Thư Viện Hoa Sen

Phụ Lục 3: Nghi Thức Tụng Kinh Bát Đại Nhân Giác

VÔ THƯỜNGGIẢI THOÁT ĐẠO
Thượng Tọa Thích Minh Quang
Nhà xuất bản Bồ Đề Tâm
Tu Viện Thiện Tường, Champagne, IL 61824

Phụ lục 3

NGHI THỨC HUÂN TU HẰNG NGÀY
KINH TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ CỦA BẬC ĐẠI NHÂN
Sa môn An Thế Cao dịch từ Phạn sang Hán
Sakya Minh-Quang dịch từ Hán sang Việt

NGUYỆN HƯƠNG

Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ-đề kiên cố
Chí tu học vững bền
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác.

Nam-mô Từ Phụ Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật,
Nam-mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A-di-đà Phật tác đại chứng minh.

Nay đệ tử chúng con tên là…, Pháp danh…, phát nguyện trì tụng, tư duy, và quán xét lại mình theo Kinh Tám Điều Giác Ngộ của Bậc Đại Nhân. Kính nguyện chư Phật từ bi gia hộ cho con đạo tâm kiên cố, đạo niệm tinh chuyên, sớm ngộ vô thường, khổ không, xa rời si mê ngã chấp để sống đời thiểu dục tri túc, tự tại an lành giữa vòng danh lợi.

Con nguyện lâm chung luôn tỉnh táo, thường nhớ Phật không quên; tâm không loạn trước bệnh đau, không sợ hãi, lo âu; không tham cầu, luyến tiếc; nhẹ nhàng xả báo thân, vãng sanh về nước Phật, sớm tròn tâm Bồ-đề.

Nam-mô thập phương thường trụ Tam Bảo (2 lần)
Nam-mô thập phương thường trụ Tam Bảo thùy từ tác đại chứng minh (lần thứ 3).

(Nguyện hương xong, đứng dậy cắm hương vào lư, rồi bắt đầu xướng tụng bài tán thán đức Phật…. Vị cầm khánh hồi khánh khi chủ lễ chấm dứt lời nguyện, chuẩn bị đứng lên. Cách hồi khánh: thỉnh khánh từ thưa đến nhặt, ngưng một nhịp, rồi dứt bằng bốn tiếng khánh: một thưa, hai nhặt và một thưa. Ví dụ: 0 0 0 0 0 0 0 0 0 00000 0 0 0 0)

TÁN THÁN ĐỨC PHẬT

(Dùng khánh để dẫn chúng)

Pháp Vương vô thượng trong đời

Nhân thiên ba cõi không người sánh ngang

Là Thầy dạy khắp thế gian

Là Cha lành của vô vàn chúng sanh

Quy y trong một niệm lành

Nghiệp vô lượng kiếp hóa thành sạch không

Tán dương Phật đức mênh mông

Dù trăm ngàn kiếp cũng không tận cùng. (1 xá)

QUÁN TƯỞNG ĐẢNH LỄ

Chúng sanh, chư Phật vốn đồng
Cả hai rỗng lặng, một dòng tánh không

Chí thành tất được cảm thông

Gần xa vô ngại thật không nghĩ bàn

Mười phương Phật, một đạo tràng

Lại qua ảnh hiện như màn lưới châu

Nay con quy mạng cúi đầu

Lễ trước chư Phật nhiệm mầu chứng minh (1 xá).

LỄ PHẬT

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp hiền thánh Tăng thường trú Tam Bảo (1 lễ).

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ-tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ-tát (1 lễ).

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại lực Đại Thế Chí Bồ-tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ-tát (1 lễ).

(Đại chúng ngồi xuống, duy-na (vị giữ chuông) và duyệt-chúng (vị giữ mõ) bắt đầu khai chuông mõ. Đại chúng nhiếp tâm lắng nghe phần khai chuông mõ.)

Nghi thức khai chuông mõ:

(cc: nhịp hai nhịp chuông; c: nhịp một nhịp chuông; C: thỉnh một tiếng chuông, M: thỉnh một tiếng mõ; --: khoảng cách dài ngắn giữa hai tiếng chuông hay mõ)

Duy-na: cc. C---C-----C--------c.

