quán
thành tựu, thì gọi là ‘nắm kéo lên bờ’. Sự
thành tựu là ‘nắm lại’. Vào được [
Bồ Tát đạo] có nghĩa là ‘lên bờ’}.
391
Ý nghĩa đoạn văn ở đây không rõ.
392
Phương pháp áp dụng bốn
trạng thái mô tả đoạn văn
theo sau (xuống đến chỗ
chứng ngộ tánh rỗng lặng
rốt ráo và
đồng thời chiếu soi của
nhị đế) là đoạn giản lược của một
đề mục rộng trong
Giác Ý Tam Muội, T46.623c4-624b28.
393 Chan-jan (T46.206c8-9) nói: {Ái hoặc dục đặt trước vì
đứng đầu trong sáu chướng ngại}.
394
Phương pháp áp dụng bốn
trạng thái hoặc ‘tứ cú’ (catuskoti), chỉ cho những
tác phẩm của
Thiên Thai Tông như ‘luận về tánh
bất khả đắc của ‘Tứ Cú Suy Kiểm’. Ở đây, khái niệm
tự nhiên về
sinh diệt qua bốn
tác động của tâm được phân tích rõ rệt theo các cách như sau: (1) x, (2) không phải x (3) cả x và không phải x, (4) chẳng x, chẳng không phải x. Điều nầy để nói rằng đi sâu vào sự chuyển động thực sự của nguồn tâm (trong
trường hợp nầy là
ái dục) để xác định một cách
chính xác loại tiến trình nào chiếm chỗ khi
từ không vào có. Có phải rằng cái trước đó (cái đầu tiên trong bốn cái) diệt đi để cái sau có mặt? Hoặc là cái sau có mặt mà cái trước không phải diệt? Hoặc cả hai? Hoặc chẳng cả hai? Cấu trúc
đặc biệt mà
Trí Khải dùng trong bốn lối phân tích
dựa vào phẩm thứ VII (Quán
ba tướng) trong
tác phẩm Trung Luận (T30.9a) của
Bồ Tát Long Thọ.
395 Có phải rằng chúng xảy ra như một
biến cố cùng một thời điểm?
396 Chan-jan (T46.206c13-15) nói: {Diệt và sinh thì trái nghịch. Nếu sinh xảy ra
đồng thời hoặc
trùng hợp với diệt, thì chỗ nầy mâu thuẩn.
Tương tự như nói rằng
ngọn đèn tắt thì ánh sáng chiếu rọi.
Thực không có
căn bản như vậy. Mặt khác, nói rằng sinh chiếm chỗ biệt lập [với diệt] là để
ám chỉ rằng sinh xảy ra tách rời với diệt-
đơn độc và
hoàn toàn riêng rẽ. Như vậy tức là ‘vô nhân’. Giống như ánh sáng tự chiếu rạng mà không có sự ‘diệt’
ngọn đèn [lúc chưa thắp sáng]. Hơn nữa, nếu có người tin rằng sinh có
thể không cần đến nhân, thì sinh sẽ được thấy xảy ra trong tất cả mọi thời nơi không có nhân, như là có sữa đặc mà không cần có sữa [tươi], hoặc là
ý tưởng sẽ
phát khởi từ gỗ và đá.}
397
Giác Ý Tam Muội (T46.623c23-624a4) nói: {Nếu sinh (trong
trạng thái sắp-nghĩ) xảy ra
trùng hợp với bất-diệt (trong
trạng thái chưa-nghĩ), bất-diệt đã
ám chỉ sự có mặt của sinh. Làm cách nào cái sinh nầy có thể xảy ra? Nếu cái [đã] sinh [sau đó] có thể sinh ra cái [mới] sinh, thì ở đó có thêm một cái sinh. Sự sinh sẽ là
vô cùng tận. Nếu có
một thể đối với cái sinh nầy, cái
bình đẳng nầy (sameness) sẽ không lấy
vô số cái sinh, giống
như không thể có
vô số ngón tay trong một ngón tay. Nếu cái sinh là một cái gì khác với thể của nó, thì nó không thể được gọi là ‘sinh’... Nếu có người nói rằng sự sinh của cái sắp-sinh đứng tách biệt với cái bất-diệt của chỗ chưa-nghĩ (một trong bốn chuyển động của
tư tưởng), thì
dựa vào đâu mà cái sắp-nghĩ sẽ sinh ra? Nếu cái
sinh không có
căn bản để sinh thì là sinh [từ] không nhân}.
398 Chan-jan (206c25-29) nói: {Nếu cả hai [diệt và
bất diệt của
vị trí chưa-ái]
đồng thời có mặt [khi sắp-ái sinh], thì
chúng ta đã gây ra một cách mâu thuẩn sự sinh của [một] quả. Như vậy cả hai diệt lẩn nhau vì không
cần thiết. Vì nó [đưa ra nghĩa] cả diệt và bất-diệt [cùng một lúc] nên
chúng ta nói rằng [nhân là] ‘bất định’. Làm cách nào [một cái nhân
bất định như vậy] có thể sinh ra một quả nhất định- tức cái sinh
nhất định [sắp-ái]?}
399 Chan-jan ((T46.207a 9-11) nói: {Pháp quán
kỳ diệu nầy
giả lập ra khách và người
tiếp khách (tức tên tạm gọi đối tượng
quán chiếu và
phương pháp phân tích). Rồi thì
tư tưởng niệm theo niệm sẽ được khảo nghiệm nghiêm túc, đến đổi sẽ không có một khoảnh khắc nào tâm thoát ra ngoài [sự
minh sát]. Khi [tất cả khái niệm ] về tánh và tướng đều diệt, thì gọi là ‘không’. Bởi vì tâm tình và sự
bộc phát của nó là rỗng lặng,
hành giả không
tiếp nhận bất cứ cái sinh nào từ sắp-ái}.
