, phải hiểu được cái ý đó. Như vậy một
này mà thấu cho thật suốt có dễ dàng không? Không dễ dàng, cho nên phải thật sống chớ không phải bắt chước được.
Về
ý nghĩa tùy duyên, thì đây là một chỗ sống, không phải là chỗ
lý luận hay chỗ bắt chước, bởi vì khi
chúng ta bắt chước thì nó không còn là
tùy duyên nữa, bởi khi bắt chước là nó có cái khuôn rồi. Cho nên
ý nghĩa này rất quan trọng mà lâu nay nhiều người lại
hiểu lầm rồi cũng dễ
lạm dụng nó nữa.
Như vậy muốn tùy duyên thì thế nào là biết tùy duyên cho đúng ý nghĩa?1- Thứ nhất là phải thấy đúng lý mới
tùy duyên được, còn chưa thấy đúng lý mà nói
tùy duyên thì chỉ là
lạm dụng, là
hiểu lầm vậy thôi. Nghe nói
tùy duyên, rồi mặc tình buông thả theo duyên thì
tùy duyên kiểu đó là
chạy theo cảnh chớ không phải
tùy duyên, đó là bị duyên nó cuốn, nó lôi đi.
Tùy duyên theo kiểu đó gọi là
"tùy duyên tiêu sự nghiệp",
tiêu tan sự nghiệp hết, rất nguy hiểm !
Cho nên muốn sống, muốn thấy được đúng
ý nghĩa tùy duyên thì phải thấy đúng lý. Trong cái thấy đúng lý này, thứ nhất là cần rõ lý
Tánh không của Bát-nhã.
Tánh không là sao? Bát-nhã dạy tất cả các pháp trên đời này
"không có một pháp gì là thật cố định", nghĩa là từ
bản thân của mình
cho đến sự vật bên ngoài đều là
duyên khởi.
Duyên khởi tạm có cho nên gọi là
Tánh không, là không có tánh cố định, không có Thể thật của nó. Chính vì
Tánh không mới
tùy duyên mà hiện khởi tất cả được, chớ nó cố định thì đâu còn
tùy duyên. Ví dụ cố định là một khối cứng thì đâu thể
tùy duyên mà
biến thành các vật khác được.
Cũng giống như cái gương, nó không có một hình gì trong đó, cho nên nó có
thể hiện đủ tất cả mọi hình bóng, nếu nó có một cái hình gì cố định bên trong,
thí dụ hình tròn, thì nó không
thể hiện được hình vuông, mà vuông tròn đẹp xấu gì cũng hiện được hết, là vì nó không có một cái gì trong đó, không cố định là cái gì.
Hoặc như
hư không,
hư không không phải là cái gì hết, cho nên nó cũng hiện được đủ mọi thứ. Rồi gần nhất là cái gì? Tâm của mình. Tâm mình không là một cái gì hết, cho nên nó mới nghĩ được đủ tất cả, nếu nó cố định là một cái gì rồi,
chắc chắn nó không thể nghĩ tất cả được. Mà nó nghĩ đủ hết, cái gì nó cũng nghĩ tới, kể cả những cái gọi là không có, nó cũng nghĩ ra được nữa bởi vì nó không có gì hết.
Qua điểm nữa là, ngay thân mình là thân
năm uẩn thì
Tâm kinh Bát-nhã nói
“ngũ uẩn giai không”,
năm uẩn đều
Tánh không,
không thật, cho nên nó mới
tùy duyên hiện được lớn được nhỏ, được tốt được xấu, mập ốm
vui buồn, trời người nó cũng hiện được đủ hết, chính vì nó
Tánh không, không cố định là gì.
Nếu nó cố định,
thí dụ năm uẩn này cố định là người rồi, tức nhiên nó không
thể hiện thành trời được, cũng như nó cố định là mập rồi thì không
thể hiện ốm được. Do nó không cố định gì, nên nó hiện được tất cả. Bởi vậy Bồ-tát
Quán Thế Âm có
ba mươi hai Ứng thân, có khi hiện nam hiện nữ, rồi hiện Tỳ-kheo, hiện Tỳ-kheo ni, hiện vua hiện quan, hiện đủ hết, làm sao hiện được như vậy ?
Do đó xét cho kỹ,
rõ ràng không có một cái gì cố định,
vậy thì mình bám chặt một chỗ, một cái làm gì để chịu khổ ? Như vậy cho thấy, hiểu được
tùy duyên thì phải thấy lý
Tánh không. Rõ được
Tánh không của các pháp rồi thì
tùy duyên, lúc đó luôn luôn có ánh sáng Bát-nhã
đi theo, nên
tùy duyên mà không có
lầm lẫn. Còn nhắm mắt
tùy duyên là
đi xuống hố, mình phải thấy rõ cái
ý nghĩa đó,
thí dụ như người mù nhắm mắt đi bừa là phải lọt hố thôi.
Nhớ lại
câu chuyện của ngài
Tăng Triệu khi
bị án tử hình, Ngài xin phép
hoãn lại bảy bữa để viết cho xong bộ Luận
Bảo Tạng rồi Ngài sẽ chết. Thử hỏi tới lúc đó còn
tâm hồn gì ngồi để mà viết luận! Nhưng mà Ngài thấy chuyện đó như là chuyện chơi thôi, và đến trước khi chết Ngài còn đọc
bài kệ :
Ngũ ấm nguyên phi hữu
Tứ đại bản lai không
Tương đầu lâm bạch nhẫn
Nhất tự trảm xuân phong.Tức là:
Năm ấm nguyên chẳng có
Bốn đại xưa nay không
Đem đầu đến dao bén
Giống hệt chém gió xuân.
Có ai bị chém bị chết trong đó đâu? Cho nên Ngài
thản nhiên coi
như không có chuyện gì. Nếu mình thì lúc đó
rụng rời tay chân, còn
tâm hồn đâu mà ngồi viết sách, huống nữa là tới khi sắp chết còn nói kệ nữa! Như vậy đó mới thật sự là biết
tùy duyên. Và
tùy duyên kiểu đó dễ bắt chước không ?
Bởi vì Ngài thấy rõ
năm uẩn bốn đại đều là không, đều là
vô ngã hết, không có cái ta thật, thì trong đó cái gì chết, cái gì bị chém? Không thấy có cái gì bị chém thì đâu có gì mà khổ ? Còn mình vì thấy có
“cái ta” bị chém bị chết, cho nên mới có khổ.
