Nói 5 mà không nói 6 vì căn thứ 6 chính là thức thứ 7. Nó là nền tảng
để ý thức y đó
hoạt động. Căn này thiếu phước bao nhiêu nó cũng không thiếu. Bởi nó luôn
đồng hành cùng thức thứ 8. Khi có một
thân tướng xuất hiện, cũng có nghĩa là
đang tồn tại một thức thứ 8
tương ưng với
thân tướng đó. Thức thứ 8 đã có thì thức thứ 7 không
thể không. Hai thức này luôn
đồng hành cùng nhau
1.
Ý căn,
hành tướng của nó khi còn
nhiễm ô là suy lường và
chấp thủ. Cho nên, dù 5 căn có đủ, sắc diện có
vượt trội hơn người, nếu trong tâm luôn
hiện diện sự tính toán, so đo, thủ chấp,
tranh giành, đố kỵ… thì biết là mình đang dấn thân vào cái gọi là tạo
nghiệp bất thiện, một cái nhân của việc thiếu phước. Trong phước có sẵn cái mầm họa hoạn là đó.
Ý căn nhiễm ô chính là nền tảng
để ý thức
hoạt động theo kiểu đưa mình vào cõi chết. Chết, theo nghĩa khổ đau
sinh tử, cũng theo nghĩa giết chết
huệ mạng của mình.
Với một phước báu có sẵn, là đầy đủ 5 căn
hoạt động rất tốt, ta đã và đang
sử dụng sáu căn của mình thế nào? Là tận dụng được phước báu để làm
tăng trưởng phước báu hay tận dụng phước báu để đánh mất phước báu?
Duy tâm sở tạo
Hai mươi mấy năm
tu hành, tôi
khám phá ra rằng: Cái gọi là
thành Phật, thành Bồ-tát chẳng qua chỉ để thấy các pháp đúng như chính nó. Wa! Bấy lâu nay,
chúng ta không thấy pháp đúng như chính nó sao? Sách thấy là sách, sáng thấy là sáng, voi thấy là voi…, có thứ nào thấy không đúng? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý vẫn cảm nhận mọi thứ đầy đủ như bao người
bình thường khác. Không hề thấy sách thành chó, thấy sáng thành tối, thấy xanh thành vàng… sao có thể bảo là không thấy pháp đúng như chính nó?
Dù thấy đúng như thế, ta vẫn chưa thấy các pháp đúng như chính nó.
Trong
một lần tịnh tâm, tôi thấy
thân tứ đại của mình không phải là thân xác thịt, nó là thân
bảy báu. Thấy, như mình mở to hai mắt thấy thân xác thịt hiện nay của mình, không phải
suy luận cũng không phải do quán mà thành như vậy.
Trong
một lần tịnh tâm, tôi thấy thân mình chỉ như
chiếc bóng, dịch chuyển nhẹ nhàng trong
hư không. Không còn thân xác thịt này.
Mở mắt mà thấy. Không phải lù mù trong
trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Trong
một lần tịnh tâm, tôi thấy không có gì ngoài một tâm sáng choang. Ánh sáng
xuất phát từ trán, sáng lần ra, bao trùm tất cả và xác thân này không còn
hiện diện. Đúng như kinh
Bát-nhã đã nói: “Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân…”. Tuy vậy, đó chưa phải là
tướng không của các pháp. Vì vẫn còn cái sáng choang
trùm khắp để mình cảm nhận.
Vậy thân này là
bảy báu hay thân này là xác thịt
máu mủ như hiện nay?
Cái thấy nào mới đúng là thấy được
bản chất của thân xác thịt này?
Tôi bắt đầu
hình dung ra thứ mà
kinh luận gọi là “Duy
tâm sở tạo”. Tâm thế nào, sẽ có thân và cảnh
tương ưng thế ấy. Khi
tâm thanh tịnh, ta sẽ có
thân căn và
cảnh giới thanh tịnh. Khi
tâm không thanh tịnh, ta sẽ có
cảnh giới tương ưng với
tâm không thanh tịnh. Điều đó không phải là việc mới lạ.
