Nói làm duyên mà không nói là nhân vì
vô minh chỉ là duyên khiến cho
chủng tử của hành trong
tạng thức hiện hành.
Chủng tử ấy mới là
nhân sinh ra hành trong
hiện tại. Các chi khác cũng vậy.
Nếu nhìn từ cội nguồn chân thể
thanh tịnh, tức khi chưa có căn thân và
cảnh giới chúng sinh, thì
vô minh là
nhân sinh ra hành, như kinh Đại bát Niết-bàn nói: “Vô minh là
nhân sinh ra hành. Hành là
nhân sinh ra thức”
2. Chân thể vốn
không tánh, không thể tự giữ,
bất giác tâm động mà có Năng kiến cùng
Cảnh giới tướng.
Bất giác ấy do
vô minh mà có. Động ấy chính là hành. Do động mà chân thể
thanh tịnh biến thành thức. Đó là
lý do nói
vô minh là
nhân sinh ra hành, hành là
nhân sinh ra thức.
Vô minh là gì? Vô minh là không sáng. Không sáng theo cả
nghĩa bóng lẫn
nghĩa đen.
Nghĩa bóng, là không
sáng suốt, không
trí tuệ. Chỉ cho
trạng thái tinh thần mê muội đối với sự vật, không
thông đạt chân lý và không thể lý giải
rõ ràng đạo lý của các
sự tướng. Cũng chỉ cho
nhận thức thế tục không hiểu được
đạo lý Phật giáo3...
Nghĩa đen là không sáng.
Trong
Thiết Nhãn pháp ngữ4, khi nói về
thức ấm, ngài Thiết Nhãn nói:
“Tâm bạn được thanh tịnh từ đầu đến cuối thời tọa thiền. Không một niệm tốt hay xấu khởi lên. Cũng không rơi vào trạng thái vô ký. Tâm thanh tịnh như bầu trời mùa thu. Sáng trong như gương sáng sạch bóng. Lúc đó, tâm bạn giống như cái rỗng rang của hư không, bạn thấy như pháp giới hiện hữu cả trong ấy, như có một cái gì thanh lương khó nghĩ… Tuy nhiên khi trạng thái này tiếp tục mà hành giả nghĩ mình đã đạt đến giác ngộ và thấy mình ngang với Thích Ca Mâu Ni v.v… là một lỗi lầm lớn. Đến được ngôi vị này là thể hội uẩn thứ năm”. Đó là chỗ
chứng nghiệm của các
hành giả tu thiền khi
đạt được phần Sở minh nói trong kinh
Lăng nghiêm, phần Năng kiến nói trong luận
Đại thừa khởi tín. Đó là
lý do ngài Phú-lâu-na
trả lời Đức Phật rằng: “Nếu cái không sáng mà gọi là giác thì không có sở minh”. Sáng
trở thành đối tượng có thể thấy, gọi là Sở minh. Nếu sáng không phải là dụng của
giác tâm thì
chúng ta không thể
chiêm nghiệm được cái sáng ấy.
Hỏi: Sở minh vẫn còn là sản phẩm của
vô minh. Vậy
vô minh đâu phải không sáng?
Đáp:Trong
Thủ lăng nghiêm trực chỉ,
Đại sư Hàm Thị nói:
“Trong Như Lai tạng thật có hai nghĩa là minh và không minh. Minh là giác thể vốn minh. Vô minh là thể giác tánh không tánh, do giác tánh rất chân nên không phân biệt, trong cái không phân biệt mà vắng lặng thường trụ thì đó là diệu, trong cái vô phân biệt mà mờ mịt bất giác thì đó là vô minh”5. Do
vô minh mà chân thể
thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu phân
năng sở và cái sáng của
giác tánh mới
trở thành đối tượng được
nhận biết. Đó là
lý do để biết
vô minh vẫn còn
hiện diện, nhưng sáng là
giác tánh sáng, không phải
vô minh sáng. Do
vô minh đã được đẩy lùi khá nhiều nên
hành giả mới có thể
nhận ra được cái sáng của
giác tánh, nhưng một khi
hành giả vẫn còn
chiêm nghiệm được cái sáng ấy, tức
năng sở vẫn còn, thì những gì nhận được đó chưa phải là cái thể của
giác tánh. Do
vô minh không phải sáng, nên nói
vô minh (không sáng) là vậy.
Vô minh ảnh hưởng thế nào đến đời sống con người? Trong
Yeugiadinh.info có một bài viết ngắn về
vô minh. Khá
đơn giản nhưng
hiển lộ được tính
tác hại của
vô minh tàn hại
đời sống con người thế nào.
Trên đời này, có một thứ còn nguy hiểm hơn tiểu nhân và ác nhân, không nên để mình mắc vào. Đó chính là vô minh.
Trong Phật giáo, vô minh mang ý nghĩa của sự lầm lẫn, thiếu sáng suốt, tức là không nhìn thấy bản chất của mọi vật thể, tức phương thức hiện hữu đích thật của con người và mọi hiện tượng.