Do Ngài thấy rõ không có gì thật hết, bởi vậy hễ còn duyên thì
làm Phật sự tiếp, hết duyên thì thôi ra đi, chớ không cố ghì lại một chỗ để chịu khổ. Còn mình vì thấy có cái ta trong đó cho nên cố ghì lại để sống, ghì không được thì phải kiếm cái ta mới ráp vào, chính cái ta mới đó lại đi trong
sanh tử. Hiểu như vậy, thấy được cái lý như
vậy thì mới khéo biết
tùy duyên. Đó là điểm thứ nhất là phải thấy rõ được
Tánh không.
2- Thứ hai, tiến bước nữa là
nhận ra Bản tánh chân thật của mình, nghĩa là thấy được, nhận rõ được
Bản tánh chân thật luôn luôn
hiện hữu nơi mình, cho nên mình
tùy duyên là để chi?
Tùy duyên là để sống
trở về Bản tánh chân thật đó chớ không sanh những niệm, những tâm hoặc lấy hoặc bỏ, chỉ thuận với tánh để sống, làm sao không để mất nó, đó là chỗ sống của mình rồi.
Như
bài kệ của vua
Trần Nhân Tông, nhiều người nghe quen quá thành ra
xem thường:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.Nghĩa là sao? Nghĩa là ở đây
nhận ra Bản tánh chân thật của mình hay
của báu sẵn có trong mình rồi, thì khỏi
cần phải chạy, phải
tìm kiếm đeo đuổi cái gì bên ngoài nữa, nghĩa là không để cho cảnh nó lôi mình, nó làm mất mình. Như vậy mình sống ngay trong lòng đời này, ở giữa
thế gian này mà vẫn vui với đạo, đó là biết
tùy duyên, mà
tùy duyên như vậy là để làm chi? Là để sống với
Bản tánh của mình, sống
trở về với
Bản tánh chân thật,
ngoài ra không có gì quan trọng. Đó gọi là
tùy duyên sống với
Bản tánh, tiêu nghiệp cũ mà không tạo thêm nghiệp mới.
Như vậy
tùy duyên mà thường
sáng tỏ không có mê, không có mờ,
tùy duyên mà không đặt thành một
“cái ta” trong đó. Đó là điều quan trọng, còn
tùy duyên mà có cái ta trong đó thì không phải
tùy duyên. Cũng như ở đây “
đói đến thì ăn, mệt ngủ liền” nhưng nếu còn có cái
ý niệm là đói nên ăn hay không nên ăn thì sao? Đó là chen cái ta vào trong đó, tức là cái gì nên ăn hay không nên ăn ? Đó là hết
tùy duyên. Cho nên
tùy duyên ở đây là
thuận theo Tự tánh để sống trên đời, để cho nó luôn luôn được
hiện hữu khắp nơi, đó mới là
tùy duyên chân thật.
Ngài
Sùng Tín sau khi
ngộ đạo, Ngài hỏi vị thầy là
Thiền sư Đạo Ngộ:
“Làm sao để bảo nhậm (giữ gìn) ?” Ngài
Đạo Ngộ bảo rằng:
“Mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ hết phàm tình, không thánh giải khác.” Nghĩa là mặc tình
thuận theo cái tánh đó mà
tiêu dao tự tại,
tùy duyên phóng khoáng thôi, chỉ cốt làm sao hết được cái tình phàm này, tình mê này chớ không có thêm một cái
kiến giải thánh gì khác, không thấy có chứng có đắc gì khác nữa, đó là
tùy duyên.
Tùy duyên như vậy làm sao bắt chước đây?
Chỗ này là phải sống, biết rõ mình có cái
chân thật rồi thì sống
tùy duyên, duyên đến thì tiếp, duyên qua thì thôi, không có
cố chấp, không có mong cầu thêm nữa. Đó là vì có được chỗ sống
vững vàng trong này rồi, nên mới
tùy duyên được như vậy, mới tiêu được những nghiệp cũ và nghiệp mới không tạo thêm.
Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài có
bài kệ:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.Giống như con nhạn bay trên không, nhạn bay qua thì bóng hiện
dưới nước, nhạn không có ý lưu dấu vết lại
dưới nước. Và bay qua rồi thì bóng mất, nước cũng không có tâm giữ bóng con nhạn lại. Đó là
tùy duyên, nhạn bay qua là duyên đến thì bóng nó hiện trong nước, duyên qua rồi thì nước không lưu bóng lại.
Còn mình thì sao? Có khi duyên chưa đến mà kêu nó đến! Rồi duyên qua thì giữ lại không cho nó qua! Chính
vì vậy cho nên khổ. Ngay trong lúc
ngồi thiền cũng còn muốn giữ lại nữa.
Ngồi thiền nhớ lại, giữ lại, lưu lại trong này, đó là không biết
tùy duyên, còn biết
tùy duyên thì tâm lúc nào cũng
trong sáng, đâu có cái gì lưu lại trong đó thì có gì mà ngăn ngại ?
Có vị Tăng hỏi ngài
Triệu Châu:
- Thế nào là cầu đá Triệu Châu?Ngài đáp:
- Độ lừa độ ngựa.Ở gần chỗ ngài
Triệu Châu Tùng Thẩm có cái cầu đá do ông Lý Ưng làm, cầu đá cũng
nổi tiếng, cho nên nghe nói tới cầu đá
Triệu Châu là ai cũng biết. Nhưng ở đây ông Tăng hỏi
“thế nào là cầu đá Triệu Châu” ý lại khác. Ngài đáp :
"Độ lừa độ ngựa", độ tức là đưa, đưa lừa đưa ngựa qua hết. Như vậy quí vị hiểu sao là
“cầu đá Triệu Châu”? thấy được
“cầu đá Triệu Châu” chưa ?
Thường nghe hỏi cầu đá, người ta tưởng ngay cái cầu bằng đá. Nhưng ở đây, ý ông Tăng này chuyện đó ai cũng biết rồi, ông cũng ở đó thì ông biết rồi, đâu cần hỏi làm chi nữa. Vậy hỏi cầu đá này là hỏi cái gì? Đó là chỉ cho cái lý thật. Cho nên ngài
Triệu Châu đáp
“độ lừa độ ngựa”. Lừa ngựa gì cũng độ hết, đều cho đi qua hết. Lừa là loài vật, ngựa cũng là loài vật mà cái cầu đá độ hết, cho đạp đi qua hết, nhưng cầu đá không phải là lừa, không phải là ngựa, không
đồng hóa nó với lừa với ngựa, đó là
tùy duyên.
Còn mình thì sao? Độ thì phải độ làm sao? Phải độ những hạng
thượng căn, hạng Bồ-tát chớ lừa ngựa đâu để cho đi qua. Mà không để cho đi qua tức là còn cái ngã trong này, bị cái ngã nó che. Cho nên ở đây muốn thấy lý thật thì phải như vậy, độ lừa độ ngựa, cái gì cũng là
tùy duyên hết, cái gì cũng cho đi qua nhưng nó không là cái gì, không
đồng hóa với cái gì .