Kinh luận đã nói đến 6 đường, tùy nghiệp mà thác sinh vào
sáu đường ấy. Nghiệp là những
chủng tử được lưu giữ trong
tạng thức, đủ duyên sẽ
hiện ra thân căn và
cảnh giới của
chúng hữu tình.“Duy
tâm sở tạo” mà Phật nói là như thế. Nhưng để cảm nhận “Duy
tâm sở tạo”là gì thì đến lúc đó, tôi mới cảm nhận được ít nhiều. Bởi tin hiểu và trực thấy là hai thứ
hoàn toàn khác nhau.
Điều đó có nghĩa, khi
chúng ta thấy đúng
hình tướng pháp đang có, sáng thấy sáng, tối thấy tối, sách thấy sách, voi thấy voi, không khởi thêm gì trên ấy nữa, thì cũng chưa có nghĩa là đã thấu đượcbản chất thực của
vạn pháp. Đây
nhấn mạnh mấy từ “bản chất thực”, là muốn nói đến
thực tướng hay thực tánh của
vạn pháp. Dù thấy chỉ là thấy, thấy ở
trạng thái hiện lượng thì đó cũng chỉ là cái thấy
thanh tịnh hơn cái thấy do
phân biệt mà ra, vẫn chưa thoát được vòng duyên hợp của ba thứ căn, trần và thức. Thứ gì còn thuộc duyên hợp, thứ đó chưa phải là
thực tướng hay thực tánh của pháp, từ cái thấy
cho đến vật được thấy. Thành nói
kiến tánh mà còn thấy nhiều thứ quá thì đó là
kiến tướng không phải
kiến tánh. Và dù không thấy
gì nữa, chỉ thấy một khoảng không thì đó là thấy không, không phải thấy tánh.
Trung luận phá cái thấy, chính là muốn hiển thực tánh của cái thấy không nằm ở chính
hình tướng nó đang có. Những thứ duyên hợp với tướng ấy cũng như vậy.
Nói chung, những gì ta thấy hiện nay đều không ra ngoài
nghiệp thức của mình. Không có gì
thoát khỏi ba thứ Căn-Trần-Thức của chính ta. Cùng là Trần đó mà Căn khác Thức khác thì Trần có khi cũng thành khác.
Căn khác, như mắt sáng hay mờ, tai lãng hay nghe rõ v.v… Với
điều kiện khác nhau như vậy, sự vật đương nhiên phải được
nhận biết khác nhau ít nhiều, khi cái thấy của
chúng ta vẫn còn
lệ thuộc vào chúng.
Thức khác
2, là muốn nói đến phần
tiềm thức làm nền tảng để 5 thức ngoài
hoạt động. Đó là thức thứ 8, thức thứ 7 và
Ý thức. Tùy những gì mình đã
huân tập trước đây mà
thế giới được
nhận biết theo cách
của riêng mình. Luận nói
Nhân duyên biến, là muốn
nhấn mạnh những thứ ta thấy hiện nay đều là sản phẩm của những
nghiệp nhân mình đã gây tạo trong
quá khứ, đủ duyên mà thành cái quả
hiện tại.
Nghiệp nhân tốt thì
thân tướng và
cảnh giới tốt.
Nghiệp nhân xấu thì
thân tướng và
hoàn cảnh không tốt.
Chúng ta cùng có
cảnh giới như nhau vì
chúng ta tạo những
nghiệp nhân giống nhau. Nhưng tới đó vẫn chưa xong. Ngay nơi
thân căn và
hoàn cảnh do
nhân duyên biến ra đó, những thứ ta đang cảm nhận bằng 5
giác quan như người khác đang cảm nhận, vẫn chỉ là
thế giới của riêng mình, không hẳn pháp vốn như vậy. Luận gọi là
Phân biệt biến.
