Phương pháp định hướng tư tưởng trong lời dạy của đức Phật
PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG TRONG
LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT Thích Trung Định
Định hướng tư tưởng là một vấn đềvô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người. Tư tưởng không những chi phốihành vi và lời nói mà còn ảnh hưởng đến nếp sống, phong thái, văn hóa, của con ngườitrong đời sống hằng ngày. Mỗi tôn giáo, hay một triết thuyết nào cũng đều có một hệ thốngtư tưởng chủ đạo. Dựa trên nền tảng tư tưởng chủ đạo này họ bắt đầu triển khai công việc xoay quanh trục tư tưởng đó. Trong một thể chế, tư tưởng làm ổn định lòng người, tạo sức mạnhniềm tin và củng cố khối đại đoàn kết.
Có hai loại tư tưởng chủ đạo, đó là thiện và bất thiện. Tư tưởng thiện là tia sáng đầu nguồn dẫn đường đưa chúng ta đi đến mục tiêu cao đẹp tận cùng. Ngược lại, tư tưởngbất thiện nhấn chìm chúng tađi vào bóng tối của khổ đau và đọa lạc. Việc định hướng tư tưởng giúp ích con người mở ra hướng đi mới, vươn tới tương lai tươi sáng, huy hoàng.
Theo Mahatma Gandhi: ‘Có hai loại tư tưởng khác nhau, đó là: Loại hình thành từ cái đầu và loại xuất phát từ trái tim.’ Loại tư tưởng hình thành từ cái đầu hàm chứa những nội dung xuất phát từ lý trí; và loại tư tưởngxuất phát từ trái tim hàm chứa nội dung xuất phát từ tình thương. Lời nói này khá tương đồng với tư tưởngcốt lõi của đạo Phật đó là từ bi và trí tuệ. Trí tuệ là sự hiểu biết và từ bi là tình thương yêu. Hiểu và thương luôn bổ sung cho nhau để hoàn thiện một nhân cách viên mãn. Nếu thiếu một trong hai khía cạnh thì vấn đề sẽ trở nên khập khiễng, không vững bền và dễ đổ gãy. Tư tưởng chủ đạo của Phật giáo là dạy con người hướng thiện, có tri thức để xây dựng cuộc sống tốt đẹp, yên vui trong hiện tại. Thực hànhlối sốngđạo đức chính là cốt lõi và điểm chính yếu của đạo Phật.[1]
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình. Có thể nói, đức Phật là nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại. Ngay sau khithành đạo, ngài đã đi khắp mọi miền của đất nước Ấn Độ cổ đại để truyền bátư tưởngtừ bi, giác ngộ và giải thoát cho mọi người. Sự kiện ấy đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của dòng chuyển biến về quan niệmnhân sinh và thế giới, là cuộc cách mạnghoàn toàn về nhận thức, tư duy cũng như hành động của con người. Lời dạy của đức Phật đã thổi một cơn gió mát mẻ vào thành trì kiên cố của tư tưởngVệ đà. Đã rọi tia nắng ấm áp cho màn đêm tâm thức của con người. Bình minh tiếp tục rạng soi trên khung trời triết học phương Đông và toàn thểnhân loại.[2]
Trong suốt bốn mươi lăm năm thuyết phápđộ sinh, đức Phật luôn định hướng cho con người hai vấn đềcốt lõi đó là khổ đau và con đường đưa đến đoạn diệt khổ đau. Hàm chứa trong tất cả lời dạy của đức Phật đều định hướng tư tưởng cho người nghe một cách rõ ràng. Trong kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì (Sevibba-asevibbasutta) thuộc Trung bộ kinh, đức Phật đã đề cập đến sự phát sinh tư tưởng của hai loại, một là nên hành trì và không nên hành trì. Bình luận về tuyên bố này, Tôn giả Xá-lợi-phất giải thích thêm rằng, con người nên tuân theo loại tư tưởng nào phát sinh khôngliên quan đến sự tham muốn, ác tâm, làm hại, và ngược lại. Nói cách khác, để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống, hành giả nên phát triển tư tưởng không tham muốn, không ác tâm, không gây hại và nên dừng những suy nghĩliên quan đếntham muốn, ác độc, làm hại.[3]
Trong hai câu mở đầu của Kinh Pháp Cú, đức Phật đã dạy: “1. Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý ô nhiễm, Nói lên hay hành động, Khổ não bước theo sau, Như xe, chân vật kéo. 2. Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý thanh tịnh, Nói lên hay hành động, An lạc bước theo sau, Như bóng, không rời hình.” Lời dạy này chỉ ra rõ ràng rằng, bất kỳ kết quả nào mà một người đang nhận được, dù là tốt hay xấu, đều bắt nguồn từ suy nghĩ của họ. Từ quan điểm này, đức Phật xem việc định hướng tư tưởng là hoàn toàncần thiết cho hoạt động của con người.