Duyệt chúng: m-m-m-m--M-M---M

Duy-na: C

Duyệt chúng: M

Duy-na: C

Duyệt chúng: M

Duy-na: C

Duyệt chúng: M

Duyết chúng: M MM M

Duy-na: c

TÁN LƯ HƯƠNG

Lư hương vừa bén chiên đàn

Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa

Tâm thành tưởng Phật thiết tha

Tùy nơi cảm ứng hiện ra mây lành

Vừa sinh một niệm chí thành

Toàn thân Phật hiện phước lành vô biên.

Nam mô Hương vân cái Bồ-tát (2 lần)

Nam mô Hương vân cái Bồ-tát Ma-ha-tát (lần thứ 3).

Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (3 lần).

KỆ KHAI KINH

Vô thượng thậm thâm: Pháp nhiệm mầu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu

Con nay gặp Pháp xin nhận giữ.

Nguyện hiểu chân nghĩa, Phật ý sâu.

Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (3 lần).

PHẬT NÓI

KINH TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ CỦA BẬC ĐẠI NHÂN

Người con Phật phát tâm học đạo

Luôn ngày đêm y giáo phụng hành

Đại nhân giác ngộ đành rành

Tám điều ghi nhớ chí thành niệm tu.

Điều thứ nhất tâm luôn giác biết

Cõi thế gian vốn thiệt vô thường

Đổi dời sinh tử tang thương

Cõi nước tuy lớn cũng dường mong manh.

Thân tứ đại sinh thành tử hoại

Già bệnh đeo, khổ ải giả không

Hoà hợp năm ấm lửa vòng

Chỉ là ảo ảnh ngã không thể tìm.

Thế mới biết thế gian hư huyễn

Diệt lại sinh biến chuyển vô thường

Chúng sinh điên đảo chấp nương

Si mê tạo nghiệp vào đường khổ đau.

Tâm là cội nguồn bao nghiệp ác

Thân nghe theo tạo tác tội khiên

Xuống lên sinh tử triền miên

Tội kia đầy dẫy như miền rừng hoang.

Người con Phật phải toan quán sát

Đạo lý này bao quát đường tu

Đó là thiền quán công phu

Dứt mê, chuyển nghiệp, thoát tù tử sinh.

Điều thứ hai phải nên giác ngộ

Ham muốn nhiều lụy khổ càng sâu

Nhọc nhằn sinh tử bấy lâu

Đều do tham dục dẫn đầu gây nên

Tâm ít muốn giữ bền đạo nghiệp

Hạnh vô vi không tiếp nghiệp duyên

Tự nhiên sẽ hết não phiền

An vui tự tại giữa miền nhân gian.

Điều thứ ba biết tâm giong ruổi

Luôn tìm cầu đeo đuổi chẳng nhàm

Không sao thỏa được lòng tham

Tội kia theo đó, càng làm càng sâu

Bậc Bồ-tát vô cầu biết đủ

Vui phận nghèo quy củ tu hành

Trau giồi tuệ nghiệp lợi sanh

Vung gươm trí tuệ, dứt mành vô minh.

Điều thứ tư phải nên ghi nhớ

Lười biếng làm lỡ dở đạo tâm

Quen theo thói tục lạc lầm

Đắm mê sa đọa trong hầm khổ đau

Nên thường phải giồi trau tinh tấn

Dũng mãnh tu phá những não phiền

Bốn ma hàng phục bình yên

Khỏi ngục ấm giới về miền chân như.

Điều thứ năm nằm lòng giác biết

ngu si muôn kiếp tử sanh

Bồ-tát phát nguyện tu hành

Nghe nhiều học rộng pháp lành Như Lai

Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (3 lần).

Kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật Tâm Yếu

Bồ-tát Quán Tự Tại

Khi thực hành Bát-nhã

Ba-la-mật thâm sâu

Quán chiếu thấy năm uẩn

Đương thể đều là không

Vượt qua vòng khổ ách.