Một vài lúc, tôi
nhận ra người ta nhìn sự việc không như tôi đã nhìn. Cũng như tôi đã nhìn sự việc không như
thiên hạ đã nhìn. Người ta
ăn uống rất ngon ở một tiệm chay mà chỉ mới đặt chân vào, tôi đã phải dợn ngược vì thấy mùi tanh vương vãi. Người mà
thiên hạ thấy thân thương
trìu mến thì tôi lại bắt gặp ở đó một sự
dối trá. Thứ tôi nghĩ làm vậy là
cần thiết, người ta lại cho làm vậy là ngu. Có những thứ tôi thấy không hề xảy ra, nhưng người ta
trao đổi với nhau như nó đã từng
hiện diện. Không phải họ lộng ngôn, tôi biết người ta không có ý đó, chẳng qua vì sự việc qua
tâm thức của họ
trở thành như vậy, và họ nói ra như vậy. Một vài lần, tôi viết một điều gì đó trên Facebook. Tôi viết trong tâm trạng không có đối tượng. Nghĩa là vào lúc đó, trong đầu
hiện lên thứ gì thì tôi viết ra thứ ấy, không nhắm vào ai. Bỗng dưng có người nhảy vào la toáng lên rằng sao tôi
chỉ trích họ. Hỏi đã biết nhau chưa? Lúc đó mới vỡ lẽ. Chưa từng thấy nhau.
Vậy mà bảo
thiên hạ chỉ trích mình. Khá nhiều những chuyện
tương tự như thế xảy ra. Chỉ bởi
tâm thức không đồng mà cái nhìn thành khác.
Chúng ta nhìn
thế giới qua lăng kính của mình.
Thế giới này, nhìn thì như chung, nhưng vẫn là
thế giới của riêng mỗi người.
Gặp nhau mà
hòa hợp được, không hẳn vì ở đó chỉ
xuất hiện những kẻ có
trí tuệ. Chỉ là do đồng khí
với nhau. Đó là kết quả của cái gọi là đồng
quan điểm,
định kiến,
đồng sự hiểu biết, hay đồng ở mặt tình cảm. Cho nên, có khi mình thấy
giảng pháp trái với kinh luận rất nhiều, nhưng
thiên hạ theo nghe rất đông. Kẻ
chính nhân thì
vẫn có người
bài bác. Như
kinh điển Đại thừa, người thấy rất hay, kẻ thì
mang đi đốt sạch. Chẳng qua là đồng khí hay không. Đồng thì tương thuận. Không đồng thì tương nghịch. Người đời thường nói “Ngưu
tầm ngưu, mã tầm mã” là vậy.
Dần dà rồi khoa học cũng có thế
chứng minh cho người đời thấy rằng, cái gọi là
Duy tâm Duy thức mà Phật đã nói không phải là không có căn cứ. Đương nhiên, khoa học chỉ có thể đi rìa rìa mé ngoài cái gọi là
Duy tâm Duy thức, không thế thấu được những chỗ đòi hỏi phải là
tâm thanh tịnh mới
thẩm thấu được.
Tôi được xem một video, với
tiêu đề cảnh giác như vầy:
“Những gì bạn sắp xem trong đây, có thể là một bước ngoặt quan trọng của đời bạn. Bạn hãy xem cho kỹ vì nó sẽ thay đổi cái nhìn của bạn đối với thế giới vật chất. Tất cả tài liệu trong đây đều là sự thật. Vì nó đã được chứng minh bởi khoa học - Staboy”
3.
Nội dung của video nói lên một
hiện thực mà người đời đang đối mặt: Hầu hết đều cho
thế giới mình đang cảm nhận qua 5
giác quan là thật.
Thế giới và
con người là thật sự như những gì
chúng ta đang thấy, đang nghe, đang cảm nhận.
Chúng ta thực thấy có
một thế giới bên ngoài
độc lập với mình. Nhưng với cái nhìn của khoa học hiện nay, tất cả
ngoại cảnh mà ta nhìn thấy đó, thật sự chỉ diễn ra tại một phần khá nhỏ và tối đen ở não sau (trên gáy).
