PHẬT DẠY NGHE LÀ MỘT PHÁP TU THÙ THẮNG Thích Đạt MaPhổ Giác
Người Phật tửtại gia khi đã quy hướng Tam bảo, phát nguyện sống đời thánh thiện dù mất sinh mạng, nhưng không mất mục đíchlý tưởng, giác ngộgiải thoát và cứu độchúng sinh.
Chúng ta muốn duy trìhạnh nguyện lắng nghe của Bồ Tát Quán Thế Âm. Tâm chúng ta luôn chạy theovọng niệmlăng xăng, thân chúng ta luôn hành động không có ích lợi cho người khác, thì làm sao chúng ta có thể ngồi yên, để lắng nghe tiếng nói của người khác.
Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy sáu căn là nhân của luân hồisinh tử và sáu căn cũng là nhân của giải thoát. Sau khi Phật bảo 25 vị Thánh trình bày chỗ tu chứng của mình xong rồi, Phật dạy Bồ-tát Văn Thù chọn lựa căn viên thông để tu. Cuối cùng Bồ-tát chọn lựa “nhĩ căn” là viên thông hơn hết các pháp tu khác. Đây là lối tu: “Phản văn văn tự tánh” của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Chữ phản ở đây có nghĩa là ngược lại, thay vì từ xưa đến giờ chúng tachạy theoâm thanh, có tiếng là có nghe, không tiếng là không nghe, quên mất tánh nghe thường hằng của mình. Bây giờ biết tu rồi, chỉ nhớ mình có tánh biết sáng suốt, nghe tất cả mà không dính mắc vào âm thanh riêng biệt nào.
Chính vì vậy, Bồ-tát Văn Thù khuyên đại chúng và Ngài A nan: “xoay cơ quan nghe của ông, trở lại nghe tánh nghe của mình, thành tựu tánh nghe là đạo vô thượng. Đây là con đường vào cửa Niết bàn của tất cả chư Phật nhiều như số vi trần.
Nên kinh nói, trì niệmdanh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, công đứcthù thắng hơn tất cả. Vậy, chúng tatrì niệm bằng cách nào? Nghĩa là phản quán lại tánh nghe chân thật của mình, nên không bị âm thanh bên ngoài chi phối, do đó hằng sống với tánh nghe. Trì niệmdanh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm là phương pháptu tậpquán chiếucuộc đời, để chúng ta thấy rõ được bản chất thực hư của nó, nên mỗi hành giả tự độ mình, vượt qua các khổ đau đang có mặt.
Hạnh lắng nghe là luôn lắng nghe người khác tán thán khen ngợi mình và lắng nghe người khác chỉ trích phê phán mình, mà ta vẫn giữ được thái độbình tĩnh, trong tâm khôngxao động, đó mới là người đã siêu việt hạnh lắng nghe.
Nơi nào có bất hạnh khổ đau, thì nơi đó có Bồ-tát Quán Thế Âmxuất hiện. Bồ-tát Quán Thế Âm đã hoá thân thành nhiều thành phần trong xã hội, tùy theonhân duyên mà Bồ-tát cứu độchúng sinh.
Bồ-tát độ sinh dưới nhiều hình thức từ một ông vua hay tể tướng cho đến kẻ bần cùng, chúng sinh cần nhu cầu nào thì Bồ-tát ứng hiện theo nhân duyên đó, để cho phù hợp với tâm tư nguyện vọng của mọi người. Hay nói rõ hơn, Bồ-tát đi vào đời là tùy bệnh cho thuốc, do đó người thực hành hạnh lắng nghe muốn độ sinh có hiệu quả, phải biết căn cơ và sở thích của từng chúng sinh.
Nghe là sự vận hànhtự nhiên của một cơ thể bình thường. Thật là sướng lỗ tai, khi ta nghe lời nói ngon ngọt, nhưng nghe lời nói nặng nề thì ta cảm thấy khó chịuvô cùng. Đối với chúng sinhbình thường, sự lắng nghe đã khó, còn đối với những người có quyền cao chức trọng, giàu có, thế lực, nổi tiếng v.v… thì sự lắng nghe còn khó khăn hơn, bởi vì cái ta, cái của ta, nó đã đang bành trướng.
