Câu hỏi đặt ra là tại sao giới trẻ ít
quan tâm học và
thực hành Phật pháp?
Phải chăng Phật giáo không có
giáo pháp cho giới trẻ hay vì
nguyên nhân nào khác mà giới trẻ chưa có cơ hội học
Phật pháp. Bài viết sẽ nêu ba khía cạnh về
Phật giáo và giới trẻ nhằm
giải đáp phần nào
vấn đề nêu trên.
Từ “giới trẻ” không có một quy chuẩn độ tuổi nào
cụ thể nên ở đây tạm
giới hạn từ 30 tuổi trở xuống
bao gồm cả trẻ em.
Những bài pháp về cho giới trẻ Giáo pháp Đức Phật giảng dạy có nhiều nội dung rất
phù hợp cho giới trẻ
thực hành.
Bài kinh tiêu biểu dạy trẻ con là
kinh Giáo giới La-hầu-la ở rừng Ambala, kinh số 61 thuộc
Trung bộ. Nội dung
bài kinh Đức Phật dạy La-hầu-la về thiện và bất thiện/ác thông qua
ba nghiệp thân, khẩu, ý. Đầu tiên,
Đức Phật dạy về
khẩu nghiệp. Mượn
hình ảnh cái chậu nước,
Đức Phật dạy La-hầu-la rằng người nói láo không biết
xấu hổ thì không ai tin dùng như nước bị dơ, nước bị đổ hết không dùng được. Dùng ví dụ con voi không
giữ gìn cái vòi
đồng nghĩa với bỏ mạng sống,
Đức Phật dạy người nói láo không biết
xấu hổ thì không có việc ác gì không làm. Kế đến, dùng
hình ảnh cái gương,
Đức Phật dạy phải luôn
phản tỉnh lại chính mình để biết
ba nghiệp thân khẩu ý đang làm thiện hay làm ác để biết
từ bỏ làm ác và
tinh tấn làm thiện.
1Với nội dung về nói láo, về thiện và ác thì giới trẻ rất
cần phải học để
thực tập không nói láo, làm thiện và tránh ác để
trở thành người có
đạo đức trong
xã hội và có
hạnh phúc trong cuộc sống.
Một
bài kinh khác giới trẻ
cần phải học và
thực hành để có
hạnh phúc ngay trong
hiện tại và không bị
đọa lạc vào các nẻo ác là kinh Người áo trắng
2.
Bài kinh nói rằng nếu người
cư sĩ biết
giữ gìn năm điều
đạo đức (
năm giới) và
tu tập bốn tâm cao thượng thì sẽ có
hạnh phúc trong
hiện tại và không bị đọa vào các nẻo ác như
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh;
đồng thời dự vào dòng Thánh. Năm điều
đạo đức gồm: thứ
nhất không giết hại, có
lòng từ bi
bảo vệ sự sống; thứ hai không
trộm cắp, thường
bố thí,
từ bỏ tâm
tham lam,
bỏn xẻn,
keo kiệt; thứ ba không
tà dâm ngoại tình,
bảo vệ hạnh phúc gia đình; thứ tư không nói láo, không nói lời chia rẽ, không nói tục
chửi thề và nói
sự thật, nói lời
xây dựng, nói lời
lịch sự; thứ năm không uống rượu và
ma túy, không
sử dụng các chất gây say,
độc tố. Bốn tâm cao thượng gồm:
quán niệm Đức Phật là Bậc
Giác ngộ;
quán niệm Chánh pháp là những lời dạy của
Đức Phật có khả năng đưa đến
giải thoát;
quán niệm Tăng là đoàn thể những người đi trên
con đường thiện,
con đường Thánh; và
quán niệm giới luật có khả năng đưa đến
đời sống đạo đức thanh cao. Những lời dạy nền tảng về
đạo đức và
phương pháp đạt được tâm cao thượng như là kim chỉ nam hướng người đến
hạnh phúc. Nếu giới trẻ được học và
thực hành dù chỉ một phần trong các điều trên thì cũng rất
lợi ích cho
bản thân và
xã hội.
Ngoài ra, còn có rất nhiều bài pháp với nguồn
giáo lý rất
phù hợp cho giới trẻ như
vô ngã,
vô thường, nhân quả…Như vậy,
Phật giáo có rất nhiều
giáo pháp cho giới trẻ. Nội dung về
nhân quả,
đạo đức,
thiện ác,
quả báo đọa lạc vào các nẻo khổ như
địa ngục,
ngạ quỷ rất
thiết thực để giới trẻ học và
thực hành. Nếu giới trẻ được
giáo dục đầy đủ các nội dung trên thì
hy vọng về
đời sống hạnh phúc cho
bản thân chúng và bình yên cho
xã hội là điều có thể xảy ra. Làm sao để giới trẻ có thể tiếp cận học và
thực hành Chánh pháp là điều sẽ trình bày phần dưới.