Không đòi hỏi theo một cái ngã, không sanh những niệm
sanh diệt hay
lấy bỏ gì hết, đó là
tùy duyên. Còn mình thì phải lựa, độ thì cũng phải lựa, người đó mình thương mình mới độ, còn không thương thì đâu có độ, đó là còn
mắc kẹt. Còn ở đây thì độ hết, chỉ
thuận theo duyên để sống
trở về với
Tự tánh, để làm sao cho
Tự tánh của mình luôn luôn có mặt, không có vắng, vẫn luôn luôn
sáng ngời trong tất cả mọi duyên, đó là khéo
tùy duyên,
tùy duyên mà đúng
lý không lầm lẫn. Như vậy với nghĩa
tùy duyên này mình làm được chừng bao nhiêu? Hiểu được như vậy mới thấy nghĩa
tùy duyên rất là sâu.
3- Một điểm nữa,
tùy duyên thì phải
hiểu rõ được
thế gian là
tương đối, đó là lẽ thật của
thế gian.
Thế gian luôn luôn là
tương đối, mọi cái có ra đều nằm trong
đối đãi hết. Nhưng thấy ở đây không phải là cái thấy hiểu tầm thường, lâu nay người
nghe pháp nhiều quá cũng hiểu rồi, cũng thấy rồi nhưng chưa phải. Tức là phải thấy trong lúc mình tu, thấy rõ bằng
chính trí tuệ của mình cái đó mới giúp mình sống được. Chớ hiểu theo kiểu ngồi đây hiểu nhưng ra ngoài quên, ngồi đây thì hiểu
thế gian tương đối, cái gì cũng
đối đãi nhau mới có, không có gì là thật, nhưng khi ra ngoài đụng chuyện thì cái gì cũng thật hết, cái hiểu đó không phải.
Cho nên ở đây phải thấy bằng
chính trí tuệ của mình. Xét thấy rõ trên
thế gian này đều là
tương đối hết, thiện đối với ác, phải đối với quấy mà có, cũng như vui đối với buồn mà có, ngay cả thầy đối với trò mà có, không trò thì đâu có thầy, cũng như mẹ đối với con mà có, không con lấy gì có mẹ.
Luôn luôn là
đối đãi nhau, không có một cái gì đứng riêng, như vậy tại sao mình phải đòi hỏi một chiều? Có nhiều người còn đòi hỏi hơn nữa, đòi hỏi cái
toàn mỹ, cái gì cũng phải cho
toàn mỹ,
toàn vẹn ! Nhưng
sự thật thế gian nói
toàn mỹ chỉ là nói chơi, không bao giờ có, chỉ tuởng tượng, không thể có cái
toàn mỹ nếu chưa sống được với cái
chân thật.
Thế gian là
tương đối thì làm sao có cái
toàn mỹ được !
Đức Phật có nói
bài kệ:
Kẻ hơn thì thêm oán
Người thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.Nghĩa là có hơn thì có thua, làm sao mà
toàn mỹ được? Mà chính có hơn có thua, từ đó có oán có hờn, có khổ, có cái này thì có cái kia. Như
vậy thì hơn không hẳn là yên, còn thua cũng không hẳn là xong. Thua còn ấm ức trong lòng cũng khổ, như vậy làm sao mà
toàn mỹ được?
Thường thường mình thích đòi hỏi cái
toàn mỹ, sống với ai mình cũng đòi hỏi người đó phải tốt với mình, lâu lâu thấy không tốt thì
bực tức, nhưng thử hỏi chính mình có
toàn mỹ chưa ?
Thế gian là
tương đối, tâm người là
vô thường, bữa nay như vậy, nhưng mai mốt
vô thường nó đổi đâu còn như vậy nữa. Bởi vậy không có cái
toàn mỹ, đòi cái
toàn mỹ là mê. Bởi vì xét kỹ thì chính mình còn chưa
toàn mỹ, ngay
nội tâm của mình, có khi còn tự mình
mâu thuẫn với mình nữa nói chi tới bên ngoài. Như vậy làm sao muốn
mọi người toàn mỹ được, muốn mọi cái bên ngoài
toàn mỹ được!
Thí dụ bên ngoài coi giống như
vui vẻ nhưng có khi
đau khổ trong lòng, ngoài làm bộ vui nhưng trong lòng
đau khổ, hoặc có lúc thấy giống như muốn xả hết để
tu hành nhưng rồi ít bữa
đổi ý tiếc
thế gian trở lại. Như vậy lúc muốn xả thì ai muốn xả, rồi lúc tiếc
trở lại thì ai tiếc, ai chen vào trong đó? Cũng là trong tâm mình thôi. Chính mình đã
mâu thuẫn với mình rồi, hoặc có lúc bữa nay tính đi
nghe pháp nhưng rồi lại tính đi chơi, hoặc ngược lại tính đi chơi rồi
đổi ý tính đi
nghe pháp. Cũng là mình với mình nhưng tại sao nó có cái đó? Như vậy để thấy rằng ngay nơi mình cũng còn
mâu thuẫn, vậy làm sao đòi có cái
toàn mỹ trọn vẹn bên ngoài được. Đòi không được thì sao? Khổ, thật là đơn giản!
Bởi vậy, ngay như
đức Phật mà mình gọi là bậc
toàn giác, bậc có
công đức phước trí trang nghiêm, nhưng Phật có bị người chê không? Phật cũng còn có người chê nữa, có người chê Phật là bất hiếu bỏ cha bỏ mẹ đi tu, bỏ vợ bỏ con vô rừng. Có người khen thì cũng có người chê. Rồi kẻ uống rượu say sưa có người khen không? Cũng có người khen, đồng bọn khen nhau.
Như vậy cho thấy không có cái gọi là
hoàn toàn. Bởi vậy Phật mới dạy trong
kinh Pháp Cú:
“Xưa, vị lai và nay, đâu có cái sự kiện này: người hoàn toàn bị chê, người trọn vẹn được khen.” Ngài nói rằng trong cả ba thời không bao giờ có
sự kiện là có người
hoàn toàn được khen cũng như có người
hoàn toàn bị chê.
Do đó chê khen không thành
vấn đề.
Cho đến được mất cũng vậy, có được là có mất chớ không bao giờ có cái gọi là nguyên vẹn. Biết rõ
ý nghĩa như vậy, hiểu được như vậy, mình khéo chuyển thì sống được an vui, còn
cố chấp một bên thì khổ,
thí dụ cố chấp là phải được cái đó mà nó không được thì khổ.