400 Trong đoạn văn nầy
Trí Khải và
Quán Đảnh không
quan tâm nhiều đến sự chuyển động trong bốn
trạng thái tư tưởng và từ bốn
trạng thái tư tưởng. Mỗi sự chuyển động
ám chỉ sự tương tác của hai
trạng thái. Nếu, trên
căn bản tứ cú,
hành giả thực hành tất cả những
hoán chuyển tương sinh tương diệt của hai
trạng thái, có mười sáu cách hoán đổi trong từng chỗ tiếp giáp. Có bốn khoảng cách ở giữa (từ cái
cuối cùng đến cái đầu tiên), tổng cộng là sáu mươi bốn thể thức.
Trí Khải chỉ luận về bốn, và đưa ra bốn cái khác (trong đoạn văn sau cùng). Chan-jan, trong phần
chú giải (T46.207a11-207c23) nói đầy đủ cả bốn loại.
401 Chan-jan (T46.207c23-208a2)
nhấn mạnh vào
tính cách khít khao của
pháp định nầy, nói: {Tất cả có mười sáu mệnh đề cho từng mỗi bốn [chỗ tiếp giáp].
Dĩ nhiên, nếu
hành giả có
thể đạt đến
giác ngộ ngay khi
thực hành pháp quán, chỉ một mệnh đề là đủ. Có cần gì phải làm tất cả sáu mươi bốn [pháp]? Đó là vì có những người
độn căn thường đưa ra sự sai lệch trong việc mở ra mỗi chặng mà
chúng tôi đã
cố công bác bỏ toàn bộ sáu mươi bốn mệnh đề. Luận về
tứ cú đối với ba sự
giả lập,
tiểu phẩm V [của Maha
Chỉ Quán] có
thuyết giảng đầy đủ. Nhưng nếu
hành giả nhìn tường tận điểm
căn bản của phẩm nầy, sự thực nghiệm tức khắc bất cứ [mệnh đề nào] đều sẽ
hiển lộ cảnh giới bất khả tư nghị. Đoạn văn nầy
áp dụng vào
phương pháp giải thích đặc thù [
thực hành]. Như vậy, sáu mươi bốn mệnh đề được nói một cách
đơn giản đưa đường ‘bước vào Không’. Ở đây, với những người đã nhận chân được nguyên lý
bất khả tư nghị, vào khoảnh khắc
từ bỏ niệm dục, diệu cảnh lộ bày
sống động. Nhưng ngay cả với người ấy, các [phương thức]
trợ đạo thuộc
sự tướng vẫn
cần thiết. Chánh và phụ vẫn phải được dùng}.
402 Theo Chan-jan (T46.208a12-20) sự có mặt của sinh và chiếu soi, dù rằng không có
ý niệm về sinh và chiếu soi cho thấy rằng Không chẳng làm
chướng ngại Giả, nhưng cả hai
đồng thời chiếu soi lẩn nhau.
403 Mặc dù, một
cách thông thường, chỗ nầy chỉ cho bốn đức tánh
Phật tánh nói trong
kinh Niết Bàn, ở đây có ý nói đến
bốn quả thánh A la hán.
404 Không,
Vô Tướng,
Vô Nguyện.
405 Nhiều cõi thuộc
sự tướng cân
xứng với mười cõi hoặc
cảnh giới trong
pháp giới. Cõi thứ năm, là
cõi A tu la, bị bỏ qua; sáu độ và
ba tam muội cùng chung ở bậc thứ chín, là
cảnh giới của
Bồ Tát.
406
Cùng lúc chiếu soi cả hai Không và Giả.
407
Tam đế: Không, Giả, và
Trung Đạo.
408 Chan-jan (T36.208b14-16) nói: {Sự tương thông nầy giữa
pháp tánh và
chướng ngại được thuyết trên
căn bản lý. Giống như sóng và nước không ngăn ngại nhau. Tất cả những chỗ nầy,
cho đến [đoạn văn
liên quan] sự
tương tức của
pháp tánh và
chướng ngại trong sinh và diệt, có
ý muốn nói rằng
pháp tánh được thấy ngay nơi
chướng ngại.
409 Một đoạn văn trong ‘Chư Pháp
Vô Hành Kinh’ (Chu-fa wu-hsing ching, T15.759c).
410 T14.549a. Chan-jan (T46.208b29) nói: {Vô-đạo là những
chướng ngại.
Phật đạo là
thể tánh [của
vạn sự]}.
411 Cùng chỗ, T14.542b.
412 Cùng chỗ, T14.548a.
413 Cùng chỗ, T14.549b. Ở đây, Ngài
Văn Thù giải thích rằng hạt sen phải được gieo trong đất bùn, và sẽ không bao giờ đâm chồi giữa khoảng không,
hạt giống Bồ Đề chỉ đơm hoa chỉ khi nào được gieo trồng giữa
phiền não u uất của
thế gian.
414
Tỷ dụ về vị nước biển có thể lấy từ
kinh Niết Bàn, T12.805a-b. Ở đây
Đại Niết Bàn (mahaparinirvana) được nói rằng không thể tư nghị trong tám cách như biển. Cách thứ ba là tất cả cùng vị mặn.
Đại Trí Độ Luận, T25. 752a5, cũng có cùng
tỷ dụ.
Tỷ dụ về màu của núi có ghi trong
Đại Trí Độ Luận, T25.752b-c, các
tác phẩm không phải là kinh sách Phật theo đó mà cho rằng đó là
núi Tu Di,
trung tâm của
thế giới, chỉ có một màu.