Vô minh chính là điều rất khủng khiếp hơn cả ác nhân và tiểu nhân. Nó khiến người ta không nhận ra được sai lầm, thậm chí tin rằng mình là đúng, không nghe lời khuyên nhủ của người khác, mà làm theo vọng tưởng của mình.
Hãy đọc qua câu chuyện này:
“Có một anh thương gia cưới một người vợ xinh đẹp. Họ sống với nhau và sinh ra một bé trai kháu khỉnh, nhưng người vợ lại ngã bịnh và mất sau đó. Người chồng bất hạnh dồn tất cả tình thương vào đứa con. Đứa bé trở thành nguồn vui và hạnh phúc duy nhất của anh. Một hôm, vì việc buôn bán anh phải rời khỏi nhà, có một bọn cướp kéo đến đốt phá và cướp sạch cả làng, bắt cả đứa con của anh mang đi, lúc ấy đứa bé mới lên năm tuổi. Khi trở về, trước cảnh tang thương và điêu tàn, anh thương gia đau khổ vô ngần. Lúc bới những đống vật liệu cháy dở còn ngổn ngang ở nền nhà, anh tìm thấy xác một đứa bé cháy đen. Ngỡ là xác của con mình, anh bứt tóc, đấm ngực than khóc thật thảm thương và không sao nguôi ngoai được. Sau đó anh đem xác đứa bé đi hỏa táng rồi lấy một ít tro gói vào một mảnh lụa quý. Anh đeo gói tro ấy vào người, dù đang làm việc, đang ăn hay đang ngủ anh cũng không rời gói lụa. Thỉnh thoảng anh vẫn ngồi yên một mình để nhớ và thương con, và mỗi lần như thế anh lại khóc thật lâu.
Một thời gian sau, một hôm đứa bé trốn thoát được bọn cướp, tìm đường lần mò về làng. Đứa bé tìm được căn nhà mới của cha mình thì lúc ấy đã nửa đêm, nó đập cửa liên hồi. Trong nhà, người cha đang nằm khóc trên giường, gói tro đặt bên cạnh, liền cất tiếng hỏi: “Ai đấy?”
Đứa bé đáp lại: “Con đây, cha ơi, con của cha đây, mở cửa cho con với!”
Trong lúc đang lo buồn và hoang mang, người cha lại ngỡ rằng có kẻ nào muốn trêu chọc, chế nhạo cảnh khổ đau của mình, liền giận dữ và hét to lên: «Hãy cút đi, cứ để yên cho ta!”.
Và rồi anh ta lại tiếp tục khóc, đứa con vẫn tiếp tục đập cửa. Nhưng người cha nhất định cho rằng đấy không phải là con mình, vì bên cạnh con mình đang nằm yên trong cái bọc lụa quý. Đứa bé thất vọng, đau khổ và bỏ đi. Từ đó hai cha con không còn gặp lại nhau nữa.
Như vậy, vô minh không phải là một sự kiện thiếu hiểu biết, mà là một sự hiểu biết sai lạc và lầm lẫn, như trường hợp người cha đoan chắc tro của con mình đang được gói trong cái bọc lụa quý. Sự hiểu biết sai lạc hay vô minh chính là nguồn gốc của khổ đau. Ta hãy lấy một thí dụ trong cuộc sống thường nhật, chẳng hạn một số người có trí thông minh khác thường, nhưng trí thông minh ấy không giúp gì được cho họ, lại còn làm cho họ điêu đứng hơn. Không hẳn sự thiếu hiểu biết gây ra khổ đau, nhưng chính trí thông minh sai lạc đã giữ vai trò trực tiếp. Kinh sách gọi trí thông minh sai lạc là tà kiến. Đó là một dạng khá thô trong các dạng của
vô minh.
Khuynh hướng của
vô minh là khiến
con người có những
nhận định sai lầm đối với
thân tâm và
cảnh giới của mình, từ đó gặt hái
phiền não, đánh mất cái
thường lạc ngã tịnh của chân thể. Đó là
lý do muốn
đạt được Niết-bàn thì phải
trừ diệt vô minh. Nói cách khác,
chúng ta phải soi thấu được cội nguồn của
vô minh thì
chúng ta mới thật sự hết khổ. Khổ của
Phần đoạn sinh tử và khổ của
Biến dịch sinh tử.
Tên gọi và ý nghĩa Tùy
tác dụng thô hay tế mà
vô minh có nhiều tên:
căn bản và chi mạt,
tương ưng và
bất tương ưng,
mê lý và
mê sự v.v...
6 Cũng do thô tế không đồng mà
xuất hiện nhiều định nghĩa về
vô minh.
Kinh Hoa nghiêm nói: “Không rõ được
Đệ nhất nghĩa đế là vô minh”
7. Nương đó mà tạm có các khái niệm sau để rõ về
vô minh một cách
chi tiết hơn: không thấy không biết
Thập nhị duyên sinh là
vô minh. Không thấy không biết
Tứ đế là
vô minh. Không thấy không biết
nhân quả là
vô minh.