Như bà Tì-xá-khư
(Visàkhà), bà là
đại thí chủ trong thời
đức Phật, một hôm đi
nghe pháp, bà cởi chiếc
áo choàng rất quí giá cho đứa tớ gái giữ ở ngoài rồi đi vô
nghe pháp. Khi ra về không biết đứa tớ gái làm sao mà nó
bỏ quên luôn. Mình gặp như
vậy thì sao? Chắc là chửi mắng, đánh đập đứa tớ đó dữ lắm, bởi đây là chiếc
áo choàng rất đắt giá. Nhưng với bà thì bà kêu đứa tớ gái lại nói rằng:
“Con trở lại tịnh xá kiếm, nhưng tới đó nhớ hỏi xem nếu có vị Tỳ-kheo nào đụng tay tới cái áo rồi thì con đừng lấy về nữa.” Cô tớ gái đi tới
hỏi thăm nghe nói ngài A-nan thấy của ai
bỏ quên thì Ngài lấy cất giùm rồi.
Cô tớ gái về thưa lại, bà nghe như vậy, liền tới bạch với Phật là xin bán cái áo để
cúng dường làm một
Phật sự gì cho xứng đáng.
Phật bảo làm một cái tăng xá để cho
chư Tăng ở, bà rất là
hoan hỉ. Nhưng cái áo đắt giá quá không ai mua nổi, bà bèn bỏ tiền mua lại cái áo, rồi lấy tiền đó xây tăng xá cho
chư Tăng. Khi xây xong đến ngày
cúng dường dâng lên Phật,
tác bạch xong, bà kêu đứa tớ gái lại nói rằng:
“Hôm nay sở dĩ bà được công đức này là cũng nhờ có con, công đức này bà xin chia hai, cho con nửa, bà nửa.”Ai thấy mình làm nổi chuyện đó không? Cái được cái mất mình chuyển một cái thành ra
tốt đẹp mà còn
vui vẻ nữa. Mất cái áo không buồn, chuyển lại thành được phước lành rồi
vui vẻ nữa, mà
vui vẻ cả mấy phần trong đó:
chư Tăng có tăng xá ở cũng vui, rồi bà được
cúng dường hoan hỉ cũng vui, đứa tớ gái cũng được vui và ngay cả mình bây giờ nghe kể lại cũng vui theo. Nếu lúc đó mà giận lên chửi mắng đánh đập thì sao? Chẳng những
không vui mà còn tạo thêm cái
khẩu nghiệp khổ nữa, rồi cái thân đánh đập người tạo thêm cái
thân nghiệp khổ, vậy là khổ lại càng thêm khổ!
Cho thấy chỉ vì bám chấp vào cái được, cái mất mà khổ. Bây giờ biết rõ cái mất không thành
vấn đề, cho nên chuyển lại thì được vui. Cho nên khéo sống thì được, không
cố chấp một bên,
cố chấp là chịu khổ. Chính
vì vậy trong cuốn
Pháp Hoa Đề Cương của
Thiền sư Minh Chánh ở
Việt Nam có
bài kệ nói về ông Thuần-đà:
Hay lắm Thuần-đà,
Hay lắm Thuần-đà !
Thôi nói dở, chớ bàn hay,
Dở hay tốt xấu bận lòng chi.
Người muốn tìm khéo trở thành vụng,
Kẻ toan bắn sẻ sói chực hờ.
Công danh cái thế màn sương sớm,
Phú quí kinh nhân giấc mộng dài.
Chẳng rõ xưa nay không một vật,
Công phu luống uổng một đời ai.Thuần-đà là người cúng bữa cơm
cuối cùng cho
đức Phật trước khi Phật nhập Niết-bàn. Sau này có người phê phán như vậy là ông tổn phước, vì
Phật thọ xong bữa cơm của ông rồi Phật tịch. Phật biết vậy nên Phật mới khen, Phật nói hai người có
phước đức lớn nhất là người cúng bữa cơm cho Phật trước khi Phật
thành đạo, và người cúng bữa cơm
cuối cùng trước khi Phật nhập Niết-bàn. Phật khen vậy để ông không có lòng
hối hận.
Cho nên ở đây ngài Minh Chánh mới lấy việc đó để nói lên
ý nghĩa là
thế gian tương đối, mình phải
vượt qua ý nghĩa tương đối, đừng
mắc kẹt trong cái khen chê. Ông nói:
“Hay lắm Thuần-đà, hay lắm Thuần-đà! Thôi nói dở chớ bàn hay, dở hay tốt xấu bận lòng chi.” Cái chuyện hay, chuyện dở là chuyện
đối đãi thôi, có người khen thì cũng có người chê, đừng bận lòng chuyện đó. Rồi sao?
"Người mà muốn tìm khéo thì trở thành vụng", muốn khéo nhưng thành vụng, bởi vì cái khéo ở kế bên cái vụng, cũng như người đang rình bắn
chim sẻ nhưng đâu ngờ dưới này có con chó sói nó chực hờ, vừa rớt xuống nó chụp chạy mất. Bắn được con
chim sẻ nhưng được đó rồi mất đó, cái được cái mất kề bên nhau.
"Công danh cái thế" tức là
công danh trùm cả
thế gian đi nữa cũng như
màn sương sớm vậy thôi, có đó rồi mất đó. Chỗ này mình sống thấy có
kinh nghiệm rõ ràng, người đang có
tiếng tăm nhưng bỗng bị một nạn gì đó tiêu hết. Cũng như là
"phú quí kinh nhân",
phú quí làm giật mình người, cũng như
giấc mộng vậy thôi.
Giàu sang bao nhiêu nhưng mà gặp cơn nạn cũng trắng tay. Chuyện
thực tế nó là như vậy.
Căn bản là
“chẳng rõ xưa nay không một vật” tức là không rõ được cái lẽ thật
"xưa nay không một vật" đó thì
"công phu luống uổng một đời ai", nghĩa là phải thấu suốt được cái lẽ thật
xưa nay đó, sống được chỗ
chân thật đó thì mới không luống
uổng công phu
một đời của mình; còn
nếu không cứ bám vào những cái
công phu, những cái được mất, những cái
đối đãi nằm trong
sanh diệt thì
rốt cuộc cũng bị
sanh diệt thôi.
Thí dụ cũng như ở đây, chán
thế gian này đi tu, tu rồi cầu lên
cõi trời, có hết khổ không? Cầu lên đó ít bữa hết phước cũng rớt trở lại! Vì đó là
công phu sanh diệt, cho nên rồi nó cũng lẩn quẩn trong đó.