415 Cái thứ ba trong
Lục Tức. Hai cái đầu tiên (lý tức và
văn tự tức) đã bị
lướt qua vì không
liên hệ đến sự
thực hành.
416 Cái thứ tư trong
Lục Tức, tương đương với
quả vị Thập Tín hoặc bộ mười
quả vị thứ nhất trong năm mươi hai
quả vị. Ở đây cái
hành giả chứng đắc tương tự chân lý trung đạo.
417 Thứ hai trong sáu
chuyển luân vương được nói trong kinh ‘Nhân Vương
Ba La Mật’ (Jen-wang p’o-lo-mi ching), T8.826b-829a.
Thiên Thai Viên Giáo giải thích như
biểu tượng của các
quả vị Bồ Tát đạo, và
thích ứng với đường vào
thập trụ hoặc
phần chứng tức.
418 Cũng gọi là phần-chân-tức, là cái thứ năm trong
Lục Tức. Ở đây
căn bản vô minh là cái che mờ
chân lý không thể nung chảy của
trung đạo, bắt đầu tan rã. Chỗ nầy gồm
quả vị thứ 41 trong số 52
quả vị, kể từ
thập địa cho đến đẳng giác gần quả
Bồ Đề tối thượng. Từ 41
quả vị nầy,
vô minh dần dần bị phá, và
trí tuệ trung đạo càng lớn mạnh.
419 Chan-jan (T46.208c28-29) nói: {Lục Tức
biểu thị những khác biệt từ cạn đến sâu được
mô tả theo đường dọc. Nhưng
Lục Độ thì cũng phơi bày không có trước sau, được
mô tả theo đường ngang}.
420 Đây là cái thứ ba, không phải thứ hai, trong sáu
chướng ngại.
421 Chan-jan (T46.209a 5-6) cho rằng đây là 16 mệnh đề thứ nhất trong số 64 mệnh đề được
ám chỉ qua những chữ ‘sinh’ và ‘diệt’.
422 Sáu hành và sáu thức.
423 Chan-jan (T46. 209a9) nói: {tánh Tịch và diệt của
sự tướng biểu thị Không}.
424 Chan-jan (T46.209a 9-10) nói: {mười cõi
biểu thị Giả}.
425 Chan-jan (T46.209a28) nói: {bốn tánh đức Thường, Lạc, Ngã, và Tịnh
biểu thị Trung Đạo}.
426 Chan-jan (T46.209a 28) nói: {Nếu có người luận
chi tiết, tất cả những pháp ở ngoài những
thành tựu và
chướng ngại có thể được gọi là không pha trộn hoặc
vô ký. Vì
lý do nầy, pháp quán về
vô ký phải được kể}. Kogi (2.42) trích A-tỳ-đạt-ma khẳng định rằng một sự gọi tên thì
minh bạch hơn. Trong số 64
tâm pháp trong
hệ thống 72 pháp được A-tỳ-đạt-ma khai mở, có 6 thứ bậc: ba pháp tà (tổng cộng 18), mười
pháp thiện, mười pháp
vô ký, và mười
tám pháp bất định, (T29.84a-b).
427
Đại Trí Độ Luận, T25.588a.
428 Chan-jan (T46.209b1-5) nói: {Nếu tướng của tâm [
vô ký] không được làm cho
hiển lộ, thì cự kỳ khó khăn để tập hướng về như một đối tượng [
quán chiếu]. Nếu
hành giả đối chiếu chúng với
thiện ác và
mô tả những sự giống nhau hoặc khác nhau, thì
vô ký có thể được
nhận diện và đối tượng
quán chiếu được thành lập}.
429 Chan-jan kêu nài rằng
Trí Khải đã bỏ qua cách [
thành lập] bốn
giả thuyết ở đây, và thay vào đó một sự
so sánh giữa
vô ký và sự dung hợp. Chan-jan (T46.209b4-7) nói: {Bởi vì tánh của nó là
bất định, và bốn
tác động của tâm thì không
hiển lộ một cách
rõ ràng,
chúng tôi khảo sát riêng
tứ cú đối với sự đối nghịch [giữa
vô ký] và sự
hỗn hợp của thiện và ác. Nếu có người
tham chiếu về sự
hoán chuyển một cách đầy đủ, cũng sẽ thấy có mười sáu mệnh đề. Đó là để nói rằng, sự sinh của
vô ký, sự
vô sinh của
vô ký, cả hai, và chẳng cả hai, mỗi chỗ có bốn mệnh đề. Vì bốn
trạng thái không được nói đến ở đây nên không
cần phải phân tích rộng ra sáu mươi bốn mệnh đề}.
430 Chan-jan (T46.209b) nói: {Thể tánh của niệm
vô ký và
thể tánh của niệm
thiện ác thì không khác nhau. Với thể: chúng vốn là một, với danh: chúng có khác.
Vì vậy chúng ta nói rằng ‘chẳng tụ hội chẳng chia lìa’}.
431 Chan-jan (T46.209b16-17) nói: {Câu thứ nhất trình bày cái thấy Không; mười
pháp giới, cái thấy Giả; và
pháp tánh, trung đạo}.
432 Chan-jan (T46.209b23-25)
giải thích: {Ý niệm về ‘cái thiện sau cùng’ được xác định trong tương quan với nhiều cái ác. Trước hết,
hành giả áp dụng sự
phân biệt giả tạm giữa thiện và ác, rồi thì làm
sáng tỏ ý nghĩa nơi mà cái thiện đồng với Viên [giáo]. Vì sự viên toàn ở lại chỗ sau cùng, đây gọi là tiệm [giáo]}.