Giới trẻ và vấn đề “tâm linh” Thuật ngữ “tâm linh” được định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt
3 là
tâm hồn,
tinh thần, khả năng
biết trước một
biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình. Theo trang Wikipedia,
tâm linh bao hàm
trí tuệ,
ý thức,
tinh thần,
linh hồn của một
động vật hay
con người4. Như vậy, “tâm linh”có thể tạm hiểu là
đời sống tinh thần bao gồm văn hóa, tập quán,
đạo đức,
lối sống,
niềm tin tín ngưỡng và
niềm tin tôn giáo.
Với
Phật giáo, “tâm linh” được biểu hiện qua
đời sống tín ngưỡng,
cầu nguyện cúng bái, lễ hội…
Cầu nguyện cúng tế là
sinh hoạt tôn giáo được nhiều người
thực hành và cho rằng đó là
đời sống tâm linh. Theo
thiển ý của người viết, vì
yếu tố tôn giáo bao gồm cúng bái, cầu khấn
trở thành một phần
trong đời sống của
tín đồ nên chữ “tâm linh” được dùng để
miêu tả hiện tượng trên. Hơn nữa,
vấn đề siêu hình như
linh hồn (
thần thức hay
tâm thức trong
Phật giáo) và
tái sinh trong các kiếp sống vượt trên
ý nghĩa đời sống tinh thần bình thường bao gồm các
cảm xúc vui, buồn, thương, ghét…của
con người nên
thuật ngữ “tâm linh” được mượn dùng để
giải thích.
Căn cứ vào kinh Nikāya, khó
tìm thấy nội dung nào
giải thích thuật ngữ “tâm linh” vì
hình thức hoạt động cầu cúng không phải là chủ trương của
Đức Phật. Ngược lại, sự
thực tập chuyển hóa phiền não để có sự
an lạc và chứng
Thánh quả trong
hiện tại hay tương lai được
Đức Phật thuyết giảng trong cả
cuộc đời của Ngài và được lặp lại trong rất nhiều
bài kinh. Nếu xem
lối sống đạo đức và sự
tu tập chuyển hóa để có
hạnh phúc trong
hiện tại và vượt khỏi
sanh tử luân hồi khổ đau trong tương lai là “tâm linh” thì khái niệm này có thể dùng trong
Phật giáo.
Từ định nghĩa và
giải thích trên, người viết tạm dùng
thuật ngữ “tâm linh” với
ý nghĩa là
thực hành đạo đức, sự
chuyển hóa khổ đau và
hình thức tín ngưỡng cúng bái.
Vậy thì giới trẻ có
quan tâm đến
vấn đề tâm linh không?
Có thể nói giới trẻ vị
thành niên tự có
ý thức cúng bái cầu khấn là rất hiếm. Chúng tự tìm học và
thực hành đời sống đạo đức Phật giáo thì càng hiếm hơn.
Tuy nhiên, hai
trường hợp trên có thể xảy ra nếu chúng được người lớn trợ giúp như hướng dẫn đến chùa, hướng dẫn
quy y Tam bảo…
Giới trẻ
thành niên thì có thể tự
thực hành đời sống tâm linh qua việc đến chùa
lễ bái,
cầu nguyện, học
giáo pháp,
tu tập đạo đức Phật giáo.
Tuy nhiên, số lượng giới trẻ
thành niên đến chùa
lễ bái cầu nguyện thường nhiều hơn số lượng đến chùa
tu học Phật pháp. Điều này có thể
nhận thấy ở hầu hết các ngôi chùa
nếu không muốn nói là tất cả.
Như vậy, giới trẻ có
quan tâm đến
đời sống “tâm linh” nhưng còn khiêm tốn và thường nghiêng về hướng
cầu nguyện,
lễ bái hơn là
thực tập đạo đức,
chuyển hóa nội tâm theo
tinh thần Phật giáo.
Môi trường giới trẻ đến với Phật giáo Giới trẻ đến với
Phật giáo xảy ra trong môi trường chùa5 và môi trường
xã hội. Môi trường chùa là giới trẻ đến chùa
lễ bái,
cầu nguyện,
tu học Phật pháp với
chư Tăng Ni. Môi trường
xã hội là giới trẻ
thành lập các nhóm tự
sinh hoạt Phật pháp hay tự
tìm hiểu giáo pháp qua các
phương tiện nghe nhìn. Môi trường
xã hội đối với giới trẻ phần lớn
giới hạn ở cấp độ tạo phước,
vui chơi và
thực hành đạo đức xã hội.
Giới trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn để hiểu
giáo pháp nếu chỉ
giới hạn ở môi trường
xã hội. Với môi trường chùa, có hai
trường hợp xảy ra. Một là giới trẻ tự tìm đến chùa do có
nhân duyên nào đó hay do sự thu hút bởi các
hoạt động của chùa. Hai là giới trẻ được người lớn hướng dẫn.
Trường hợp một xảy ra đối với giới trẻ
thành niên còn
trường hợp hai xảy ra cho cả giới trẻ vị
thành niên và
thành niên.
Giới trẻ vị
thành niên tự đến chùa
tu học là điều khó xảy ra vì
bản thân chúng chưa đủ
ý thức về
tu học và nếu chúng muốn đến chùa cũng bị phụ huynh
can thiệp. Hầu hết giới trẻ vị
thành niên đến chùa là do phụ huynh hướng dẫn.