Cần phải thấu rõ chỗ
“xưa nay không một vật” đó, sống được với cái đó thì mới vượt ra ngoài cái
đối đãi, còn bám chặt vào trong cái
đối đãi thì khổ. Mà
sở dĩ bám chặt vào trong này là bởi vì sao? Là bởi thấy có ta cho nên bám chặt vào cái ta đó, rồi mới có khổ, có tức tối, có
chửi rủa than trách này nọ.
Hiểu rõ được lẽ thật của
thế gian là
tương đối, là
đối đãi thì mình cởi mở được những tình chấp, là biết sống
tùy duyên,
tùy duyên như vậy là hết khổ. Hiểu như
vậy thì tùy duyên mới thật, còn
tùy duyên đụng đâu làm đó thì không phải.
4- Rồi một điểm nữa, mình hiểu được lý này rồi thì phải biết
linh động không
cố chấp. Bởi
tùy duyên là
linh động, là không
cố chấp. Mình khổ là vì
cố chấp, mà
cố chấp là không biết
tùy duyên. Đã
hiểu rõ được lẽ thật như trên, không có cái gì gọi là
toàn vẹn, không có cái gì là cố định thì
cố chấp làm gì? Mình làm sao cho cuộc sống
linh động sáng ngời, chớ còn khư khư ôm chấp một chỗ, đó gọi là bệnh.
Ở trong nhà Nho có
câu chuyện: Ông Lưu Ngưng Chi một hôm đang đi thì bất thần có người lại
nhận lầm ông mang đôi giày của họ. Giày của mình đang mang mà họ nói mình mang lầm giày của họ thì phải sử xự sao? Ông nghe vậy liền cởi giày đưa cho họ
:“Giày của ông thì thôi ông cứ nhận đi”. Nhưng sau đó người này
tìm thấy đôi giày của họ, liền
vội vàng đem giày trả lại ông nhưng ông
nhất định không nhận :
“Anh nhận rồi thôi là của anh, tôi không nhận”.Rồi có một
trường hợp giống như vậy, ông Thẩm Lân Sĩ một hôm đang đi cũng có người cũng lại
nhận lầm ông đi giày của họ, ông cũng cởi ra đưa cho họ. Nhưng sau đó biết lầm, họ tới trả ông thì ông
vui vẻ :
“Không phải của anh hả, thôi tôi nhận”.
Vậy quí vị muốn bắt chước theo ai ? Ông
Tô Thức, tức
Tô Đông Pha, có lời bình rằng :
“Việc này tuy là việc nhỏ mọn, song ở đời ta nên cư xử như ông Lân Sĩ, không nên như ông Ngưng Chi.” Bởi vì sao? Đôi giày của mình đang mang mà có người đến nhận của họ, mình sẵn sàng cởi cho, cái đó là thật quí rồi. Nhưng người ta biết lầm rồi và người ta đem trả thì phải
cảm thông nhận cho họ
hối lỗi, chớ bây giờ người ta biết lỗi rồi mà mình không tạo cái duyên cho họ sửa, cứ khư khư ôm giữ cái phải của mình hoài thì sao? E có lúc cũng không được phải.
Ở đây người ta biết lỗi rồi, biết lầm rồi, thôi thì cứ nhận có phải tốt không, ổn không? Còn mình cứ khư khư không nhận để cho họ
hối hận trong lòng hoài thì đâu có tốt. Khéo biết như vậy đó là hiểu được
linh động tùy duyên, còn cái kia là
cố chấp. Tuy là tốt nhưng mà
cố chấp cái tốt thành ra cũng không được trọn tốt.
Đó là nói về bên Nho, còn trong nhà thiền thì có
Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc, sư rất
nổi tiếng,
ai nấy đều
ca tụng sư là một
con người rất
trong sạch, rất tốt. Ở gần chùa sư có một
gia đình bán
thực phẩm, một hôm
gia đình này phát hiện cô con gái của họ có thai,
gia đình nổi giận đánh mắng hỏi ai là
tác giả cái
bào thai đó thì cô nói là Bạch Ẩn. Cha cô nghe nói vậy, quá giận tìm tới chùa gặp sư. Ông xổ ra đủ những lời nặng nề nhất trên đời. Sư nghe như vậy chỉ nói
:“Thế à!” Vậy thôi.
Sau khi đứa bé được sanh ra,
gia đình này mang tới chùa giao cho sư thì sư cũng nhận. Sau một
thời gian nuôi đứa bé
sư bị mất hết
tiếng tăm, không còn ai nghĩ tới sư nữa.
Một
thời gian sau, cô gái
cảm thấy bị ray rứt trong lòng chịu không nổi, cô mới
thú thật là cha đứa bé không phải là Bạch Ẩn mà là một chàng thanh niên bán cá ngoài chợ. Nghe tới đó
cha mẹ cô mới bật ngửa, hoảng sợ
lật đật tới chùa để
sám hối và xin đứa bé
trở lại. Lúc đó
Thiền sư Bạch Ẩn cũng chỉ nói :“
Thế à!” Vậy thôi,
đơn giản.
Đó là
tùy duyên, mà
tùy duyên thế này mới thực sự là
tùy duyên,
tùy duyên cao tuyệt. Được, mất
tiếng tăm không thành
vấn đề, nhận việc đó coi như
tiếng tăm mất hết rồi, như mình thì buồn biết bao nhiêu nhưng với sư chỉ
“thế à!” là xong. Bởi vì sư thấy không có gì quan trọng, người nói oan, người bị lầm thì sư cũng vẫn
thản nhiên không buồn lòng gì hết. Khi nhận đứa bé sư không buồn giận, mà trả đứa bé cũng không
trách mắng,
Tùy duyên theo kiểu này thì ở trong đây ai bắt chước được? Đó là vì sư thấy rõ trên đời này không có gì quan trọng, nhất là không có
“cái ta”. Không có cái ta thì lấy cái gì mà được mà mất, có được có mất là bởi vì có cái ta này,
“ta được” tiếng tăm, bây giờ
“ta mất” tiếng tăm, còn không có cái ta thì cái gì mất? ai mất? Thấy rõ vậy nên đối với sư được mất
tiếng tăm không thành
vấn đề, nhận đứa bé cũng
thản nhiên, trả đứa bé cũng
thản nhiên thôi.
Trong kinh
Viên Giác có câu: “
Thân này còn chẳng thật có thì yêu ghét từ đâu sanh?” Cái thân còn chẳng thật có thì cái yêu cái ghét từ đâu mà sanh, bám vào đâu mà có?
Sở dĩ mình thấy có yêu có ghét, có được có mất là bởi vì thấy có cái ta này. Nếu cái ta này
không thật thì lấy gì được mất, yêu ghét ? Thấy rõ như vậy mới thật sự biết
tùy duyên.