Một đoạn phim bạn đang xem hay một cảnh quan tuyệt đẹp của chân trời, đều đang diễn ra tại vài phân khối vuông này. Khi bạn nói “Tôi thấy”, thật ra là bạn thấy kết quả từ tia sáng đưa vào mắt, rồi hình thành trong não bộ qua sự biến đổi thành dòng điện. Khi bạn nói “Tôi thấy” là bạn đang khảo sát dòng điện trong não mình. Não bộ hoàn toàn cách biệt với ánh sáng và bên trong hoàn toàn là bóng tối. Cho nên bộ não không thể tiếp xúc với ánh sáng bên ngoài. Giả như trước mắt bạn là một cây nến đang cháy. Và chúng ta thấy có ánh sáng. Khi chúng ta nhìn ánh sáng của cây đèn thì bên trong não bộ hoàn toàn tối mịt. Ánh sáng của cây nến chưa bao giờ tỏa sáng trong não ta. Nghĩa là chúng ta nhìn thấy màu sắc tươi đẹp và chói lọi bên trong não bộ tối om. Điều này áp dụng cho các giác quan còn lại. Âm thanh, xúc giác, vị giác, khứu giác. Tất cả đều nhận từ não tín hiệu dòng điện. Cho nên bộ não, suốt cuộc đời chưa bao giờ thật sự giáp mặt với vật nguyên thủy từ bên ngoài, mà toàn là tiếp nhận bản sao của dòng diện thành hình trong não. Và dẫn dắt sai lầm đến việc chúng ta luôn cho rằng những bản sao copy này là vật chất thật sự bên ngoài. Những dữ kiện này đưa đến những kết luận không thể tranh cãi được: Những gì bạn thấy, rờ mó, nghe qua vật chất, thế giới hay vũ trụ, chỉ là tín hiệu dòng điện trong óc bạn mà thôi.
Khi chúng ta nghe tiếng chim hót của ngoại cảnh, thực tế con chim này không phải bên ngoài, mà là trong não chúng ta. Con chim bạn đang thấy thật ra là tín hiệu của dòng điện trong não. Nếu cắt mạch dẫn điện đó, hình ảnh con chim sẽ biến mất tức khắc. Tương tự tiếng chim hót bạn nghe cũng nằm trong não. Nếu cắt mạch điện đó thì tiếng hót sẽ mất. Nói đơn giản tất cả những gì mà bạn đang nghe và thấy, chỉ là sự phiên dịch của dòng điện từ não bộ… Một người xem sao trên trời, cho rằng mình cách xa hàng triệu năm ánh sáng, vậy mà những vì sao nằm ngay trong anh ta. Nơi trung tâm thị giác của não. Khi bạn xem phim, bạn cho rằng bạn đang ngồi trong một căn phòng. Thật ra là căn phòng đang bên trong bạn. Ngay cả bạn nhìn thấy thân thể mình, thực ra chỉ là hình ảnh đang nằm trong não bạn…”.
Có thể
chúng ta không
am hiểu lắm những gì đã
mô tả trong phim, nhưng không
thể không nhận được
kết luận mà đoạn phim muốn nói: Mọi thứ đều là tín hiệu của dòng điện trong não bộ, không phải là
ngoại cảnh mà
chúng ta đang cảm nhận trực tiếp như vẫn nghĩ. Khoa học đã dần đưa cái thấy của
con người trở về lại bên trong, dù chưa hiển được mặt
Duy tâm hay
Duy thức của nó.
Chỉ thấy, nghe… thôi, còn chưa thấy pháp đúng như chính nó, huống là trên pháp còn khởi
phân biệt, và
nhận định vấn đề theo
định kiến của riêng mình.
Sai lầm chồng chất sai lầm.
Phân biệt biến
Phân biệt biến, là do tâm
vọng tưởng phân biệt của mình mà
cảnh giới hiện thành như vậy. Như Nguyễn Du từng nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tâm buồn mà cảnh thành buồn. Buồn đó không phải
bản chất của cảnh, chỉ vì
tâm thức mình buồn mà cảnh thành buồn. Chỉ vì
tâm thức mình nghĩ như
vậy mà cảnh
trở thành như vậy. Chẳng phải cảnh vốn như vậy.
Mười mấy năm trước, thời tôi còn viết sách
cúng dường, vài đại gia đã rất thích nó. Một câu gì đó trong sách đã giúp chư vị
tỉnh ngộ. Chị nói như vậy với tôi, sau bao lần trầy trật gặp mặt. Thứ gì không phải là duyên của mình, tôi thường từ chối
tiếp xúc. Cáo bệnh tránh hoài không được thì cũng phải gặp.