433 Chan-jan (T46. 209b27-28) nói: {Sự
diễn tả ‘thiện lẩn ác’ ở đây có nghĩa rằng mỗi động tác đều đồng với
pháp giới trong ba lối thấy, hoặc là
chúng ta nói về những tướng ác hoặc nói về
hạt giống thiện của lục độ}.
434 Theo Chan-jan (T46.209c2-3), đây là một lối
diễn đạt được dùng về sau trong Maha
Chỉ Quán (T46.68b) là tên gọi cách thứ tư trong mười cách dùng
tứ cú. Có nghĩa rằng bốn dòng
tứ cú ‘có thể được dùng uyển chuyển’ đối với
phàm phu,
Nhị Thừa,
Bồ Tát, và Phật (về Hữu, Không, diệc Hữu diệc Không,
phi Hữu phi Không).
435 Chan-jan (T46.209c10-17)
giải thích: {Những dòng mở đầu đoạn văn nầy
chỉ thẳng rằng [tứ
tam muội] chỉ khác
nghi thức nhưng cùng [hướng về] lý. Nó cũng đặt [
pháp thực hành] Tùy-Tự-Ý
tam muội vào
vị trí khác với ba [
tam muội] kia. Tại sao? Cho thấy rằng chúng chỉ khác nhau ở cường độ mà chúng làm
chướng ngại đạo. Dù như vậy, sự
thâm nhập vào lý thì không khác}.
Vấn: {Trong pháp thường-tọa,
hành giả quán
ba chướng ngại... Trong [
tam muội] thường-hành
hành giả quán ba mươi hai tướng của Phật; trong
phương đẳng,
diễn đạt phương đẳng đà la ni; trong
pháp hoa [
sám pháp], voi trắng sáu ngà... Trong Tùy-Tự-Ý
tam muội hành giả quán
thiện ác và
vô ký [hành động và
tư tưởng]. Mỗi pháp quán đều đặc thù. Tại sao ông lại nói rằng chúng không khác?.
Đáp: {Tất cả những
mô tả trên đều
dựa vào [
nghi thức] thuộc
sự tướng để
áp dụng pháp quán. Nếu có người thấy được sự thấy, thì không có gì đứng biệt lập trong tâm. Cũng chẳng có một khoảnh khắc nào cái lý mà người ấy quán lại không đồng với tam đế}.
436 Câu văn ‘chúng cũng làm chướng đạo’ (tung chang tao) dường như
mơ hồ. Có những
chứng cớ rõ ràng hơn trong các bản văn khác của
Trí Khải, được đọc ‘tạo tác những chướng đạo’. Như vậy các
nghi thức của
ba tam muội trước có thể được hiểu hoặc ‘tạo ra’ những chướng đạo (bằng cách khuyến khích sự
trói buộc một cách thật thà vào nội dung
nghi lễ) hoặc ‘khơi dậy’ những chướng đạo
sẳn có như pháp đối trị chúng. Với những
tác phẩm của
Trí Khải về thiền, đọc
Thứ Đệ Thiền Môn, T46.501a-508a; 491c; Maha
Chỉ Quán, T46.49b, 102c, 111c22-112114c) thường nói đến tịnh lực (và
vai trò) của những cách thức
tu tập và
nghi lễ hài hòa nghiêm túc để ‘khơi dậy’ những
nghiệp chướng tiềm ẩn khiến chúng
tác động dưới
hình thức phiền não, tật bệnh, lối nhìn... Một khi đã lộ bày, cũng có thể
hàng phục và diệt được chúng, đưa đến những bước tiến lớn trên đường đạo.
Ba tam muội trước, với
hình thức nghiêm trang, màu sắc
sùng kính, và rất đổi tĩnh lặng được dành
đặc biệt cho hai cái dụng ‘điều’ và ‘phục’
chướng ngại. Với nghĩa sau, Kogi (2.74)
giải thích ‘những
yếu tố có thể làm chướng đạo’ là sự
tác động của nghiệp.
437 Chan-jan (T46.209c18) nói: {Từ câu ‘nếu có người chỉ riêng’... cho thấy rằng lý
tuyệt đối thiết yếu khiến cho
sự tướng tu tập có kết quả. Câu
văn từ ‘không hiểu sự
diễn đạt của lý quán’...
giải thích rằng
hành giả phải
dựa vào lý như nền tảng về mặt
thực hành như thế nào}.
438 Chan-jan (T46.209c22-23) nói: {Đây không phải có ý nói rằng những
phương pháp rõ rệt thì không
cần thiết [đối với Tùy-Tự-Ý
tam muội]. Ở đây chỉ có nghĩa rằng những
phương pháp rõ rệt không được đưa ra dưới những
hình dáng cố định trong sự
tu tập tam muội nầy. Như vậy, ‘phương pháp rõ rệt’ là cái thuộc về
ba tam muội kia}.
439 Làm những hành động khiến họ trôi lăn trong các cõi thấp hơn.
440 Chan-jan (T46.210a3) nói: {Có những người ở phương Bắc sông Hà và phương Bắc sông Hoài đưa ra nghĩa
sai lạc về Không, trong khi lớn tiếng tự xưng là Đại Thừa}.
441 Chan-jan (T46.210a 4-6) nói: {‘ngăn cấm’ có nghĩa là ‘kiểm soát’, vì với tiểu xảo, con ngườii có thể ngăn giữ hoặc
kiểm soát được loài vật.
Ái dục giống như
rắn độc;
phương pháp quán chiếu,
ý nghĩa của sự ngăn giữ.