Trong kinh Đoạn Giảm (Sallekhasutta) thuộc Trung bộ, đức Phật đã chỉ dạy Tỷ kheo Cunda về các loạitư tưởng nào nên phát triển và tư tưởng nào nên loại bỏ. Trong bản kinh này có 44 đối tượng được liệt kê để thực hành, cụ thể là:
(1) Làm hại, không làm hại. (2) sát sanh, từ bỏsát sanh, (3) lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho. (4) không phạm hạnh, sống phạm hạnh, (5) nói láo, từ bỏ nói láo, (6) nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi, (7) nói lời độc ác, từ bỏ nói lời độc ác, (8) nói lời phù phiếm, từ bỏ nói lời phù phiếm, (9) tham dục, không tham dục, (10) sân tâm, không có sân tâm, (11) tà kiến, chánh kiến, (12) tà tư duy, chánh tư duy, (13) tà ngữ, chánh ngữ, (14) tà nghiệp, chánh nghiệp, (15) tà mạng, chánh mạng, (16) tà tinh tấn, chánh tinh tấn, (17) tà niệm, chánh niệm, (18) tà định, chánh định, (19) tà trí, chánh trí, (20) tà giải thoát, chánh giải thoát, (21) hôn trầm thụy miên, không có hôn trầm thụy miên, (22) trạo hối, không có trạo hối, (23) nghi hoặc, trừ diệtnghi hoặc, (24) phẫn nộ, không có phẫn nộ, (25) oán hận, không có oán hận, (26) hư ngụy, không hư ngụy, (27) não hại, không não hại, (28) tật đố, không tật đố, 29) xan tham, không xan tham, 30) man trá, không man trá, (31) khi cuống, không khi cuống, (32) ngoan cố, không ngoan cố, (33) cấp tháo, không cấp tháo, (34) khó nói (nan thuyết), dễ nói, (35) ác hữu, thiện hữu, (36) phóng dật, không phóng dật, (37) bất tín, tín tâm, (38) không xấu hổ, có xấu hổ, (39) không sợ hãi, có sợ hãi, (40) nghe ít, nghe nhiều, (41) biếng nhác, siêng năng, (42) thất niệm, an trú niệm, (43) liệt tuệ, thành tựu tuệ, (44) nhiễm thế tục, cố chấptư kiến, tánh khó hành xả, không nhiễm thế tục, không cố chấptư kiến, tánh dễ hành xả”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.[4]
Bốn mươi bốn phạm trùtư tưởng được đức Phậtliệt kê ở trên nhằm định hướng cụ thể cho hành giảáp dụngthực hành. Một người bắt đầu thực hiện bài thực tập này bằng cách đưa ra quyết định trong tâm trí của mình là không chấp nhận những gì sai trái, có hại, mà tuân theo những gì đúng đắn và hữu ích. Theo đức Phật, khi một người suy nghĩ và phản ánh nhiều về bất cứ điều gì trong tâm trí của mình, thì kết quả của hành động theo cách đó. Trong thực tế khi tư tưởng hướng theo chiều hướng tốt, đúng đắn, thì mọi hoạt động của con người sẽ được thực hiện một cách đúng đắn và kết quả là hạnh phúc và bình yên sẽ đến. Đó là lý do tại sao đức Phật đã tuyên bố trong Tương ưng bộkinh rằng: “Nếu tâm trí của một người được hướng dẫn, điều phục tốt, nó sẽ đoạn trừ được vô minh, đạt đếntrí tuệ và thành tựuNiết bàn.”[5]
Heidegger một triết gia người Đức, chuyên tìm hiểu về ý nghĩa của khái niệm tồn tại và cấu trúc bản thể của tồn tạicon người, ông nhận chân được giá trị của tư tưởngthiền định trong Phật giáo có thể cứu vãn được các vấn đề của thời cuộc. “Trước sự sụp đổ của con người và thời đại, Heidegger kêu gọi chúng ta hãy trở về với tư tưởngthiền định (Meditation) và từ bỏtư tưởng tính toán của tổ chức, kinh doanh, kỹ thuật, kỹ nghệ, cơ khí, chính trị, xã hội, thần học, khoa học. Heidegger đã bước đi về trên con đườngPhật giáo và chính Heidegger cũng không ngờ được. Đối với Heidegger, con người chỉ có thể tự giải thoát khi trở về thiền tưởng qua tư thái song hành: tâm hồnthản nhiên trước sự vật và tâm trí mở ra trước huyền diệubí mật.”[6]
Ngày này, trong thời đạivăn minh công nghệ hiện đại, thông tin đa chiều và nhiễu loạn, thì việc định hướng tư tưởng là vô cùngcần thiết. Thầy định hướng tư tưởng cho học trò, cha mẹ định hướng tư tưởng cho con cái. Nếu áp dụng sớm thì sẻ giúp ích cho học trò và con cái có được hướng đi vào đời vững vàng và sẻ gặt hái được thành công. Nếu không giới trẻ sẻ hoang mang vô định dẫn đến những sai lầm không đáng có.
Tóm lại, phương pháp định hướng tư tưởng trong lời dạy của đức Phật là vô cùngthiết thực và ý nghĩa. Thông qua phương pháp này, hành giả dễ dàng tiếp nhận và thực hành theo. Tư tưởngPhật giáo có mặt trên hai ngàn năm qua đã giúp nhân loạivượt qua bao cơn khủng hoảng, chiến tranh và hận thù. Phật giáocung cấp cho loài người một con đường để tự mình hoàn thiệnbản thân, thiết lập một nền tảng giá trịđạo đứcchân chính, mở ra cánh cửa an lạc và giải thoát cho con người.
[2] Thích Trung Định, Như một dòng sông, Nxb. Thuận Hóa, 2010, tr.77-87.
[3] Thích Minh Châu, dịch, Trung bộ kinh, Kinh 114. Kinh Nên hành trì, không nên hành trì (Sevitabba-asevitabba sutta) https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung114.htm.
[4] Thích Minh Châu, dịch, Trung Bộ kinh, Kinh Đoạn giảm (Sallekha sutta), https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung08.htm.
[5] F. L. Woodward, The Book of the Gradual Sayings, Vol.I, p.6.
[6] Trích, Tạp chí tư tưởngĐại họcVạn Hạnh, số 1, năm 1967, tr.v Báo Giác Ngộ, số 1176