Không thấy không biết nhân quả là vô minh Nhân quả là nguyên lý
chi phối thế giới này. Không có gì sinh ra và mất đi mà không thông qua nguyên lý ấy.
Thực tế thì người đời trong
suy nghĩ và
hành vi, do
thói quen nhiều đời, không ai không
sử dụng nhân quả trong đời sống của mình. Như bệnh thì biết phải đi
bác sĩ để
tìm ra nguyên nhân của bệnh mà chữa trị. Muốn có tiền thì phải làm gì đó v.v… Mọi thứ đều thông qua
nhân quả. Chỉ có điều, do
vô minh mà
chúng ta dụng sai cái nhân khi tìm cái quả với những việc
vượt quá tâm thức của mình. Như Phật dạy nhân của
giàu có là
bố thí, nhưng khi
ứng dụng vào
thực tế, do
vô minh, nên thay vì
bố thí tạo phước và làm việc nghiêm túc để có cái quả
tốt đẹp,
chúng ta lại
lươn lẹo, tham nhũng v.v… Lầm nhân lộn quả là như vậy đều do
vô minh mà ra.
Vô minh ở đây là không thấy, không biết về
nhân quả. Không biết nhân nào sinh ra quả nào để
thực hiện đúng
con đường nhân quả đưa mình đến
hạnh phúc, trong khi
luật nhân quả thì vẫn
vô tư vận hành chi phối tất cả. Không thấy, là dù biết rồi cũng chưa có nghĩa là đã thấu được nhân nào cho ra quả nào như thấy trái cam trong lòng bàn tay, vì
nhân quả không chỉ xảy ra trong
một đời mà thường là trong nhiều đời. Chính
vì vậy, có khi biết rồi mà trên sự vẫn phạm khi cái tôi bị
va chạm v.v…
Hiện tại xảy ra bao điều bất ổn trong
xã hội là do
con người lầm nhân lộn quả. Không biết
sát sinh đưa đến nạn tai,
chết yểu v.v… nên thay vì
giữ giới sát cho nghiêm túc,
chúng ta lại giết vật để
cung dưỡng thân mình. Tức lên là giết, thích là giết, muốn là giết, bất kể
hậu quả như thế nào. Từ cái nhân ấy mà có cái quả nạn tai, đánh giết
thương tâm tiếp theo. Cứ thế mà trả vay xoay vần từ kiếp này sang kiếp khác.
Khổ nạn đều từ việc không thấy không biết
nhân quả đang
chi phối thế giới này.
Trong hai loại
Căn bản và Chi mạt thì
vô minh nói ở phần này thuộc Chi mạt.
Không thấy, không biết Tứ đế là vô minh Tứ đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Phàm phu ít biết về lý
Tứ đế này. Ngay cả những vị
xuất gia, có vị cũng không biết về lý
Tứ đế này, dù đây là
giáo lý Phật dạy cho hàng
xuất gia tu
giải thoát.
Trong
Tứ đế, Tập là
nhân sinh ra khổ. Đạo là nhân giúp Diệt
hiện tiền. Diệt có thể hiểu là Niết-bàn, cũng có thể hiểu là diệt hết Tập. Tập hết thì ngay đó là Niết-bàn.
Tập là
tích tụ.
Sự tích tụ này đưa đến khổ dù đó là
thiện nghiệp.
Đơn giản vì
tích tụ đưa đến chấp khi ta chưa
ý thức rõ về nó. Đã chấp thì thiện
trở thành bất thiện khi đủ duyên. Vì thế, tuy đa phần
kinh luận dạy người
tu thiện nghiệp nhưng rốt sau
Trung luận phá hết mọi thứ. Người đời được dạy
nhẫn nhục và
giữ giới nhưng với
Trần Nhân Tông,
Tuệ Trung thượng sĩ thì dạy: “Giữ giới cùng nhẫn nhục/ Chiêu tội chẳng chiêu phước”. Đó không phải là
phá pháp mà chính là
phá chấp, dù
hình thức thấy như
phá pháp.
Phá chấp cũng chính là phá Tập. Giúp hàng Bồ-tát thoát cái khổ
vi tế là
Biến dịch sinh tử khổ, được cái lạc
rốt ráo của chân thể
thanh tịnh.
Lưu giữ nhân duyên đời quá khứ Nghĩa đầu tiên của
tích tụ là tích chứa
nhân duyên.
Mọi
nhân duyên ở
cuộc đời này đều được
tích tụ trong
tạng thức.
Nhân quả nối tiếp là nhờ đó.
Ba nghiệp thiện đưa đến quả lành thuận trong tương lai.
Ba nghiệp bất thiện đưa đến quả buồn nghịch trong tương lai. Cùng một
hành vi như nhau, mà với người này lại nhận cái quả tàn khốc, với người kia lại nhận được sự
yêu thương, là do bị
ảnh hưởng của phần
nhân duyên tích tụ trong
quá khứ.