Tu tập pháp quán
ái dục giống như bắt rắn. Nếu
hành giả không
sử dụng được
tứ cú, giống
như không có
phương tiện đúng để tự
gìn giữ... Nếu
hành giả mang theo pháp quán
vi diệu, vào khu rừng
lục cảnh, gặp rắn
ái dục, ghì đầu rắn bằng bốn
trạng thái [chuyển động] của
tư tưởng, nắm giữ nó bằng
quán tưởng, thì nọc độc của rắn sẽ không tuôn ra những hành động [ác], khiến
hành giả mê mờ
pháp thân thanh tịnh và thường trụ}.
Tỷ dụ nầy lấy từ Alagaddupama Sutta trong kinh
Trung A Hàm (Madhyamagama, T1.763b-764b). Một vị tăng tên là Arista đã
hiểu lầm pháp trung đạo của Phật,
biện luận rằng
ái dục là đạo. Phật ví vị tăng nầy với người bắt
rắn độc mà không biết gì về việc nầy, nắm lấy thân rắn khiến nó
quay trở lại cắn ông. (Đọc Horner, The Collection of the Middle Length Saying, 1.167-182).
442 Chan-jan (T46.210a 24-27) nói: {Những vị thầy trước kia vừa
độn căn vừa bị
chướng ngại nặng nề. Vì không
thành công trong đường
lối tu tập
thiện hạnh căn bản, họ bỏ cuộc, dấn thân vào
tà hạnh, và [từ đó tạo ra] những cái
giông giống như quán
tánh Không. Họ
cắt nghĩa rằng đây là cái thấy hiểu về
tánh Không và tự nhận rằng họ đã
chứng ngộ thâm sâu. Đây là sự thất bại
của riêng cá nhân họ. ‘Không biết được
căn tánh người khác’ v.v... là sự thất bại trong việc
thuyết giảng cho người}.
443 Kogi (2.50) nói chuyện nầy có nghĩa rằng khi một ông thầy
tình cờ dạy được học trò mà không hiểu tại sao lại
thành công và được
lợi ích.
444 Chan-jan (T46.210b7) nói: {‘Mù và không có mắt’ v.v... đưa ra những thất bại của những
môn đồ là những người
chấp nhận giáo pháp của ông thầy. ‘Mù’ có nghĩa là không có mắt để thấy [biết tầng lớp
thâm viễn của]
giáo lý. Khi
tu tập thiện pháp mà không đưa đến kết quả thì gọi là ‘độn căn’. Khi
ái dục hẫy hừng thì gọi là ‘phiền não nặng nề’.
Chạy theo ái dục và vọng động của tâm tư thì gọi là ‘gây ra nhiều
tà vạy khắp nơi’}.
445 Chan-jan (T46.210b7)
ghi nhận: {Bởi vì [những tệ trạng nầy]
vẫn có mặt
trong suốt đời nhà Tùy nên
Trí Khải nói: ‘vẫn chưa
sửa sai được’}.
Trí Khải có thể muốn nói đến cuộc
đàn áp Phật giáo vào thời Bắc Chu (574-577), xảy ra trước khi nhà Tùy
chinh phục phương Bắc (581). Phần luận sôi động về những
biến cố nầy trong cái nhìn
của riêng Trí Khải, đọc Sato, Tendai daishi no kenkyu, pp. 42-43, và Kyoda, Tendai daishi no shogai, pp. 113-120.
446 Đoạn văn nầy không phải trong ‘Shih chi’ nhưng trong ‘Tso chuan’ (niên sử thứ 22 nhà Chu), ghi rằng: ‘Trước khi Bình Vương (770-720) dời kinh đô về hướng đông (
Lạc Dương), Hsin-Yu đến sông Vị (ở
Hồ Nam) và thấy một vài người râu tóc
tu khổ hạnh trên một khoảng đất trống. Hsin-Yu nói: ‘Một trăm năm sau, tôi e rằng
quốc gia nầy sẽ bị giống người hung hãn ở phương tây
chiếm đóng. Các
nghi lễ sẽ không còn ở đây’. Sau đó, vào
mùa thu năm 686 trước Tây lịch, tức chưa đầy một trăm năm sau, các hoàng tử nước Tấn và Tần đưa người
thiểu số ở Lu Huan qua sông Vị}. Đọc Legge, The Chinese Classics, 5.181-182.
Chan-jan (T46.210c4-6) nói: {Người lõa thể với râu tóc
tượng trưng cho những người thầy
thuyết giảng sai lệch pháp Phật.
Chánh giáo phải được sánh với người tương xứng.
Quăng bỏ giới luật giống như ‘bỏ qua lễ nghi’. Đối tượng của
ái dục giống như người Khuyển Nhung hung hãn ở phương tây, và sự rụng tàn của chánh quán ví với sự
xâm nhập trung ương. Chánh nhân (tức đạo) không
hoàn toàn mất đi,
tương tự như ‘sợi chỉ’}.
447 Từ ‘Chin shu’ (bản Po-na) 49:1a-b. Người nầy là một trong ‘bảy
hiền nhân ở rừng trúc’ là những người
nổi tiếng tự cho mình là
Lão Giáo cấp tiến thời
tam quốc là những người uống rượu và hành xử lạ lùng như một
hình thức phản kháng
xã hội và
tự do cá nhân. Đọc Holtzman, Poetry and Politics: The Life and Works of Juan Chi (AD 210-263).
448 Chan-jan (T46. 210c25-211a3)
giải thích rằng
Trí Khải quy lỗi đưa đến việc mất miền Bắc Trung Hoa vào cuối đời Tây Tấn (AD 311-316) vì sự lơ đễnh quân sự và
văn hóa đưa đến bởi những
hình ảnh thao túng của Juan Chi và
Thất Hiền.