Xá-lợi-phất lắng nghe

Sắc chẳng khác tánh không

Tánh không chẳng khác sắc

Sắc chính là tánh không

Tánh không chính là sắc

Thọ, tưởng, hành và thức

Bản chất cũng như vậy.

Lại nữa, Xá-lợi-phất

Các pháp nơi tánh không

Không sinh cũng không diệt

Không sạch cũng không nhơ

Không thêm cũng không bớt;

Không có năm thủ uẩn:

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức;

Không có sáu căn: mắt

Tai, mũi, lưỡi, thân, ý;

Không có sáu trần: sắc

Thanh, hương, vị, xúc, pháp;

Không có cả sáu thức:

Nhãn thức đến ý thức;

Mười tám giới đều không.

Không có mười hai duyên:

Ga tê, ga tê, ba ra ga tê, ba ra sam ga tê, bô đi xóa ha (3 lần).

(Gate gate para gate para samgate bodhi svaha)

(Tọa thiền chỉ quán về tính vô thường, khổ, không, vô ngã của thân, tâm khoảng 15-30 phút)

ĐẢNH LỄ TRI ÂN ĐỨC PHẬT BỔN SƯ

(Nếu tu tập cùng đại chúng, vị chủ lễ xướng, đại chúng thành tâm lắng nghe và quán tưởng theo. Sau khi vị chủ lễ dứt lời xướng, chờ một nhịp rồi đại chúng cùng hòa câu: Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Khi tu tập riêng ở nhà, người Phật tử xướng và hòa một mình.)

1. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:
Từ vô lượng kiếp xưa
Luôn hành Bồ-tát đạo
Xả thân mình gieo giống từ bi
Công đức ấy không sao ví được.

Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

2. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:
Cõi Ta-bà thị hiện
Nơi dòng Thích thọ sanh
Thánh Ma-da mộng ứng điềm lành
Nơi vương thất chan hòa phước lạc.

Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

3. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:
Nơi vườn Lâm-tỳ-ni
Thị hiện tướng đản sanh
Hoa sen nâng bảy bước du hành
Chỉ Phật tánh, xưng tôn ba cõi.
Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

4. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:
Dạo nơi bốn cửa thành
Thấy lẽ khổ chúng sanh
Vì thương đời một dạ tu hành
Bỏ tất cả xuất gia tầm đạo.
Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

5. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:
Sáu năm tu núi Tuyết
Trải bao cảnh gió sương
Tìm chân lý soi sáng đêm trường
Trong tâm Ngài lai láng tình thương.

Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

6. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:
Tìm ra đường trung đạo
Lìa vui khổ hai đường
Dùng định tuệ hàng phục ma vương
Sao mai mọc thành ngôi Vô Thượng.

Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

7. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:

Suốt bốn mươi lăm năm
Không nề bao gian khổ
Đem Chánh Pháp từ bi tế độ
Trời người đều ngưỡng mộ tu hành.

Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

8. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:

Rừng Sa-la song thọ
Độ chúng đã mãn duyên
Thị hiện nhập vô dư Niết-bàn
Lưu xá-lợi rộng độ nhân thiên.

Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

NIỆM PHẬT

(Đứng hay quỳ xuống tụng nếu đi kinh hành niệm Phật, còn ngồi xuống tụng khi ngồi niệm Phật)

Phật A-di-đà thân kim sắc

Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm

Năm Tu-di uyển chuyển: bạch hào

Bốn biển lớn trong ngần: mắt biếc

Trong hào quang hóa vô số Phật

Vô số Bồ-tát hiện ở trong

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh

Chín phẩm sen vàng lên giải thoát

Quy mạng lễ A-di-đà Phật

Ở phương Tây thế giới an lành

Con nay xin phát nguyện vãng sanh

Cúi xin Đức Từ Bi tiếp độ.

Nam-mô Tây phương Cực Lạc thế giới, Đại Từ, Đại Bi A-di-đà Phật.