Nhân duyên quá khứ chi phối đời sống con người trong
hiện tại không ít. Song ít ai thấy được cái nhân
quá khứ này, nên trên quả
tiếp tục gây nhân, nhân ấy lại được
tích tụ vào
tạng thức làm
nhân duyên để hiện khởi thành
cảnh giới bên ngoài mà nhận quả ở các
kiếp sau.
Sinh tử do đây mà
tương tục, các mối
liên hệ do đây mà xoay vần
trói buộc theo hai đường
nghịch thuận.
Muốn
giải thoát phải biết về các mối
nhân duyên trói buộc này. Không thì
trói buộc nối tiếp
trói buộc.
Vua
Lưu Ly, có một kiếp làm chúa của loài cá.
Lúc ấy, trời hạn hán không có gì ăn nên
dòng họ Thích đánh bắt hết cá trong hồ. Cá chúa nảy sinh lòng
uất hận, nguyện dồn hết mọi
phước đức có được cho
cơ duyên trả mối hận này. Đến kiếp
Lưu Ly làm vua, chỉ vì một lời mắng, ông đã
rắp tâm tàn sát hết
dòng họ Thích. Lời mắng là cái duyên làm bật dậy cái nhân mà
dòng họ Thích đã gây tạo trong
quá khứ.
Nan Đà, vào ngày
hôn lễ của ngài,
Đức Phật đã đến
chúc mừng, rồi đặt
bình bát của mình vào tay
Nan Đà.
Nan Đà không dám trả bát cho Phật, cứ thế mà phải
đi theo Phật. Rồi
xuất gia,
tu hành trong sự bất đắc dĩ. Nhờ
phương tiện thiên nữ thiện xảo của Phật,
Nan Đà phát tâm tinh tấn tu tập và
chứng quả giải thoát trong
hiện kiếp.
Chứng quả rồi,
nhận ra thực chất của
ái dục và
chấm dứt con đường trói buộc8. Nếu
nhân duyên với Phật không sâu dày thì
Nan Đà không thể gặp Phật
phương tiện mà tu
giải thoát.
Đời đời bị cột trói bởi
ái dục.
Học
Tứ đế, chứng
Tứ đế,
chúng ta mới hiểu
mọi việc trong đời đều có
nhân duyên quá khứ, mới biết làm thế nào để
chuyển hóa các
nhân duyên, là
tu Đạo và chứng Diệt.
Hiểu tâm có
tác dụng huân tập và lưu giữ những gì trong
hiện tại và là nhân cho ra cái quả ở tương lai thì ta mới
ý thức tích tụ thiện nghiệp,
huân tập những việc khó làm.
Hiểu mọi thứ ở đời này chỉ do
tích tụ mà có thì cũng hiểu mọi thứ đều có thể thay đổi
tùy theo sự tích tụ của mình. Không muốn thứ gì hiện khởi nữa thì không
huân tập thứ đó vào
tạng thức nữa.
Ở đây, nhắc đến
tạng thức khi
giải thích về Tập, là trên mặt tổng quan của
Phật giáo mà nói, còn
Tứ đế được nói cho hàng
Thanh văn thì chưa đề cập đến
tạng thức. Tuy đã dạy “nhân quả ba đời” nhưng chưa
giải thích vì sao
quá khứ có thể lưu giữ không mất mà
tồn tại cái gọi là “nhân quả ba đời” đó.
Thói quen và lực của nó Nghĩa thứ hai của
tích tụ là
thói quen.
Thói quen là kết quả của những gì
chúng ta lặp đi lặp lại
trong đời sống của mình. Những gì
ưa thích sẽ tạo thành
thói quen mạnh hơn những gì không
ưa thích. Ngày nào
chúng ta cũng đọc báo,
thời gian sau
chúng ta có
thói quen đọc báo. Ngày nào cũng
ngồi thiền,
thời gian sau
chúng ta có
thói quen ngồi thiền v.v...
Thói quen không chỉ được
huân tập trong hiện đời mà còn là
thừa kế của những
kiếp trước. Như trong
Tích truyện Pháp cú,
9 phẩm
Đề Bà Đạt Đa đắp y không tương xứng, Phật nói: “Này các Tỳ-kheo! Đây không phải là lần đầu
Đề Bà Đạt Đa đã đắp bộ y mà ông không xứng đáng. Ở
kiếp trước ông ta cũng đã
đắp y không tương xứng”. Trong phẩm Chàng mập Tissa, Phật nói: “Này các Sa-môn, đây không phải là lần thứ nhất ông ấy
cứng đầu.
Kiếp trước ông ấy cũng đã bướng bỉnh như thế”. Việc đó cho thấy,
tư tưởng và
hành vi của người đời thường được
tích tụ thành
thói quen và có khả năng nối tiếp trong hiện đời cũng như tương lai.
Đặc tính của
thói quen là thứ gì thành
thói quen rồi nó sẽ tạo ra một lực, Phật gọi là lực nghiệp. Những gì đã tạo thành
chủng tử chứa trong
tạng thức đều có lực của nó. Chỉ là tùy mức độ
huân tập mà có mạnh hay yếu. Chính vì có lực này mà
chúng ta có
sinh tử tương tục. Nó cũng chính là thứ mà các
triết gia Tây phương gọi là
ý chí, là sự
thúc đẩy.