449 Cuộc thảm sát
Phật giáo ở phương Bắc khởi đầu với
Vũ Đế thời Bắc Chu năm 574.
450
Nhà tu đồi trụy tên
Vệ Nguyên Tung (Wei Yuan-sung) trở nên
quen thuộc như một trong hai khuôn mặt chính có
trách nhiệm trong việc
bạo động đưa đến sự
tiêu diệt Phật giáo và (
Lão giáo) của
Vũ Đế vào năm 574. Khuôn mặt thứ hai (đã được
Trạm Nhiên đề cập T46.211a 19-23) là
đạo sĩ Trương Tân (Chang-Pin). Đọc Ch’en, Buddhism in China, pp.184-194, những
sơ lược về
biến cố quanh cuộc
đàn áp thời Bắc Chu.
451 Chan-jan (T46.211b21-25)
toát yếu: {Vệ Nguyên Tung có thể
xem như một người dạy
tà pháp, trong khi đó thì
Vũ Đế là một người
cuồng tín và
ngu xuẩn. Bản
văn từ câu ‘Tại sao không?’ cho thấy
lòng tin mù lòa. Với những người
tu tập tam muội cũng nên tự xét. Thứ nhất, bên trong thiếu
trí tuệ và
hiểu biết; thứ hai, bên ngoài ông ấy hoặc bà ấy đặt trọn
lòng tin [
mù quáng] vào người thầy của mình; thứ ba
tôn sùng và bắt chước cách hành xử của thầy.
Vì vậy,
hành giả phải biết rằng: trước hết phải tự huấn luyện chính mình trong
chánh pháp, sau đó mới tin vào thầy.
Nếu không thì sẽ tự chôn vùi trong nẻo tà, và tự cho rằng đó là chánh đạo}.
452
Trang Tử, 38/14/42-44; đọc Watson, The Basic Writings of Chuang-Tzu, pp. 160-161. Theo Chan-jan (T46.211c25-212a7), người đàn bà đẹp tên Hsi-shih
tượng trưng cho người
căn cơ sắc bén, có thể
thực hành pháp quán ngay giữa
tà pháp một cách
đúng lúc và có
hiệu quả. Những người đàn bà
xấu xí kia
tượng trưng cho những người
tu tập sai lầm. Những người nghèo tránh xa
tượng trưng cho
hành giả Tiểu Thừa. Người giàu đóng kín cổng
tượng trưng cho
tín đồ Đại Thừa. Cá
tượng trưng cho những người
tu tập pháp lành thuộc
thế tục; chim
tượng trưng cho
pháp định thuộc
thế gian. Tất cả bốn hạng người đều
xa lìa sự
trụy lạc nầy; cũng như kẻ hèn, người sang, loài cá, giống chim đều tránh xa
dung mạo xấu xí.
453 Chan-jan (T46.212a 9-10) nói: {Điên cuồng vì vọng dục, chúng đuổi theo sấm chớp của lòng tham đắm}.
454 Một loại thuốc đắng của y thuật Trung Hoa làm từ chất phế thải trong thân người, được nói là trị được sốt và các chứng bệnh
hiểm nghèo khác.
455 Từ kinh
Tạp A Hàm (Samyuktagama, T2.234a-b).
Tỷ dụ phân biệt bốn loại ngựa được huấn luyện, sánh với bốn loại
căn cơ của
hành giả: giống ngựa tốt nhất sẽ làm theo ý người cỡi ngựa dù chỉ nhìn thấy bóng roi. Những loại ngựa khác có khi phải ghì lông hoặc da, hoặc cắt vào tận xương thì mớí biết ý chủ. Người
tu tập pháp tốt nhất là người chỉ cần nghe và thấy những nỗi khổ chung quanh [mình và người] thì sẽ sinh lòng chán lìa
thế gian.Về văn bản tiếng Pali trong
Tăng Chi Bộ Kinh, đọc Woodward and Hare, Book of Gradual Sayings, 2.118-120.
456 Từ
kinh Niết Bàn, T12.617-618c.
Kinh phân biệt giữa cái nhìn giả tạm về
hiện hữu là thường, lạc, ngã và tịnh, và cũng bốn tánh nầy nhưng được hiểu theo
học thuyết thâm sâu của
Đại Thừa. Những ai là người nhìn bốn tánh đức với cái nhìn
thế tục thì chẳng khác gì ông thầy thuốc chỉ biết dùng
duy nhất một chất sữa để chữa tất cả căn bệnh. Một vị thầy thuốc giỏi đến cung vua, và bảo với vua rằng sữa kia là chất độc, hãy đuổi người cho thuốc kia đi, và đưa ra từng loại thuốc trị từng chứng bệnh khác nhau trong vương quốc. Sau cùng, nhà vua
lâm bệnh, và vị thuốc mà vị thầy thuốc nầy
mang đến trước sự
kinh ngạc của nhà vua, lại là vị sữa. Người thầy thuốc thứ hai có thể làm như vậy vì, khác với người trước, ông có thể biết được bệnh nhân, và đưa ra phương thuốc
thích hợp. Được dùng bởi một người
cẩu thả, sữa
trở thành chất độc, vì gây hại hơn là chữa lành bệnh. Được phân định bởi một
lương y, sữa
trở thành thuốc quý. Kinh ví người cho thuốc
cẩu thả kia như loài sâu vẽ thành chữ trên phiến cây khô}.
457 Từ kinh
Tăng Nhất A Hàm, T2.794c, 795a. Có một phẩm khác chút ít thấy trong
Tạp A Hàm, T2.342c-343b. Về bản
phiên dịch Anh ngữ từ bản Pali, đọc Woodward, The Book of the Gradual Sayings, 5.224-227; và Horner, The Collection of the Middle Length Sayings, 1.271-277.