Sách không bán, chỉ để
cúng dường mà đòi mua hoài thì không thể bán. Tôi cũng không hề có ý bán sách. Bởi tôi không giàu nhưng cần tiền là có, không phải nhọc tâm buôn bán
xin xỏ. Tôi được phước báu đó từ những ngày chưa
tu hành, nên không
cần thiết phải bán. Lại, đến chùa là cốt tu sao cho cái Maha của mình
hiện ra, không phải để kiếm
lợi lộc mà nghĩ đến chuyện
mua bán. Thành việc cầm tiền người khác, dù chỉ để
làm Phật sự, không phải là
tư tưởng chủ đạo của tôi. Nhưng cảm tấm lòng tha thiết của chị, tôi đã phá vỡ luật đó của mình. Lần in
kế tiếp, tôi đã
thông báo để chị có thể đóng góp, với cách dùng từ
hoa mỹ là “xin” mà không
ấn định bao nhiêu. Tức góp bao nhiêu thì góp, không góp thì thôi.
Không ngờ, lòng nhiệt tình của tôi được
mang đi rao, như thể đó là
bản tính của tôi, như thể đó là
cách sống của tôi. Có lẽ
cho đến giờ này, vẫn còn khắc sâu trong não một số người, bởi tôi không hề
đính chánh, cũng không một lời
biện minh. Ngay cả với em mình, tôi cũng
không giải thích. Sao bà không nói tui, lại xin người ngoài chi cho mang tiếng? Tôi có thiếu tiền đâu mà xin. Tôi làm, vì nghĩ đó là ước muốn của chị. Tôi chỉ muốn tạo
điều kiện để chị được
toại nguyện. Không phải thiếu tiền cũng không phải muốn xin mà làm việc đó. Tần số không
tương ưng, nên tôi đã nhìn sự việc không đúng như chính nó,
cớ sự mới ra như vậy. Giờ hiểu rồi thì thôi. Rút
kinh nghiệm.
Pháp giới này, có gì không
từ tâm lưu xuất? Mọi vui, buồn,
may mắn hay
bất hạnh đều do cái nhìn của mình mà ra. Thấy đó là
bất hạnh thì nó thành
bất hạnh. Thấy đó là bài học chư Phật
ban cho mình thì nó
trở thành pháp bảo nhiệm mầu. Khi bạn đã cho nó là
pháp bảo thì có gì để luận bàn? Đó là
lý do vì sao, dù việc xảy ra như vậy, khi chị cho tiền tôi vẫn
vui vẻ cầm lấy, rồi vào cúng lại cho HT.
Thường Chiếu.
Mới thấy trong
thế giới này, mọi thứ không hề
đơn giản như những gì mình thấy hay nghe. Bởi pháp hình thành từ
nhân duyên. Muốn
đánh giá một
vấn đề cho
chính xác, không thể bỏ qua mặt
nhân duyên này. Cho nên, hoặc là nhìn chỉ là nhìn, nghe chỉ là nghe, không để thứ gì
tác động lên
tâm thức của mình. Còn đã để nó
tác động vào
tâm thức của mình thì không nên bỏ qua mặt
nhân duyên đã tạo nên nó. Quên mặt này thì
lầm lẫn nhiều lắm. Phật dạy:
“Thấy duyên khởi là thấy pháp. Thấy pháp là thấy Phật”. Muốn thấy pháp mà thấy theo kiểu thấy Phật, là thấy đúng
bản chất của pháp, thì việc đầu tiên là không nên quên mặt
duyên khởi làm phát sinh ra pháp. Còn cứ ngay tướng mà
đánh giá, không cần biết
nhân duyên khiến nó phát sinh, thì lầm không thể tránh.
Tôi làm việc đó, không phải
bản tính tôi thích
xin tiền hay có chủ trương
xin tiền người khác
làm Phật sự. Đó không phải là tánh của tôi. Xảy ra việc trên, chỉ vì
nhân duyên là muốn giúp chị
toại nguyện với việc mua sách của mình.
Nếu không có
nhân duyên đó thì không có việc
xin tiền.