Tùy duyên này là một điểm rất sâu.
5- Một điểm kế nữa,
tùy duyên là để phá cái
ngã kiến, tức cái
kiến chấp ngã. Bởi vì
chúng ta luôn luôn thấy có cái ta thật, có vật thật, có người thật, tất cả đều thật, rồi cái thấy, cái nghĩ của ta cũng thật luôn, cho nên mới
cố chấp bám vào một chỗ. Với
thế gian thì luôn luôn là sao? Ta nói một là một, hai là hai, chớ không thể thay đổi. Mình
bảo vệ tối đa cái nghĩ của mình. Chính
vì vậy cho nên mới có đấu tranh, mới có chết chóc, bởi vì ta nghĩ như vậy là phải, khác đi là không được. Nhưng cái gì là cái nghĩ của ta? Xét cho kỹ thì cái nghĩ của ta cũng không có gì cố định, mình nghĩ vậy ít bữa rồi cũng
đổi ý nghĩ khác, nó không có cố định, không có Thật thể.
Cho nên trong
kinh Kim Cang, Phật có dạy:
“Như Lai nói ngã kiến tức chẳng phải ngã kiến, đó gọi là ngã kiến.” Nghĩa là, nói cái
ngã kiến không phải thật có, chỉ do cái lầm chấp của người thôi. Mình nghe nói có cái
kiến chấp, có cái
chấp ngã thì mình tưởng đâu có cái
chấp ngã thật, chớ
sự thật Ngài nói đó chỉ là cái
mê lầm, cái
vọng chấp của mình chớ không có thật. Như cái nghĩ của ta, xét cho kỹ, tìm cho tột cái gì là cái thể cố định cái nghĩ của ta thì tìm không ra,
chỉ không ra.
Khi xét tột được như vậy tức là mở sáng được con mắt Bát-nhã, thấy được cái lầm như
vậy thì hết lầm. Mới thấy cái nghĩ của ta không có gì là cố định thì làm sao mà bám chắc ? Không bám chắc vào một chỗ thì mới có
tùy duyên, cho nên nói
tùy duyên là phá cái
ngã kiến, phá cái
chấp chặt một chỗ,
chấp chặt là ta nghĩ như thế là phải.
Sự thật là không có cái ta nghĩ cố định thật được.
Một chuyện
đơn giản tầm thường,
thí dụ một viên
kim cương đối với cái nghĩ của mình là quí, nhưng nếu đem cho đứa bé thì sao? Nó làm viên bi nó bắn chơi. Như vậy cái nghĩ của ai đúng?
Tùy theo tâm tưởng của người thôi, mình quen
suy nghĩ như vậy rồi mình cho như vậy là đúng chớ
sự thật chưa hẳn là đúng với người khác. Mình nghĩ nó quí nhưng với đứa bé nó thấy giống như viên đạn nó bắn chơi thì có gì đâu là quí. Nếu mình thấy nó đem bắn chơi rồi mình chấp vào cái nghĩ của mình là đúng, mình rầy phạt nó thì sao? Là
cố chấp, rồi khổ.
Hiểu như vậy mới thấy
tùy theo tâm tưởng của người mà thành ra có cái nghĩ sai khác chớ không có cố định, là bớt chấp. Ở đây nói bớt chấp thôi, chớ nói hết chấp thì chưa. Bớt chấp thì bớt khổ. Học thiền cởi được những tình chấp của mình ra cho nhẹ bớt.
Ở trong
Tuyệt Quán Luận có một đoạn, có người đặt câu hỏi:
“Con thấy người học đạo phần nhiều họ chẳng chuyên cần giữ giới luật, cũng chẳng chăm lo gìn giữ oai nghi, cũng chẳng giáo hóa chúng sanh mà cứ mặc tình sống thoải mái thì đó là ý gì?” Trong đó đáp:
“Nhưng bên trong thực hành không có gián đoạn.” Bên ngoài nhìn giống như
thoải mái nhưng bên trong người ta
thực hành không có
gián đoạn thì đó mới gọi là khéo
tùy duyên.
Có những
trường hợp các ngài làm như vậy để phá cái niệm chấp về sạch, về nhơ.
Thí dụ như chấp ta đây
tu hành thanh tịnh, ta đây
tu hành đàng hoàng. Nhưng có ai nói mình
tu hành không
thanh tịnh, không đàng hoàng thì sao? Thì tức giận, đó là chấp vào cái
thanh tịnh của mình, tới chừng người ta nói không
thanh tịnh thì
nổi giận. Còn ở đây là phá cái niệm sạch nhơ, ai nói sao thì nói, không thành
vấn đề với mình.
Nhưng điểm này cũng phải xét ngược lại. Tuy là vậy nhưng không phải dễ bắt chước, bởi vì cũng dễ lầm. Nghe nói làm những chuyện như vậy là sống
không chấp vào
hình thức rồi mình cũng bắt chước làm như vậy để cho giống
như tự tại, nhưng đó là bắt chước chớ không phải sống thật sự. Ở đây
cần phải chú ý, điểm quan trọng là tuy bên ngoài như vậy nhưng bên trong thì
thực hành không có
gián đoạn, tức là bên trong luôn luôn
sáng ngời, không có mê thì mới là lẽ thật, chớ theo cái kiểu bắt chước làm như
vậy mà đụng đâu dính đó thì không phải.
Cũng có
trường hợp làm như vậy để
tỏ ra ta đây là người hiểu thiền, ta đây là người
không chấp gì hết, là người sống
tự tại. Nhưng nói ta
không chấp gì hết mà chính cái đó lại thành ra chấp, tức là
“chấp vào cái không chấp”.Thường người ta chấp cái này chấp cái kia, nhưng bây giờ chấp
trở lại cái
không chấp, tức là ta
không chấp cho nên mọi chuyện coi
như không thành
vấn đề. Cái đó mới là cái nguy hiểm, chấp vào cái
không chấp lại là bệnh. Nhưng bệnh mà lại không biết bệnh nên mới khó trị, làm sao mà trị? Nên nhớ đây là chỗ thực sống của các vị đã
sáng tỏ được đạo,
nếu không được như
vậy thì không được bắt chước.
Ở đây còn một điểm nữa, phải nhớ là khi
chúng ta nói rằng làm như vậy để phá cái tâm
phân biệt, thì còn có tâm
phân biệt không? Chưa sạch hết
phân biệt mới phá, chớ sạch hết rồi thì phá cái gì nữa? Như
vậy thì cũng chưa phải thật sự
tự tại, đó là chỗ mình phải thấy cho kỹ. Đừng nói rằng tôi làm vậy là để
phá chấp, tôi
tự tại rồi, nhưng
sự thật nếu đã hết chấp thì phá cái gì? Còn phá tức là còn
phân biệt, còn
phân biệt tức chưa
tự tại. Cho nên nếu nghe ai nói tôi
phá chấp thế này, tôi
phá chấp thế kia, tức là còn chấp mới phá, chưa phải thật hết đâu. Đó là những điều phải thấy cho
thật tế nhị.