Nam-mô A-di-đà Phật

(Niệm Phật nhiều ít tùy thời; có thể đảnh lễ niệm Phật, thiền hành niệm Phật, hay thiền tọa niệm Phật đều được)

Nam-mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát (3 lần).

Nam-mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ-tát (3 lần).

Nam-mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát (3 lần).

Nam-mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát (3 lần).

SÁM QUY MẠNG[1]

Quy mạng Điều Ngự trong mười phương

Pháp mầu thanh tịnh khéo tuyên dương

Thánh Tăng bốn quả, ba thừa pháp[2]

Xin dũ lòng từ, nguyện xót thương.

Đệ tử chúng con,

Tự xa chân tánh,

Uổng đọa dòng mê

Theo sinh tử mãi thăng trầm

Tham sắc thanh luôn ô nhiễm.

Mười triền[3] mười sử[4]
Kết thành hữu lậu nghiệp nhân;

Sáu căn[5] sáu trần[6]

Lầm tạo biết bao tội lỗi.

Đắm chìm biển khổ

Lạc bước đường tà

Chấp ngã, chấp nhân

Sai lầm điên đảo.

Nhiều đời nghiệp chướng

Tất cả tội khiên

Nguyện Tam Bảo đức từ bi

Chứng lòng thành con sám hối.(C)

Kính nguyện: Thế Tôn cứu độ

Bạn tốt dắt dìu

Ra khỏi phiền não sông mê

Bước lên Bồ-đề bến giác.

Hiện đời bình an phước lạc

Sở nguyện tựu thành;

Kiếp sau mầm giác đơm hoa

Bồ-đề kết quả.

Sinh nơi Phật Pháp

Sớm gặp minh sư

Chánh tín xuất gia

Tuổi thơ vào Đạo.

Sáu căn thông lợi

Ba nghiệp[7] sạch trong

Chẳng nhiễm duyên đời

Thường tu phạm hạnh.

Nghiêm trì giới cấm

Chẳng vướng nghiệp trần

Vững chãi oai nghi

Không hại sinh vật.

Không gặp tám nạn[8]

Chẳng thiếu bốn duyên[9]

Bát-nhã trí được hiện tiền

Bồ-đề tâm luôn bất thoái.

Tu tập Chánh Pháp

Liễu ngộ Đại Thừa

Hành môn sáu độ[10] lợi sinh

Vượt biển ba kỳ[11] thành Phật.

Dựng cờ Chánh Pháp nơi nơi

Phá lưới nghi ngờ lớp lớp

Hàng phục chúng ma

Nối dòng Tam Bảo.

HỒI HƯỚNG

Trì kinh quán niệm phước vô biên

Hồi hướng chúng sinh khắp mọi miền

Nguyện ai còn đắm trong biển khổ

Về nơi nước Phật được an nhiên.

Nguyện tiêu ba chướng, hết phiền não

Nguyện được Bát-nhã trí rộng cao

Nguyện thực hành theo Bồ-tát đạo

Đời đời tinh tiến chẳng lãng xao.

Nguyện sinh về cõi Tây phương

Đài sen chín phẩm dựa nương thức thần

Hoa nở thấy Phật pháp thân

Chứng ngôi bất thoái, cõi trần độ sinh

Nguyện đem công đức tu này

Hướng về tất cả, chung xây phước lành

Con cùng pháp giới chúng sanh

Đồng nên Phật đạo, đồng thành Như Lai.

TỰ QUY Y

Con tự quy y Phật

Nguyện tất cả chúng sanh

Nhận ra Đạo Vô Thượng

Đồng phát Bồ-đề tâm (1 lễ).

Con tự quy y Pháp

Nguyện tất cả chúng sanh

Thâm nhập nghĩa kinh tạng

Trí tuệ sâu như biển (1 lễ).

Con tự quy y Tăng

Nguyện tất cả chúng sanh

Hòa hợp cùng đại chúng

Sống vô ngại, an lành (1 lễ).