Bồ-tát có nghĩa là người giác ngộ, nhưng giác ngộ từng phần chưa được viên mãn như Phật. Nhưng vì thấy chúng sinh ở cõi Ta Bà này vui ít, khổ nhiều bị phiền não khổ đau chi phối, nên động lòngthương xótđi vào đời lấy tứ nhiếp pháp để ban vui cứu khổ theo đúng tâm tư nguyện vọng của chúng sinh. Người Phật tử muốn thực hiện hạnh lắng nghe đượcthuần thục, trước tiên phải biết bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
Bồ-tát thấy chúng sinhtham lam, bỏn sẻn, keo kiệt, ích kỷ, nhỏ mọn, chất chứa riêng tư là nhân của đau khổ, nên rộng rải phát tâmbố thí, giúp đỡ sẻ chia, để diệt trừtâm địa hẹp hòi sân tham.
Bồ-tát sẵn sàng đem tài sảncủa cải hoặc sức lực của mình bố thí giúp đỡ mỗi khi cần thiết. Nhờ sự giúp đỡ tận tình nên Bồ tát dễ dàng gần gũi và được nhiều người mến thương, do đó dễ nhiếp phục họ bằng bố thí chia sẻ.
Thứ hai là Bồ-tát phải dùng lời ngon ngọt, hòa nhãdịu dàng, nhỏ nhẹdễ thương, không nên nói lời cộc cằnthô lỗ, nếu giúp người mà như thế dễ làm họ chán ghét, phiền muộn khổ đau. Khéo dùng lời nóitừ áihiền hòa, nhưng chân thật nên dễ thành công trong hạnh lắng nghe. Thứ ba là Bồ-tát phải tích cực làm việc gì đó để lợi ích chúng sinh, chứ không phải nói suông vô ích. Nhờ vậy họ mới tin tưởng mình, sau đó chúng ta dùng chánh pháp để giúp họ hướng thiện, tin sâu nhân quả, dứt ác làm lành.
Thứ tư là đồng sự, Bồ-tát phải siêng năng giỏi biết nhiều ngành nghề để cùng làm cùng sống với họ. Nhờ sống gần gũi thường xuyênchúng ta mới có cơ hội dùng chánh pháp để thuyết phục họ, tin sâu nhân quả, tự tin chính mình và giúp họ đi theocon đườnghướng thượng là luôn chia vui sớt khổ trong thương yêubình đẳng. Bồ-tát phải quán trí tuệ rộng lớn để chuyển hóatối tămsi mê và sống với tính biết sáng suốt nương nơi mắt thì thấy nghe không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Từ đó phát khởilòng từ bi rộng lớn đi vào đời cứu độchúng sinh, mà không thấy mình ban cho, người được cho và vật đã cho.
Người đời có hai cái lo sợ, một là sợ những tâm niệm bên trong và hai là sợ những chướng ngại vật bên ngoài. Chúng ta chỉ thực hành hạnh lắng nghe thôi, là có thể hoàn thiện được chính mình qua thân, miệng, ý thanh tịnh.
Lắng nghe người khác nói hoặc nghe họ tâm sự những nỗi buồn do mất mát đau thương, chúng ta có thể lắng nghe tất cả những tiếng kêu cứu khổ của muôn loài vật, một cách trân trọng như vậy ta có thể thành tựu một phần nào của hạnh lắng nghe.
Nhờ thực tập hạnh lắng nghe, chúng ta có thể cảm thông và tha thứ cho nhau, qua nhịp cầu nối kết yêu thương, để làm nơi nương tựa cho gia đình người thân, như Bồ-tát Quán Thế Âm có mặt khắp mọi nơi để cứu khổchúng sinh.
Trong thời đại phát triển của văn minh, khoa học vật chất, việc bùng nổ thông tin để loan truyền những tin tức không chính xác, nhằm gây hoang mang cho nhiều người, như tin đồn tận thế. Chính vì thế, việc thực tập hạnh lắng nghe nhằm đem lại nguồn an vui hạnh phúc cho mình là điều cần thiết. Lắng nghe là một phép lạ nhiệm mầu, giúp cho chúng ta vững niềm tin hơn trước phong ba bão táp của cuộc đời.
Hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âmsở dĩ được tôn xưng với danh hiệu không thể nghĩ bàn, là nhờ Ngài luôn ban bố niềm vui đến cho mọi người và sẵn sàng giúp cho tất cả chúng sinhvượt quasợ hãi khổ đau, đang chịu nhiều bất hạnhtrong đời. Như thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt, sóng thần, động đất, bị yêu tinh tà ma hảm hại, bị giamcầm tù tội, cho đếnbị nạn trộm cướp, bị vua quan chiếm đoạt và nghèo đóithiếu thốn khó khăn.
Chúng tatu học theo hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm, như là điểm tựatinh thầnvững chắc để mọi người bắt chước và noi theo, từ một con ngườiphàm phutục tử, có thể trở thành một Thánh nhân cao quý nhờ biết cách trì niệmhồng danh Ngài.