458 Trái nghịch với
thiện tri thức là người giúp kẻ khác trên đường đạo.
459 T14.541a. Ngài
Phú Lâu Na (Purna Maitrayaniputra) kể lại có lần Ngài
Duy Ma Cật (Vimalakirti) đã
phê bình khi thấy ngài nói pháp cho các tỳ khiêu mới học mà không
nhập định để biết được tâm tư của họ đối với
giáo pháp.
460 Theo
Tứ Phần Luật (Dharmagupta Vinaya, T22.567c) một tăng sĩ
phạm giới bị trục xuất như biển cả không nhận
xác chết. Luật trục xuất nầy dưới ba
hình thức: tạm thời, giữ
im lặng, và
vĩnh viễn.
461
Kinh Niết Bàn, T12.620c, Phật ví sự trục xuất một
tu sĩ hư hỏng ra khỏi
tăng đoàn cũng như người chủ nhà
giàu có kia nhổ một giống cây độc trong khu vườn nhà.
462
Tam độc tham, sân, si là những
phiền não căn bản.
463 Si là cái độc thứ ba trong
tam độc,
chúng ta có thể nói một cách
chắc chắn rằng [người theo
lối sống] phóng đãng cũng không thể tự nhận là đạo.
464 Từ
Lão Tử, phẩm 4: ‘[Đạo] tự làm dịu sức
thần quang và hòa đồng vào thế tục’. Trong Tùy-Tự-Ý
tam muội,
hành giả trà trộn với
thế tục thay vì tự
giới hạn trong
tịnh thất hoặc trong nghi lễ}.
465 Chan-jan (T46.213a7-8) nói: {Người ấy phải đưa ra những
giáo pháp thuộc
Luật tạng để
dung hòa [những
cực đoan].
466 Chan-jan (T46.213a9-11) nói: {Phân đọan câu hỏi : ‘Nước’
tượng trưng cho chánh quán, ‘ngọc trai’
tượng trưng cho
thể tánh của lý, và ‘gió’
tượng trưng cho những
lối tu tập khác nhau. Khi gió mạnh thì sóng tràn [trên mặt nước]. Vì những
nghi thức thuộc
sự tướng khiến [chánh] quán
vấy bùn lầy, cái dụng của bốn
tam muội là gì?}
467 Chan-jan (T46.213a15-16) nói: {Lối
thực tập của riêng từng người đã là như
vậy thì hẳn rằng cũng được dùng để dạy người. Trong đường
lối tu tập của mỗi người khác nhau,
tùy thuộc người ấy là
sơ cơ hoặc là
rốt ráo. Phải biết được
căn cơ của người, là cái riêng biệt}.
468 Chan-jan (T46.213a16-17) nói: {Ngay cả khi
chúng ta đưa ra với một
phương pháp hữu hiệu
duy nhất cho người
tu tập, thì cũng là sự
lỗi lầm đã dạy một
phương pháp cho tất cả mọi người}.
469 Chan-jan (T46.213a22)
ghi nhận đây là ‘thế
giới tất đàn’.
470 Theo Chan-jan (T46.213a22) đây là ‘vị nhân tất đàn’.
471 Chan-jan (T46.213a23)
ghi nhận đây là ‘đối trị tất đàn’.
472 Chan-jan (T46.213a23)
ghi nhận đây là ‘cứu cánh tất đàn’.
473 Thực sự, hai
tam muội đầu tiên trong bốn
tam muội đã được nói rõ, còn lại hai
tam muội, không phải ba [
tam muội].
474 Chữ ‘căn’ (ken) trong Hoa ngữ được dùng trong hai lối
diễn đạt rất khác nhau- indriya hoặc ‘căn’ (như sáu căn), và mula hoặc ‘gốc’ (như gốc
thiện nghiệp). Cả
hai nghĩa đều được đưa ra ở đây, vì gốc
thiện nghiệp có thể
hiển lộ dưới
hình tướng căn tánh sắc bén trên đường đạo.
Đại Trí Độ Luận dùng chữ che
đặc biệt với nghĩa ‘ngăn chận’ từ những
ràng buộc hoặc
phiền não. Maha
Chỉ Quán thường thấy cặp chữ che-chang, có nghĩa là trở ngại hoặc làm chướng đạo do những
ác nghiệp trong
quá khứ. (Đọc T46.91a-b).
475
Đại Trí Độ Luận, T25.239a. Bản văn
mô tả chi tiết Phật lực biết được
căn tánh chúng sinh.
Đại Trí Độ Luận đưa ra những
thí dụ ba hạng đầu tiên, không có
hạng thứ tư: ngài
Xá Lợi Phất (Sariputra) và
Mục Kiền Liên (Maudgalyayana}
tiêu biểu cho
hạng thứ nhất, ngài
Ương quật ma la (Angulimaliya) tức kẻ giết người,
tiêu biểu cho
hạng thứ hai, và
Bàn Đặc (Cudapanthaka) người học trò
nổi tiếng vì chậm hiểu,
tiêu biểu cho
hạng thứ ba. Chan-jan (T46.213b8-9)
ghi nhận hạng thứ tư là
phàm phu (prthagjana).
476 Chan-jan (T46.213b11-13)
giải thích: {Ngay giây phút
nghe được tam diệu đế đầu tiên, ngài liền chứng được
sơ quả.. Khi thấy người bỏ
gánh nặng trên người xuống, ngài liền
chứng quả A la hán. Trong
chúng hội Pháp Hoa, ngài là người được
Phật thọ ký trước nhất}.
477
Tu tập Chỉ Quán và
thiện hạnh.