Nếu không có việc đòi mua sách mà tôi vẫn
xin tiền, đó mới là tánh của tôi. Còn đã do
nhân duyên mà thành có, thì hết
nhân duyên nó
trở lại không. Tướng là tướng, không phải chính là tánh. Không phải tánh thì không phải khi nào tôi cũng như vậy.
Việc không có mà
trở thành có, là do
chúng ta quên
mất mặt nhân duyên của pháp. Chỉ quen phán xét sự vật theo cái nhìn theo
tư kiến có sẵn. Lấy tướng nhìn thấy trong một lúc làm tánh của
vạn pháp và bỏ qua mặt
nhân duyên của nó. Nên trước và sau, ở đâu và lúc nào, cũng thấy tánh ấy
tồn tại. Từ một cái không có
trở thành một cái có, chỉ vì
chúng ta thiếu cái nhìn
duyên khởi đối với pháp.
Có
lẽ phải là nạn nhân, mình mới hiểu được hết việc hướng ra ngoài
đánh giá người khác nguy hiểm thế nào. Thiếu phước mà không có tai hay mắt thì không thể thấy hay nghe,
quả tình bất hạnh. Nhưng đủ phước có tai có mắt mà thấy không rõ, nghe luôn lầm…thì tạo
nghiệp bất thiện cũng không phải ít. Không
thể không canh con mắt cái tai của mình. Thấy trực tiếp còn chưa chắc đúng, huống là nghe nói lại mà tin
răm rắp. Thành thấy cũng phải để đó, coi lại. Nghe cũng phải để đó, xét lại. Phải luôn
cảnh tỉnh mình rằng, những gì nhìn thấy nghe thấy chỉ trong một thoáng, không hẳn đã là
toàn bộ sự việc hay một
con người. Chỉ là một tướng
hiện ra do mối
nhân duyên nào đó. Trong
nhân duyên khác, chưa chắc tướng ấy đã còn
tồn tại. Không nên y vào tướng trạng thấy trong chốc lát, cho đó là tánh của pháp.
Mới thấy thương Tổ thật nhiều. Một câu “Phản
quan tự kỷ” đủ giúp con cháu
tăng trưởng phước đức,
giảm thiểu bất hạnh.
Chấp ngã là nền tảng sinh mọi u tối
Thế giới này, ngày càng xảy ra nhiều
mâu thuẫn,
tranh chấp v.v… là do
chấp ngã. Nơi nào có
chấp ngã nhiều, nơi đó thường xảy ra nhiều
mâu thuẫn. Vì
chấp ngã có khuynh hướng cái gì thuộc tôi mới đúng, thuộc tôi mới nhất. Cũng do
chấp ngã mà nảy sinh
tình trạng tranh giành, hơn thua, không ngó mặt nhau.
Chấp ngã là
hành tướng của thức thứ 7.
Chấp ngã có hai phần. Một là ngã. Hai là chấp. Chấp là thủ chặt, đầu mối của mọi
lầm lẫn. Chấp vào
phiền não thì sinh
phiền não chướng. Chấp vào
sở tri thì sinh
sở tri chướng. Chấp, đa phần là hệ quả của tập. Do tập mà có chấp. Thứ gì
huân tập nhiều thành có lực, sẽ đưa đến chấp.
Ngã
vi tế là chỉ cho thức thứ 8. Thức thứ 7 chấp thức thứ 8 làm ngã.
Ngã thô hơn là chỉ cho thân
ngũ uẩn này. Thân
ngũ uẩn là duyên hợp của 5 thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đã duyên hợp thì
vô ngã. Nhưng do
vô minh mà
chúng sinh đã chấp vào
thân tứ đại cho đó là thân mình, chấp vào tình cảm cho là tình cảm của mình, chấp vào sự
hiểu biết (
sở tri) cho là
hiểu biết của mình, từ đó hình thành nên loại
chấp ngã này. Chỉ khi nhìn
vạn pháp bằng cái nhìn
duyên khởi, mới có thể giúp
chúng ta phá bỏ dần loại thủ chấp này.
Ý thức,
hành tướng chính của nó là
phân biệt. Không có thức thứ 7 thì
ý thức không
hoạt động được. Nếu thức thứ 7 không
nhiễm ô thì
ý thức vẫn không đánh mất tính
phân biệt của mình, nhưng là loại “phân biệt không phải ý”. Nếu thức thứ 7 ở
tình trạng nhiễm ô, phát huy tính
chấp ngã và suy lường thì
ý thức hoạt động theo kiểu “Tội vi khôi”.