Triết gia Schopenhaurer nói một câu rất hay: “Bề ngoài,
con người tuồng như có cái gì ở trước
thúc đẩy họ đi tới. Song kỳ thực họ bị thúc tới từ đằng sau”
10. Những gì
chúng ta đã
huân tập trong
quá khứ chính là thứ
thúc đẩy ta đi tới. Sự
huân tập về
tư tưởng và hành động nếu đồng nhau thì
mục đích đề ra và ý thích cũng như hành động thành
tương ưng. Không
tương ưng được là do
tư tưởng và hành động
huân tập chưa
tương ưng.
Hành nghiệp cũ thì đã
tích tụ có lực,
tư tưởng nếu mới, tức
huân tập chưa có lực thì chưa
tương ưng. Như
trường hợp của những người vừa
giác ngộ lý Phật mà
thói quen đời còn quá mạnh, nên
mục đích và ý thích
tu hành xuất gia không thể
thực hiện trong
hiện kiếp.
Hiện tại, khi
thói quen có
điều kiện tiếp diễn,
chúng ta không
nhận ra lực này. Nhưng một khi
thói quen bị dừng ngang,
chúng ta sẽ
nhận ra lực này rất rõ. Đọc sách quen rồi ngưng lại liền thấy sự trống vắng. Có gì đó cứ
thôi thúc mình tìm sách để đọc. Cái
thôi thúc ấy chính là lực nghiệp.
Những kẻ nghiện thuốc,
thân tâm luôn
cảm thấy buồn trống,
bứt rứt,
đau đớn, khó chịu khi phải xa rời
thói quen hút thuốc của mình. Những
hành giả tu đạo cũng không tránh được
phản ứng đối với
thân tâm khi phải dừng đi một
thói quen hay dừng đi dòng
vọng tưởng của mình.Thứ mà
mọi người vẫn cho là “đè nén”
thân tâm (khi
dụng công trừ vọng)
thực ra là
phản ứng của lực nghiệp. Khi lực của dòng
tương tục còn mạnh, sẽ xảy ra sự đè nén này. Nhưng một khi giác có lực mà vọng mất lực thì sự đè nén không còn. Nếu cho rằng đè nén là không nên trong việc
dụng công khi lực
tương tục của mình còn mạnh, thì coi
như không có
công phu, chỉ đang hòa nhập
nuôi dưỡng dòng
vọng tưởng mà thôi.
Lực chính
chi phối con người mang tính tổng quát và mạnh nhất chính là
lực sinh khởi của tâm. Chân thể do
bất giác mà động. Do cái động này mà chân thể chuyển thành thức thứ tám, là nền tảng từ đó có
chúng sinh và
thế giới. Vì thế,
biến động và
sinh khởi là nền tảng có
chúng sinh. Khái niệm
chúng sinh được hình thành từ đó.
“Chúng sinh là do tâm, ý và ý thức họp lại mà sinh”11.
Điều phục được sự
sinh khởi này, tức
điều phục được dòng
tương tục, là làm chủ được dòng
nghiệp lực. Dòng
tương tục nếu dừng thì
chấm dứt được
Phần đoạn sinh tử của
phàm phu. Nếu ngộ được
Phật tánh, vọng hiện đúng là vọng, tức không còn lực dẫn
hành giả luân hồi trong
sinh tử, vào
sinh tử phải nương
nguyện lực mới vào được, thì cũng là một dạng
chấm dứt Phần đoạn sinh tử. Do vọng mất lực nên
thế gian hiện như
mộng huyễn bào ảnh. Chỉ là nương đó mà
tự lợi và
lợi tha để
hoàn thành Phật đạo.
Dùng câu
niệm Phật hay dùng
pháp chỉ quán,
biết vọng không theo, tham
công án v.v… đều là pháp giúp dừng dòng
sinh khởi này. Tùy
tinh thần và chỗ
hồi hướng mà pháp
trở thành trực chỉ hay không.
Nếu không nắm được
thói quen sinh khởi của tâm, tức không nắm được mặt
Tập đế này
rõ ràng thì mình sẽ dễ dàng bỏ cuộc khi gặp khó khăn trong việc
dụng công. Tuy nói tu
giải thoát mà không hề bỏ
thói quen đời. Bỏ được
thói quen đời thì vướng vào
thói quen đạo v.v… lấy đó cho là
cứu cánh của việc
tu hành,
thỏa mãn với những
hình tướng giả tạm bên ngoài. Đều do không biết không thấy
Tứ đế.
Chúng sinh vì không biết đế
Tứ đế nên không biết khổ là từ trong chính mình mà ra, thành cứ hướng ngoại cầu tìm, rồi đi từ khổ này đến khổ khác.
Trong hai loại
Căn bản và Chi mạt thì
vô minh nói ở phần này vẫn thuộc Chi mạt.
Không thấy không biết Thập nhị duyên sinh là vô minhThập nhị duyên sinh là
vô minh, hành, thức,
danh sắc,
lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão
bệnh tử.