6- Một điểm nữa,
tùy duyên là mình nên sống khéo hòa với tất cả chớ không nên làm khác người, không phải là lập dị, bởi vì
tùy duyên mà. Không làm khác với người, không lập dị để cho thấy ta đây là người đạt đạo, ta đây là người
tự tại, đó mới là
tùy duyên. Bởi vì khi mình làm khác người để
chứng tỏ mình đạt đạo thì đó là một tướng khác của
ngã tướng. Ở đây làm tất cả, cũng ăn cũng ngủ như
mọi người nhưng luôn luôn không rời
Tự tánh, không mất ánh sáng của
Tự tâm, đó mới là khéo
tùy duyên. Chớ
tùy duyên mà làm khác biệt với người ta, để cho thấy rằng
“ta đây” là người
không chấp, là người
tự tại, như vậy là có chấp trong đó rồi, có
ngã tướng trong đó rồi. Làm để cho người ta chú ý tới mình, cái đó là bệnh.
Bởi vậy,
tùy duyên mà luôn luôn
sáng ngời ở trong, sống
bình thường nhưng không mất chỗ sống
chân thật của mình, mới là đúng
tùy duyên,
nếu không được như
vậy thì mắc kẹt.
Tóm lại tùy duyên thì không thể bám chấp vào một chỗ nào. Vì không có gì cố định hết. Vừa bám chấp một cái gì đó là hết
tùy duyên, mà còn sống
trở lại với
quá khứ nữa.
Trong sử ghi một hôm có vị
ngoại đạo đến hỏi Phật:
- Hôm qua Ngài thuyết pháp gì?Phật nói:
- Hôm qua ta thuyết định pháp (tức là cái pháp nhất định).Vị
ngoại đạo hỏi thêm:
- Vậy còn hôm nay Ngài thuyết pháp gì?Phật nói:
- Hôm nay ta thuyết bất định pháp.Vị
ngoại đạo gạn lại:
- Hôm qua giảng định pháp, hôm nay vì sao lại giảng bất định pháp?Phật đáp:
- Hôm qua định, hôm nay bất định.Đức Phật đáp quá hay, đó là để phá cái chấp cố định của mình. Nếu thật sự một bề là định pháp thì làm sao mà có hôm nay? Có hôm qua, có hôm nay tức là
bất định, bởi vậy Phật mới nói rằng hôm qua thuyết định pháp, bữa nay thuyết
bất định pháp, đó là
linh động.
Mình
cố chấp một bề là mình chết ở trong
quá khứ, tức là thiếu cái
linh động sáng tạo. Mình nghe nói định pháp thì
chấp chặt là định pháp, cho nên nghe nói
bất định thì thắc mắc liền.Ở đây Phật nói rõ vì
bất định cho nên mới có hôm nay, mới có hôm qua. Lẽ thật
rõ ràng là như vậy, thấy như
vậy thì làm sao chấp?
Mình nghe hôm qua nói định, bữa nay nói
bất định thì mình thấy Phật nói chuyện sao mà
mâu thuẫn quá. Nhưng như vậy là không thấy được
ý nghĩa tùy duyên không cố định, tức là không có một pháp thật. Mình bám vào cái hôm qua là mình chỉ nhớ cái
quá khứ, sống
lui về quá khứ, không có
sáng tạo. Hiểu như
vậy thì mới thấy được
ý nghĩa tùy duyên là luôn luôn
linh động.
Ngài
Lâm Tế lúc từ giã ngài
Hoàng Bá đi,
Hoàng Bá hỏi đi đâu thì Ngài nói:
“Chẳng về Hà Nam tức về Hà Bắc.” Lời này nói lên tâm của Ngài sống
tùy duyên thật sự.
Tùy duyên ở đây là gì? Là lúc nào cũng
hiện tiền, cũng
sáng ngời, cái
chân thật đó luôn luôn theo sát bên mình, cho nên nó không dừng ở một chỗ nào, không về
Hà Nam thì về Hà Bắc, mình đi đâu nó có ở đó. Mình bây giờ có thể nói là
“Không ở thành phố thì ở Trúc Lâm”, chớ thân đến
Trúc Lâm mà niệm một bề cứ trụ ở thành phố đó là đóng khung ở trong chỗ chết, không
linh động.
7- Thêm một điểm nữa,
tùy duyên tức là
vô trụ. Sống được
vô trụ thì mới
tùy duyên, chớ có trụ là hết
tùy duyên, bởi vì có trụ là có chết. Trong cuốn
“Góp Nhặt Cát Đá” có chuyện hai
sư huynh đệ đi qua con suối thấy một cô gái mặc đồ đẹp muốn đi qua suối nhưng sợ bị ướt không dám qua. Ông
sư huynh nói
“cô bé lại đây, ta đưa qua cho”, rồi ông bồng cô đưa qua suối. Từ đó về tới chùa hai người làm thinh không nói chuyện. Tới chùa ông
sư đệ hậm hực nói rằng:
- Huynh sao bữa nay không giữ giới gì hết?- Làm sao mà không giữ giới?- Tại sao huynh bồng cô gái qua suối vậy?Ông
sư huynh cười nói:
- Vậy hả? Ta đã buông cô gái ở đó rồi, còn ông lại ôm về tới đây sao?Rõ ràng là ông
sư huynh thì
tùy duyên, gặp đưa qua rồi thôi, còn ông
sư đệ thì ôm ấp việc đó mãi, đi từ suối về chùa qua bao nhiêu đoạn đường, qua bao nhiêu bước chân mà cái tâm của ông thì vẫn trụ ở chỗ suối đó. Trụ như vậy là mất cái
hiện tiền này tức là mất ông chủ. Còn ông
sư huynh buông hết rồi, cho nên luôn luôn lúc nào ông chủ cũng sống
hiện tiền. Cho nên
tùy duyên tức là
vô trụ,
vô trụ là sống như vậy đó. Khéo như vậy mới thật sự là khéo
tùy duyên, chuyện qua rồi là thôi không có giữ lại, không có trụ lại.
8- Đến đây thì quí vị thấy
ý nghĩa tùy duyên hơi sâu rồi. Lên một tầng nữa
tùy duyên phải
lý sự đầy đủ,
tùy duyên thường
hiện hữu, không nghiêng không lệch một bên. Đó mới gọi là
tùy duyên sâu xa.