Mới đây nhất một pho tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, cao gần 70 mét, được xem là tượng Bồ-tát cao nhất Việt Nam đã được khánh thành tại Chùa Linh Ứng, Bãi Bụt, thành phố Đà Nẵng. Hình ảnh đẹp của Bồ-tát Quán Thế Âm có thể tìm thấy ngay trong cuộc sống này, được ví như mẹ hiền thương con vô bờ bến, nên Bồ-tát thị hiện là người nữ để dễ gần gũi và giáo hóachúng sinh.
Chúng ta hãy để cho người khác trút hết nỗi niềm tâm sự và chính ta là người biết lắng nghe. Ta chỉ cần lắng nghe, một cách trân trọng và có hiểu biết, thì nỗi khổ niềm đau của người đó, sẽ được giảm thiểu một phần nào.
Quán Thế Âm có nghĩa là quán sátxem xét lắng nghe tiếng khổ của tha nhân để tùy duyêncứu độ. Ngài luôn quán chiếucuộc đời bằng hạnh lắng nghe âm thanh theo nguyên lý, duyên khởi, vô ngã, vị tha, nhờ vậy biết cách giúp chúng tavượt qualo lắngsợ hãi, thoát khỏi sự ràng buộc của khổ đau.
Bồ-tát sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ niềm đau, để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh cho tất cả chúng sinh. Nhờ Bồ tát thấu rõ chân lýcuộc đời nên không thấy mình là kẻ ban ơn, người nhận thí và kẻ thọ ơn, nên bình đẳng kết nối yêu thương, mở rộng tấm lòng không phân biệt người thân hay kẻ thù.
Trong những đêm khuya thanh vắng, chúng ta hãy im lặng để lắng nghe đủ thứ mọi âm thanh được phát ra từ muôn loài vật.
Tiếng côn trùng rên rỉ, tiếng dế nỉ non, tiếng cóc, nhái, ễnh ương vang lên như một bài xướng ca để quyến rũđồng loại của chúng. Tiếng mẹ ru con, tiếng thở than của những người nghèo khó, trong khi đó tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng hiền từ của ni cô đang quỳ tụng Kinh Bồ-tát Quán Thế Âm.
Trong không gianbao la của đêm tối không trăng lờ mờ, ít ra là trong những giây phút này. Lắng nghe là một sự cảm thôngkỳ diệu nhất, giúp cho chúng ta biết cách làm chủ bản thân mà không đánh mất chính mình.
Như trong kinh Lăng NghiêmPhật bảo ngài A Nan đánh tiếng chuông, rồi hỏi ngài A Nan có nghe không? Ngài A Nantrả lời có. Đợi khi tiếng chuôngim bặt một hồi lâu. Phật hỏi lại ông có nghe không? Ngài A Nantrả lời là không nghe, bị Phật quở tại sao ông quên mình theo vật. Phật nói tiếp, khi có tiếng là nghe có tiếng, khi không tiếng là nghe không tiếng.
Tánh nghe luôn thường hằng nên cái gì biết có tiếng, không tiếng vậy màchúng ta không chịu thừa nhận nên luôn sống trong đau khổ lầm mê. Qua câu chuyện Phật dạy trong Lăng Nghiêm cho Ngài A Nan tu theo cách hành thẳng nơi tâm không thông qua phương tiện từ thấp đến cao.
Người tu theo hạnh lắng nghe, phải phát nguyện lớn, trên cầu thành Phật dưới cứu độchúng sinh. Nguyện ở đây có nghĩa là chí nguyệnđộ sinh, cứu vớt chúng sinh tai qua nạn khỏi, vượt thoát khổ đau và luôn đem niềm vui đến với tất cả muôn loài.
Bồ-tát sau khi thành tựuđạo quả, nguyện dấn thân đi vào đời để làm lợi ích chúng sinh, cùng đồng hành, cùng làm việc, cùng đóng góp, cùng gánh vác, cùng sẻ chia, cùng chia vui và cùng sớt khổ bình đẳng, với tất cả chúng sinh.
Tu và học theo hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm như nhịp cầu nối kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống, luôn giúp mọi người sống gần gũi gắn bóvới nhau, bằng sự thương yêu và hiểu biết, dấn thân và phục vụ, bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, sẻ chia và giúp đỡ, nhưng không thấy ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảmvới nhau mà thôi.
Mỗi hành giả tu theo hạnh nguyện lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âmcần phải thể nghiệm sâu sắc lời dạy trên để được giác ngộ, giải thoát và cứu độ tất cả chúng sinh.