Thập nhị duyên sinh nói cho ta biết mọi thứ ta đang có hiện nay đều bắt nguồn từ
vô minh. Những gì
chúng ta thấy như thật hiện nay
thực ra chỉ là sự
chuyển biến của một dòng
nhân duyên. Đủ duyên thì hiện, hết duyên liền ẩn, không có chất thật. Nếu
vô minh hết thì dòng
nhân duyên ấy
chấm dứt. Nói cách khác, thứ mà các nhà
vật lý hiện đang
tìm kiếm - cội gốc từ đó có
thế giới và
con người - chính là
tâm chân thật, chỉ do
vô minh bất giác mà
xuất hiện thế giới và
chúng sinh, như ngủ rồi mộng mà thấy mọi thứ
xuất hiện. Không có cội gốc
vật chất nào sinh ra
thế giới và
chúng sinh này như họ đang
tìm kiếm.
Chúng sinh, trừ
trường hợp huyết mới tụ thai rồi mất thì không đủ mười hainhân duyên, còn lại đều đầy đủ.
Chúng sinh ở cõi
Sắc không có ba thứ thọ, ba thứ xúc, ba thứ ái, không có già bệnh, nhưng vẫn được coi là đầy đủ
mười hai nhân duyên.
Chúng sinh cõi
Vô sắc cũng vậy, tuy không có sắc
cho đến lão bệnh, nhưng vẫn được coi là đầy đủ
mười hai nhân duyên12.
Thập nhị duyên sinh có thể được xem là phần
giáo lý trung gian giữa
Tứ đế của hàng
Thanh văn và
Tánh không duyên khởi của hàng Bồ-tát
tu Phật quả. Trong
Tứ đế chỉ nói đến Tập là
nguyên nhân của khổ. Sang
Thập nhị duyên sinh thì
vô minh được nói đến ở
vị trí cội gốc. Đó là nền tảng từ đó có hành, thức,
danh sắc,
lục nhập v.v…Tức Tập có là do
vô minh. Một khi
vô minh này chưa diệt thì dù Tập thô đã được thanh lọc, vẫn còn phần Tập tế, mà
căn bản minh là nền tảng. Như vậy, Tập trong
Tứ đế, với
tâm thức của hàng Bồ-tát
đăng địa, đã được khai triển sâu hơn, chính là phần
tập khí (
chủng tử) nói trong
Duy thức học. Đứng ở mặt
hiện hành và
chủng tử mà nói thì Tập mà hàng
Thanh văn đoạn trừ chỉ mới là phần
hiện hành của
các chủng tử ẩn sâu trong
tàng thức. Chư vị chỉ mới đoạn được
Phần đoạn sinh tử của
phàm phu, vẫn còn cái khổ
Biến dịch sinh tử của
thánh nhân. Khổ
Biến dịch chỉ
đơn giản như luận
Đại thừa khởi tín nói: “Động tức có khổ, vì quả chẳng lìa nhân”.
Cho nên, phân
Tam thừa thì thấy như
Tứ đế,
Thập nhị duyên sinh và
Tánh không duyên khởi là ba phần
giáo lý khác nhau.
Thực ra, chỉ là
mở rộng và
nhấn mạnh hơn, giúp
chúng ta ý thức hơn về phần
vô minh thâm sâu mà
hành giả cần
trừ diệt, không dừng trụ ở chỗ với
phàm phu là minh mà
thực ra vẫn còn là
vô minh đối với
thánh nhân. Cho nên,
Tứ đế thông suốt Tam thừa,
Thập nhị duyên sinh thông suốt Tam thừa,
Tánh không duyên khởi thông suốt Tam thừa. Chỉ do thô tế mà thấy có khác nhau. Kinh Đại bát Niết-bàn nói:
“Tất cả chúng sinh dù đi cùng với Thập nhị duyên sinh mà chẳng thấy chẳng biết”. Cũng nói:
“Do nghĩa này, Thập nhị duyên sinh chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng nhân, chẳng quả… Do nghĩa này nên nói Thập nhị duyên sinh ý nghĩa rất sâu, không thể biết, không thể thấy, không thể nghĩ bàn, là cảnh giới của chư Phật và Bồ-tát, chẳng phải hàng Thanh văn Duyên giác đến được”13.
Giáo lý dạy cho hàng
Duyên giác mà nói
Duyên giác không thể đến được, là muốn
nhấn mạnh đến thực tánh của
Thập nhị duyên sinh, tức
thông suốt đến chỗ gọi là
Đệ nhất nghĩa đế, chính là
hiển bày mặt
tánh không của
Thập nhị duyên sinh nói riêng,
vạn pháp nói chung. Do tánh các pháp là không, các
pháp chỉ hiện khởi theo duyên, nên nói
Tánh không -
duyên khởi. Nhờ mặt
duyên khởi này mà biết các
pháp không tánh, nên nói
Duyên khởi -
không tánh.