Có vị Tăng hỏi
Thiền sư Quang Dũng:
- Văn-thù là thầy của bảy đức Phật, vậy Văn-thù có thầy chăng?Ngài
Quang Dũng đáp:
- Gặp duyên liền có.Ông Tăng hỏi:
- Thế nào là thầy Văn-thù?Ngài
Quang Dũng liền dựng đứng cây
phất tử. Ông Tăng nói:
- Phải chăng chỉ cái ấy liền là phải?Ngài
Quang Dũng liền ném cây
phất tử đứng khoanh tay. Đây mới gọi là
tùy duyên mà thường
hiện hữu,
lý sự đầy đủ.
Văn-thù là chỉ cho
Căn bản trí, là cái Lý tánh
chân thật. Chư Phật
sở dĩ thành Phật là cũng ngộ cái lý
Căn bản trí này, sống được với
Căn bản trí trọn vẹn thì
thành Phật. Cho nên gọi Văn-thù là thầy của bảy
đức Phật, đã gọi như
vậy thì còn ai là thầy của Văn-thù nữa. Nhưng ở đây ngài
Quang Dũng nói
“gặp duyên thì liền có” tức là sao? Tức là nó không phải
hoàn toàn không ngơ, đủ duyên thì nó liền hiện, cái đó không ai làm thầy nó được hết.
Ngay khi đưa
phất tử lên tức là gặp duyên, nó liền hiện, thì thầy là như vậy đó.
"Cái sẵn có", đó là lý,
"gặp duyên liền hiện" đó là sự,
lý sự luôn luôn đầy đủ. Còn mình nếu thấy không thầy là thấy một bên lý, hoặc là thấy một bên có thầy là thấy một bên sự . Ở đây
lý sự luôn luôn đầy đủ, thấy như
vậy thì không
mắc kẹt bên nào.
Khi đưa cây
phất tử lên thì cái
chân thật đó vẫn luôn luôn
hiện hữu nơi cây
phất tử rồi, cái thấy nó luôn luôn có mặt rồi. Khi quăng cây
phất tử đứng khoanh tay thì sao? Ai đứng khoanh tay đó? Thì nó cũng có mặt ở đó luôn. Cái Thể
chân thật nó luôn luôn có mặt nhưng nó không có
hình tướng gì để thấy, mà chỗ nào nó cũng
ứng hiện được hết. Như vậy mới gọi là có thể có dụng, hoặc có lý có sự, luôn luôn đầy đủ.
Cũng vậy, tâm mình đâu có
hình tướng gì nhưng gặp duyên thì nó hiện đủ mọi
hình tướng. Gặp duyên gì thì nó
hiện ra tướng đó. Nó
hiện hữu khắp
mọi nơi,
tùy duyên mà thường
hiện hữu chớ không
mắc kẹt một bên. Thấy được như vậy mới là thấy được cái ý sâu ở trong nhà thiền.
Kết lại thì
tùy duyên là gì?
Tùy duyên tức là không có chỗ bám,
linh động, không dừng không trụ. Tất cả các pháp đều là
nhân duyên, không có một pháp thật thì tại sao mình phải bám một chỗ để mà chịu khổ.Cho nên biết
tùy duyên là phải quên cái ngã này, còn nhớ cái ngã này là không có
tùy duyên. Và
tùy duyên có bắt chước được không? Khi bắt chước là hết
tùy duyên, bởi vì bắt chước là đã có cái khuôn, có khuôn mới bắt chước, cho nên bắt chước là hết
tùy duyên.
Ngoài ra điểm quan trọng phải nhớ là,
tùy duyên mà còn có ngã là lầm, phải nhớ điểm đó !
Xưa có một vị
Thiền sư, Ngài sống
ăn uống hỗn tạp, không có chọn lựa gì hết, gặp mặn
ăn mặn, gặp chay
ăn chay, gặp gì là ăn nấy, gặp rượu cũng uống luôn. Có nhiều
đệ tử thấy vậy bắt chước, sống như vậy
thoải mái. Một hôm Ngài kêu hết
đệ tử đến chỗ người ta thiêu xác người rồi đem đồ ăn bày ra, Ngài lấy những miếng thịt người ta thiêu còn sót lại, chưa cháy hết, trộn vô đồ ăn rồi nói:
- Các ngươi lại đây ăn với ta bữa này.Các
đệ tử ói mửa chạy hết. Ngài ngồi ăn
thản nhiên, sau đó mới bảo rằng:
- Các ngươi cùng ăn được với ta cái món này thì mới có thể tiếp tục ăn uống như ta được, còn nếu không được thì thôi từ nay đừng có bắt chước.Chúng
sợ hãi không dám bắt chước nữa, lo
gìn giữ giới luật đàng hoàng. Bởi vì Ngài đã nhiều năm
tu hành thanh tịnh rồi mới được như vậy, còn các
đệ tử chưa được
vậy thì làm sao mà bắt chước được! Như vậy để thấy rằng, nếu tâm mình còn
phân biệt nhơ sạch thì làm sao có thể
tùy duyên theo kiểu đó được, còn tâm Ngài sạch hết
phân biệt rồi, cho nên ăn
tự nhiên thôi.
Khi tâm mình còn
phân biệt nặng nề, còn thích ngon chán dở, còn thích đẹp chán xấu mà bảo là
tùy duyên không ngại gì thì
coi chừng bệnh hoạn, phải hiểu được cái ý đó. Như vậy một
ý nghĩa tùy duyên này mà thấu cho thật suốt có dễ dàng không? - Không dễ dàng, cho nên phải thật sống chớ không phải bắt chước được.
Bởi vậy
tùy duyên mà còn có cái ta trong đây là còn dính mắc, mà còn dính mắc là không đúng
ý nghĩa tùy duyên. Nhiều khi mình
mắc kẹt là
mắc kẹt cái lý
tùy duyên nữa, mình phải sống cho thật
chân thật mới thấy
ý nghĩa tùy duyên, chỉ là cái lý thông thường thôi nhưng muốn hiểu cho
rốt ráo để sống không phải là
đơn giản, làm
cả đời không hết, đâu phải nói tới những
lý cao tột mây xanh.
Để
kết thúc lại,
tùy duyên là luôn luôn
sáng ngời tự tại, không có chỗ nào để bám, đó là
tùy duyên. Mong rằng tất cả khéo sống được
tùy duyên, đúng
ý nghĩa tùy duyên.
Trích từ sách
Hoa Vô Ưu Tập 9Kinh Sách Giảng Giải Bởi Hòa Thượng Thích Thanh Từ (Pdf)