PHÁT NGUYỆN VÃNG SINH

(Hành giả tu Tịnh Độ, nên đọc bài văn phát nguyện này sau mỗi thời tu tập để tăng trưởng tín nguyện vãnh sinh)

Con nguyện lâm chung không chướng ngại
A-di-đà đến rước từ xa
Quán Âm cam lộ rưới trên đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót
Trong một sát na lìa cõi trược
Khoảng tay co duỗi đến Liên Trì
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng Pháp sâu lòng sáng tỏ
Nghe rồi liền ngộ vô sanh nhẫn
Không rời An Dưỡng lại Ta-bà
Khéo đem phương tiện lợi quần sinh
Hay lấy trần lao làm Phật sự
Con nguyện như thế Phật chứng tri
Kết cuộc về sau được thành tựu.
Nam-mô A-di-đà Phật.

------------------------------

[1] Đây vốn là bài văn phát nguyện của thiền sư Nhiên ở núi Di (怡山然禪師) được biên tập trong sách Truy Môn Cảnh Huấn, Đại Chánh Tạng, quyển 48, trang 1072. Bài phát nguyện này ảnh hưởng sâu rộng trong truyền thống Phật giáo Đại Thừa Đông Á, và được đưa vào công khóa để tụng niệm sáng chiều trong chốn thiền môn. Đây không những nhờ vào ý nghĩa sâu sắc của bài văn mà còn nhờ vào giọng văn lúc tha thiết, khi hùng tráng … qua nhịp câu ngắn gọn, dứt khoát đi thẳng vào trái tim của người tụng đọc. Vì vậy, khi dịch sang Việt ngữ, dịch giả cố gắng giữ nguyên nhịp câu và đối ngẫu như nguyên tác chữ Hán, nhằm bảo tồn tối đa nhạc điệu và hình tượng đối xứng trong tác phẩm.

[2] Ba thừa pháp: Thanh văn thừa, Duyên giác thừaBồ tát thừa.

[3] Mười triền: Mười loại tâm lý trói buộc chúng ta trong vòng sinh tử. 1. vô tàm (không biết hổ với mình) 2. vô quý (không biết thẹn với người) 3. tật (ghen ghét) 4. xan (keo kiệt) 5. hối (hối tiếc) 6. thùy miên (tham ngủ nghỉ) 7. điệu cử ( tâm loạn động) 8. hôn trầm (tâm hôn ám dã dượi) 9. phẫn (giận hờn) 10. phú (che dấu lầm lỗi của mình).

[4] Mười sử: mười loại tâm lý sai khiến mình tạo nghiệp thọ khổ. 1. tham, 2. sân, 3. si, 4. mạn, 5. nghi, 6. thân kiến, 7. biên kiến, 8. kiến thủ, 9. giới cấm thủ, 10. tà kiến.

[5] Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

[6] Sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

[7] Ba nghiệp: Thân, miệng, ý.

[8] Tám nạn: Tám chướng nạn khiến chúng sinh khó tu học Phật pháp. 1. Địa ngục, 2. Ngạ quỷ, 3. Súc sinh, 4. cõi trời Trường Thọ, 5. Biên địa, nơi không có Phật pháp, 6. Thế trí biện thông, giỏi biện luận thế gian nhưng không tin pháp xuất thế, 7. Đui điếc câm ngọng, 8. Sinh ra trước Phật hay sau Phật.

[9] Bốn duyên: Bốn nhân duyên phát tâm Bồ Đề. Theo Kinh Bồ Tát Địa Trì đó là: 1. Thấy đạo lực thần thông không thể nghỉ bàn của chư Phật, Bồ tát nên phát tâm Bồ Đề. 2. Nghe nói đến công hạnh của Bồ tát nên phát tâm Bồ Đề. 3. Thấy đời mạt pháp, chánh pháp suy vi nên phát tâm Bồ Đề. 4. Vì lòng thương xót chúng sinh khổ nên phát tâm Bồ Đề.

[10] Sáu độ tức sáu Ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.

[11] Ba kỳ: Ba a tăng kỳ kiếp. A tăng kỳ có nghĩa vô số. Đây là ước lượng số kiếp lâu xa hành Bồ tát đạo để thành tựu quả Phật viên mãn.