Trong hai loại
Căn bản và Chi mạt,
Bích chi Phật chỉ mới đoạn được
Chi mạt vô minh,
Căn bản vô minh vẫn chưa thấu tới.
Không thấy, không biết Đệ nhất nghĩa đế là vô minh Đệ nhất nghĩa đế, kinh
Đại bát Niết-bàn gọi là
Phật tánh,
Tâm kinh Bát-nhã gọi là
tướng không của các pháp, luận
Đại thừa khởi tín gọi là không của
chân như v.v… Nó là nhân của cái quả là Niết-bàn Phật.
Vô minh nói đây chỉ cho phần
vô minh tế, thuộc
Căn bản và
Bất tương ưng vô minh.
Luận
Đại thừa khởi tín gọi nó là
Vô minh nghiệp tướng.
“Vì bất giác tâm động mà gọi là nghiệp. Giác thì bất động…”. Nó là cái
bất giác vi tế tối sơ khiến chân thể
biến thành thức, từ đó có
thế giới và
chúng sinh. Cũng là niệm tối sơ từ đó có hoặc, nghiệp, khổ, nên gọi nó là
Căn bản vô minh.
Kinh
Thắng Man phu nhân hội gọi nó là
Vô minh trụ địa.
“Vô minh trụ địa là tâm bất tương ưng từ vô thủy đến nay”, nên nó còn có tên là
Bất tương ưng. Nói
Bất tương ưng vì không do
tương ưng với cảnh mà hiện khởi.
Hàng
Nhị thừa chưa biết loại
vô minh này. Phần
tu chứng ở các
quả vị La-hán và
Bích Chi Phật chỉ mới đoạn được phần
Chi mạt vô minh hay
Tứ trụ địa phiền não nói trong kinh
Thắng Man14, chư vị chưa biết gì về phần
Căn bản vô minh này. Chỉ khi
phát tâm cầu
Phật đạo mới được dạy về loại
vô minh này và trong quá trình hành Bồ-tát đạo mới dần đoạn được loại
vô minh này. Nhưng phải là hàng Bồ-tát chứng được nhân
Phật tánh trở đi mới có khả năng đoạn được ít nhiều. Kinh Thắng Man nói:
“Vô minh này, trí của Thanh văn và Độc giác chẳng thể đoạn. Chỉ có trí của Như Lai mới có thể đoạn”. Trí Như Lai xuất hiện khi hành giả chứng nghiệm được cái nhân Phật tánh, nhà thiền gọi là “Kiến tánh thành Phật”.
Vô minh được xóa sạch khi
thành tựu quả vị Phật. Do ý này mà nói
“Không rõ được Đệ nhất nghĩa đế là vô minh”. Theo
Biệt giáo thì quá trình này bắt đầu từ giai vị
Sơ địa trở đi,
bao gồm hai a-tăng-kỳ trong ba a-tăng-kỳ kiếp
hoàn thành Phật đạo.
Việc xóa sạch nói đây bao hàm nghĩa thấu được
thật tánh của
vô minh hơn là nghĩa đoạn trừ như hàng
Nhị thừa. Kinh
Đại bát Niết-bàn nói: “Nói
vô minh làm
nhân duyên mà có các
hành pháp, người
phàm phu liền
phân biệt tưởng rằng có hai
pháp minh và
vô minh. Người trí rõ biết tánh đó vốn không hai.
Tánh không hai ấy tức là
thật tánh. Nếu nói các hành làm
nhân duyên sinh ra thức, người
phàm phu cho rằng có hai là hành và thức. Người trí rõ biết tánh đó vốn không hai.
Tánh không hai đó tức là thật tánh…”
15. Nhận được
thật tánh thì nhận được mặt không hai của
vạn pháp.
Nhận ra mặt không hai của
vạn pháp tức là nhận được
thật tánh. Đó chính là nghĩa
Đệ nhất nghĩa đế.
Đối với việc
thể nhập thật tánh, trước phải có sự tin hiểu đối với
Phật tánh thì mới không dừng trụ ở
quả vị La-hán hay
Bích Chi Phật. Đó là
lý do kinh
Pháp hoa nói khai, thị, ngộ,
nhập Phật tri kiến.
Trung luận có các phẩm Phá
Nhân duyên, Phá
Tứ đế, Phá
Thập nhị duyên sinh, Phá Niết-bàn v.v… là phá cái chấp vào các pháp đó. Có chỗ dịch là quán, là quán đến tận cùng
thực chất các pháp đó. Thành nói phá, là phá tướng để hiển tánh. Phá tướng
sinh diệt,
hiển bày tánh không sinh diệt.
Chấp pháp là hậu quả… Chấp pháp là chấp các pháp thật có, nên không vướng bên này thì vướng bên kia. Đều do không
nhận ra được phần
Đệ nhất nghĩa đế. Do phần
mê lý này mà trên sự
chúng ta dụng
pháp không đúng duyên. Đây không nói đến việc lầm nhân lộn quả, mà nói khi dụng
pháp không thấy được mặt
tùy duyên của pháp, không thấy được
giá trị của
pháp lệ thuộc vào duyên, không có tính cố định, nên
tư tưởng của ta
thường trụ vướng vào một bên, không thể
linh hoạt theo duyên.