478
Vua A Xà Thế phạm trọng tội giết cha, là vị vua
nhân từ tên
Tần Bà Sa La, cũng như
thông đồng với người
môn đồ xấu ác của Phật là
Đề Bà Đạt Đa để
tranh đoạt quyền hạn. Theo Chan-jan (T46.213b17-26), trong những đoạn
kinh Niết Bàn (T12.717-728), căn nghiệp của
vua A Xà Thế bắt đầu
hiển lộ dưới
hình thức xấu xa, và những chướng đạo trổ thành mụn nhọt khắp
thân thể.
Cuối cùng khi vua đến trước Phật và tỏ lòng
sám hối,
chứng ngộ và
đắc quả vị
thập tín, những ung nhọt liền lành.
Với
Ương quật ma la, đọc ghi chú 379 . Theo Chan-jan (T46.213.b27) ngài chứng được vô-sinh-pháp-nhẫn.
479
Đại Trí Độ Luận, T25.268a, và
Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Mulasarvastivadin Vinaya, T23.796b). Không kể đến sự
ám muội của ông, chỉ học một dòng kệ có thể giúp ông
chứng ngộ được pháp
vi diệu.
480 T12.641b. Maha
Chỉ Quán đổi ngược thứ tự của hai câu trong kinh. Ở đây Phật giảng dạy cho ngài
Ca Diếp rằng một vị
Bồ Tát trên đường
hoằng pháp vi phạm giới luật, và
sám hối những việc mình làm, thì không vì thế mà bị
ô nhiễm.
481 Đọc Chan-jan (T46.214a28-b2)
đặc biệt ghi chú: những người
y theo pháp [
Đại Thừa] cũng như những người
y theo giới luật, cả hai đều có
căn tánh sắc bén để
lãnh hội được [Phật]
pháp không bị
chướng ngại; những người
y theo pháp nhưng buông thả
giới cấm sẽ có
căn tánh sắc bén nhưng lại bị
nghiệp chướng; những người buông xuôi pháp nhưng
y theo giới cấm sẽ có
căn tánh trì trên nhưng không bị
nghiệp chướng; và những người
phóng túng cả hai pháp và
giới luật sẽ là người
trì độn và nhiều
nghiệp chướng.
482 Từ ‘Tạp
A Tỳ Đàm Tâm Luận’(T’sa A-p’i-tan hsin lun, T28.949c).
Đề Bà Đạt Đa, không kể
ác nghiệp của ông, tụng
đọc kinh Phật, kết quả sẽ
chứng quả giác ngộ (là một
Bích Chi Phật) sau khi
nghiệp chướng đã trả xong trong
địa ngục.
Uất Đầu Lam Phất, là một trong những ông thầy đã dạy
thái tử Tất Đạt Đa pháp
tu khổ hạnh, vẫn còn
tu tập pháp thiền của
thế tục (tức
Tam Ma Địa cao nhất).
Lối tu tập nầy giúp ông
tái sinh các
cõi trời, nhưng vì sinh tâm
giận dữ khi bị người
quấy rối trong lúc
tọa thiền, nên sau đó bị đọa vào các cõi
thấp kém.
Đại Trí Độ Luận (T25.189a) ghi lại
chi tiết những việc nầy, và dùng làm
thí dụ cho các lối nhìn sai lệch của những người đưa ra sự
phân chia giữa loạn và định, và trở nên tự
trói buộc vào cái định [như họ tưởng lầm].
483 Từ
Đại Trí Độ Luận, T25.161b. Một người
Bà la môn say đến gặp Phật và xin được
xuất gia. Phật dạy ngài
A Nan cạo tóc và mang áo cho ông.. Khi vị tăng nầy tỉnh rượu, vị nầy lo sợ về hành động của mình, rời
tăng đoàn và
vội vàng bỏ đi.. Hẳn nhiên các vị
tu sĩ khác
bối rối không rõ
lý do gì Phật lại
cho phép người nầy
gia nhập tăng đoàn ngay, nhưng Đức
Thích Ca giải thích rằng
vô lượng kiếp trong
quá khứ người kia chưa từng
vui thích vào đường đạo. Ngày nay, cơn say đã đưa đường ông, và bắt đầu tiến về chỗ nên đến. Sau nhiều kiếp
tái sinh, người nầy sẽ đạt đạo
giải thoát. Chan-jan (T46.214b16-17) ghi lại những điểm chính của
câu chuyện, và nói rằng: {Một người tu
phạm giới vẫn hơn một người phàm
giữ giới, vì [chỉ]
giữ giới cấm của
thế gian không đưa đến giải thoát}.
484
Đại Trí Độ Luận, T25.161a-b. Phật
tuyên thuyết ở đây rằng: {Mặc dù họ đã
phạm giới và sa vào
tội lỗi , những người đã vì pháp Phật mà bỏ
đời sống thế tục, sau khi
nghiệp báo đã cạn khô, sẽ
chứng đắc giải thoát.} Đây là một
thí dụ điển hình của một tỳ khiêu ni tên là
Liên Hoa Sắc{Utpalavarna). Trước đó bà là một kịch sĩ, một ngày kia bà lấy
áo tràng của
nhà tu mặc vào người chỉ để
vui chơi. Kết quả về sau bà
trở thành một tỳ khiêu ni. Vì chưa được
thanh tịnh, bà dùng sắc đẹp và
phạm giới, khiến sa vào
địa ngục.
Cuối cùng, khi đã
mãn nghiệp báo, bà
tái sinh và được gặp Phật
Thích Ca Mâu Ni, lại
trở thành một tỳ khiêu ni, chứng
lục thông và
đắc quả A la hán.