Không có
ý thức thì năm thức ngoài không
hoạt động được. Nếu
ý thức ở
trạng thái hiện lượng, là
phân biệt mà không
phân biệt, thì năm thức ngoài cũng ở
trạng thái hiện lượng. Cảnh thế nào
nhận biết đúng thế ấy. Nếu
ý thức ở
trạng thái nhiễm ô thì năm thức ngoài cũng thành
nhiễm ô. Mọi thấy nghe đều bị
nhiễm ô chi phối. “Phân biệt biến”
xuất hiện là do đây.
Tóm lại, mọi cái nhìn cái nghe của mình đều bị
chi phối bởi thức thứ 7, thông qua
ý thức. Thức thứ 7 mà “bình đẳng” thì mọi thấy nghe đều
dựa trên sự
bình đẳng ấy mà
hiện tướng. Thức thứ 7 mà phát huy suy lường và
chấp ngã thì mọi thấy nghe cũng y đó mà
hiện tướng. Nhưng thức thứ 7 là phần
hoạt động âm thầm bên trong, không thể trực
tiếp nhận rõ như với
ý thức. Vì thế, tuy
mục đích tu hành là
trở về vô ngã, tức nhắm vào thức thứ 7, nhưng khi tu thì chỉ có thể y vào
ý thức mà tu
4.
Nhà thiền
hay nói đến mấy từ
vô phân biệt. Đó là kết quả mà một
hành giả tu thiền phải
đạt được. Chính là làm sao
sống lại được với tâm
vô phân biệt của mình.
Phân biệt là
hành tướng của
ý thức.
Vô phân biệt cũng là
hành tướng của
ý thức. Nghĩa là,
ý thức có hai
trạng thái:Hoặc
phân biệt ở
trạng thái hiện lượng, gọi là
vô phân biệt. Hoặc
phân biệt ở
trạng thái nhiễm ô, là
phân biệt do
chấp ngã, do suy lường, do nương vào những
sở tri mình đã
huân tập.
Vô phân biệt cũng có hai
trạng thái: Hoặc là
phân biệt mà không
phân biệt, là khi thức thứ 7 đã
chuyển hóa thành
Bình đẳng tánh trí. Hoặc là
vô phân biệt bằng cách dừng lại mọi
phân biệt do suy lường,
chấp ngã và
sở tri v.v… Chính là dừng đi dòng
vọng tưởng của mình. Nói
chính xác là dừng đi cái lực của dòng
vọng tưởng, để những suy lường v.v…
trở lại đúng với
bản chất của nó là vọng. Khi chúng đã thành vọng thì cũng có nghĩa là
chúng ta đang sống được với cái dụng
thanh tịnh của chân thể. Chấp cũng được phá. Đó là
lý do vì sao nói “Biết vọng” là pháp tu trực chỉ.
Chỉ khi vọng mất lực thì
chúng ta mới có thể làm chủ mọi hành tác của mình khi nó
hiện tướng. Nếu vọng còn lực thì khi đủ duyên, mọi
suy nghĩ hành tác của mình thường bị
nhân duyên quá khứ chi phối. Mọi hành tác
hiện tại, từ
suy nghĩ cho đến hành động đều là quả của hàng loạt
nhân duyên này
5, khiến cái nhìn của mình
trở thành lệch lạc, không thể làm chủ
bản thân, cũng khó
ý thức về những gì mình đang làm. Đó là
tình cảnh hiện nay của
phàm phu.
Chân Hiền Tâm
_______________
(1) Thành duy thức luận - HT.Thích Thiện Siêu dịch và chú.
(2) Thức nói đây, chỉ cho 5 thức là nhãn thức, nhĩ thức v.v… trở thành khác là do phần giải thích sau.
(3) https//youtu.be/klAyKblFluM.
(4) Lăng-già tâm ấn.
(5) Thuận duyên thì đưa đến quả tốt. Nghịch duyên thì đưa đến quả xấu.