Xảy ra
tình trạng thấy pháp mình nói mới là nhất, thấy chỉ có
Nhị thừa hay
Đại thừa mới là pháp của Phật,
quyết định Tăng luôn hơn tục hay tục luôn hơn Tăng, đạo luôn hơn đời hay đời hơn đạo v.v… đều là cái thấy
thiên lệch. Thấu được
bản chất của
vạn pháp thì hiểu pháp nào có
giá trị của pháp đó.
Tùy duyên mà lúc thì Tăng hơn tục, lúc thì tục hơn Tăng, lúc thì đạo hơn đời, lúc thì đời hơn đạo, lúc thì
Nhị thừa mới là nhất, lúc thì
Đại thừa mới
phù hợp v.v…
“Pháp
trụ pháp vị, tướng
thế gian thường trụ”16 không ra ngoài nghĩa
tùy duyên mà
bất biến. Dù với cái nhìn của
thế gian là
ác pháp, nếu nó được
sử dụng đúng duyên thì pháp
vẫn có giá trị lợi ích cho người. Trong kinh
Đại bát Niết-bàn, Phật nói:
“Này Thiện nam tử, nếu có những lời dù thô cứng, nhưng chân thật, không hư vọng, lại phải thời đúng pháp có thể lợi ích cho chúng sinh, người nghe dầu chẳng vui đẹp, nhưng ta cần phải nói. Vì chư Phật Thế Tôn khéo biết phương tiện”. Cũng nói:
“Cũng có lúc ta dùng cây đánh quỷ hộ pháp. Một hôm nơi cành cây ta xô ngã quỷ Hộ-di-hầu. Có lúc sai thần Kim Cương khủng bố ngoại đạo Tát-giá Ni-kiền-tử…”. Tất cả đều vì
mục đích “khiến họ an trụ nơi Chánh pháp nên thị hiện những phương tiện như vậy”17. Lời dạy cho thấy quan
trọng không phải nằm ở
lời nói và
hành vi thế nào mà ở việc dụng pháp sao cho đúng duyên đúng thời làm
lợi ích chúng sinh. Điều này đòi hỏi người dụng pháp phải thấu được nghĩa
bình đẳng của
vạn pháp. Nếu tâm còn
chấp pháp, dù là
thiện pháp, đều không thể
sử dụng.
Tổng kết Vô minh, tuy có khá nhiều nghĩa, nhưng là theo thứ lớp mà lập để
nhận biết về
vô minh được
rõ ràng. Cũng không ra ngoài nghĩa
tùy duyên. Đó là những cái “Biệt” không ra ngoài một cái “Tổng”. Có thể mượn một câu trong kinh
Đại bát Niết-bàn để nói về mặt “Tổng” này:
“Này Thiện nam tử! Nếu chung với phiền não thời gọi là vô minh. Nếu chung với tất cả pháp lành thời gọi là minh”18. Cứ ý theo đó mà
tu hành.
Chân Hiền Tâm
_______________
(1) Kinh Đại bát Niết-bàn, quyển 2, phẩm Sư Tử Hống Bồ-tát. HT.Trí Tịnh dịch.
(2) Sđd.
(3) Tự điển Phật học Huệ Quang. Chủ biên HT.Thích Minh Cảnh.
(4) Bạch Ẩn thiền định ca (Bản cũ). Ni sư Hạnh Huệ và Thuần Bạch dịch.
(5) Thủ lăng nghiêm trực chỉ quyển 4, phần gạn hỏi tánh minh làm vọng. Đại sư Hàm Thị (Bản Hán văn).
(6) Tự điển Phật học Huệ Quang. HT.Thích Minh Cảnh chủ biên.
(7) Kinh Thủ lăng nghiêm trực chỉ. Thiền sư Hàm Thị. TT.Thích Phước Hảo dịch.
(8) Tích truyện Pháp cú. Viên Chiếu dịch. Theo bản Anh ngữ Buddhist Legent của học giả Eugene Watson Burlingame.
(9) Sđd.
(10) Câu chuyện triết học. Will Durant, Trí Hải và Bửu Đích dịch
(11) Luận Đại thừa khởi tín. Bồ-tát Mã Minh. Chân Hiền Tâm Việt dịch và giải thích.
(12) Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2, phẩm Sư Tử Hống Bồ-tát. HT.Trí Tịnh dịch.
(13) Sđd.
(14) Tứ trụ địa này y tựa Vô minh trụ địa mà sinh khởi.
(15) Kinh Đại bát Niết-bàn quyển 2, phẩm Sư Tử Hống Bồ-tát. HT.Trí Tịnh dịch.
(16) Kinh Pháp hoa.
(17) Kinh Đại bát Niết-bàn quyển 2, phẩm Phạm hạnh. HT.Trí Tịnh dịch.
(18) Kinh Đại bát Niết-bàn quyển 2, phẩm Sư Tử Hống Bồ-tát. HT.Trí Tịnh dịch.