BA PHƯƠNG DIỆN THỰC TẬP
Nguyên bản: Three Ways to Practice
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển /Wednesday, December 27, 2017
SỰ GIÁC NGỘ CỦA ĐỨC PHẬT NHƯ MỘT MẪU MỰC
Theo một số trường phái Phật giáo, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni lần đầu tiên Giác Ngộ ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 trước Dương Lịch, qua sự thực hành con đường tu tập. Tuy nhiên, những người khác tin rằng Đức Phật đã thành tựu Giác Ngộ trước đó lâu xa và rằng trong hóa thân vào thế kỷ thứ 6 Đức Phật chỉ thị hiện con đường tu tập. Ở Tây Tạng, chúng tôi chấp nhận quan điểm sau, và những môn đồ học hỏi từ mẫu mực của ngài vấn đề thực hành như thế nào nhằm để đạt đến Giác Ngộ cho chính họ.
Trong trường hợp nào đi nữa, thì chúng ta cũng cần phải chú ý rằng:
Trong lịch sử cuộc đời Đức Phật, chúng ta thấy ba giai đoạn thực hành: đạo đức đến trước tiên, rồi thì thiền định và sau cùng là tuệ trí. Và chúng ta thấy rằng con đường tu tập cần thời gian.
THAY ĐỔI DẦN DẦN
Việc phát triển tâm thức phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân và điều kiện nội tại, rất giống một trạm không gian lệ thuộc vào hoạt động của nhiều thế hệ khoa học gia đã phân tích và thử nghiệm ngay cả một thành phần nhỏ nhất của nó. Không một trạm không gian hay một tâm thức Giác Ngộ nào có thể hoàn thành trong một đêm. Tương tự thế, những phẩm chất tâm linh phải được xây dựng qua những phương cách đa dạng. Tuy nhiên, không giống như trạm không gian, vốn được tạo thành bởi nhiều người hoạt động với nhau, thì tâm thức phải được phát triển bởi chính bạn mà thôi. Không có cách nào để cho người khác làm công việc giùm cho ta để ta thu thập các kết quả. Đọc những tường thuật về tiến trình tâm linh của một người nào đó sẽ không thể chuyển giao sự thực chứng của nó cho ta. Chúng ta phải tự phát triển nó.
Trau dồi một thái độ yêu thương và phát triển tuệ trí là những tiến trình chậm rãi. Khi chúng ta dần dần nhập tâm những kỷ năng cho việc phát triển đạo đức, tập trung tâm thức, và tuệ trí, những tình trạng không được chế ngự của tâm thức trở thành lập lại ngày càng ít dần và ít dần. Chúng ta sẽ cần thực tập những kỷ năng này ngày qua ngày, năm qua năm. Khi chúng ta chuyển hóa tâm thức chúng ta, chúng ta sẽ chuyển hóa [môi trường] chung quanh chúng ta. Những người khác sẽ thấy các lợi lạc từ sự thực tập của chúng ta về bao dung và yêu thương, và sẽ hành động để đem những sự lợi lạc này vào trong đời sống của chính họ.
BA SỰ THỰC TẬP
Giáo huấn của Đức Phật được phân chia thành ba tập hợp của kinh điển – tam vô lậu học.
Trong mỗi phần này, sự thực tập chính được diễn tả như một thể trạng đặc biệt từ sự hợp nhất của (1) “tĩnh lặng bất biến” (định) và (2) “tuệ giác đặc biệt” (tuệ). Nhưng nhằm để thành tựu một sự hợp nhất như vậy, trước tiên chúng ta phải chuẩn bị nền tảng của nó: đạo đức – giới.
THỨ TỰ THỰC TẬP
Đạo đức, thiền định, và tuệ trí – đây là thứ tự cần thiết của thực tập. Những lý do như sau:
Trong kinh nghiệm của riêng tôi, việc tiếp nhận những thệ nguyện của một tu sĩ yêu cầu cho việc giảm thiểu những liên hệ và hoạt động nội tại, có nghĩa là tôi có thể tập trung hơn trong việc nghiên cứu tâm linh. Những thệ nguyện ngăn ngừa các hành vi thân thể và lời nói phản tác dụng làm cho tôi chánh niệm với thái độ của tôi và tiến về phía thẩm tra kỷ lưỡng những gì đang xảy ra trong tâm thức tôi. Điều này có nghĩa là ngay cả khi tôi không cố ý thực tập thiền tập trung, thì tôi cũng phải kiểm soát tâm thức tôi khỏi phân tán và vì vậy liên tục tiến về phía của thiền nhất tâm nội tại. Thệ nguyện đạo đức chắc chắn hành động như một nền tảng.
Nhìn vào ba sự thực tập – đạo đức, thiền định, và tuệ trí – chúng ta thấy rằng mỗi thứ phục vụ như căn bản của thứ kế tiếp. (Thứ tự này là minh chứng rõ ràng trong lịch sử cuộc đời của Đức Phật). Do vậy, tất cả những tiến trình tâm linh lệ thuộc vào nền tảng của đạo đức thích hợp.
Trích từ quyển How to Practice the Way to a Meaningful Life
Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, January 3, 2018