Tuy nhiên, số lượng phụ huynh
Phật tử ý thức được
trách nhiệm hướng dẫn con em về chùa
tu học là rất
hạn chế. Hơn nữa, ngay cả
bản thân phụ huynh
Phật tử cũng chưa
ý thức được
giá trị tu học ở chùa nên
ít khi về chùa trừ khi có
hữu sự. Đó là
lý do chính tại sao giới trẻ ít đến chùa.
Giới trẻ
thành niên tự
ý thức đến chùa phần lớn là
lễ bái cầu nguyện. Một số đến chùa
tu học giáo pháp rơi vào hai
trường hợp. Một là chúng bị thu hút bởi các thời pháp của các vị
giảng sư. Hai là chúng bị thu hút bởi các
hoạt động tu học của chùa do
Tăng Ni tổ chức và nhiều
tình nguyện viên
tham gia như
trường hợp tại một số ngôi chùa đang tổ chức những khóa tu quy mô hiện nay. Ở các chùa này, mặc dù có đông
chư Tăng nhưng
nếu không có lực
lượng tình nguyện viên thì
Phật sự không thể
thành tựu.
Phần lớn các chùa ở các tỉnh đều ít
Tăng chúng. Một vị
trụ trì lo
phục vụ tín ngưỡng quần chúng đã chiếm gần
hết thời gian. Do đó, một cách
duy nhất để có thể tổ chức
hoạt động thu hút giới trẻ là có sự
tham gia của
cư sĩ. Khi đó,
cư sĩ đảm trách tổ chức các
hoạt động cho con em
tham gia còn
chư Tăng Ni
phụ trách chuyên môn giảng dạy
giáo pháp.
Tuy nhiên, các chùa có thể
thành lập được các hội đoàn,
Gia đình Phật tử, câu lạc bộ… như các
tôn giáo khác nhằm
xây dựng các
chương trình hoạt động tu học để thu hút giới trẻ là một bài toán khó trong
trường hợp Phật giáo Việt Nam.
Hiện tại, chỉ có một số rất ít chùa tạo được mô hình này.
Nhiều
đề xuất được đưa ra nhằm thu hút giới trẻ về chùa
tu học như tổ chức dạy cắm hoa, dạy thư pháp, hội họa, vi tính…Tuy nhiên, các
hoạt động này không phải là
nhiệm vụ sở trường của
Tăng Ni mà nó thuộc về chuyên môn của
cư sĩ. Cho nên, không có sự
tham gia của
cư sĩ thì cũng khó
thực hiện được.
Thay lời kết Giáo pháp của
Đức Phật có rất nhiều nội dung rất
thiết thực cho giới trẻ. Để biết, để học và
thực hành giáo pháp, giới trẻ phải có
điều kiện tiếp cận được
giáo pháp.
Con đường tiếp cận xảy ra trong môi trường chùa và môi trường
xã hội. Trong đó, môi trường chùa đóng
vai trò quyết định. Phụ huynh đóng
vai trò rất quan trọng để giúp con em đến với môi trường chùa. Không có sự
quan tâm của phụ huynh thì mọi
giải pháp đều khó
thực hiện. Sự thay đổi
cách sinh hoạt của chùa là
cần thiết để giới trẻ được đến chùa
sinh hoạt,
tu học. Bên cạnh sự
nỗ lực của
chư Tăng Ni, các phụ huynh phải có
trách nhiệm hướng con em về chùa.
Nhiều chùa
nỗ lực tạo
điều kiện cho giới trẻ
vui chơi tu học nhưng chưa
thành công vì
lý do gọi là “kém hấp dẫn”. Đến với
Phật giáo là đến với
con đường hướng thượng nên bao giờ cũng cần cái tâm
tu học và sự
nỗ lực nhiều hơn. Để giới trẻ đến với
Phật giáo, không có
giải pháp hữu hiệu nào mà không có sự
trợ duyên của phụ huynh. Cũng như để trẻ đến trường, không có
giải pháp bắt buộc nào bằng sự bắt buộc của phụ huynh. Vì
Phật giáo mang tính tự nguyện nên khi nào phụ huynh
ý thức được
giá trị tu học Phật pháp thì khi ấy giới trẻ sẽ đến chùa
tu học đông đảo.
Thích Hạnh Chơn
___________________
(1) Theo bài kinh, thiện là nghiệp của thân, khẩu, ý không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến hại người, không có thể đưa đến hại cả hai và ngược lại đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc. Bất thiện hay ác là nghiệp của thân, khẩu, ý đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai và đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ.
(2) Thích Minh Châu dịch, kinh Tăng chi tập I, chương năm, phẩm Nam cư sĩ, mục Gia chủ, (Hà Nội: Nxb.Tôn Giáo, 2015), tr. 793.
(3) Hoàng Phê chủ biên, Từ điển tiếng Việt, (Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2004), tr.897.
(4) https://vi.wikipedia.org/wiki/Tâm_linh, truy cập 23-12-2017.
(5) Chỉ cho cơ sở Phật giáo nói chung.